Cõi Người Ta
Chữ TẾT trong Tiếng Mẹ Đẻ tạo âm hưởng và gợi hình
Sau bao nhiêu năm ''ăn TẾT'' ở trong và ngoài Nước, ước mong tìm cho ra ý nghĩa đích thực của chữ TẾT, đọc quá nhiều tài liệu về ''mỹ từ ấy'', tôi KHÔNG đồng ý với
Sau bao nhiêu năm ''ăn TẾT'' ở trong và ngoài Nước, ước mong tìm cho ra ý nghĩa đích thực của chữ TẾT, đọc quá nhiều tài liệu về ''mỹ từ ấy'', tôi KHÔNG đồng ý với ''lập luận'' rằng chữ TẾT là do chữ TIẾT (節) của Hán tự.
Sau bao nhiêu năm ''ăn TẾT'' ở trong và ngoài Nước, ước mong tìm cho ra ý nghĩa đích thực của chữ TẾT, đọc quá nhiều tài liệu về ''mỹ từ ấy'', tôi KHÔNG đồng ý với ''lập luận'' rằng chữ TẾT là do chữ TIẾT (節) của Hán tự.
I-
Bằng chứng người Việt phát âm chữ 節
A-
TIẾT chứ không phải TẾT
Chữ
TIẾT (節)
có rất nhiều nghĩa, chẳng hạn: thời tiết; tiết học
trong lớp... Người Việt mình ở cả ba miền KHÔNG hề
phát âm NGỌNG chữ TIẾT thành TẾT!!! Xin dẫn chứng cách
Đồng Bào đọc (nói), viết như sau: TIẾT dục (節欲);
TIẾT hạnh (節行);
TIẾT mục (節目);
TIẾT nghĩa (節義);
TIẾT tháo (節操):
giữ khí TIẾT (氣節);
TIẾT trinh (節貞);
chi TIẾT (支 節);
âm TIẾT (音節);
TIẾT tấu (節奏);
TIẾT phụ (節婦);
TIẾTdụng (節用);
TIẾT kiệm (節儉);
thủ TIẾT (守節)...
Ngoài
ra, người Hoa (Tàu) không dùng chữ 節(tiết)
để chỉ Năm Mới, mà chữ
''duỳn
tản''
(nguyên
đán) hay là ''xin
nển''
(tân niên) và
thậm chí cả Khổng Tử cũng chẳng biết chữ TẾT của
người Việt do đâu nên ông tự gọi ''nó'' bằng cái tên
là TẾ
SẠ
như
Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng và nhiều học giả khác chứng
minh.
B-
Ý nghĩa của chữ TIẾT hậu: 節候
Theo
nhà làm lịch, NĂM NGÀY (five days) được gọi là MỘT HẬU
và BA HẬU là MỘT KHÍ TIẾT. Như vậy, căn cứ vào A và
B (I), mỹ từ TẾT của Tổ Tiên mình KHÔNG phải là cách
biến âm (évolution phonétique) của chữ TIẾT như hầu hết
người Việt ngộ nhận. KHÔNG phải bất cứ ai thông thạo
viết, nói, dịch, dạy tiếng Mẹ Đẻ đều biết rành
nguồn gốc của TẤT CẢ các từ trong tiếng ấy. Tôi hỏi
anh kia dạy Nga văn (ở Đại Học) chữ ''phanh xe đạp''
do đâu; anh ấy nói anh không biết. Thật thà như thế thì
dễ được người khác mến. Hầu như ai cũng biết chữ
FAX; có người chỉ biết chữ ấy do đâu, chứ chẳng
giải thích được tại sao (nó) có mẫu tự X!!!
II-
Hàn Lâm Viện Pháp định nghĩa chữ TÊT
Cuốn
Larousse (Dictionnaire Encyclopédique trước đây và sau này)
định nghĩa chữ TÊT như sau: ''Ngày đầu năm theo lịch
mặt trăng (âm lịch) CỦA Việt Nam tạo lý do cho những
buổi liên hoan, hội hè (của Lễ Tết) giữa 20 tháng một
và 19 tháng hai.'' (Têt: Premier jour de l'année du calendrier
lunaire vietnamien, donnant lieu à des festivités (fête du
Têt) entre le 20 janvier et le 19 février.)
Theo
nguyên tắc, vì chủ trương: ''Điều gì không rõ ràng là
không phải của Pháp, của tiếng Pháp. Ce qui n'est pas
clair n'est pas français.'', trong tự điển (trừ loại bỏ
túi), người Pháp luôn ghi cách phát âm từng chữ và
NGUỒN GỐC của nó, chẳng hạn: Têt [tɛ]
n.m (lat. testum, vase en terre)
và cho định nghĩa là ''cái bình bằng đất ở phòng thí
nghiệm...'' Trong khi đó, chữ Têt, đọc là: [tɛt]
thì KHÔNG có gốc ''chinois, chinese'', mà là CỦA Việt Nam,
khác với chữ TÊT kia do chữ Latin! (Xin tìm chữ ''pékiné,
pékinois'' thì sẽ thấy: ''de Pékin''
rõ ràng!)
Đáng
tiếc rằng, ở trên mạng và trong một số tài liệu bằng
tiếng Anh, Pháp, Đức..., nhiều người bản xứ, kể cả
không ít VIỆT BÀO, cũng KHẲNG ĐỊNH chữ TẾT do TIẾT
mà ra. Vậy thì tại sao mình viết, nói ''TIẾT canh
vịt, thọc TIẾT'', mà KHÔNG phải: TẾT canh
vịt, thọc TẾT? Xin Bà Con vui lòng ĐỪNG VÔ TÌNH
tạo cớ cho người ngoài LÀM HƯ chữ TẾT quá thiêng
liêng của Tổ Tiên!
III-
TẾT TA, TẾT DÂN TỘC, TẾT (CỔ TRUYỀN) VIỆT NAM
Các
chữ vừa nêu diễn tả ''HỒN VIỆT, TINH HOA VIỆT, VĂN
HÓA VIỆT thuần túy'' đã, đang và sẽ còn ĐI VÀO mọi
lãnh vực VĂN HÓA (INCULTURATION) của VIỆT BÀO. Tôi chợt
nhớ đến đoạn mà Thầy-Cô-năm-xưa cho trò ''học thuộc
lòng để trả bài'' ở lớp Đệ Ngũ Trung Học:
''Giọng
Hàn Thuyên! Hồn Đại Việt! Hai câu ấy thực là gồm cả
cái
lòng hy vọng tối thiết
của bọn ta. Than
ôi, vì sao mà ta khắc
khoải trong lòng, ta băn khoăn trong dạ,
vì sao mà ta mong
mỏi, mà trữ thương?
Chẳng phải là từ xưa đến nay ta chưa từng được đem
cái giọng Hàn Thuyên này mà
diễn
cái
hồn Đại Việt kia ư?
Cùng một tiếng khóc, cùng một giọng cười, mà sao giọng
cười, tiếng khóc bằng cái lời họ Hàn kia nó
cảm ta như thế?
Là bởi trời
sinh ra ta để nói cái lời ấy, trời sinh ra cái lời ấy
để ta nói, ta nói bằng lời ấy, mới nói được lòng
ta, nói bằng lời khác là nói những sự không thực cả.
