Cõi Người Ta
‘Lãng tử hồi đầu’
Tạp ghi Huy Phương
Từ năm 111 trước Công 
Nguyên, Việt Nam bắt đầu 1,000 năm Bắc thuộc, trong thời gian này đã có 
nhiều cuộc khởi nghĩa của người Việt chống lại sự thống trị của vương 
triều phương Bắc.
Sau khi giành độc lập, các 
triều đại phong kiến của Việt Nam thường có một thái độ ngoại giao là 
khôn khéo và mềm mỏng, duy trì bang giao với các triều đại phong kiến, 
và giữ chế độ triều cống để nhận được sự công nhận ngoại giao của các 
triều đại Trung Quốc.
Việt Nam đã giữ việc gửi sứ giả sang triều 
cống các hoàng đế Trung Hoa với những lễ vật, đặc sản địa phương hàng 
năm hoặc khi có sự thay đổi ngôi vị lãnh đạo, hay kế vị ngôi vua với mục
 đích để bình thường hóa quan hệ ngoại giao, tâm lý là để xoa dịu một 
quốc gia lớn mới bị bại trận khỏi mất thể diện. 
Theo các nhà sử 
học như Francois Joyaux, hành động triều cống chủ yếu là nghi lễ ngoại 
giao, không có ảnh hưởng gì đối với quyền nội trị và bang giao với các 
nước khác của Việt Nam. Cũng cần ghi nhận rằng càng về sau việc triều 
cống của các triều đình phong kiến Việt Nam đối với các triều đại phong 
kiến phương Bắc càng giảm dần và càng mang tính hình thức nhiều hơn. Và 
“triều đình Việt cần sự thụ phong Trung Hoa để được kính nể, cũng như 
một quốc gia tân tiến ngày nay không thể tránh khỏi sự thừa nhận quốc tế
 để đứng vững.”
Như vậy quan hệ giữa Trung Hoa và Việt Nam là 
quan hệ giữa một quốc gia nhỏ và một nước lớn, có nhẹ nhàng như trước 
đây thì Việt Nam cũng phải là đứa em phải biết vâng lời đàn anh. Chưa 
bao giờ Việt Nam được coi là chư hầu của Tàu, tệ hơn là như ngày nay 
Trung Quốc lớn láo coi Việt Nam là thứ con cái mà là thứ con cái hư đốn 
và Trung Hoa là phụ mẫu.
Trung Quốc vẫn thường kể công là đã viện
 trợ cho Cộng Sản Bắc Việt từ năm 1955-1975 hơn 1 triệu 5 tấn lương 
thực, hậu cần và trang bị kỹ thuật, hơn 4 triệu khẩu súng đủ loại từ 
súng trường cho tới tên lửa, nhiều tàu chiến, xe tăng. CSVN là kẻ chịu 
ơn Trung Cộng, nhưng lại vô ơn, nên Trung Cộng đã cất quân hỏi tội Việt 
Nam, và “cho một bài học” như năm 1979. Ðối đáp với đại ân nhân, để cân 
bằng số lương thực, súng đạn này, Bắc Việt cho rằng mình đã đóng góp lại
 bằng xương máu của dân Việt, như vậy không ai phải mang ơn ai, như các 
nhà lãnh đạo CSVN đã tuyên bố, “Việt Nam đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và 
Trung Quốc, tiền bạc, vật chất nào trả nổi sinh mạng của khoảng 3-5 
triệu người?”
Cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979 sau khi 
Trung Cộng bất bình vì Việt Nam kéo quân sang Kampuchea, được phía Việt 
Nam gọi là “chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc” hay “cuộc chiến chống
 bè lũ bành trướng phương Bắc,” trong khi Trung Cộng gọi là “chiến tranh
 đánh trả tự vệ trước Việt Nam.” 
Mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Cộng, bất đồng về cuộc chiến Ðông Dương từ lâu đã biến hai nước bạn thành thù.
Từ
 năm 1973, lãnh đạo Trung Cộng đã có lập trường: “Bề ngoài ta đối xử tốt
 với họ (Việt Nam) như đối xử với đồng chí mình, nhưng trên tinh thần 
phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta.” Dưới con mắt Bắc Kinh, 
Việt Nam vẫn là kẻ “hắc tâm,” “vô ơn,” “ngạo ngược.” Quân Việt Nam có 
mặt ở Lào, Kampuchea đã làm cho Trung Quốc lo ngại về một “tiểu bá 
quyền” Việt Nam và thâm tâm Bắc Kinh luôn luôn “dạy cho Việt Nam một bài
 học.” Mối quan hệ xem ra có vẻ tốt đẹp sau này là một mối quan hệ “bằng
 mặt mà không bằng lòng” xem ra vẫn âm ỉ thù hận. Theo Tiến Sĩ Lý Tiểu 
Binh của Ðại Học Central Oklahoma cho VOA Việt Ngữ (tháng 2, 2012) hay, 
có khả năng Bắc Kinh lại muốn dạy cho Việt Nam một bài học mới nữa.
