Đoạn Đường Chiến Binh
Chiến Sử Sư Đ0àn 18 Bộ Binh Trên Chiến Trường Miền Đông
* Từ Biệt khu Phước-Bình-Thành đến Sư đoàn Bộ binh thứ 10:
Tình hình chiến trường tại miền Đông Nam phần (Vùng 3 chiến thuật) trở nên sôi động từ giữa năm 1964 khi Cộng quân tung thêm 4 trung đoàn chủ lực vào các tỉnh dọc theo biên giới Việt-Căm Bốt: Phước Long, Bình Long. Để ngăn chận sự leo thang của đối phương, từ tháng 10/1964, Quân đoàn 3 & Vùng 3 chiến thuật đã phân nhiệm 2 sư đoàn Bộ binh đảm trách hai khu chiến thuật tại miền Đông Nam phần, và biệt khu Phước-Bình-Thành trách nhiệm ba tỉnh Phước Long, Bình Long và Phước Thành. Đến hạ tuần tháng 5/1965, do nhu cầu chiến trường và kế hoạch tái phối trí lực lượng, bộ Quốc phòng ban hành văn thư giải tán Biệt khu Phước-Bình-Thành, đồng thời cho tiến hành việc thành lập sư đoàn thứ 3 cho Quân đoàn 3 và là sư đoàn Bộ binh thứ 10 của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. (9 sư đoàn đã thành lập từ trước theo thứ tự về thời gian: 1, 2, 5, 7, 21, 22, 23, 25, 9). Sư đoàn tân lập này có danh hiệu là Sư đoàn 10 Bộ binh.
* Tiến trình hình thành Sư đoàn: đổi danh hiệu thành Sư đoàn 18 BB, lược ghi về các trung đoàn cơ hữu
Theo văn thư bộ Quốc phòng và bộ Tổng tham mưu QL/VNCH, Sư đoàn 10 BB chính thức lập ngày 6/6/1965. Đến tháng 10/1965, đổi danh hiệu thành Sư đoàn 18 BB với 3 trung đoàn cơ hữu: trung đoàn 43 BB, trung đoàn 48 BB và trung đoàn 52 BB, một số đơn vị yểm trợ thống thuộc: Thiết giáp, Pháo binh, Công binh, Quân y, Tiếp vận... Ngay sau khi thành lập, Sư đoàn được phân nhiệm hoạt động tại các tỉnh ở phía Đông của Vùng 3 chiến thuật gồm: Biên Hòa, Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy. Bộ tư lệnh Sư đoàn đặt tại Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh.
Trong số 3 trung đoàn của Sư đoàn 18 BB, có hai trung đoàn nguyên là trung đoàn cơ hữu của hai sư đoàn Khinh chiến 15 và 16 được thành lập trong giai đoạn 1955-1966: đó là trung đoàn 43 Bộ binh thuộc sư đoàn Khinh chiến 15 và trung đoàn 48 Bộ binh thuộc Sư đoàn Khinh chiến 16. Cuối năm 1959, theo sự cải tổ của Quân lực VNCH, 10 sư đoàn (4 sư đoàn Dã chiến và 6 sư đoàn Khinh chiến) rút xuống còn 7 sư đoàn và được cải danh thành các Sư đoàn Bộ binh. Theo kế hoạch này, Sư đoàn Khinh chiến 15 được biến cải thành Sư đoàn 23 Bộ binh, sư đoàn 16 Khinh chiến cùng với 2 sư đoàn Khinh chiến 12 và 13 được giải tán, quân số của các trung đoàn này được bổ sung cho các sư đoàn còn lại, một số trung đoàn trở thành binh đoàn biệt lập, thống thuộc quyền điều động của các bộ Tư lệnh Quân khu.
Để Sư đoàn 10 Bộ binh được thành hình nhanh chóng, bộ Tổng tham mưu đã quyết định điều động một phần lớn sĩ quan thuộc bộ chỉ huy Biệt khu Phước-Bình-Thành vừa giải tán, chuyển sang bộ tư lệnh sư đoàn tân lập để hình thành các bộ phận tham mưu chính yếu. Đại tá Nguyễn Văn Mạnh, chỉ huy trưởng Biệt khu được bổ nhiệm làm tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn; thiếu tá Trần Văn Dĩnh, tham mưu trưởng, thiếu tá Lê Trọng Đàm, tham mưu phó và một số trưởng phòng của Biệt khu Phước-Bình-Thành tiếp tục giữ các chức vụ trọng yếu tại bộ Tham mưu Sư đoàn 10 Bộ binh.