Trong trời đất chỉ
có lời ấy với ta, ta với lời ấy là có cái duyên nợ
ba sinh vậy...
Dù ta học chữ Tây
hay chữ Tàu,
ta cũng chớ
nên quên
tiếng
Tổ Quốc là cái tiếng từ khi lọt lòng ta đã học nói,
và đến khi hấp hối chết cũng còn nói.
Ta nên nhớ câu ca dao của nước nhà: ''Ta về ta tắm ao
ta, dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn!... Nhiễu điều phủ
lấy giá gương, Tiếng
của Tổ Quốc thời thương lấy cùng!''
Vậy,
tôi CŨNG mong các KỸ-SƯ-TÂM-HỒN-hôm-nay ĐỪNG cho tuổi
thơ THẤM VÀO ĐẦU ''cái'' nguồn gốc KHÔNG ĐÚNG của
chữ TẾT!
IV-
''Âm hưởng'' và cách ''gợi hình'' của tiếng Mẹ
Đẻ
A-
Người Pháp nhận xét về tiếng Việt
Đã
đi khắp nơi, so sánh ''âm tiếng Việt'' với ''âm các
tiếng khác'', người Pháp nói chung, nhất là các nhà
''ngôn ngữ và ngữ âm học'' nhận xét thế này: ''Người
Việt nói NHƯ CHIM HÓT!''
Ngồi
với bạn người Pháp, khi trao đổi về tiếng Việt, tôi
nói: Một trong những đặc điểm của chữ Hán là ''tượng
thanh'', nhất là ''tượng hình'', ví dụ chữ MẪU母có
hình hai bầu sữa. Trong khi đó, chữ MẸ, MÁ, MẠ, (hay
MẪU đi nữa) thì GỢI HÌNH (khác với ''tượng hình''),
lại có ÂM HƯỞNG sâu xa như lời nhạc của Y Vân về
người Mẹ: ''thấm vào lòng con; chan chứa trên bao xóm
làng gần xa!''
Thật
vậy, hình ảnh của MẸ trong ngày TẾT thiêng liêng cũng
để lại ''âm hưởng'' trong tôi qua bài thơ NHỚ XUÂN có
bốn câu này: Vườn
xuân rộn tiếng chim ca - Cõi lòng của mẹ bao la, nặng
sầu... Con đi biền biệt đã lâu – Không còn giúp Mẹ
têm trầu như xưa...
B-
Âm trong tiếng Mẹ Đẻ
1-
Âm ẾT, ỆT
Trong
tiếng Việt, (kể cả những ''chữ gốc Hán'' được
người mình đọc cách khác, ÊM NHẸ và HAY hơn), âm ẾT,
ỆT diễn tả ''mức độ'' nhiều hay ít, tốt hay xấu.
Ví
dụ: hết
ý; hết
sẩy; thương con hết
mực; quần
áo ướt dính bết
vào da; làm ăn bết;
ngồi bệt;
máy chết
giữa đường; làm ăn thế thì chết;
chết
mê, chết
mệt;
chết
rấp cho hết;
hết
hồn; hết
chỗ nói; hết
nước rồi; hết
thảy; giống hệt;
nhựa cây kết
đặc; kết
đọng; kết
tóc; kết
tủa; kéo
lết;
bò lết;
lết
vô hòm; quần dài lết
bết;
làm ăn lết
bết;
dài lệt
bệt;
dệt
mộng; dệt
lụa;
tiếng dép lệt
sệt
(xệt)
ngoài sân; mê mệt;
mệt
cái đầu; mất nết;
nết
na; phết
mấy roi; phết
hồ; phết
sơn; sền sệt;
trết
dầu; thấp trệt;
dấu vết;
vết
thương lòng; vết
tích; vệt
đèn pha...
2-
Âm ÉT, ẸT
Ví
dụ: quét nhà; cái quẹt lửa; càn quét; quần áo (mùa)
rét; đất sét; lưỡi cuốc bị sét; sét đánh; vơ vét
làm thét rồi quen; thét lên; thét (nung) vàng, bạc; mũi
tẹt; xem xét; xét nét; xét soi; chẹt cứng; dài, tròn, mà
dẹt ở phần đuôi; người khô đét như gỗ; đét roi vào
lưng; ăn gì cũng đẹt; kỳ cho sạch ghét; trâu buộc ghét
trâu ăn; hét vào tai; máu khô két! Áo két dầu mỡ! Súng
kẹt đạn. kẹt cho mầy; khét tiếng; cơm khét; khét lẹt;
con két; con vẹt; học hành lẹt đẹt nên thi rớt; lẹt
đẹt theo mẹ; sợ tái mét; nẹt cho mấy roi; bị mẹ nẹt
cho một trận; âm thanh nghe nét; nét ngài nở nang; nhét
đầy túi; vét sạch túi; phét lác; nói phét...
V-
Nguồn gốc của chữ TẾT
Ngôn
ngữ là phương tiện mà loài người sử dụng để thông
tri cho nhau ý tưởng của mình. Với thời gian, do các hình
thức sinh hoạt, lễ hội ăn mừng, nhiều chữ xuất hiện
trong Kho Tàng tiếng Việt Cổ. Theo thiển ý của tôi,
(ngoài những khám phá lý thú trong bài ''Tết là gì?'' mà
tôi sẽ mời bà con vào đọc), chữ TẾT (có âm ẾT) CŨNG
do những từ ''tạo âm hưởng'' và ''gợi hình'' sau đây:
1-
tét: cắt bánh bằng sợi dây nhỏ vòng qua nó, rồi kéo
dây từ từ để có từng khoanh bánh ''rơi'' NHẸ, nằm
XINH XẮN trên dĩa.
2-
tết: đan, thắt nhiều sợi dây thành túi (đựng đồ ăn,
đồ dùng) trông ĐẸP mắt.
3-
tết: bện, quấn bằng rơm hay dây DÍNH CHẶT, thật KHÉO
vào cái gì; gói, bọc KỸ thịt, cá bằng lá dừa, lá
chuối, lá tranh, chẳng hạn: tré Huế.
4-
tết: bím tóc, chẳng hạn: tóc TẾT bím trông THẬT DỄ
THƯƠNG.
5-
tết: mang tặng, biếu những gì TỐT ĐẸP, QUÝ BÁU: Mồng một
TẾT Cha, mồng ba TẾT Thầy.
Năm
động từ (có những Ý ĐẸP vừa nêu) cho chúng ta MỸ từ
TẾT viết hoa vì đó là danh từ RIÊNG của người Việt,
rồi hai chữ TẾT NHẤT (NHỨT) là TẾT trên HẾT! (TÊT
avant TOUT; TET above ALL!) Vui như TẾT! Năm HẾT, TẾT đến!
Câu ca dao sau đây chứng tỏ chữ TẾT có từ ngàn xưa:
''TẾT Trần, TẾT Lý, TẾT Lê...! TRĂM NGÀN cái TẾT, ai
chê TẾT nào!''
