Ngày 7/4/1987, cảnh sát Trịnh Bính Hòa thuộc sở cảnh sát quận Kwai Tsing đã hai ngày không đến làm việc, không xin nghỉ phép trước, không thể liên lạc được.
Các đồng nghiệp đành gọi cho anh trai Hòa để hỏi thăm. Cũng không liên lạc được với em, trưa 7/4, người anh hẹn một đồng nghiệp đến nhà Hòa ở ký túc xá dành cho nhân viên đã kết hôn của sở cảnh sát quận Kwai Tsing.
Sau khi gõ cửa nhiều lần không thấy trả lời, họ phát hiện cửa chỉ khép hờ. Vừa đẩy cửa ra, một mùi máu tanh xộc vào mũi. Khi bật đèn lên, họ thấy bốn người trong gia đình Hòa đều đã tử vong. Trong căn hộ rộng chưa đầy 30 m2, hầu như chỗ nào cũng có máu.
Cảnh sát nhận định bốn nạn nhân bị chém bằng dao. Hòa chết trên giường với hơn 10 vết đâm. Con gái 10 tuổi và con trai 5 tuổi của Hòa bị sát hại trên giường tầng gần đó. Vợ Hòa là Lý Phượng Minh, 30 tuổi, gục trên sân bếp.
Qua giám định pháp y, bốn người bị sát hại ba ngày trước, tức 4/4.
Cảnh sát gặp khó khăn trong việc phá án vì không tìm thấy dấu vân tay và dấu chân người khác trong căn hộ, tòa ký túc xá không được trang bị camera giám sát.
Họ tìm thấy một tờ giấy tại hiện trường có nội dung: "Trịnh Quốc Minh, vay nặng lãi mà không trả tiền, lấy mạng mày". Anh trai Hòa cho biết Trịnh Quốc Minh chính là tên hồi nhỏ của Hòa.
Theo các đồng nghiệp, trước đây Hòa ham cờ bạc và thường xuyên thua tiền. Tuy nhiên, kể từ khi có con trai út, Hòa dần bỏ thói xấu này.
Khám xét các công ty tài chính và băng nhóm cho vay nặng lãi ở địa phương, cảnh sát phát hiện Hòa không vay nặng lãi. Như vậy, tờ giấy chỉ là thủ đoạn của kẻ sát nhân nhằm đánh lạc hướng điều tra.
Tại hiện trường, cửa căn hộ không bị cạy phá, các cửa sổ còn nguyên vẹn. Qua đó, cảnh sát suy đoán hung thủ rất có thể là người quen của gia đình.
Khi gặp nạn, Hòa 37 tuổi, đã tham gia lực lượng cảnh sát 15 năm. Trước đây Hòa là cảnh sát mặc thường phục, sau khi có con trai út, anh ta chuyển sang bộ phận hậu cần. Hòa chuyển đến ký túc xá cảnh sát vào năm 1978, trước khi con trai chào đời. Ngoài thói mê cờ bạc trước đây, Hòa không dính vào tệ nạn nào khác.
Theo một số đồng nghiệp của Hòa, lý lịch của Lý Phượng Minh khá phức tạp. Trước khi gặp Hòa, Minh làm vũ nữ trong một vũ trường ở Mong Kok. Minh có ngoại hình khá xinh đẹp, đối xử dịu dàng với Hòa khi biết anh ta là cảnh sát. Cô thổ lộ rằng chỉ vì bất đắc dĩ mới phải làm nghề này.
Hòa như bị Minh mê hoặc, hoàn toàn không quan tâm đến thân phận vũ nữ. Sau khi hai người yêu nhau, một đồng nghiệp có mối quan hệ tốt từng nhắc nhở Hòa rằng lý lịch của Minh rất phức tạp, tốt nhất không nên tiếp tục. Tuy nhiên lúc đó Hòa đang yêu say đắm, không nghe lọt tai lời khuyên của ai.
Không lâu sau, Minh có bầu. Hòa thuê nhà, bảo bạn gái bỏ việc ở nhà nghỉ ngơi. Sau khi con gái đầu lòng chào đời, áp lực kinh tế đè nặng lên vai Hòa, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng lộ rõ.
