Vào
thời điểm cuộc xâm lược Nga chống Ukraina kéo dài đã hơn ba năm và các
nỗ lực to lớn của phương Tây hỗ trợ Kiev và trừng phạt Nga đã không đủ
để giúp chấm dứt chiến tranh, giới chuyên gia, chiến lược gia đặt ra
nhiều câu hỏi về tương lai chung của an ninh châu Âu. Làm thế nào để
chấm dứt cuộc chiến tranh có nguy cơ châm ngòi cho một xung đột quy mô
toàn châu lục, thậm chí toàn cầu ?
Năm nay 2025 là tròn 50
năm Hiệp định Helsinki. Hiệp định, được ký kết ngày 01/08/1975 tại thủ
đô Phần Lan thời Chiến tranh Lạnh, là kết quả của hai năm đàm phán trong
khuôn khổ của Hội nghị về An ninh và Hợp tác châu Âu (CSCE) (1973 –
1994) (thường được gọi là « tiến trình Helsinki ») cho phép mở
ra thời kỳ tan băng giữa khối phương Tây và khối cộng sản, đứng đầu là
Hoa Kỳ và Liên Xô, hai siêu cường hạt nhân. Tuyên bố 10 điểm Helsinki
được ký kết bởi tất cả các quốc gia thành viên hai tổ chức quân sự thù
địch, Liên minh phòng thủ Bắc Đại Tây Dương – NATO và Hiệp ước Varsava.
Các
nguyên tắc của Hiệp định Helsinki, như tôn trọng chủ quyền quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ, giải quyết các tranh chấp bằng con đường hòa bình,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, tôn trọng quyền con người
và các quyền tự do cơ bản, tăng cường hợp tác giữa các nước… là thỏa
hiệp mà hai khối đạt được. Theo nhiều nhà quan sát, Hiệp định này đã cho
phép Liên Xô cải thiện hình ảnh trên trường quốc tế sau các đàn áp tàn
bạo nhắm vào phong trào dân chủ Mùa xuân Praha năm 1968. Về phía các
nước phương Tây, một thành công căn bản là lần đầu tiên nhân quyền được
coi là một vấn đề an ninh căn bản trong quan hệ giữa các quốc gia.
Hiệp
định Helsinki tiếp tục có ý nghĩa quan trọng sau khi bức tường Berlin
sụp đổ, Liên Xô tan rã. Năm 1990, sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Hội
nghị về An ninh và Hợp tác châu Âu – CSCE, họp tại Paris, đã ra một « Hiến chương Paris vì một châu Âu mới »
ghi nhận sự chấm dứt của thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Với Hiến chương
Paris vì một châu Âu mới, CSCE có các cơ quan thường trực, như Ban thư
ký, hay Trung tâm ngăn ngừa các xung đột, và các cơ chế can thiệp, để
sẵn sàng đối phó với các thách thức của kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh.
Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (OSCE),
kế tục Hội nghị CSCE từ năm 1995, đã mở ra khả năng quản lý các xung
đột của thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh tại châu Âu bằng con đường hòa
bình. Hiệp định Helsinki và các cơ chế, tổ chức phát sinh, cùng với các
hiệp ước cắt giảm và kiểm soát vũ khí chiến lược Mỹ - Liên Xô và sau này
là Mỹ - Nga, đã cho phép tạo lập lòng tin giữa các nước có chế độ chính
trị khác nhau. Hiệp định Helsinki được coi là nền tảng của « kiến trúc an ninh châu Âu » trong nhiều thập niên.
