Cõi Người Ta
Chùm Khế Ngọt ! Một chuyện có thật - Sơn Tùng
                Trương Thế Phát là một thương gia trẻ ở kinh đô Thăng Long. Ông có tàu bè chở hàng đi buôn bán ờ trong và ngoài nước. Khi quân Pháp tiến đánh thành Hà Nội, 
            
                 
 
  
  
   
   
   
   
   
   
“Quê hương là chùm khế ngọt 
  
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
   
  
            
        
“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm Hè”
 
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm Hè”
Trương
 Thế Phát là một thương gia trẻ ở kinh đô Thăng Long. Ông có tàu bè chở 
hàng đi buôn bán ờ trong và ngoài nước. Khi quân Pháp tiến
 đánh thành Hà Nội, và chiếm Bắc Ninh, Thái Nguyên, ông lên tàu đem gia 
đình ra ngoại quốc. Sau bao ngày lênh đênh trên biển cả, gia đình ông 
đến Xiêm La (Thái Lan), rồi định cư tại đây. Nhờ có tàu bè, ông mang 
theo một mớ gia sản nên khi qua Xiêm ông đã có
 sẵn một gia tài. Với tài kinh doanh, ông đã gây dựng một sự nghiệp khá 
lớn, gồm các cửa tiệm kim hoàn, cửa tiệm vải vóc lụa là, và Trà thất Mây
 Tần.
 
Là
 một nhà kinh doanh, công việc bận rộn, nhưng òng luôn thương nhớ quê 
hương. Ông nhớ Hà Nội ba mươi sáu phố phường,
 với năm cửa Ô xưa. Ôi! Những cô gái hàng Đào, hàng Bạc... má đỏ, môi 
hồng, quần điều, áo lụa trắng, đeo xà tích bạc. Ông nhớ cốm Vòng, nhớ 
phở, nhớ xôi và bánh cuốn Hà Nội. Ông nhớ Hồ Gươm, hồ Tây, chùa Trấn 
Quốc, chùa Một Cột... Xiêm La có nhiều chùa lớn
 và nhiều lễ hội nhưng không đâu bằng hội chùa Hương... Ông nhớ những 
bài hát ru, những điệu quan họ. Xiêm La có nhiều trái cây nhưng không 
bằng nhãn, vải, cam, quít... Hà Nội. Ở Xiêm La ông có nhiều bạn mới, 
nhưng lòng ông vẫn nhớ nhung các bạn Hà Nội và những
 kỷ niệm thời ấu thơ. Nhất là buổi đầu, ngôn ngữ bất đồng, phong tục 
khác biệt làm cho ông chao đảo như con thuyền không lái.
 
Lúc
 bấy giờ nhiều người trong nước cũng bỏ nước ra đi. Họ ra đi mang theo 
một bầu nhiệt huyết, một lý tưởng cao siêu là khôi phục đất
 nước, giải phóng dân tộc. Có nhiều nhóm hoạt động. Họ từ trong nước ra.
 Họ cũng từ Trung Quốc, Nhật Bản sang Xiêm hoạt động. Họ ở lại Xiêm mà 
cũng có người đi qua, đi lại. Tuy là nhiều tổ chức khác nhau, tựu trong 
có hai nhóm. Một nhóm thuộc phe quốc gia,
 một phái thuộc phe quốc tế.
 
Trà
 thất Mây Tần do con trai của ông là Trương Thế Đạt trông coi, còn các 
tiệm khác thì do phu nhân, con trai thứ
 và các con gái ông quản lý. It lâu sau, Trương Thế Phát mất, cơ nghiệp 
truyền lại cho phu nhân và các con. Trương Thế Đạt tiếp tục kinh doanh 
Trà thất Mây Tần.
 