Vốn có thói quen tiêu xài mạnh tay, bây giờ Minh phải tính toán chi ly. Cô thường phàn nàn Hòa kiếm được quá ít tiền, than phiền mức sống hiện tại kém hơn nhiều khi độc thân. Để kiếm thêm, Hòa mong chờ vào vận may trên chiếu bạc, nhưng toàn thua nhiều hơn thắng, điều này càng làm gia tăng mâu thuẫn vợ chồng. Sau đó, để giảm áp lực kinh tế, Hòa đăng ký kết hôn với Minh để được chuyển đến ký túc xá cảnh sát.
Năm 1982, con trai út ra đời, gia đình Hòa lại lâm vào cảnh thiếu thốn. Lúc này, Hòa đã bỏ được thói cờ bạc và giao tiền lương cho Minh quản lý. Dù vậy, Minh vẫn cảm thấy không đủ chi tiêu, cả hai thường xuyên cãi vã vì chuyện tiền bạc, thậm chí còn đề cập ly hôn.
Chê chồng không nuôi nổi mình, Minh đòi tự kiếm tiền. Từ đó, cô thường xuyên về nhà muộn, nói đã tìm được việc làm trong một xưởng may và phải tăng ca. Nhưng thực tế, Minh quay lại vũ trường, tiếp tục làm vũ nữ vì thấy kiếm tiền dễ dàng và nhanh chóng.
Hòa theo dõi vợ, biết được sự thật nhưng chọn cách im lặng. Anh ta tự thấy khả năng kiếm tiền của mình có hạn, không thể thỏa mãn những ham muốn vật chất của vợ. Có lúc Hòa định ly hôn nhưng sợ mất quyền nuôi con và nếu ly hôn sẽ không được ở trong ký túc xá cảnh sát nữa.
Minh nhanh chóng có người tình mới tên Lê Tân Lai, 24 tuổi. Cô đến sống với Lai nhiều ngày không về, đi du lịch chung, không có ý che giấu mối quan hệ. Biết vợ ngoại tình, Hòa nhờ một đồng nghiệp giúp điều tra lý lịch tình địch. Theo đó, Lai đến từ Huệ Dương, tỉnh Quảng Đông, lén đến Hong Kong năm 1979 làm công nhân xây dựng.
Từ thông tin ngoại tình này, sau khi thẩm vấn những người Minh thường xuyên tiếp xúc, cảnh sát nhận định Lai là nghi phạm chính.
Đến nơi ở của Lai, cảnh sát được biết anh ta vốn chỉ ở nhờ nhà anh họ, mấy ngày trước đã về Trung Quốc đại lục với lý do cúng tổ tiên, không nói khi nào quay lại Hong Kong.
Công nhân tại công trường Lai làm việc cho biết vào đêm 4/4 thấy đùi anh ta bị thương, quần dài dính máu nhưng không ai biết nguyên nhân. Một công nhân khác tiết lộ khi đi nhậu với Lai vài ngày trước, anh ta thú nhận có liên quan đến vụ gia đình bốn người của một cảnh sát bị sát hại.
Trước nhiều bằng chứng, cảnh sát Hong Kong lập tức nhờ công an tỉnh Quảng Đông hỗ trợ, bắt Lai ở cửa hải quan khi anh ta trở về Hong Kong chiều 18/4/1987.
Khi bị thẩm vấn, Lai tỏ ra rất bình tĩnh, chỉ thừa nhận từng có quan hệ tình cảm với Minh, nhưng không biết gì về vụ án mạng và từ chối trả lời mọi câu hỏi.
Vì không có bằng chứng tại hiện trường, cảnh sát chưa thể kết tội Lai và đành thả tự do cho anh ta. Họ nói với Lai rằng vụ án đã được giải quyết và năm nghi phạm đã bị bắt. Thực chất đây chỉ là một thủ đoạn của cảnh sát, mục đích là khiến Lai buông lỏng cảnh giác.