Chiến tranh Ukraina và Hiệp định Helsinki, từ suy yếu đến tan vỡ
Đông đảo chuyên gia, nhà quan sát ghi nhận là cuộc xâm lược Ukraina của Nga đã báo tử « trật tự an ninh của châu Âu »,
được xác lập từ năm 1975 với Hiệp định Helsinki. Cựu đại sứ Pháp Pierre
Vimont, nguyên tổng thư ký điều hành của cơ quan đối ngoại Liên Âu, tức
nhân vật số hai của ngành ngoại giao Liên Âu (2010-2015), trong bài
viết « Một trật tự an ninh châu Âu mới », nhấn mạnh với « chiến dịch quân sự đặc biệt » tại Ukraina, điện Kremlin đã tấn công vào « chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ »,
những nguyên tắc căn bản nhất của Hiệp định Helsinki, nền tảng của thế
cân bằng tại châu Âu được xác lập một cách gian nan vào năm 1975. « Hợp tác kinh tế được dày công vun đắp từ hơn 40 năm qua bị hủy hoại với các đòn trừng phạt kinh tế và tài chính của phương Tây » nhắm vào Nga, « quan
hệ giữa các xã hội dân sự, thành tố chủ chốt thứ ba của Hiệp định
Helsinki, cũng đứng trước nguy cơ bị cắt đứt hoàn toàn do cuộc xung đột
với các áp lực tẩy chay văn hóa Nga và xã hội Nga ».
Cựu đại
sứ Pháp Pierre Vimont ghi nhận việc kiến trúc an ninh châu Âu, ra đời
với Hiệp định Helsinki, trên thực tế, đã suy yếu nghiêm trọng từ lâu
trước khi Nga mở màn cuộc xâm lăng Ukraina, đặc biệt với cuộc can thiệp
quân sự của Nga tại Gruzia, quốc gia thuộc Liên Xô cũ, vào năm 2008 (sau
khi Mỹ để ngỏ khả năng Gruzia gia nhập khối NATO) và việc Nga thôn tính
bán đảo Crimée năm 2014 và hậu thuẫn các lực lượng ly khai miền đông
Ukraina, sau chính biến Maidan, đầu 2014, lật đổ lãnh đạo thân Nga
Viktor Yanukovych.
Tái xây dựng lòng tin hay đại cường phân chia thế giới: Hướng đến « Helsinki II » hay « Yalta II » ?
Trước
thềm cuộc xâm lăng Ukraina, cuối năm 2021, đầu năm 2022, Matxcơva liên
tục phát đi các tín hiệu đòi phương Tây, trước hết là Mỹ, xem xét lại « kiến trúc an ninh châu Âu »,
đòi khối NATO không tiếp tục mở rộng sang phía đông, không kết nạp
Ukraina, đồng thời giảm sự hiện diện quân sự tại các nước thành viên mới
của NATO tại khu vực thuộc khối Đông Âu cộng sản trước đây, như Ba Lan,
Rumani hay các nước Baltic.
Đề nghị lúc đó của Nga đã bị Mỹ và các nước châu Âu bác bỏ. Ngoại trưởng Pháp vào thời điểm đó, Jean-Yves Le Drian, nhận định là đòi hỏi của Nga « rất giống
với việc quay trở lại hiện trạng trước năm 1975, tức là một kiểu Yalta
II, sẽ dẫn đến việc hình thành trở lại các khối, các vùng ảnh hưởng ».
Hội nghị Yalta, rồi hội nghị Potsdam, diễn ra năm 1945, sau Thế Chiến
Hai, được coi là các sự kiện có ý nghĩa biểu tượng cho việc các cường
quốc thắng trận, Mỹ và Liên Xô, phân chia các khu vực kiểm soát.
Ngoại trưởng Pháp nhấn mạnh là, để chống lại một « Yalta II », « cần phát
triển một chiến lược thúc đẩy một Helsinki II, theo tinh thần những cam
kết mà toàn bộ các nước ký kết các hiệp định Helsinki đã đưa ra năm
1975, trong đó có Liên Xô vào thời điểm đó, được tiếp nối với Hiến chương Paris (vì một châu Âu mới) năm 1990 ».