Trà
 thất Mây Tần ở thủ đô Bangkok là một nơi trai thanh gái lịch lui tới 
tấp nập. Không những người Xiêm La mà người Cao Miên, Lào, Trung
 Quốc, Ấn Độ đều thường xuyên tới uống trà, và thưởng thức ca vũ nhạc. 
Một hôm, có mấy người khách Á Đông tới trà thất Mây Tần uống trà, uống 
rưọu, Trương Thế Đạt nhận ra có một số khách là người Việt Nam. Ông bèn 
tới chào hỏi, mới biết họ quả là người Việt
 Nam. Nghe giọng nói của họ, ông nhận ra họ là người Bắc, người Trung, 
và người Nam. Ông hỏi thăm họ thì họ cho biết họ qua đây lập nghiệp. 
Trương Thế Đạt rất vui mừng khi gặp lại đồng bào Việt Nam. Tâm trạng hai
 bên thật vui vẻ như câu thơ “Thiên lý tha hương
 ngộ cố tri”. Họ hỏi ông tại sao đặt tên trà thất là Mây Tần. Ông nói 
ông rất yêu quê hương, lòng luôn nhớ băm sáu phố phường Hà Nội. “Hồn quê
 theo ngọn Mây Tần xa xa”.
 
Dần
 dần, hai bên quen nhau, Trương Thế Đạt mời họ về nhà chơi. Kể từ đó hai
 bên liên lạc thân mật. Sau một thời gian,
 khách hiểu rõ gia đình Trương là một gia đình yêu nước, vì không cam 
tâm làm tôi tớ bọn ngoại xâm mà bỏ nước ra đi. Vì quen thân, họ cũng cho
 biết họ thuộc đảng cách mạng tiến bộ Việt Nam, được thế lực quốc tế như
 Liên Xô, Trung Quốc yểm trợ, thế lực rất mạnh,
 bám rễ trong và ngoài nước, có mục đích bài phong đả thực, xây dựng một
 xã hội công bằng tự do, người không bóc lột người. Đảng có Phan Bội 
Châu, Phan Chu Trinh, Hùynh Thúc Kháng tham gia, và có khoảng mười triệu
 đảng viên. Lực lượng đảng trong nước đã vùng
 lên như Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám đã chiếm 
được nhiều tỉnh trong nước, giết vô số thực dân Pháp. Trương Thế Đạt 
nghe họ nói vậy cũng tin tưởng, ủng hộ cho họ một số vàng để làm quỹ 
hoạt động cứu quốc. Trương Thế Đạt mất, con trai
 là Trương Thế Vinh nối nghiệp cha kinh doanh trong ngoài, và ông cũng 
giữ mối liên lạc với tổ chức quốc tế, và cũng đóng góp vàng bạc cho họ. 
Trà thất Mây Tần và nhà của Trương Thế Vinh trở thành nơi ẩn náu và hoạt
 động của đảng cách mệnh. Ông được chi bộ
 đảng khen ngợi là “nhân sĩ yêu nước”, và những Việt kiều ở Thái Lan 
theo cộng sản được gọi là “Việt kiều yêu nước”. Gia đình Trương Thế Vinh
 đã được chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa gửi giấy ban khen là gia 
đình yêu nước, đã có công với cách mạng.
 
Sau
 1945, Đe Nhị Thế Chiến chấm dứt, Việt Minh cướp chính quyền. Một số dân
 chúng vì nạn đói, vì sợ cộng sản và thực dân Pháp nên đã
 bỏ nước sang Lào, Miên, Xiêm La, hoặc Pháp. Những người Việt Nam sinh 
sống tại Xiêm La ngày càng đông, và những người theo phe cộng sản càng 
mạnh. Năm 1954, hiệp định Geneve chia đôi Việt Nam. Nước “Việt Nam Dân 
chủ cộng hòa” giao thương với Xiêm La tức Thái
 Lan, và đặt tòa đại sứ tại Bangkok. Những đảng viên cộng sản Việt Nam 
ra mặt công khai hoạt động. Họ ra sức vận động “Việt kiều” tại Thái Lan 
về xây dựng đất nước. Chính sách này cũng được phát triển nhiều nơi như 
Pháp, Lào, Miên...
 