VI-
Lời kết
Bác
sĩ Motta phát biểu: ''Yêu tiếng Mẹ Đẻ là BỔN PHẬN
của mình. THỜ Ơ với tiếng Mẹ Đẻ là dấu chỉ SUY
THOÁI về luân lý.'' Còn De Amicis thì cho rằng NẮM VỮNG
tiếng Mẹ Đẻ là CÓ trong tay chìa khóa MỞ các cửa NHÀ
TÙ.
Ước
gì con cháu VIỆT BÀO ''biết'' yêu tiếng Việt HƠN tất
cả các tiếng KHÁC và noi gương của gia đình này: Xúc
động clip "Ý nghĩa chữ Tết" | soha.vn
Đức
Quốc, Mồng hai TẾT TA (01.02.2014)
Phan
văn Phước
Xin
mời nghe hơn TRĂM lần chữ TẾT đậm đà trên môi xinh:
Ngày
TẾT quê em Tam ca Áo Trắng.
LINKS
bài viết:
BS. Nguyễn Hy
Vọng |
Tết không phải do
chữ Tiết ? của Tàu mà ra.
Tết là tên riêng
[nom propre] gọi ngày lễ mừng đầu năm mới của rất nhiều dân tộc và
sắc dân ở khắp miền đông nam Á, còn tiết chỉ là một tên thường
[nom commun] của Tàu gọi những thời tiết thay đổi trong một
năm.
Chỉ có người Việt gọi là
Tết, trong khi cả ngàn triệu nguời Tàu gọi ngày đó là duỳn tản ?
? [nguyên đán] hay là xin nển ? ? [tân niên]. Vậy tại sao họ không
gọi là Tết ? vì Tết không phải là tiếng của họ.
Giờ ta hãy trở lại với cái
tên gọi là Tết.
Cách hợp lý để tìm cho ra
nguồn gốc của chữ Tết và ý nghĩa của chữ ấy là đi tìm trong tất cả các
ngôn ngữ khác nhau ở miền nam Á châu, xem thử có ngôn ngữ nào ,cũng có cái tên
là tết và cũng có cái cách phát âm, cách đọc, cách nói và cũng có cái
nghĩa là ngày lễ ăn mừng đầu năm không ? Dù cho tiếng ấy không phải là tiếng
Việt hay là tiếng Tàu.
Nếu không có thì đành vậy
chứ sao ! Vậy mà có đấy mà lại có rất nhiều và rất giống nhau gần y hệt, các bạn
ơi !
Thật ra từ khi con nguời xưa
ở miền rộng lớn Đông nam Á biết đuợc là cứ đều đều mỗi năm thì mùa gió đổi chiều
và đem lại mùa mưa khoảng tháng tư tháng năm, tùy theo từng vùng gió mùa, trước
hết là từ bờ biển phía tây của lục địa Ấn độ, rồi chuyển dần qua ngang vùng đất
Ấn độ rồi tiếp tục lan qua phía đông đến lần lượt các xứ Bangladesh, Assam, qua
Miến điện, Myanmar bây giờ rồi thổi qua Thái Lan, Lào mà đến Việt Nam, rồi tiếp
tục cùng lúc lên phía đông bắc là vùng Hoa Nam bên Tàu và xuống phía đông nam là
15 000 hòn đảo của Indonesia.
Cách đây cả chục ngàn năm,
con nguời ở cái vùng gió mùa mênh mộng ấy đã gọi tên là Tết cho cái hiện
tuợng trời đất gặp nhau qua mùa qua gió này và họ ăn mừng cái lúc giao mùa đó
bằng cái tên là Tết, vì ai mà chẳng biết là không có mùa mưa đến thì kể
như không trồng trọt gì được, huống chi là là trồng lúa.
Đông nam Á là vùng của gió
mùa mưa, mùa của mấy chục triệu con trâu, của mấy trăm triệu con nguời sống với
cây lúa, nơi mà những hạt lúa oriza sativa đã đựợc tìm ra từ 6000 năm
trước [tài liệu của ông William Solzheim, đại học Hawai].
Gió mùa và mưa mùa là
quyết định dứt khoát của đất trời cho con nguời ở Đông nam Á. Khi mưa gió
không thuận hoà thì hạn hán và đói kém sẽ bao trùm, cuồng phong và lụt lội sẽ
tàn phá hàng trăm ngàn mẫu ruộng lúa và giết hại hàng ngàn nguời. Nông nghiệp và
sự sống còn của hàng chục triệu nguời hoàn toàn tùy thuộc vào cái ân huệ vừa
phải của mùa mưa đến hàng năm trên cái phần đất mênh mông này
!
Gió mưa đầu mùa là hứa hẹn
của năm mới, của một đời sống mới, đuợc chờ đợi khoắc khoải và đón mừng hân
hoan, và triền miên có mặt trong mọi lãnh vực tin tuởng, huyền thoại hay tâm
linh, và cái thực tế của đời sống hàng ngày của nguời đi cày đi cấy, cũng gắn
liền với bao nhiêu cái tin tuờng đó.
Trên những trống đồng từ ba
ngàn năm trước, mấy con ếch, cóc nhái, ễnh ương ệnh oạng nằm chồng lên nhau, mỗi
góc trống ba con, như một ám ảnh không ngừng về mùa mưa, về ruộng đồng ao hồ
sông nuớc, về bất cứ mảnh đất nào mà cây lúa có thể mọc lên.
Biết bao nhiêu ca dao tục
ngữ, bài vè nói về mùa mưa, về lúa gạo về ếch nhái và về ngàyTết trong tiếng
Việt.
Ở xứ Nepal bên đông bắc Ấn
độ, ngày lễ đầu mùa mưa cũng gọi là Teetj ; trong mấy ngày đó, nguời dân
bản xứ ăn mừng, ca hát, nhảy múa, đánh đu, uống ruợu, tạt nuớc vào nhau để chúc
mừng, chúc lành cho nhau, chúc Teetj. Chung quanh xứ Nepal nhu ở
Sikkhim và Bhutan, dân ở đó cung gọi ngày đầu mùa mưa là
Tiitj.
Bên Miến điện và Thái lan
thì tha hồ xịt nuớc tạt nuớc nhau ướt mèm vào ngày đó.
Năm 1986 tôi qua học tiếng
Mon bên Thái lan, gặp ngày lễ Song khràn, ngày tết âm lịch cổ truyền
của dân Thái xưa, có nghĩa là giao mùa, trùng với mùa lễ Têj,
vào 13 đến 15 april của năm dương lịch, bị một cô nguời Thái ở đền Nakhon
Pathom lén bỏ một cục nước đá vào cổ áo sơmi của tôi nó lọt vào xuống lưng lạnh
ngắt, cô ấy cười xin lỗi và nói là muốn chúc tết bất ngờ cho tôi theo
kiểu tạt nuớc vào nhau của họ !
Người Lào Thái còn gọi ngày
ấy là wan pi may, ngày năm mới.
Người dân Kampuchia thì gọi
ngày đó là thngày chul thnăm chmây, ngày vào năm mới [trong lịch
cũ của họ thì họ gọi tháng giêng là khae Chêt, tháng
tết].
Người Chàm thì gọi
là bulan Chit, tháng tết.