* Lược ghi về quân vụ của 5 vị tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh:
-Tư lệnh đầu tiên: đại tá Nguyễn Văn Mạnh (cấp bậc cuối cùng: trung tướng)
Vị tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 10 (Sư đoàn 18 Bộ binh) là một sĩ quan giàu kinh nghiệm chiến trường, xuất thân trường Sĩ quan Việt Nam tại Huế vào năm 1949, lần lượt giữ các chức vụ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, tham mưu trưởng Sư đoàn, tham mưu trưởng Quân đoàn. Năm 1964, đại tá Nguyễn Văn Mạnh được cử giữ chức vụ chỉ huy trưởng Biệt khu Phước-Bình-Thành, bộ chỉ huy đặt tại Phước Vĩnh, tỉnh lỵ Phước Thành. Tháng 4/1965, trong khi đi thực hiện phóng sự chiến trường tại chiến khu D, chúng tôi có dịp tiếp xúc, phỏng vấn đại tá Mạnh tại bộ chỉ huy Biệt khu Phước Bình Thành, 3 tháng sau chúng tôi lại được gặp ông tại bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh ở Long Khánh, ghi nhận của chúng tôi là vị tư lệnh này rất cởi mở, bình dân, một số sĩ quan cho biết ông có cuộc sống rất giản dị, gần gũi với sĩ quan thuộc cấp, rất thương anh em binh sĩ. Khi nói về thời thanh niên của mình, ông cho biết là đã tốt nghiệp trường Canh nông Huế trước 1945 và làm việc trong ngành này được vài năm, trước khi thi vào trường Sĩ quan.
Sau 4 tháng giữ chức tư lệnh, vào thượng tuần tháng 10/1965, đại tá Mạnh được cử giữ chức tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, hoán chuyển chức vụ với chuẩn tướng Lữ Lan. Cuối tháng 10/1965, ông được thăng chuẩn tướng. Tháng 12/1966, được bổ nhiệm giữ chức vụ Quyền tư lệnh Quân đoàn 4 & Vùng 4 chiến thuật. Tháng 2/1967, được vinh thăng thiếu tướng và chính thức giữ chức vụ tư lệnh Quân đoàn này. Tháng 2/1968, thuyên chuyển về bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Tổng thanh tra. Tháng 7/1969, được bổ nhiệm giữ chức tham mưu trưởng Liên quân Quân lực VNCH. Tháng 7/1970 thăng trung tướng. Tháng 4/1974, được cử giữ chức phụ tá Tổng tham mưu trưởng đặc trách Bình định phát triển thay thế trung tướng Nguyễn Văn Là về hưu.
- Chuẩn tướng Lữ Lan: từ tháng 10/1965 đến tháng 6/1966. Trước khi được cử thay thế đại tá Mạnh trong chức vụ tư lệnh Sư đoàn 18 BT, chuẩn tướng Lữ Lan là tư lệnh Sư đoàn 23 BB (từ tháng 10/1964 đến tháng 10/1965). Khi còn mang cấp đại tá, ông là tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 25 BB (thành lập cuối năm 1962 tại Quảng Ngãi, năm 1964, Sư đoàn này chuyển vào Hậu Nghĩa). Các chức vụ và cấp bậc kế tiếp: thăng thiếu tướng vào tháng 11/1965, giữa năm 1966 được bổ nhiệm giữ chức vụ chỉ huy trưởng trường Chỉ Huy và Tham Mưu, từ tháng 11/1966 đến tháng 2/1968: tổng cục trưởng Tổng cục Quân Huấn; cuối tháng 2/1968 đến tháng 8/1970: tư lệnh Quân đoàn 2 & Vùng 2 chiến thuật. Thăng trung tướng giữa năm 1969, chức vụ cuối cùng: Tổng thanh tra Quân lực VNCH.