Họ
 bảo “đất nước ngày nay cần nhiều bàn tay đóng góp. Việt Nam nay đã tiến
 lên xã hội chủ nghĩa, nông dân có ruộng
 cày, thoát khỏi cảnh làm nô lệ cho bọn phú nông địa chủ; xã hội bây giờ
 không còn nạn người bóc lột người. Sinh viên học sinh được tự do học 
hành, không phài đóng học phí mà còn được chính phủ nuôi ăn học, cấp 
sách vở cho đến khi thành tài. Trong nước ai cũng
 có công ăn việc làm, không ai thất nghiê.p. Họ gửi tặng ông nhiều sách 
báo, có nhiều thơ ca, âm nhạc và tiểu thuyết ca ngợi sự lãnh đạo tài ba 
của đảng và chính phủ”. Trương Thế Vinh tuy sinh tại Thái Lan, nhưng 
được nghe cha ông ca tụng về con người và đất
 nước Việt Nam, nay lại được nghe thêm những lời tuyên truyền của cộng 
sản nên càng thêm yêu nước, và càng nhớ quê hương. Ông luôn luôn mở đài 
Hà Nội, và những bài thơ, bản nhạc đã gieo vào lòng ông tình yêu quê 
hương, tổ quốc.
 
“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
 
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm Hè”
 
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm Hè”
Lúc
 bấy giờ công việc buôn bán ngày càng khó khăn khiến Trương Thế Vinh 
chán nản. Nay được “cán bộ” cộng sản
 kêu gọi và khuyến khích, vì vậy ông quyết định trở về góp sức xây dựng 
quê hương. Ông nay được ban khen là “gia đình có công với cách mạng”. 
Nếu về Việt Nam chắc ông sẽ được đảng và nhà nước quý trọng. Con đường 
tương lai rộng mở trước mắt ông.
 
Ta về ta tắm ao ta!
 
Ông muốn trở về tắm ao ta, về làm người hùng cứu nước, còn hơn là sống ở quê người, dù là triệu phú cũng có mặc cảm
 là kẻ tha phương cầu thực, kẻ lưu đày, là công dân bậc hai!
 
Ôi!
 Nước ta nay đã độc lập, không còn bọn thực dân Pháp xâm chiếm quê 
hương. Vì thực dân Pháp mà nhân dân ta khốn khổ điêu tàn. Vì thực
 dân Pháp mà tổ phụ ông phải bỏ quê hương mà đi. Nay là một dịp để ông 
trở về quê hương, về 36 phố phường Hà Nội và năm cửa Ô xưa! Tình yêu quê
 hương không còn là một mớ tình cảm bâng khuâng mà đã biến thảnh sự 
thực. Ông lo bán nhà cửa, hàng hóa và các cơ sở
 kinh doanh thu được năm trăm lượng vàng và mười ngàn đô la Mỹ. Sau khi 
đã thanh toán mọi thứ, ông đã “đăng ký” mua máy bay trở về Hà Nội thân 
yêu. Nhưng toà đại sứ Việt Nam CS tại Thái Lan đã lo mọi sự. Tất cả 
“Việt kiều” tại Thái Lan sẽ cùng nhau về Việt
 Nam bằng đường hàng không sang Cambodge rồi từ đó sẽ đi xe ô tô hay máy
 bay về Việt Nam.
 
Sau
 khi đoàn “Việt kiều” Thái Lan về đến Cambodge, họ được chuyển ngay lên 
xe ô tô Liên Xô là loại xe bốn bề kín mít
 chở ngay về Quảng Bình Việt Nam. Khi về đến biên giới Việt Nam, cả đám 
được cán bộ cộng sản đeo súng yêu cầu xuống xe để vào một trung tâm, bốn
 bề rào kín và có lính gác. Họ bảo: 
 
“các
 Việt kiều tạm ở lại đây một thời gian để học tập đường lối chính sách 
của Đảng và Nhà Nước. Họ ra lệnh các Việt
 kiều tập họp lại, gia đình nào theo gia đình đó. Họ bảo mọi người không
 được ra khỏi trung tâm nếu không được trung tâm cho phép”. Họ đưa mọi 
người vào hội trường. Viên “thủ trưởng” tỏ ra rất lịch sự. Ông nói:
 
“Chào các đồng bào và các đồng chí,
 
Hôm nay tôi xin thay mặt mặt đảng và chính phủ chào mừng những người con yêu trở về tổ quốc.”
 