Vài ngày sau khi trở về nhà, Lai nhận được cuộc gọi đề nghị phỏng vấn từ một phóng viên, hứa cho rất nhiều tiền, Lai đồng ý. Trên thực tế, phóng viên này là một nữ cảnh sát giả danh.
Trong cuộc phỏng vấn tại nhà, Lai vẫn rất cẩn trọng. Anh ta nói vốn định đợi Minh ly dị để hai người kết hôn. Nhìn thấy một bức thư pháp ở nhà Lai, "phóng viên" khen ngợi hết lời và đề nghị Lai viết cho một bức để mang về treo. Được khen, Lai rất tự hào, vui vẻ lấy giấy mực thể hiện tài năng.
Từ bức thư pháp, cảnh sát phát hiện tờ giấy Lai sử dụng giống tờ giấy ghi chú được tìm thấy ở nhà nạn nhân. Các chuyên gia cũng xác nhận nét chữ của Lai và nét chữ trên tờ giấy là do cùng một người viết.
Trước các chứng cứ xác thực, Lai khai nhận động cơ phạm tội và kể lại quá trình gây án.
Lai và Minh gặp nhau một năm trước, khi đó Lai đến vũ trường làm nhân viên dọn dẹp. Hai người nhanh chóng rơi vào lưới tình, rủ nhau đi khách sạn, sau đó Minh bỏ nhà đến sống cùng Lai. Đôi khi chồng đi vắng, Minh còn đưa Lai về nhà mình. Khi biết chuyện, Hòa giận dữ đánh Minh, nhưng vẫn không muốn ly hôn.
Nghe Minh kể bị chồng đánh, Lai bực tức, quyết tâm trả thù cho người yêu. Minh cũng muốn thoát khỏi Hòa để được tự do yêu đương với Lai nên đồng ý hỗ trợ.
Lai định nhân lúc Hòa vắng nhà, lập bẫy khiến chiếc giường sắt nơi Hòa ngủ bị dẫn điện, khiến anh ta ngất vì điện giật, sau đó ra tay sát hại để không bị hàng xóm phát giác. Để che đậy, Lai lên kế hoạch tạo hiện trường giả của vụ giết người vì vay nặng lãi.
Cặp tình nhân chọn gây án vào sáng sớm 4/4. 23h ngày 3/4, sau khi dỗ hai con ngủ, Minh rủ Hòa đi ăn đêm. Về nhà vào khoảng 0h, Hòa tắm rửa rồi chuẩn bị ngủ. Nhưng vừa ngồi lên giường, Hòa bị điện giật ngất xỉu.
Trước đó, sau khi hai vợ chồng ra ngoài, Lai đã lẻn vào phòng với chìa khóa do Minh đưa và đấu nối đường dây biến áp vào chiếc giường sắt. Sau đó, Lai trốn trong bếp, bí mật quan sát, đợi cơ hội ra tay.
Khi Minh từ phòng tắm ra, nhìn thấy cảnh tượng đẫm máu, cô hoảng sợ cầu xin Lai dừng tay với con mình. Tuy nhiên, Lai như kẻ mất trí... Minh phẫn nộ chạy vào bếp lấy dao tấn công Lai. Anh ta né được nên chỉ bị thương nhẹ ở đùi, sau đó sát hại Minh.
Vì đã có kế hoạch trước, Lai đeo găng tay khi gây án, đi giày của Hòa khi bước vào nhà nạn nhân. Cuối cùng, anh ta vào nhà tắm rửa sạch vết máu trên người, rồi nhân đêm khuya trở về nơi ở.
Lai khai với cảnh sát rằng không muốn giết Minh mà chỉ tự vệ.
Tháng 5/1988, Lai bị kết tội giết Trịnh Bính Hòa và hai con, ngộ sát Lý Phượng Minh, nhận án tử hình. Tuy nhiên, Lai không bị xử tử vì Hong Kong không thi hành án tử hình nào kể từ năm 1967.
Đến 1993, Hong Kong bỏ án tử hình, mức hình phạt tối đa là tù chung thân. Như vậy, Lai chỉ phải nhận án tù chung thân.
Tuệ Anh (Theo Toutiao)