Các dân tộc mạn ngược ngoài
Bắc Việt, cũng như nhiều dân tộc miền núi ở Trung Việt vẫn có ăn mừng hội mùa
mưa, hội ngày mùa còn lớn hon cả hội mùa xuân [theo tài liệu của ông Nguyễn văn
Huyên ; " Les chants alternés des garcons et des filles en Annam, 1934
".
Kể từ khi Tàu qua đô hộ Giao
Chỉ cách đây 2000 năm, thì người Giao Chỉ không còn ăn tết vào tháng tư
tháng năm của lịch Muờng xưa " lịch ngày lui tháng tới "
đó nữa mà ăn Tết theo lịch Tàu, mà lịch Tàu hồi xưa thì cũng " bất thùng chi
thình ", khi thì ngày đầu năm của Tàu rớt vào tháng chạp, khi thì nhằm vào tháng
giêng của họ, và sau nhiều thay đổi, mới gọi là ngày duỳn tán xin nển của
họ, chứ Tàu không gọi ngày đầu năm của họ là tiết nhật [sic]bao giờ
cả.
Chỉ có vài ông hán việt "
chợ chiều " khư khư cố mà tìm cho ra đuợc một cái âm huởng tàu cho cái
tiếng Tết, nên cố tình guợng gạo mà ép cho nó là tiết , cũng như họ đã
giải thích kiểu " tầm phào " là Giao Chỉ là ngón chân giao
nhau, thật là nói tàm bậy !.
Lạc là chim lạc, ghe
chài là ghe tải ! xem Lê ngọc Trụ [trời đất !].
Sau đây là những
cognates, từ đồng nguyên, khắp Đông Nam Á, dính líu với
TẾT. |
Al de Rhodes: | Tết Tết năm [sic], Tết ai, ăn Tết. |
Từ Điển Khai Trí Tiến Đức : | không hề cho rằng Tết là tiết của Tàu. |
Nùng: | Tết. niên Tết là năm Tết. |
Muờng: | Thết ăn Thết là ăn Tết |
Thái : | Thêts Lễ
mừng năm mới [New Year celebration]. Thêts khal là Mùa Tết, những ngày Tết. Thêts Thày là Tết Thái [Thai New Year's celebration]. Thrếts là Tết [theo Từ Điển Francais-Thái của Pallegoix]. Thrếts Chìn là Tết Tàu / Chinese New Year [Chìn là Tàu]. Chêtr là Tết của Thái [fifth lunar month / mid April festival]. Tết / Đết là tên ông thần mưa [rain god, monsoon deity]. Trôts là lễ hội Thái từ xưa vào đầu mùa mưa, cuối April-May. Trốts Farăng là Tết Hoa-Lang [Western New Year's Day]. [xem bài "Hoa lang đạo là đạo gì?" Bs Nguyễn Hy Vọng [Hoa Lang là: Occident, West]. |
Zhuang: | Xit / Sit
làlễ Tết của 20 triệu người Zhuang bên Quảng Tây, nói tiếng Tai, tiếng Thái xưa ! đuon Sít là tháng Tết [mois de festival célébrant la mousson]. [đươn là tháng] |
Chàm: | Tít là
lễ tháng năm của lịch xưa Chàm [tháng gió mùa bắt đầu thổi]
băng Tít là ăn Tết. Chêt là Tết. bu-lăn Chêt là tháng Tết [bu lăn là tháng, tiếng Chàm]. Ktêh là lễ hội lớn nhất trong năm của nguời Chàm. |
Mon: | Kteh là
Ngày đầu năm của dân tộc Mon ở Myannar. o-Teh là lễ hội lội bùn đầu năm. o-Tet id k-Tât l à nghi lễ đầu năm. k-Tet id |
Khmer: | Chêtr
làTết, lễ mừng tháng năm theo cổ lịch Khmer, là tháng gió mùa bắt đầu thổi
ngược lại, tháng của mùa gió nồm ở Đông Nam Á. [tùy theo nơi, từ cuối tháng tư
đến cuối tháng năm]. khae Chêtr là tháng Tết [khae là tháng] khoảng 13 tháng 4 dương lịch, khoảng 23 tháng ba âm lịch. Chêtr khal là thời gian có lễ Tết [khal là thời gian]. |
India: | Chêtr là tên tháng tư và tháng năm của cổ lịch Ấn Độ, tên của tháng giao mùa đem mưa đến. [mois du début de la mousson]. |
Nepal: | Teej là lễ đầu năm của dân xứ Nepal. |
Mustang: | Tidj / Tidji là lễ đầu năm của xứ Mustang, bên cạnh xứ Nepal. Miền đông bắc Ấn Độ. |
Munda: | Teej là lễ hội Gió Mùa, các nữ sinh ca hát những bài hát cổ Teej, để đánh dấu Gió Mùa trở lại và sự hứa hẹn thịnh vượng.[National Geographic magazine]. |
Kinh Lễ Ký: | Tế-Sạ ! 祭 蜡[âm Hán Việt là Tế Chá]. Khổng Tử nói [trong kinh Lễ Ký]: " Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn người Man, họ nhảy múa như điên, uống ruợu và ăn chơi vào những ngày đó. Họ gọi tên cho ngày đó là "TẾ SẠ". ". |
Khổng Tử không nghĩ rằng "
tiết " là cái âm sinh ra Tết, nên ổng mới phiên âm khác đi là
Tế-Sạ. Hơn nữa, xem trên, có cả chục ngôn ngữ và nền văn hóa khác với
Tàu. Ăn mừng ngày đầu năm của họ mà vẫn mang những cái tên mà ý nghĩa, phát âm,
cùng cách nói và cách đọc đều giống với cái âm, cái tên, cái tiếng Tết
của dân Giao Chỉ và của dân Mường, nên ta phải " suy nghĩ lại " về cái hiểu lầm
Tết là Tiết của các ông " Hán Việt " hơn mấy trăm năm
qua.
Như vậy, tết là tên
gọi cái ngày ăn mừng đầu mùa mưa và sau này trở thành ngày ăn mừng đầu
năm âm lịch luôn của các dân Mường, Nùng, Thái, Zhuang, Chàm, Mon, Khmer,
Vùng đông bắc Ấn độ, Nepal. Mustang, Munda.
Hỏi nhỏ bạn, bạn có còn
cho rằng Tết là Tiết của Tàu mà ra không ?
|
Tài liệu tham khảo
:
Ancient China, Howard
Edward H. Shafer / Time Life, New York. Ancient China, Maurizio Scarpari / Barnes Noble, Italy. Thai Dictionary, Mary Haaj / Stanford, CA, 1964. The languages of China before the Chinese, Terrien de Lacouperie / London 1887, Taipei, 1966. A dictionary of the Mon inscriptions, HL Shorto, London, 1971. Studies in Munda linguistics, Sudhibushan Batacharya / Simla, Calcutta, 1975. Lao English dictionary, Russell Marcus / Japan, 1975. Dictionary Lingua Thai, Pellegoix PL 4186 PS 1854 a 1972. English Hmong dictionary, Lang siong & Joua Siong, Nao Leng Siong PL 4072 4X, 1984. Introduction to Sino Tibetan [Shafer 1966 - Wiesbaden germany PL 3521,S. A grammar of the Khasi language [rev H. Roberts / London- Kegan Paul Trench Hubner and CoLTD, Pater Noster House, Charing Cross Rd, 1891. Excerpts from Brittanica, 1999. HP chuyển |
__._,_.___
Bàn ra tán vào (0)
Chữ TẾT trong Tiếng Mẹ Đẻ tạo âm hưởng và gợi hình
Sau bao nhiêu năm ''ăn TẾT'' ở trong và ngoài Nước, ước mong tìm cho ra ý nghĩa đích thực của chữ TẾT, đọc quá nhiều tài liệu về ''mỹ từ ấy'', tôi KHÔNG đồng ý với
Sau bao nhiêu năm ''ăn TẾT'' ở trong và ngoài Nước, ước mong tìm cho ra ý nghĩa đích thực của chữ TẾT, đọc quá nhiều tài liệu về ''mỹ từ ấy'', tôi KHÔNG đồng ý với ''lập luận'' rằng chữ TẾT là do chữ TIẾT (節) của Hán tự.