Ông vừa dứt lời, mọi người vui vẻ hoan hô, tiếng vỗ tay nghe vang như tiếng pháo.
Tiếp theo, ông nói:
 
Tiếp theo, ông nói:
“ Thưa các đồng chí và đồng bào,
 
“Sau
 chiến thắng Điện Biên Phủ, những người ngoại quốc đã ước mơ trong một 
đêm được trở thành người Việt Nam. Các đồng bào và đồng chí
 nay đã thành người nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.Trước tiên, yêu cầu 
mọi người giao nộp thẻ căn cước, thẻ quốc tịch và khai sinh ngoại quốc 
để Nhà nước làm thủ tục hành chánh.”
 
Ông
 nói xong thì lui bước, để cho một đại biểu khác lên tiếng yêu cầu đồng 
bào làm bản tự khai hồ sơ, lý lịch, nhất
 là phải kê khai vàng bạc, kim cương, hạt xoàn và đô la. Trong khi mọi 
người tập trung ở hội trường, cán bộ cộng sản đã vào khám xét hành lý 
của Việt kiều. Những ai có chìa khóa va ly hay khóa các hộp kín, họ đến 
bảo nhỏ giao nộp chìa khóa cho họ làm thủ tục
 kiểm tra. Ngay hôm đó, họ bắt mọi người giao nộp vàng, kim cương, nữ 
trang và đô la.
 
Ông cán bộ nói:
 
“Đảng sẽ giữ tài sản cho họ vì sợ bọn biệt kích Mỹ ngụy cướp của giết người.. Cứ yên tâm đưa chính phủ giữ dùm, rồi
 chính phủ sẽ trả lại cho các gia đình sau khi tình hình đã được ổn định.”
 
Tiếp
 theo, mọi người làm thủ tục y tế. Mọi người phải vào phòng kín, cởi hết
 áo quần để y sĩ khám xét. Không thử máu, không nghe tim
 mạch, mà chỉ khám tổng quát. Thủ tục này thì cũng nhanh thôi, ngoại trừ
 những ai còn cất giấu tài sản trong người là bị tịch thu và bị phê 
bình, kiểm thảo. Các gia đình Việt kiều được cán bộ rút sổ tay, xé giấy 
viết biên nhận bằng những tờ giấy vàng úa xấu
 xí với những giòng chữ nghệch ngoạc, không rõ chữ viết và con số, và 
cũng không ghi ngày tháng, chữ ký và tên người nhận:
 
....Đã nhận 300 miếng kim loại bề ngoài màu vàng... Đã nhận một ngàn tiền nước ngoài... Đã nhận hai mươi viên đá nhỏ
 óng ánh...
 
Đến đây thì các Việt kiều biết mình đã lầm, đã mắc gian kế. Họ cũng như Thúy Kiều trong ngày đầu gặp Mã Giám Sinh đã kêu lên:
 
Xem gương trong bấy nhiêu ngày
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!
 
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!
Vài
 ngày sau, các “Việt kiều” được “phân phối” về các thôn xóm ở miền Bắc. 
Gia đình Trương Thế Vinh được “phân phố”i về một làng ở Quảng
 Bình. Ông chất vấn cán bộ:
 
- Chúng tôi xin về Hà Nội là quê hương của tôi và đã được tòa đại sứ Việt Nam ở Bangkok chấp thuận. Nay sao các ông
 lại bắt tôi về Quảng Bình?
 
Tên cán bộ trong “ban Việt kiều yêu nước” nói:
 
”Nay
 chúng ta đang xây dựng Hà Nội thành một thủ đô to lớn và văn minh hơn 
mười lần xưa. Hà Nội tương lai sẽ có những
 tòa cao 40-50 tầng, vĩ đại hơn Mỹ. Vi là xây cất chưa xong, nên chưa có
 nhà cho đồng bào ở. Vậy ông tạm ở lại Quảng Bình một thời gian, rồi sẽ 
đưa gia đình về Hà Nội sau”.
 