Liên Âu tê liệt về « tư duy chiến lược » trước thời điểm sống còn
Vấn đề là để thúc đẩy được tinh thần Helsinki 1975, hướng đến xác lập một « Helsinki II », làm nền tảng cho một « kiến trúc an ninh châu Âu mới »,
các nước châu Âu phải xác lập được một tư duy chiến lược chung, trong
đó quan hệ như thế nào với Nga là vấn đề cốt lõi. Nội bộ châu Âu phân rẽ
sâu sắc về vấn đề này, từ nhiều năm nay. Trước chiến tranh Ukraina, các
nỗ lực cải thiện quan hệ với Nga của nhiều lãnh đạo ngoại giao Liên Âu,
từ Federica Mogherini đến Joseph Borell, đều không thuyết phục được
Matxcơva. Kể từ khi chiến tranh bùng nổ, việc thảo luận về chủ đề này
coi như kết thúc.
Theo nhà ngoại giao Pháp Pierre Vimont, có một
hố sâu ngăn cách giữa nhóm các nước cho rằng không thể đối thoại với Nga
(đa số là các nạn nhân trước đây của đế chế Nga và Liên Xô), coi Nga là
một đe dọa sinh tồn, và các nước cổ vũ cho việc mở ra các cơ hội đối
thoại để vượt qua tình trạng mất lòng tin song phương.
Trong
một cuộc trả lời Viện Nghiên cứu Cao cấp về Quốc phòng (IHEDN -
Institut des hautes études de défense nationale) Pháp vào thời điểm hơn
hai năm chiến tranh Nga - Ukraina, nhà chính trị học Barbara Kunz, giám đốc chương trình An ninh châu Âu của Viện Nghiên cứu về Hòa bình Quốc tế ở Stockholm (SIPRI) nhận định :
« Tôi
cho rằng tại châu Âu, thảo luận về vấn đề này sẽ rất là phức tạp, bởi
có hai trường phái. Thứ nhất là những nước cho rằng cần phải cô lập Nga
hoàn toàn, cụ thể như hoàn toàn không chấp nhận sự có mặt của các đại
diện của Nga trong các hội nghị của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu
OSCE. Và thứ hai là các nước có quan điểm gọi là ‘‘thực tế’’. Những nước
này trong lúc luôn cảnh giác về đe dọa từ Nga, nhưng khẳng định cần
phải tìm ra các cách thức cho phép ít nhất là sống bên cạnh Nga, cho dù
không thể cùng chung sống với Nga. Tìm ra được những cách thức hợp tác
tối thiểu, ví dụ như trong việc kiểm soát vũ khí, để tránh leo thang,
tìm thấy các cơ chế đối thoại để tránh tình hình trở nên tồi tệ hơn hiện
nay. »
Nước Mỹ của Trump: Bị đẩy vào chân tường, châu Âu buộc phải hướng đến « tự chủ chiến lược »
Theo
chuyên gia về an ninh châu Âu Viện Nghiên cứu về Hòa bình Quốc tế
Stockholm, đối thoại để tìm kiếm một kiến trúc an ninh mới cho châu Âu
một phần đáng kể bị cản trở do sự bất đồng cao độ và thái độ thụ động
của đông đảo các nước châu Âu, lập trường của Mỹ có ý nghĩa quyết định
trong bối cảnh này:
« Cuộc thảo luận về tương lai của kiến
trúc an ninh châu Âu, tôi có cảm giác là chưa thực sự bắt đầu. Hiện tại,
chúng ta đang tập trung vào chiến tranh tại Ukraina, điều hoàn toàn có
thể thông cảm được. Để nói một cách tóm lược, các nước ở sườn đông châu
Âu, như các nước vùng Baltic, Ba Lan, Rumani, và những nước khác vốn có
những kinh nghiệm lịch sử với Nga, khiến họ có thái độ hoài nghi cao độ
về khả năng cùng tồn tại với Nga. Nước Đức có quan điểm như thế nào ? Về
mặt lịch sử, trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Đức thiên về phía các nước
có quan điểm thực tế, tức tìm kiếm các khả năng chung sống với Nga.
Điều này còn để xem. Nước Pháp tôi cho rằng cũng theo quan điểm thực tế.