I-
Bằng chứng người Việt phát âm chữ 節
A-
TIẾT chứ không phải TẾT
Chữ
TIẾT (節)
có rất nhiều nghĩa, chẳng hạn: thời tiết; tiết học
trong lớp... Người Việt mình ở cả ba miền KHÔNG hề
phát âm NGỌNG chữ TIẾT thành TẾT!!! Xin dẫn chứng cách
Đồng Bào đọc (nói), viết như sau: TIẾT dục (節欲);
TIẾT hạnh (節行);
TIẾT mục (節目);
TIẾT nghĩa (節義);
TIẾT tháo (節操):
giữ khí TIẾT (氣節);
TIẾT trinh (節貞);
chi TIẾT (支 節);
âm TIẾT (音節);
TIẾT tấu (節奏);
TIẾT phụ (節婦);
TIẾTdụng (節用);
TIẾT kiệm (節儉);
thủ TIẾT (守節)...
Ngoài
ra, người Hoa (Tàu) không dùng chữ 節(tiết)
để chỉ Năm Mới, mà chữ
''duỳn
tản''
(nguyên
đán) hay là ''xin
nển''
(tân niên) và
thậm chí cả Khổng Tử cũng chẳng biết chữ TẾT của
người Việt do đâu nên ông tự gọi ''nó'' bằng cái tên
là TẾ
SẠ
như
Bác sĩ Nguyễn Hy Vọng và nhiều học giả khác chứng
minh.
B-
Ý nghĩa của chữ TIẾT hậu: 節候
Theo
nhà làm lịch, NĂM NGÀY (five days) được gọi là MỘT HẬU
và BA HẬU là MỘT KHÍ TIẾT. Như vậy, căn cứ vào A và
B (I), mỹ từ TẾT của Tổ Tiên mình KHÔNG phải là cách
biến âm (évolution phonétique) của chữ TIẾT như hầu hết
người Việt ngộ nhận. KHÔNG phải bất cứ ai thông thạo
viết, nói, dịch, dạy tiếng Mẹ Đẻ đều biết rành
nguồn gốc của TẤT CẢ các từ trong tiếng ấy. Tôi hỏi
anh kia dạy Nga văn (ở Đại Học) chữ ''phanh xe đạp''
do đâu; anh ấy nói anh không biết. Thật thà như thế thì
dễ được người khác mến. Hầu như ai cũng biết chữ
FAX; có người chỉ biết chữ ấy do đâu, chứ chẳng
giải thích được tại sao (nó) có mẫu tự X!!!
II-
Hàn Lâm Viện Pháp định nghĩa chữ TÊT
Cuốn
Larousse (Dictionnaire Encyclopédique trước đây và sau này)
định nghĩa chữ TÊT như sau: ''Ngày đầu năm theo lịch
mặt trăng (âm lịch) CỦA Việt Nam tạo lý do cho những
buổi liên hoan, hội hè (của Lễ Tết) giữa 20 tháng một
và 19 tháng hai.'' (Têt: Premier jour de l'année du calendrier
lunaire vietnamien, donnant lieu à des festivités (fête du
Têt) entre le 20 janvier et le 19 février.)
Theo
nguyên tắc, vì chủ trương: ''Điều gì không rõ ràng là
không phải của Pháp, của tiếng Pháp. Ce qui n'est pas
clair n'est pas français.'', trong tự điển (trừ loại bỏ
túi), người Pháp luôn ghi cách phát âm từng chữ và
NGUỒN GỐC của nó, chẳng hạn: Têt [tɛ]
n.m (lat. testum, vase en terre)
và cho định nghĩa là ''cái bình bằng đất ở phòng thí
nghiệm...'' Trong khi đó, chữ Têt, đọc là: [tɛt]
thì KHÔNG có gốc ''chinois, chinese'', mà là CỦA Việt Nam,
khác với chữ TÊT kia do chữ Latin! (Xin tìm chữ ''pékiné,
pékinois'' thì sẽ thấy: ''de Pékin''
rõ ràng!)
Đáng
tiếc rằng, ở trên mạng và trong một số tài liệu bằng
tiếng Anh, Pháp, Đức..., nhiều người bản xứ, kể cả
không ít VIỆT BÀO, cũng KHẲNG ĐỊNH chữ TẾT do TIẾT
mà ra. Vậy thì tại sao mình viết, nói ''TIẾT canh
vịt, thọc TIẾT'', mà KHÔNG phải: TẾT canh
vịt, thọc TẾT? Xin Bà Con vui lòng ĐỪNG VÔ TÌNH
tạo cớ cho người ngoài LÀM HƯ chữ TẾT quá thiêng
liêng của Tổ Tiên!
III-
TẾT TA, TẾT DÂN TỘC, TẾT (CỔ TRUYỀN) VIỆT NAM
Các
chữ vừa nêu diễn tả ''HỒN VIỆT, TINH HOA VIỆT, VĂN
HÓA VIỆT thuần túy'' đã, đang và sẽ còn ĐI VÀO mọi
lãnh vực VĂN HÓA (INCULTURATION) của VIỆT BÀO. Tôi chợt
nhớ đến đoạn mà Thầy-Cô-năm-xưa cho trò ''học thuộc
lòng để trả bài'' ở lớp Đệ Ngũ Trung Học:
''Giọng
Hàn Thuyên! Hồn Đại Việt! Hai câu ấy thực là gồm cả
cái
lòng hy vọng tối thiết
của bọn ta. Than
ôi, vì sao mà ta khắc
khoải trong lòng, ta băn khoăn trong dạ,
vì sao mà ta mong
mỏi, mà trữ thương?
Chẳng phải là từ xưa đến nay ta chưa từng được đem
cái giọng Hàn Thuyên này mà
diễn
cái
hồn Đại Việt kia ư?
Cùng một tiếng khóc, cùng một giọng cười, mà sao giọng
cười, tiếng khóc bằng cái lời họ Hàn kia nó
cảm ta như thế?
Là bởi trời
sinh ra ta để nói cái lời ấy, trời sinh ra cái lời ấy
để ta nói, ta nói bằng lời ấy, mới nói được lòng
ta, nói bằng lời khác là nói những sự không thực cả.
Trong trời đất chỉ
có lời ấy với ta, ta với lời ấy là có cái duyên nợ
ba sinh vậy...