- Chuẩn tướng Đỗ Kế Giai: từ tháng 6/1966 đến tháng 8/1969, cựu tiểu đoàn binh chủng Nhảy Dù trước năm 1961; thăng chuẩn tướng tháng 11/1967, thăng thiếu tướng 1972. Các chức vụ kế tiếp: chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ, chỉ huy trưởng Biệt động quân (1972 đến 30 tháng 4/1975).
- Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ: từ tháng 8/1969 đến tháng 5/1972: trước khi giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 18 BB, chuẩn tướng Thơ là chỉ huy trưởng trường Bộ Binh Thủ Đức (từ 1967 đến tháng 8/1969), ông được thăng chuẩn tướng vào tháng 6/1968. Khi còn mang cấp đại tá, đã lần lượt giữ các chức vụ: chỉ huy trưởng Thiết giáp binh QL/VNCH (1964), chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt (1965), Chỉ huy trưởng trường Hạ Sĩ quan Nha Trang (1966). Thăng thiếu tướng tháng 6/1970. Tháng 5/1972: được cử giữ chức vụ chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt thay thế trung tướng Lâm Quang Thi được điều động ra miền Trung giữ chức vụ tư lệnh phó Quân đoàn 1. Đây là lần thứ hai ông chỉ huy trường Võ bị và cũng là vị chỉ huy trưởng cuối cùng của quân trường này.
- Chuẩn tướng Lê Minh Đảo: từ tháng 5/1972 đến tháng 4/1975: Giữ chức vụ tư lệnh khi còn mang cấp đại tá, thăng chuẩn tướng tháng 11/1972. Được thăng thiếu tướng tại mặt trận vào hạ tuần tháng 4/1975 với chiến tích đã chỉ huy Sư đoàn 18 chận đứng các cuộc tấn công của CQ tại An Lộc. (Theo tài liệu của đại tá Phạm Bá Hoa, tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp vận thì Quân đoàn 3 chưa kịp tổ chức lễ gắn cấp hiệu 2 sao cho tướng Đảo).
* Sư đoàn 18 Bộ binh trên chiến trường Miền Đông Nam phần:
Sau giai đoạn chỉnh trang cần thiết cho một đại đơn vị tân lập, tháng 8/1965, Sư đoàn 18 Bộ binh đã khởi động cuộc hành quân quy mô để tảo thanh Cộng quân tại khu vực trách nhiệm, trong đó hai tỉnh Phước Tuy và Long Khánh là những mục tiêu trọng điểm. Trong thượng tuần tháng 11/1965, một thành phần bộ chiến của Sư đoàn 18BB và đơn vị tăng phái đã đánh tan 1 trung đoàn Cộng quân tại phía Tây Phước Lễ, tỉnh Phước Tuy.
Từ 1966 đến 1969, lực lượng bộ chiến của Sư đoàn 18 Bộ binh phối hợp với lực lượng Đồng minh đã tổ chức hơn 20 cuộc hành quân quy mô truy kích CQ tại các tỉnh Phước Tuy, Long Khánh, Bình Tuy. Trong hai năm 1970 và 1971, theo kế hoạch điều động lực lượng của bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, nhiều đơn vị của Sư đoàn 18 Bộ binh đã luân phiên tham dự cuộc hành quân ngoại biên tại Căm Bốt cùng với các thành phần bộ chiến của Sư đoàn 5, Sư đoàn 25 Bộ binh, Biệt động quân Quân khu 3 và lực lượng lữ đoàn 3 Kỵ Binh.
Trong cuộc chiến Mùa Hè 1972, trước khi trận chiến tại Lộc Ninh bùng nổ vào ngày 5/4/1972, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã điều động trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 BB tăng viện cho chiến trường Bình Long, bảo vệ trục giao thông giữa chi khu Lộc Ninh và Thị xã An Lộc. Ngày 11 tháng 7/1972, toàn bộ Sư đoàn 18 BB do đại tá Lê Minh Đảo chỉ huy đã nhập trận An Lộc, thay thế cho Sư đoàn 5 BB. Sư đoàn này được triệt thoái về Lai Khê để chỉnh trang sau hơn 2 tháng cùng với các đơn vị tăng phái tử chiến với ba sư đoàn chủ lực của Cộng quân tại tỉnh lỵ Bình Long.