Các nước phía nam châu Âu, tôi nghĩ cũng tương tự, không nghi ngờ gì về
đe dọa của Nga, nhưng đối với nhiều nước, đây không phải là chủ đề ưu
tiên. Tôi cho rằng, rất nhiều điều trong vấn đề này phụ thuộc vào vai
trò dẫn dắt của Mỹ. Bởi các nước châu Âu rất khó đạt đồng thuận về tiếp
cận chung cần theo đuổi. »
Việc
Donald Trump trở lại Nhà Trắng đầu năm 2025 này, và các chính sách của
Washington trong những tuần cầm quyền đầu tiên của Trump cho thấy quan
hệ hai bờ Đại Tây Dương bước vào một giai đoạn đầy bất định. Tân tổng
thống Mỹ coi việc chấm dứt chiến tranh là ưu tiên cho dù có phải chấp
nhận nhiều nhân nhượng với Nga, và việc hậu thuẫn Ukraina được coi gần
như là chuyện riêng của châu Âu, khối NATO mà Mỹ là trụ cột sẽ không can
dự.
Bảo vệ Ukraina và tái lập quan hệ với Nga: Thách thức của một « kiến trúc an ninh châu Âu » mới
Việc đảng Cộng Hòa cầm quyền tại Mỹ là tác nhân trực tiếp kích phát trở lại đòi hỏi « tự chủ chiến lược »
của châu Âu, vốn bị nhiều quốc gia chủ chốt của châu Âu như Đức không
mặn mà. Hôm nay, 06/03/2025, Liên Hiệp Châu Âu họp thượng đỉnh để bàn về
việc tăng cường tiềm lực quốc phòng của khối và hỗ trợ quân sự cho
Ukraina. « Tự chủ chiến lược » bao gồm cả hai vế, quân sự và ngoại giao.
Theo
nhà ngoại giao Pháp Pierre Vimont, nguyên tổng thư ký điều hành của cơ
quan đối ngoại Liên Âu, bên cạnh việc dành sự hậu thuẫn quân sự mạnh mẽ
để giúp Ukraina tự vệ, Liên Hiệp Châu Âu cần chuẩn bị xác lập quan hệ
hợp tác với Nga sau chiến tranh. Nhà ngoại giao, được tổng thống Pháp
Emmanuel Macron bổ nhiệm làm đại diện đặc biệt của tổng thống trong các
đối thoại vì « một kiến trúc an ninh châu Âu và xây dựng niềm tin với Nga »
trước khi chiến tranh bùng nổ, lưu ý đến bài học lịch sử : tổng thống
Mỹ Franklin Roosevelt không phải đợi đến khi Thế chiến Hai kết thúc mới
chuẩn bị cho việc xây dựng một hệ thống quốc tế mới, và « những người sáng lập » Liên Âu cũng đã chuẩn bị nền móng cho việc xây dựng khối, nhiều năm trước 1945.
Cũng nhà ngoại giao kỳ cựu này, trong một bài viết với nhan đề « Châu Âu và Ukraina : Lấy lại thế chủ động » (nguyên văn « Europe et Ukraine : reprendre l’initiative », Viện nghiên cứu châu Âu Jacques Delors), ra mắt cuối tháng 1/2025, nhấn mạnh : « Thời
kỳ bất ổn sẽ còn kéo dài trên lục địa châu Âu, do các đe dọa Nga, không
cho phép trật tự Helsinki trở lại nhanh chóng. Nhưng thời kỳ căng thẳng
không tránh khỏi diễn ra trong quá trình xác lập hòa bình tại Ukraina
này sẽ là một trắc nghiệm đối với khả năng của châu Âu vươn lên để trở
thành một thực thể địa chính trị độc lập, điều mà người châu Âu mong
muốn ».
Thách thức với châu Âu không phải chỉ là tái lập quan hệ với Nga để xây dựng một kiến trúc an ninh mới cho châu Âu, mà còn là « sáng tạo nên một cơ chế đa phương quốc tế mới ». Trong bối cảnh cơ chế đa phương quốc tế được xác lập sau Thế chiến Hai đang « sụp đổ »,
cộng đồng quốc tế đang cần đến các cơ chế hợp tác mới giữa các nước
phương Tây với các nước phương Nam toàn cầu, để hóa giải hàng loạt thách
thức sống còn với nhân loại, như đại khủng hoảng khí hậu.