Dù ta học chữ Tây
hay chữ Tàu,
ta cũng chớ
nên quên
tiếng
Tổ Quốc là cái tiếng từ khi lọt lòng ta đã học nói,
và đến khi hấp hối chết cũng còn nói.
Ta nên nhớ câu ca dao của nước nhà: ''Ta về ta tắm ao
ta, dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn!... Nhiễu điều phủ
lấy giá gương, Tiếng
của Tổ Quốc thời thương lấy cùng!''
Vậy,
tôi CŨNG mong các KỸ-SƯ-TÂM-HỒN-hôm-nay ĐỪNG cho tuổi
thơ THẤM VÀO ĐẦU ''cái'' nguồn gốc KHÔNG ĐÚNG của
chữ TẾT!
IV-
''Âm hưởng'' và cách ''gợi hình'' của tiếng Mẹ
Đẻ
A-
Người Pháp nhận xét về tiếng Việt
Đã
đi khắp nơi, so sánh ''âm tiếng Việt'' với ''âm các
tiếng khác'', người Pháp nói chung, nhất là các nhà
''ngôn ngữ và ngữ âm học'' nhận xét thế này: ''Người
Việt nói NHƯ CHIM HÓT!''
Ngồi
với bạn người Pháp, khi trao đổi về tiếng Việt, tôi
nói: Một trong những đặc điểm của chữ Hán là ''tượng
thanh'', nhất là ''tượng hình'', ví dụ chữ MẪU母có
hình hai bầu sữa. Trong khi đó, chữ MẸ, MÁ, MẠ, (hay
MẪU đi nữa) thì GỢI HÌNH (khác với ''tượng hình''),
lại có ÂM HƯỞNG sâu xa như lời nhạc của Y Vân về
người Mẹ: ''thấm vào lòng con; chan chứa trên bao xóm
làng gần xa!''
Thật
vậy, hình ảnh của MẸ trong ngày TẾT thiêng liêng cũng
để lại ''âm hưởng'' trong tôi qua bài thơ NHỚ XUÂN có
bốn câu này: Vườn
xuân rộn tiếng chim ca - Cõi lòng của mẹ bao la, nặng
sầu... Con đi biền biệt đã lâu – Không còn giúp Mẹ
têm trầu như xưa...
B-
Âm trong tiếng Mẹ Đẻ
1-
Âm ẾT, ỆT
Trong
tiếng Việt, (kể cả những ''chữ gốc Hán'' được
người mình đọc cách khác, ÊM NHẸ và HAY hơn), âm ẾT,
ỆT diễn tả ''mức độ'' nhiều hay ít, tốt hay xấu.
Ví
dụ: hết
ý; hết
sẩy; thương con hết
mực; quần
áo ướt dính bết
vào da; làm ăn bết;
ngồi bệt;
máy chết
giữa đường; làm ăn thế thì chết;
chết
mê, chết
mệt;
chết
rấp cho hết;
hết
hồn; hết
chỗ nói; hết
nước rồi; hết
thảy; giống hệt;
nhựa cây kết
đặc; kết
đọng; kết
tóc; kết
tủa; kéo
lết;
bò lết;
lết
vô hòm; quần dài lết
bết;
làm ăn lết
bết;
dài lệt
bệt;
dệt
mộng; dệt
lụa;
tiếng dép lệt
sệt
(xệt)
ngoài sân; mê mệt;
mệt
cái đầu; mất nết;
nết
na; phết
mấy roi; phết
hồ; phết
sơn; sền sệt;
trết
dầu; thấp trệt;
dấu vết;
vết
thương lòng; vết
tích; vệt
đèn pha...
2-
Âm ÉT, ẸT
Ví
dụ: quét nhà; cái quẹt lửa; càn quét; quần áo (mùa)
rét; đất sét; lưỡi cuốc bị sét; sét đánh; vơ vét
làm thét rồi quen; thét lên; thét (nung) vàng, bạc; mũi
tẹt; xem xét; xét nét; xét soi; chẹt cứng; dài, tròn, mà
dẹt ở phần đuôi; người khô đét như gỗ; đét roi vào
lưng; ăn gì cũng đẹt; kỳ cho sạch ghét; trâu buộc ghét
trâu ăn; hét vào tai; máu khô két! Áo két dầu mỡ! Súng
kẹt đạn. kẹt cho mầy; khét tiếng; cơm khét; khét lẹt;
con két; con vẹt; học hành lẹt đẹt nên thi rớt; lẹt
đẹt theo mẹ; sợ tái mét; nẹt cho mấy roi; bị mẹ nẹt
cho một trận; âm thanh nghe nét; nét ngài nở nang; nhét
đầy túi; vét sạch túi; phét lác; nói phét...
V-
Nguồn gốc của chữ TẾT
Ngôn
ngữ là phương tiện mà loài người sử dụng để thông
tri cho nhau ý tưởng của mình. Với thời gian, do các hình
thức sinh hoạt, lễ hội ăn mừng, nhiều chữ xuất hiện
trong Kho Tàng tiếng Việt Cổ. Theo thiển ý của tôi,
(ngoài những khám phá lý thú trong bài ''Tết là gì?'' mà
tôi sẽ mời bà con vào đọc), chữ TẾT (có âm ẾT) CŨNG
do những từ ''tạo âm hưởng'' và ''gợi hình'' sau đây:
1-
tét: cắt bánh bằng sợi dây nhỏ vòng qua nó, rồi kéo
dây từ từ để có từng khoanh bánh ''rơi'' NHẸ, nằm
XINH XẮN trên dĩa.
2-
tết: đan, thắt nhiều sợi dây thành túi (đựng đồ ăn,
đồ dùng) trông ĐẸP mắt.
3-
tết: bện, quấn bằng rơm hay dây DÍNH CHẶT, thật KHÉO
vào cái gì; gói, bọc KỸ thịt, cá bằng lá dừa, lá
chuối, lá tranh, chẳng hạn: tré Huế.
4-
tết: bím tóc, chẳng hạn: tóc TẾT bím trông THẬT DỄ
THƯƠNG.
5-
tết: mang tặng, biếu những gì TỐT ĐẸP, QUÝ BÁU: Mồng một
TẾT Cha, mồng ba TẾT Thầy.
Năm
động từ (có những Ý ĐẸP vừa nêu) cho chúng ta MỸ từ
TẾT viết hoa vì đó là danh từ RIÊNG của người Việt,
rồi hai chữ TẾT NHẤT (NHỨT) là TẾT trên HẾT! (TÊT
avant TOUT; TET above ALL!) Vui như TẾT! Năm HẾT, TẾT đến!
Câu ca dao sau đây chứng tỏ chữ TẾT có từ ngàn xưa:
''TẾT Trần, TẾT Lý, TẾT Lê...! TRĂM NGÀN cái TẾT, ai
chê TẾT nào!''
VI-
Lời kết
Bác
sĩ Motta phát biểu: ''Yêu tiếng Mẹ Đẻ là BỔN PHẬN
của mình. THỜ Ơ với tiếng Mẹ Đẻ là dấu chỉ SUY
THOÁI về luân lý.'' Còn De Amicis thì cho rằng NẮM VỮNG
tiếng Mẹ Đẻ là CÓ trong tay chìa khóa MỞ các cửa NHÀ
TÙ.