Biết
 rằng phản đối cũng vô ích cho nên gia đình ông phải lên xe về Quảng 
Bình. Gia đình ông được đổ xuống quốc lộ I, rồi được công an
 dẫn bộ tới một làng nhỏ, cách quốc lộ vài cây số. Làng này cho ông một 
miếng đất ven sông để ở và canh tác. Nơi ông ở là bãi sông vắng, cách xa
 xóm làng vài cây số. Ông là một kẻ ngụ cư. Hơn nữa, ông là một kẻ nguy 
hiểm. Dân làng không ai dám giao thiệp cùng
 gia đình ông vì họ coi gia đình ông như một những kẻ gián điệp từ ngoại
 quốc về để phá hoại xã hội chủ nghĩa.
 
Tiền
 của mất sạch, gia đình ông trở thành kẻ bần cùng nhất nước, cô đơn nhất
 nước. Thư ông gửi đi không có hồi âm.
 Ông không nhận được lá thư nào từ Thái Lan hay Hà Nội. Ở Thái Lan, ông 
có tài sản, bạn bè, nhưng về đây, quê hương Việt Nam,Trương Thế Vinh và 
gia đình bị lưu đày và cấm cố. Gia đình ông vì yêu nước mà trở về nay 
lại bị coi là kẻ thù của dân tộc. Sống ở Thái
 Lan, ông tự coi là người xa lạ, nay về Việt Nam, ông lại trở thành 
người xa lạ trên chính quê hương mình.
 
Ông
 suy nghĩ xa gần mà lòng đau như cắt. Ông trách ông ngu dại. Nước Thái 
Lan đã cho ông nương tựa, giúp ông làm giàu, con cái ông học
 hành thành tựu, thế mà ông bỏ Thái Lan mà về Việt Nam, về quê mẹ, nhưng
 quê mẹ đã giết gia đình ông, cướp đoạt tài sản và hy vọng của ông! Kẻ 
sát nhân cướp bóc chính là những kẻ mà ông đã nuôi nấng, kẻ đã rao giảng
 tự do, nhân đạo và bình đẳng! Ông đã bỏ mồi
 bắt bóng! Ông là người ngu xuẩn nghe theo những lời phỉnh nịnh để rồi 
làm hại mình và con cháu!
 
Vài
 năm sau, chiến tranh bùng nổ, miền Bắc bắt thanh niên nam nữ “sinh Bắc 
tử Nam”. Trương Thế Vinh có một trai, một
 gái. Con trai ông phải vào “bộ đội” rồi tử thương tại chiến trường miền
 Nam. Con gái ông phải đi “thanh niên xung phong”, lâm bệnh rồi chết 
trên Trường Sơn. Hai vợ chồng cắng đắng nhau. Bà trách ông nhẹ dạ tin 
lời kẻ cướp. Bà không chịu nổi đời sống kham khổ
 và nỗi uất hận vì bị lường gạt nên mắc bệnh, không thuốc men mà chết. 
Còn ông, trong cơn đau khổ, uống rượu say rồi chửi cộng sản. Kết cuộc 
ông bị công an bắt bỏ tù rồi chết trong trại tù Thái Nguyên.
 
Sơn Tùng
ML chuyển
ML chuyển
Chùm Khế Ngọt ! Một chuyện có thật - Sơn Tùng
                Trương Thế Phát là một thương gia trẻ ở kinh đô Thăng Long. Ông có tàu bè chở hàng đi buôn bán ờ trong và ngoài nước. Khi quân Pháp tiến đánh thành Hà Nội, 
            
            
“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm Hè”
 
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm Hè”
Trương
 Thế Phát là một thương gia trẻ ở kinh đô Thăng Long. Ông có tàu bè chở 
hàng đi buôn bán ờ trong và ngoài nước. Khi quân Pháp tiến
 đánh thành Hà Nội, và chiếm Bắc Ninh, Thái Nguyên, ông lên tàu đem gia 
đình ra ngoại quốc. Sau bao ngày lênh đênh trên biển cả, gia đình ông 
đến Xiêm La (Thái Lan), rồi định cư tại đây. Nhờ có tàu bè, ông mang 
theo một mớ gia sản nên khi qua Xiêm ông đã có
 sẵn một gia tài. Với tài kinh doanh, ông đã gây dựng một sự nghiệp khá 
lớn, gồm các cửa tiệm kim hoàn, cửa tiệm vải vóc lụa là, và Trà thất Mây
 Tần.
 