Tương
 quan giữa Trung Cộng và Việt Cộng, như vậy chưa bao giờ là tương quan 
giữa cha con hay chủ tớ, như Trung Cộng vừa ngang ngược, trịch thượng 
lên tiếng, coi Việt Cộng như con cái, mà lại là đứa con “ngỗ nghịch,” mà
 người cha, phải xử lý nó đúng với trách nhiệm của mình! Còn những đứa 
con cũng phải biết thân phận mình đang ở vị thế nào! “Trung Quốc dụng 
tâm lương khổ, phụng khuyến Việt Nam lãng tử hồi đầu”(dịch: Trung Quốc 
phải dùng tâm trạng đau khổ kêu gọi đứa con hoang ngỗ ngược Việt Nam sớm
 hối cải trở về).
Trung Cộng không muốn ai can thiệp vào chuyện 
“nội bộ” của Việt Nam và Tàu vì đây là chuyện trong nhà, “xử lý nội bộ” 
hay “đóng cửa dạy nhau,” hay tệ hơn nữa là “đóng cửa dạy con.” Ðất nước 
Việt Nam chẳng qua chỉ là khu vườn sau của Trung Cộng và chính phủ Việt 
Nam là “đứa con hỗn xược!” (Một nhà ngoại giao Á Châu ở Hà Nội nói với 
báo Der Spiegel (”Tấm Gương”): “Bắc Kinh bực tức những đứa trẻ con hỗn 
xược trong ngôi vườn ở phía Nam của Trung Quốc.”) Như vậy với những khẩu
 hiệu ngoại giao, vuốt ve, “16 chữ vàng” trong thời gian trước, đã được 
Trung Cộng vứt vào hố xí, mà Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng vẫn cứ phải 
“ngậm bồ hòn làm ngọt” trong một thế yếu vì đã quá lệ thuộc, một hai coi
 Trung Cộng là “người bạn láng giềng lớn, muốn hay không cũng phải ăn 
đời ở kiếp với nhau...” Trong thời điểm này mà Nguyễn Tấn Dũng còn “cúc 
cung:”- “ Việt Nam lúc nào cũng biết ơn sự hỗ trợ và giúp đỡ lớn từ 
Trung Quốc!” 
Hèn mạt đến thế sao! 
Cách nói xách mé của 
Trung Cộng bây giờ nghe ra không khác gì lời nói xấc láo của Tôn Nữ Thị 
Ninh, đối với quần chúng. Thị nguyên là Ðại Sứ Ðặc Mệnh Toàn Quyền của 
Việt Nam tại Liên Hiệp Châu Âu (EU), phó chủ tịch Ủy Ban Ðối Ngoại của 
Quốc Hội Ba Ðình, ủy viên Trung Ương Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, đã 
từng tuyên bố trong buổi họp báo tại Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia Hoa Kỳ 
hồi tháng 10 năm 2004, khi bị chất vấn về tình trạng vi phạm nhân quyền ở
 Việt Nam, rằng, “Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn 
láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ 
nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà 
gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi.”
Thưa bà 
phó chủ tịch, nếu nay mai Ðại Sứ Trung Cộng tại Liên Hiệp Quốc mượn tạm 
“danh ngôn” của bà để phát biểu, khi có ai đó chất vấn về cuộc xung đột 
Việt Trung vừa qua, thì bản thân bà có nghe lọt lỗ tai không? Cũng quan 
hệ theo lối này, thì những anh hàng xóm như ASEAN, Nhật Bản, 
Phillippines, Mỹ và ngay cả Tòa Án Quốc Tế “đừng có mà gõ cửa đòi xen 
vào chuyện riêng của gia đình cha con chúng tôi.”
Trung Cộng càng
 ngày càng lấn lướt, thâm độc, dùng tất cả “mưu ma chước quỷ” để “chơi” 
Việt Nam “làm cho cho mệt cho mê, làm cho đau đớn ê chề cho coi!” 
Không
 những một, mà Trung Cộng đem tới Biển Ðông bốn giàn khoan! Rồi sao? - 
Việt Nam đang chờ một “thời điểm thích hợp” để kiện Trung Cộng ra Tòa Án
 Quốc Tế! Lời tuyên bố “hùng hổ” này chắc làm Bắc Kinh sợ “vãi đái!”
Việt
 Nam đang ở trong thế không biết kêu “mạ” nào, có một mụ mạ, ông cha thì
 đã cho mình là đứa con hỗn xược, cần dạy dỗ và cứ lăm le đòi cho roi 
vọt thì còn trong cậy đến ai bây giờ!