vietbao.com
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (1)
----------------------------------------------------------------------------------
Chiến Sử Sư Đ0àn 18 Bộ Binh Trên Chiến Trường Miền Đông
* Từ Biệt khu Phước-Bình-Thành đến Sư đoàn Bộ binh thứ 10:
Tình hình chiến trường tại miền Đông Nam phần (Vùng 3 chiến thuật) trở nên sôi động từ giữa năm 1964 khi Cộng quân tung thêm 4 trung đoàn chủ lực vào các tỉnh dọc theo biên giới Việt-Căm Bốt: Phước Long, Bình Long. Để ngăn chận sự leo thang của đối phương, từ tháng 10/1964, Quân đoàn 3 & Vùng 3 chiến thuật đã phân nhiệm 2 sư đoàn Bộ binh đảm trách hai khu chiến thuật tại miền Đông Nam phần, và biệt khu Phước-Bình-Thành trách nhiệm ba tỉnh Phước Long, Bình Long và Phước Thành. Đến hạ tuần tháng 5/1965, do nhu cầu chiến trường và kế hoạch tái phối trí lực lượng, bộ Quốc phòng ban hành văn thư giải tán Biệt khu Phước-Bình-Thành, đồng thời cho tiến hành việc thành lập sư đoàn thứ 3 cho Quân đoàn 3 và là sư đoàn Bộ binh thứ 10 của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. (9 sư đoàn đã thành lập từ trước theo thứ tự về thời gian: 1, 2, 5, 7, 21, 22, 23, 25, 9). Sư đoàn tân lập này có danh hiệu là Sư đoàn 10 Bộ binh.
* Tiến trình hình thành Sư đoàn: đổi danh hiệu thành Sư đoàn 18 BB, lược ghi về các trung đoàn cơ hữu
Theo văn thư bộ Quốc phòng và bộ Tổng tham mưu QL/VNCH, Sư đoàn 10 BB chính thức lập ngày 6/6/1965. Đến tháng 10/1965, đổi danh hiệu thành Sư đoàn 18 BB với 3 trung đoàn cơ hữu: trung đoàn 43 BB, trung đoàn 48 BB và trung đoàn 52 BB, một số đơn vị yểm trợ thống thuộc: Thiết giáp, Pháo binh, Công binh, Quân y, Tiếp vận... Ngay sau khi thành lập, Sư đoàn được phân nhiệm hoạt động tại các tỉnh ở phía Đông của Vùng 3 chiến thuật gồm: Biên Hòa, Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy. Bộ tư lệnh Sư đoàn đặt tại Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh.
Trong số 3 trung đoàn của Sư đoàn 18 BB, có hai trung đoàn nguyên là trung đoàn cơ hữu của hai sư đoàn Khinh chiến 15 và 16 được thành lập trong giai đoạn 1955-1966: đó là trung đoàn 43 Bộ binh thuộc sư đoàn Khinh chiến 15 và trung đoàn 48 Bộ binh thuộc Sư đoàn Khinh chiến 16. Cuối năm 1959, theo sự cải tổ của Quân lực VNCH, 10 sư đoàn (4 sư đoàn Dã chiến và 6 sư đoàn Khinh chiến) rút xuống còn 7 sư đoàn và được cải danh thành các Sư đoàn Bộ binh. Theo kế hoạch này, Sư đoàn Khinh chiến 15 được biến cải thành Sư đoàn 23 Bộ binh, sư đoàn 16 Khinh chiến cùng với 2 sư đoàn Khinh chiến 12 và 13 được giải tán, quân số của các trung đoàn này được bổ sung cho các sư đoàn còn lại, một số trung đoàn trở thành binh đoàn biệt lập, thống thuộc quyền điều động của các bộ Tư lệnh Quân khu.
Để Sư đoàn 10 Bộ binh được thành hình nhanh chóng, bộ Tổng tham mưu đã quyết định điều động một phần lớn sĩ quan thuộc bộ chỉ huy Biệt khu Phước-Bình-Thành vừa giải tán, chuyển sang bộ tư lệnh sư đoàn tân lập để hình thành các bộ phận tham mưu chính yếu. Đại tá Nguyễn Văn Mạnh, chỉ huy trưởng Biệt khu được bổ nhiệm làm tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn; thiếu tá Trần Văn Dĩnh, tham mưu trưởng, thiếu tá Lê Trọng Đàm, tham mưu phó và một số trưởng phòng của Biệt khu Phước-Bình-Thành tiếp tục giữ các chức vụ trọng yếu tại bộ Tham mưu Sư đoàn 10 Bộ binh.