Là
 một nhà kinh doanh, công việc bận rộn, nhưng òng luôn thương nhớ quê 
hương. Ông nhớ Hà Nội ba mươi sáu phố phường,
 với năm cửa Ô xưa. Ôi! Những cô gái hàng Đào, hàng Bạc... má đỏ, môi 
hồng, quần điều, áo lụa trắng, đeo xà tích bạc. Ông nhớ cốm Vòng, nhớ 
phở, nhớ xôi và bánh cuốn Hà Nội. Ông nhớ Hồ Gươm, hồ Tây, chùa Trấn 
Quốc, chùa Một Cột... Xiêm La có nhiều chùa lớn
 và nhiều lễ hội nhưng không đâu bằng hội chùa Hương... Ông nhớ những 
bài hát ru, những điệu quan họ. Xiêm La có nhiều trái cây nhưng không 
bằng nhãn, vải, cam, quít... Hà Nội. Ở Xiêm La ông có nhiều bạn mới, 
nhưng lòng ông vẫn nhớ nhung các bạn Hà Nội và những
 kỷ niệm thời ấu thơ. Nhất là buổi đầu, ngôn ngữ bất đồng, phong tục 
khác biệt làm cho ông chao đảo như con thuyền không lái.
 
Lúc
 bấy giờ nhiều người trong nước cũng bỏ nước ra đi. Họ ra đi mang theo 
một bầu nhiệt huyết, một lý tưởng cao siêu là khôi phục đất
 nước, giải phóng dân tộc. Có nhiều nhóm hoạt động. Họ từ trong nước ra.
 Họ cũng từ Trung Quốc, Nhật Bản sang Xiêm hoạt động. Họ ở lại Xiêm mà 
cũng có người đi qua, đi lại. Tuy là nhiều tổ chức khác nhau, tựu trong 
có hai nhóm. Một nhóm thuộc phe quốc gia,
 một phái thuộc phe quốc tế.
 
Trà
 thất Mây Tần do con trai của ông là Trương Thế Đạt trông coi, còn các 
tiệm khác thì do phu nhân, con trai thứ
 và các con gái ông quản lý. It lâu sau, Trương Thế Phát mất, cơ nghiệp 
truyền lại cho phu nhân và các con. Trương Thế Đạt tiếp tục kinh doanh 
Trà thất Mây Tần.
 
Trà
 thất Mây Tần ở thủ đô Bangkok là một nơi trai thanh gái lịch lui tới 
tấp nập. Không những người Xiêm La mà người Cao Miên, Lào, Trung
 Quốc, Ấn Độ đều thường xuyên tới uống trà, và thưởng thức ca vũ nhạc. 
Một hôm, có mấy người khách Á Đông tới trà thất Mây Tần uống trà, uống 
rưọu, Trương Thế Đạt nhận ra có một số khách là người Việt Nam. Ông bèn 
tới chào hỏi, mới biết họ quả là người Việt
 Nam. Nghe giọng nói của họ, ông nhận ra họ là người Bắc, người Trung, 
và người Nam. Ông hỏi thăm họ thì họ cho biết họ qua đây lập nghiệp. 
Trương Thế Đạt rất vui mừng khi gặp lại đồng bào Việt Nam. Tâm trạng hai
 bên thật vui vẻ như câu thơ “Thiên lý tha hương
 ngộ cố tri”. Họ hỏi ông tại sao đặt tên trà thất là Mây Tần. Ông nói 
ông rất yêu quê hương, lòng luôn nhớ băm sáu phố phường Hà Nội. “Hồn quê
 theo ngọn Mây Tần xa xa”.
 