‘Lãng tử hồi đầu’
Tạp ghi Huy Phương
Từ năm 111 trước Công 
Nguyên, Việt Nam bắt đầu 1,000 năm Bắc thuộc, trong thời gian này đã có 
nhiều cuộc khởi nghĩa của người Việt chống lại sự thống trị của vương 
triều phương Bắc.
Sau khi giành độc lập, các 
triều đại phong kiến của Việt Nam thường có một thái độ ngoại giao là 
khôn khéo và mềm mỏng, duy trì bang giao với các triều đại phong kiến, 
và giữ chế độ triều cống để nhận được sự công nhận ngoại giao của các 
triều đại Trung Quốc.
Việt Nam đã giữ việc gửi sứ giả sang triều 
cống các hoàng đế Trung Hoa với những lễ vật, đặc sản địa phương hàng 
năm hoặc khi có sự thay đổi ngôi vị lãnh đạo, hay kế vị ngôi vua với mục
 đích để bình thường hóa quan hệ ngoại giao, tâm lý là để xoa dịu một 
quốc gia lớn mới bị bại trận khỏi mất thể diện. 
Theo các nhà sử 
học như Francois Joyaux, hành động triều cống chủ yếu là nghi lễ ngoại 
giao, không có ảnh hưởng gì đối với quyền nội trị và bang giao với các 
nước khác của Việt Nam. Cũng cần ghi nhận rằng càng về sau việc triều 
cống của các triều đình phong kiến Việt Nam đối với các triều đại phong 
kiến phương Bắc càng giảm dần và càng mang tính hình thức nhiều hơn. Và 
“triều đình Việt cần sự thụ phong Trung Hoa để được kính nể, cũng như 
một quốc gia tân tiến ngày nay không thể tránh khỏi sự thừa nhận quốc tế
 để đứng vững.”
Như vậy quan hệ giữa Trung Hoa và Việt Nam là 
quan hệ giữa một quốc gia nhỏ và một nước lớn, có nhẹ nhàng như trước 
đây thì Việt Nam cũng phải là đứa em phải biết vâng lời đàn anh. Chưa 
bao giờ Việt Nam được coi là chư hầu của Tàu, tệ hơn là như ngày nay 
Trung Quốc lớn láo coi Việt Nam là thứ con cái mà là thứ con cái hư đốn 
và Trung Hoa là phụ mẫu.
Trung Quốc vẫn thường kể công là đã viện
 trợ cho Cộng Sản Bắc Việt từ năm 1955-1975 hơn 1 triệu 5 tấn lương 
thực, hậu cần và trang bị kỹ thuật, hơn 4 triệu khẩu súng đủ loại từ 
súng trường cho tới tên lửa, nhiều tàu chiến, xe tăng. CSVN là kẻ chịu 
ơn Trung Cộng, nhưng lại vô ơn, nên Trung Cộng đã cất quân hỏi tội Việt 
Nam, và “cho một bài học” như năm 1979. Ðối đáp với đại ân nhân, để cân 
bằng số lương thực, súng đạn này, Bắc Việt cho rằng mình đã đóng góp lại
 bằng xương máu của dân Việt, như vậy không ai phải mang ơn ai, như các 
nhà lãnh đạo CSVN đã tuyên bố, “Việt Nam đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và 
Trung Quốc, tiền bạc, vật chất nào trả nổi sinh mạng của khoảng 3-5 
triệu người?”
Cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979 sau khi 
Trung Cộng bất bình vì Việt Nam kéo quân sang Kampuchea, được phía Việt 
Nam gọi là “chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc” hay “cuộc chiến chống
 bè lũ bành trướng phương Bắc,” trong khi Trung Cộng gọi là “chiến tranh
 đánh trả tự vệ trước Việt Nam.” 
Mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Cộng, bất đồng về cuộc chiến Ðông Dương từ lâu đã biến hai nước bạn thành thù.
Từ
 năm 1973, lãnh đạo Trung Cộng đã có lập trường: “Bề ngoài ta đối xử tốt
 với họ (Việt Nam) như đối xử với đồng chí mình, nhưng trên tinh thần 
phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta.” Dưới con mắt Bắc Kinh, 
Việt Nam vẫn là kẻ “hắc tâm,” “vô ơn,” “ngạo ngược.” Quân Việt Nam có 
mặt ở Lào, Kampuchea đã làm cho Trung Quốc lo ngại về một “tiểu bá 
quyền” Việt Nam và thâm tâm Bắc Kinh luôn luôn “dạy cho Việt Nam một bài
 học.” Mối quan hệ xem ra có vẻ tốt đẹp sau này là một mối quan hệ “bằng
 mặt mà không bằng lòng” xem ra vẫn âm ỉ thù hận. Theo Tiến Sĩ Lý Tiểu 
Binh của Ðại Học Central Oklahoma cho VOA Việt Ngữ (tháng 2, 2012) hay, 
có khả năng Bắc Kinh lại muốn dạy cho Việt Nam một bài học mới nữa.