* Lược ghi về quân vụ của 5 vị tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh:
-Tư lệnh đầu tiên: đại tá Nguyễn Văn Mạnh (cấp bậc cuối cùng: trung tướng)
Vị tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 10 (Sư đoàn 18 Bộ binh) là một sĩ quan giàu kinh nghiệm chiến trường, xuất thân trường Sĩ quan Việt Nam tại Huế vào năm 1949, lần lượt giữ các chức vụ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, tham mưu trưởng Sư đoàn, tham mưu trưởng Quân đoàn. Năm 1964, đại tá Nguyễn Văn Mạnh được cử giữ chức vụ chỉ huy trưởng Biệt khu Phước-Bình-Thành, bộ chỉ huy đặt tại Phước Vĩnh, tỉnh lỵ Phước Thành. Tháng 4/1965, trong khi đi thực hiện phóng sự chiến trường tại chiến khu D, chúng tôi có dịp tiếp xúc, phỏng vấn đại tá Mạnh tại bộ chỉ huy Biệt khu Phước Bình Thành, 3 tháng sau chúng tôi lại được gặp ông tại bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh ở Long Khánh, ghi nhận của chúng tôi là vị tư lệnh này rất cởi mở, bình dân, một số sĩ quan cho biết ông có cuộc sống rất giản dị, gần gũi với sĩ quan thuộc cấp, rất thương anh em binh sĩ. Khi nói về thời thanh niên của mình, ông cho biết là đã tốt nghiệp trường Canh nông Huế trước 1945 và làm việc trong ngành này được vài năm, trước khi thi vào trường Sĩ quan.
Sau 4 tháng giữ chức tư lệnh, vào thượng tuần tháng 10/1965, đại tá Mạnh được cử giữ chức tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, hoán chuyển chức vụ với chuẩn tướng Lữ Lan. Cuối tháng 10/1965, ông được thăng chuẩn tướng. Tháng 12/1966, được bổ nhiệm giữ chức vụ Quyền tư lệnh Quân đoàn 4 & Vùng 4 chiến thuật. Tháng 2/1967, được vinh thăng thiếu tướng và chính thức giữ chức vụ tư lệnh Quân đoàn này. Tháng 2/1968, thuyên chuyển về bộ Tổng tham mưu giữ chức vụ Tổng thanh tra. Tháng 7/1969, được bổ nhiệm giữ chức tham mưu trưởng Liên quân Quân lực VNCH. Tháng 7/1970 thăng trung tướng. Tháng 4/1974, được cử giữ chức phụ tá Tổng tham mưu trưởng đặc trách Bình định phát triển thay thế trung tướng Nguyễn Văn Là về hưu.
- Chuẩn tướng Lữ Lan: từ tháng 10/1965 đến tháng 6/1966. Trước khi được cử thay thế đại tá Mạnh trong chức vụ tư lệnh Sư đoàn 18 BT, chuẩn tướng Lữ Lan là tư lệnh Sư đoàn 23 BB (từ tháng 10/1964 đến tháng 10/1965). Khi còn mang cấp đại tá, ông là tư lệnh đầu tiên của Sư đoàn 25 BB (thành lập cuối năm 1962 tại Quảng Ngãi, năm 1964, Sư đoàn này chuyển vào Hậu Nghĩa). Các chức vụ và cấp bậc kế tiếp: thăng thiếu tướng vào tháng 11/1965, giữa năm 1966 được bổ nhiệm giữ chức vụ chỉ huy trưởng trường Chỉ Huy và Tham Mưu, từ tháng 11/1966 đến tháng 2/1968: tổng cục trưởng Tổng cục Quân Huấn; cuối tháng 2/1968 đến tháng 8/1970: tư lệnh Quân đoàn 2 & Vùng 2 chiến thuật. Thăng trung tướng giữa năm 1969, chức vụ cuối cùng: Tổng thanh tra Quân lực VNCH.
- Chuẩn tướng Đỗ Kế Giai: từ tháng 6/1966 đến tháng 8/1969, cựu tiểu đoàn binh chủng Nhảy Dù trước năm 1961; thăng chuẩn tướng tháng 11/1967, thăng thiếu tướng 1972. Các chức vụ kế tiếp: chỉ huy trưởng Huấn khu Dục Mỹ, chỉ huy trưởng Biệt động quân (1972 đến 30 tháng 4/1975).
- Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ: từ tháng 8/1969 đến tháng 5/1972: trước khi giữ chức vụ tư lệnh Sư đoàn 18 BB, chuẩn tướng Thơ là chỉ huy trưởng trường Bộ Binh Thủ Đức (từ 1967 đến tháng 8/1969), ông được thăng chuẩn tướng vào tháng 6/1968. Khi còn mang cấp đại tá, đã lần lượt giữ các chức vụ: chỉ huy trưởng Thiết giáp binh QL/VNCH (1964), chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt (1965), Chỉ huy trưởng trường Hạ Sĩ quan Nha Trang (1966). Thăng thiếu tướng tháng 6/1970. Tháng 5/1972: được cử giữ chức vụ chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt thay thế trung tướng Lâm Quang Thi được điều động ra miền Trung giữ chức vụ tư lệnh phó Quân đoàn 1. Đây là lần thứ hai ông chỉ huy trường Võ bị và cũng là vị chỉ huy trưởng cuối cùng của quân trường này.
- Chuẩn tướng Lê Minh Đảo: từ tháng 5/1972 đến tháng 4/1975: Giữ chức vụ tư lệnh khi còn mang cấp đại tá, thăng chuẩn tướng tháng 11/1972. Được thăng thiếu tướng tại mặt trận vào hạ tuần tháng 4/1975 với chiến tích đã chỉ huy Sư đoàn 18 chận đứng các cuộc tấn công của CQ tại An Lộc. (Theo tài liệu của đại tá Phạm Bá Hoa, tham mưu trưởng Tổng cục Tiếp vận thì Quân đoàn 3 chưa kịp tổ chức lễ gắn cấp hiệu 2 sao cho tướng Đảo).
* Sư đoàn 18 Bộ binh trên chiến trường Miền Đông Nam phần:
Sau giai đoạn chỉnh trang cần thiết cho một đại đơn vị tân lập, tháng 8/1965, Sư đoàn 18 Bộ binh đã khởi động cuộc hành quân quy mô để tảo thanh Cộng quân tại khu vực trách nhiệm, trong đó hai tỉnh Phước Tuy và Long Khánh là những mục tiêu trọng điểm. Trong thượng tuần tháng 11/1965, một thành phần bộ chiến của Sư đoàn 18BB và đơn vị tăng phái đã đánh tan 1 trung đoàn Cộng quân tại phía Tây Phước Lễ, tỉnh Phước Tuy.
Từ 1966 đến 1969, lực lượng bộ chiến của Sư đoàn 18 Bộ binh phối hợp với lực lượng Đồng minh đã tổ chức hơn 20 cuộc hành quân quy mô truy kích CQ tại các tỉnh Phước Tuy, Long Khánh, Bình Tuy. Trong hai năm 1970 và 1971, theo kế hoạch điều động lực lượng của bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, nhiều đơn vị của Sư đoàn 18 Bộ binh đã luân phiên tham dự cuộc hành quân ngoại biên tại Căm Bốt cùng với các thành phần bộ chiến của Sư đoàn 5, Sư đoàn 25 Bộ binh, Biệt động quân Quân khu 3 và lực lượng lữ đoàn 3 Kỵ Binh.
Trong cuộc chiến Mùa Hè 1972, trước khi trận chiến tại Lộc Ninh bùng nổ vào ngày 5/4/1972, bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 đã điều động trung đoàn 52 thuộc Sư đoàn 18 BB tăng viện cho chiến trường Bình Long, bảo vệ trục giao thông giữa chi khu Lộc Ninh và Thị xã An Lộc. Ngày 11 tháng 7/1972, toàn bộ Sư đoàn 18 BB do đại tá Lê Minh Đảo chỉ huy đã nhập trận An Lộc, thay thế cho Sư đoàn 5 BB. Sư đoàn này được triệt thoái về Lai Khê để chỉnh trang sau hơn 2 tháng cùng với các đơn vị tăng phái tử chiến với ba sư đoàn chủ lực của Cộng quân tại tỉnh lỵ Bình Long.
vietbao.com
Sinh Tồn chuyển