Ước
gì con cháu VIỆT BÀO ''biết'' yêu tiếng Việt HƠN tất
cả các tiếng KHÁC và noi gương của gia đình này: Xúc
động clip "Ý nghĩa chữ Tết" | soha.vn
Đức
Quốc, Mồng hai TẾT TA (01.02.2014)
Phan
văn Phước
Xin
mời nghe hơn TRĂM lần chữ TẾT đậm đà trên môi xinh:
Ngày
TẾT quê em Tam ca Áo Trắng.
LINKS
bài viết:
BS. Nguyễn Hy
Vọng |
Tết không phải do
chữ Tiết ? của Tàu mà ra.
Tết là tên riêng
[nom propre] gọi ngày lễ mừng đầu năm mới của rất nhiều dân tộc và
sắc dân ở khắp miền đông nam Á, còn tiết chỉ là một tên thường
[nom commun] của Tàu gọi những thời tiết thay đổi trong một
năm.
Chỉ có người Việt gọi là
Tết, trong khi cả ngàn triệu nguời Tàu gọi ngày đó là duỳn tản ?
? [nguyên đán] hay là xin nển ? ? [tân niên]. Vậy tại sao họ không
gọi là Tết ? vì Tết không phải là tiếng của họ.
Giờ ta hãy trở lại với cái
tên gọi là Tết.
Cách hợp lý để tìm cho ra
nguồn gốc của chữ Tết và ý nghĩa của chữ ấy là đi tìm trong tất cả các
ngôn ngữ khác nhau ở miền nam Á châu, xem thử có ngôn ngữ nào ,cũng có cái tên
là tết và cũng có cái cách phát âm, cách đọc, cách nói và cũng có cái
nghĩa là ngày lễ ăn mừng đầu năm không ? Dù cho tiếng ấy không phải là tiếng
Việt hay là tiếng Tàu.
Nếu không có thì đành vậy
chứ sao ! Vậy mà có đấy mà lại có rất nhiều và rất giống nhau gần y hệt, các bạn
ơi !
Thật ra từ khi con nguời xưa
ở miền rộng lớn Đông nam Á biết đuợc là cứ đều đều mỗi năm thì mùa gió đổi chiều
và đem lại mùa mưa khoảng tháng tư tháng năm, tùy theo từng vùng gió mùa, trước
hết là từ bờ biển phía tây của lục địa Ấn độ, rồi chuyển dần qua ngang vùng đất
Ấn độ rồi tiếp tục lan qua phía đông đến lần lượt các xứ Bangladesh, Assam, qua
Miến điện, Myanmar bây giờ rồi thổi qua Thái Lan, Lào mà đến Việt Nam, rồi tiếp
tục cùng lúc lên phía đông bắc là vùng Hoa Nam bên Tàu và xuống phía đông nam là
15 000 hòn đảo của Indonesia.
Cách đây cả chục ngàn năm,
con nguời ở cái vùng gió mùa mênh mộng ấy đã gọi tên là Tết cho cái hiện
tuợng trời đất gặp nhau qua mùa qua gió này và họ ăn mừng cái lúc giao mùa đó
bằng cái tên là Tết, vì ai mà chẳng biết là không có mùa mưa đến thì kể
như không trồng trọt gì được, huống chi là là trồng lúa.
Đông nam Á là vùng của gió
mùa mưa, mùa của mấy chục triệu con trâu, của mấy trăm triệu con nguời sống với
cây lúa, nơi mà những hạt lúa oriza sativa đã đựợc tìm ra từ 6000 năm
trước [tài liệu của ông William Solzheim, đại học Hawai].
Gió mùa và mưa mùa là
quyết định dứt khoát của đất trời cho con nguời ở Đông nam Á. Khi mưa gió
không thuận hoà thì hạn hán và đói kém sẽ bao trùm, cuồng phong và lụt lội sẽ
tàn phá hàng trăm ngàn mẫu ruộng lúa và giết hại hàng ngàn nguời. Nông nghiệp và
sự sống còn của hàng chục triệu nguời hoàn toàn tùy thuộc vào cái ân huệ vừa
phải của mùa mưa đến hàng năm trên cái phần đất mênh mông này
!
Gió mưa đầu mùa là hứa hẹn
của năm mới, của một đời sống mới, đuợc chờ đợi khoắc khoải và đón mừng hân
hoan, và triền miên có mặt trong mọi lãnh vực tin tuởng, huyền thoại hay tâm
linh, và cái thực tế của đời sống hàng ngày của nguời đi cày đi cấy, cũng gắn
liền với bao nhiêu cái tin tuờng đó.
Trên những trống đồng từ ba
ngàn năm trước, mấy con ếch, cóc nhái, ễnh ương ệnh oạng nằm chồng lên nhau, mỗi
góc trống ba con, như một ám ảnh không ngừng về mùa mưa, về ruộng đồng ao hồ
sông nuớc, về bất cứ mảnh đất nào mà cây lúa có thể mọc lên.
Biết bao nhiêu ca dao tục
ngữ, bài vè nói về mùa mưa, về lúa gạo về ếch nhái và về ngàyTết trong tiếng
Việt.
Ở xứ Nepal bên đông bắc Ấn
độ, ngày lễ đầu mùa mưa cũng gọi là Teetj ; trong mấy ngày đó, nguời dân
bản xứ ăn mừng, ca hát, nhảy múa, đánh đu, uống ruợu, tạt nuớc vào nhau để chúc
mừng, chúc lành cho nhau, chúc Teetj. Chung quanh xứ Nepal nhu ở
Sikkhim và Bhutan, dân ở đó cung gọi ngày đầu mùa mưa là
Tiitj.
Bên Miến điện và Thái lan
thì tha hồ xịt nuớc tạt nuớc nhau ướt mèm vào ngày đó.
Năm 1986 tôi qua học tiếng
Mon bên Thái lan, gặp ngày lễ Song khràn, ngày tết âm lịch cổ truyền
của dân Thái xưa, có nghĩa là giao mùa, trùng với mùa lễ Têj,
vào 13 đến 15 april của năm dương lịch, bị một cô nguời Thái ở đền Nakhon
Pathom lén bỏ một cục nước đá vào cổ áo sơmi của tôi nó lọt vào xuống lưng lạnh
ngắt, cô ấy cười xin lỗi và nói là muốn chúc tết bất ngờ cho tôi theo
kiểu tạt nuớc vào nhau của họ !
Người Lào Thái còn gọi ngày
ấy là wan pi may, ngày năm mới.
Người dân Kampuchia thì gọi
ngày đó là thngày chul thnăm chmây, ngày vào năm mới [trong lịch
cũ của họ thì họ gọi tháng giêng là khae Chêt, tháng
tết].
Người Chàm thì gọi
là bulan Chit, tháng tết.
Các dân tộc mạn ngược ngoài
Bắc Việt, cũng như nhiều dân tộc miền núi ở Trung Việt vẫn có ăn mừng hội mùa
mưa, hội ngày mùa còn lớn hon cả hội mùa xuân [theo tài liệu của ông Nguyễn văn
Huyên ; " Les chants alternés des garcons et des filles en Annam, 1934
".