Dần
 dần, hai bên quen nhau, Trương Thế Đạt mời họ về nhà chơi. Kể từ đó hai
 bên liên lạc thân mật. Sau một thời gian,
 khách hiểu rõ gia đình Trương là một gia đình yêu nước, vì không cam 
tâm làm tôi tớ bọn ngoại xâm mà bỏ nước ra đi. Vì quen thân, họ cũng cho
 biết họ thuộc đảng cách mạng tiến bộ Việt Nam, được thế lực quốc tế như
 Liên Xô, Trung Quốc yểm trợ, thế lực rất mạnh,
 bám rễ trong và ngoài nước, có mục đích bài phong đả thực, xây dựng một
 xã hội công bằng tự do, người không bóc lột người. Đảng có Phan Bội 
Châu, Phan Chu Trinh, Hùynh Thúc Kháng tham gia, và có khoảng mười triệu
 đảng viên. Lực lượng đảng trong nước đã vùng
 lên như Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám đã chiếm 
được nhiều tỉnh trong nước, giết vô số thực dân Pháp. Trương Thế Đạt 
nghe họ nói vậy cũng tin tưởng, ủng hộ cho họ một số vàng để làm quỹ 
hoạt động cứu quốc. Trương Thế Đạt mất, con trai
 là Trương Thế Vinh nối nghiệp cha kinh doanh trong ngoài, và ông cũng 
giữ mối liên lạc với tổ chức quốc tế, và cũng đóng góp vàng bạc cho họ. 
Trà thất Mây Tần và nhà của Trương Thế Vinh trở thành nơi ẩn náu và hoạt
 động của đảng cách mệnh. Ông được chi bộ
 đảng khen ngợi là “nhân sĩ yêu nước”, và những Việt kiều ở Thái Lan 
theo cộng sản được gọi là “Việt kiều yêu nước”. Gia đình Trương Thế Vinh
 đã được chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa gửi giấy ban khen là gia 
đình yêu nước, đã có công với cách mạng.
 
Sau
 1945, Đe Nhị Thế Chiến chấm dứt, Việt Minh cướp chính quyền. Một số dân
 chúng vì nạn đói, vì sợ cộng sản và thực dân Pháp nên đã
 bỏ nước sang Lào, Miên, Xiêm La, hoặc Pháp. Những người Việt Nam sinh 
sống tại Xiêm La ngày càng đông, và những người theo phe cộng sản càng 
mạnh. Năm 1954, hiệp định Geneve chia đôi Việt Nam. Nước “Việt Nam Dân 
chủ cộng hòa” giao thương với Xiêm La tức Thái
 Lan, và đặt tòa đại sứ tại Bangkok. Những đảng viên cộng sản Việt Nam 
ra mặt công khai hoạt động. Họ ra sức vận động “Việt kiều” tại Thái Lan 
về xây dựng đất nước. Chính sách này cũng được phát triển nhiều nơi như 
Pháp, Lào, Miên...
 
Họ
 bảo “đất nước ngày nay cần nhiều bàn tay đóng góp. Việt Nam nay đã tiến
 lên xã hội chủ nghĩa, nông dân có ruộng
 cày, thoát khỏi cảnh làm nô lệ cho bọn phú nông địa chủ; xã hội bây giờ
 không còn nạn người bóc lột người. Sinh viên học sinh được tự do học 
hành, không phài đóng học phí mà còn được chính phủ nuôi ăn học, cấp 
sách vở cho đến khi thành tài. Trong nước ai cũng
 có công ăn việc làm, không ai thất nghiê.p. Họ gửi tặng ông nhiều sách 
báo, có nhiều thơ ca, âm nhạc và tiểu thuyết ca ngợi sự lãnh đạo tài ba 
của đảng và chính phủ”. Trương Thế Vinh tuy sinh tại Thái Lan, nhưng 
được nghe cha ông ca tụng về con người và đất
 nước Việt Nam, nay lại được nghe thêm những lời tuyên truyền của cộng 
sản nên càng thêm yêu nước, và càng nhớ quê hương. Ông luôn luôn mở đài 
Hà Nội, và những bài thơ, bản nhạc đã gieo vào lòng ông tình yêu quê 
hương, tổ quốc.
 
“Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
 
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay
Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm Hè”
 
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm Hè”
Lúc
 bấy giờ công việc buôn bán ngày càng khó khăn khiến Trương Thế Vinh 
chán nản. Nay được “cán bộ” cộng sản
 kêu gọi và khuyến khích, vì vậy ông quyết định trở về góp sức xây dựng 
quê hương. Ông nay được ban khen là “gia đình có công với cách mạng”. 
Nếu về Việt Nam chắc ông sẽ được đảng và nhà nước quý trọng. Con đường 
tương lai rộng mở trước mắt ông.
 