Tương
 quan giữa Trung Cộng và Việt Cộng, như vậy chưa bao giờ là tương quan 
giữa cha con hay chủ tớ, như Trung Cộng vừa ngang ngược, trịch thượng 
lên tiếng, coi Việt Cộng như con cái, mà lại là đứa con “ngỗ nghịch,” mà
 người cha, phải xử lý nó đúng với trách nhiệm của mình! Còn những đứa 
con cũng phải biết thân phận mình đang ở vị thế nào! “Trung Quốc dụng 
tâm lương khổ, phụng khuyến Việt Nam lãng tử hồi đầu”(dịch: Trung Quốc 
phải dùng tâm trạng đau khổ kêu gọi đứa con hoang ngỗ ngược Việt Nam sớm
 hối cải trở về).
Trung Cộng không muốn ai can thiệp vào chuyện 
“nội bộ” của Việt Nam và Tàu vì đây là chuyện trong nhà, “xử lý nội bộ” 
hay “đóng cửa dạy nhau,” hay tệ hơn nữa là “đóng cửa dạy con.” Ðất nước 
Việt Nam chẳng qua chỉ là khu vườn sau của Trung Cộng và chính phủ Việt 
Nam là “đứa con hỗn xược!” (Một nhà ngoại giao Á Châu ở Hà Nội nói với 
báo Der Spiegel (”Tấm Gương”): “Bắc Kinh bực tức những đứa trẻ con hỗn 
xược trong ngôi vườn ở phía Nam của Trung Quốc.”) Như vậy với những khẩu
 hiệu ngoại giao, vuốt ve, “16 chữ vàng” trong thời gian trước, đã được 
Trung Cộng vứt vào hố xí, mà Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng vẫn cứ phải 
“ngậm bồ hòn làm ngọt” trong một thế yếu vì đã quá lệ thuộc, một hai coi
 Trung Cộng là “người bạn láng giềng lớn, muốn hay không cũng phải ăn 
đời ở kiếp với nhau...” Trong thời điểm này mà Nguyễn Tấn Dũng còn “cúc 
cung:”- “ Việt Nam lúc nào cũng biết ơn sự hỗ trợ và giúp đỡ lớn từ 
Trung Quốc!” 
Hèn mạt đến thế sao! 
Cách nói xách mé của 
Trung Cộng bây giờ nghe ra không khác gì lời nói xấc láo của Tôn Nữ Thị 
Ninh, đối với quần chúng. Thị nguyên là Ðại Sứ Ðặc Mệnh Toàn Quyền của 
Việt Nam tại Liên Hiệp Châu Âu (EU), phó chủ tịch Ủy Ban Ðối Ngoại của 
Quốc Hội Ba Ðình, ủy viên Trung Ương Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, đã 
từng tuyên bố trong buổi họp báo tại Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia Hoa Kỳ 
hồi tháng 10 năm 2004, khi bị chất vấn về tình trạng vi phạm nhân quyền ở
 Việt Nam, rằng, “Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn 
láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ 
nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà 
gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi.”
Thưa bà 
phó chủ tịch, nếu nay mai Ðại Sứ Trung Cộng tại Liên Hiệp Quốc mượn tạm 
“danh ngôn” của bà để phát biểu, khi có ai đó chất vấn về cuộc xung đột 
Việt Trung vừa qua, thì bản thân bà có nghe lọt lỗ tai không? Cũng quan 
hệ theo lối này, thì những anh hàng xóm như ASEAN, Nhật Bản, 
Phillippines, Mỹ và ngay cả Tòa Án Quốc Tế “đừng có mà gõ cửa đòi xen 
vào chuyện riêng của gia đình cha con chúng tôi.”
Trung Cộng càng
 ngày càng lấn lướt, thâm độc, dùng tất cả “mưu ma chước quỷ” để “chơi” 
Việt Nam “làm cho cho mệt cho mê, làm cho đau đớn ê chề cho coi!” 
Không
 những một, mà Trung Cộng đem tới Biển Ðông bốn giàn khoan! Rồi sao? - 
Việt Nam đang chờ một “thời điểm thích hợp” để kiện Trung Cộng ra Tòa Án
 Quốc Tế! Lời tuyên bố “hùng hổ” này chắc làm Bắc Kinh sợ “vãi đái!”
Việt
 Nam đang ở trong thế không biết kêu “mạ” nào, có một mụ mạ, ông cha thì
 đã cho mình là đứa con hỗn xược, cần dạy dỗ và cứ lăm le đòi cho roi 
vọt thì còn trong cậy đến ai bây giờ!
       
