Kể từ khi Tàu qua đô hộ Giao
Chỉ cách đây 2000 năm, thì người Giao Chỉ không còn ăn tết vào tháng tư
tháng năm của lịch Muờng xưa " lịch ngày lui tháng tới "
đó nữa mà ăn Tết theo lịch Tàu, mà lịch Tàu hồi xưa thì cũng " bất thùng chi
thình ", khi thì ngày đầu năm của Tàu rớt vào tháng chạp, khi thì nhằm vào tháng
giêng của họ, và sau nhiều thay đổi, mới gọi là ngày duỳn tán xin nển của
họ, chứ Tàu không gọi ngày đầu năm của họ là tiết nhật [sic]bao giờ
cả.
Chỉ có vài ông hán việt "
chợ chiều " khư khư cố mà tìm cho ra đuợc một cái âm huởng tàu cho cái
tiếng Tết, nên cố tình guợng gạo mà ép cho nó là tiết , cũng như họ đã
giải thích kiểu " tầm phào " là Giao Chỉ là ngón chân giao
nhau, thật là nói tàm bậy !.
Lạc là chim lạc, ghe
chài là ghe tải ! xem Lê ngọc Trụ [trời đất !].
Sau đây là những
cognates, từ đồng nguyên, khắp Đông Nam Á, dính líu với
TẾT. |
Al de Rhodes: | Tết Tết năm [sic], Tết ai, ăn Tết. |
Từ Điển Khai Trí Tiến Đức : | không hề cho rằng Tết là tiết của Tàu. |
Nùng: | Tết. niên Tết là năm Tết. |
Muờng: | Thết ăn Thết là ăn Tết |
Thái : | Thêts Lễ
mừng năm mới [New Year celebration]. Thêts khal là Mùa Tết, những ngày Tết. Thêts Thày là Tết Thái [Thai New Year's celebration]. Thrếts là Tết [theo Từ Điển Francais-Thái của Pallegoix]. Thrếts Chìn là Tết Tàu / Chinese New Year [Chìn là Tàu]. Chêtr là Tết của Thái [fifth lunar month / mid April festival]. Tết / Đết là tên ông thần mưa [rain god, monsoon deity]. Trôts là lễ hội Thái từ xưa vào đầu mùa mưa, cuối April-May. Trốts Farăng là Tết Hoa-Lang [Western New Year's Day]. [xem bài "Hoa lang đạo là đạo gì?" Bs Nguyễn Hy Vọng [Hoa Lang là: Occident, West]. |
Zhuang: | Xit / Sit
làlễ Tết của 20 triệu người Zhuang bên Quảng Tây, nói tiếng Tai, tiếng Thái xưa ! đuon Sít là tháng Tết [mois de festival célébrant la mousson]. [đươn là tháng] |
Chàm: | Tít là
lễ tháng năm của lịch xưa Chàm [tháng gió mùa bắt đầu thổi]
băng Tít là ăn Tết. Chêt là Tết. bu-lăn Chêt là tháng Tết [bu lăn là tháng, tiếng Chàm]. Ktêh là lễ hội lớn nhất trong năm của nguời Chàm. |
Mon: | Kteh là
Ngày đầu năm của dân tộc Mon ở Myannar. o-Teh là lễ hội lội bùn đầu năm. o-Tet id k-Tât l à nghi lễ đầu năm. k-Tet id |
Khmer: | Chêtr
làTết, lễ mừng tháng năm theo cổ lịch Khmer, là tháng gió mùa bắt đầu thổi
ngược lại, tháng của mùa gió nồm ở Đông Nam Á. [tùy theo nơi, từ cuối tháng tư
đến cuối tháng năm]. khae Chêtr là tháng Tết [khae là tháng] khoảng 13 tháng 4 dương lịch, khoảng 23 tháng ba âm lịch. Chêtr khal là thời gian có lễ Tết [khal là thời gian]. |
India: | Chêtr là tên tháng tư và tháng năm của cổ lịch Ấn Độ, tên của tháng giao mùa đem mưa đến. [mois du début de la mousson]. |
Nepal: | Teej là lễ đầu năm của dân xứ Nepal. |
Mustang: | Tidj / Tidji là lễ đầu năm của xứ Mustang, bên cạnh xứ Nepal. Miền đông bắc Ấn Độ. |
Munda: | Teej là lễ hội Gió Mùa, các nữ sinh ca hát những bài hát cổ Teej, để đánh dấu Gió Mùa trở lại và sự hứa hẹn thịnh vượng.[National Geographic magazine]. |
Kinh Lễ Ký: | Tế-Sạ ! 祭 蜡[âm Hán Việt là Tế Chá]. Khổng Tử nói [trong kinh Lễ Ký]: " Ta không biết Tết là gì, nghe đâu đó là tên của một ngày lễ hội lớn của bọn người Man, họ nhảy múa như điên, uống ruợu và ăn chơi vào những ngày đó. Họ gọi tên cho ngày đó là "TẾ SẠ". ". |
Khổng Tử không nghĩ rằng "
tiết " là cái âm sinh ra Tết, nên ổng mới phiên âm khác đi là
Tế-Sạ. Hơn nữa, xem trên, có cả chục ngôn ngữ và nền văn hóa khác với
Tàu. Ăn mừng ngày đầu năm của họ mà vẫn mang những cái tên mà ý nghĩa, phát âm,
cùng cách nói và cách đọc đều giống với cái âm, cái tên, cái tiếng Tết
của dân Giao Chỉ và của dân Mường, nên ta phải " suy nghĩ lại " về cái hiểu lầm
Tết là Tiết của các ông " Hán Việt " hơn mấy trăm năm
qua.
Như vậy, tết là tên
gọi cái ngày ăn mừng đầu mùa mưa và sau này trở thành ngày ăn mừng đầu
năm âm lịch luôn của các dân Mường, Nùng, Thái, Zhuang, Chàm, Mon, Khmer,
Vùng đông bắc Ấn độ, Nepal. Mustang, Munda.
Hỏi nhỏ bạn, bạn có còn
cho rằng Tết là Tiết của Tàu mà ra không ?
|
Tài liệu tham khảo
:
Ancient China, Howard
Edward H. Shafer / Time Life, New York. Ancient China, Maurizio Scarpari / Barnes Noble, Italy. Thai Dictionary, Mary Haaj / Stanford, CA, 1964. The languages of China before the Chinese, Terrien de Lacouperie / London 1887, Taipei, 1966. A dictionary of the Mon inscriptions, HL Shorto, London, 1971. Studies in Munda linguistics, Sudhibushan Batacharya / Simla, Calcutta, 1975. Lao English dictionary, Russell Marcus / Japan, 1975. Dictionary Lingua Thai, Pellegoix PL 4186 PS 1854 a 1972. English Hmong dictionary, Lang siong & Joua Siong, Nao Leng Siong PL 4072 4X, 1984. Introduction to Sino Tibetan [Shafer 1966 - Wiesbaden germany PL 3521,S. A grammar of the Khasi language [rev H. Roberts / London- Kegan Paul Trench Hubner and CoLTD, Pater Noster House, Charing Cross Rd, 1891. Excerpts from Brittanica, 1999. HP chuyển |
__._,_.___