Ta về ta tắm ao ta!
 
Ông muốn trở về tắm ao ta, về làm người hùng cứu nước, còn hơn là sống ở quê người, dù là triệu phú cũng có mặc cảm
 là kẻ tha phương cầu thực, kẻ lưu đày, là công dân bậc hai!
 
Ôi!
 Nước ta nay đã độc lập, không còn bọn thực dân Pháp xâm chiếm quê 
hương. Vì thực dân Pháp mà nhân dân ta khốn khổ điêu tàn. Vì thực
 dân Pháp mà tổ phụ ông phải bỏ quê hương mà đi. Nay là một dịp để ông 
trở về quê hương, về 36 phố phường Hà Nội và năm cửa Ô xưa! Tình yêu quê
 hương không còn là một mớ tình cảm bâng khuâng mà đã biến thảnh sự 
thực. Ông lo bán nhà cửa, hàng hóa và các cơ sở
 kinh doanh thu được năm trăm lượng vàng và mười ngàn đô la Mỹ. Sau khi 
đã thanh toán mọi thứ, ông đã “đăng ký” mua máy bay trở về Hà Nội thân 
yêu. Nhưng toà đại sứ Việt Nam CS tại Thái Lan đã lo mọi sự. Tất cả 
“Việt kiều” tại Thái Lan sẽ cùng nhau về Việt
 Nam bằng đường hàng không sang Cambodge rồi từ đó sẽ đi xe ô tô hay máy
 bay về Việt Nam.
 
Sau
 khi đoàn “Việt kiều” Thái Lan về đến Cambodge, họ được chuyển ngay lên 
xe ô tô Liên Xô là loại xe bốn bề kín mít
 chở ngay về Quảng Bình Việt Nam. Khi về đến biên giới Việt Nam, cả đám 
được cán bộ cộng sản đeo súng yêu cầu xuống xe để vào một trung tâm, bốn
 bề rào kín và có lính gác. Họ bảo: 
 
“các
 Việt kiều tạm ở lại đây một thời gian để học tập đường lối chính sách 
của Đảng và Nhà Nước. Họ ra lệnh các Việt
 kiều tập họp lại, gia đình nào theo gia đình đó. Họ bảo mọi người không
 được ra khỏi trung tâm nếu không được trung tâm cho phép”. Họ đưa mọi 
người vào hội trường. Viên “thủ trưởng” tỏ ra rất lịch sự. Ông nói:
 
“Chào các đồng bào và các đồng chí,
 
Hôm nay tôi xin thay mặt mặt đảng và chính phủ chào mừng những người con yêu trở về tổ quốc.”
 
Ông vừa dứt lời, mọi người vui vẻ hoan hô, tiếng vỗ tay nghe vang như tiếng pháo.
Tiếp theo, ông nói:
 
Tiếp theo, ông nói:
“ Thưa các đồng chí và đồng bào,
 
“Sau
 chiến thắng Điện Biên Phủ, những người ngoại quốc đã ước mơ trong một 
đêm được trở thành người Việt Nam. Các đồng bào và đồng chí
 nay đã thành người nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.Trước tiên, yêu cầu 
mọi người giao nộp thẻ căn cước, thẻ quốc tịch và khai sinh ngoại quốc 
để Nhà nước làm thủ tục hành chánh.”
 
Ông
 nói xong thì lui bước, để cho một đại biểu khác lên tiếng yêu cầu đồng 
bào làm bản tự khai hồ sơ, lý lịch, nhất
 là phải kê khai vàng bạc, kim cương, hạt xoàn và đô la. Trong khi mọi 
người tập trung ở hội trường, cán bộ cộng sản đã vào khám xét hành lý 
của Việt kiều. Những ai có chìa khóa va ly hay khóa các hộp kín, họ đến 
bảo nhỏ giao nộp chìa khóa cho họ làm thủ tục
 kiểm tra. Ngay hôm đó, họ bắt mọi người giao nộp vàng, kim cương, nữ 
trang và đô la.
 
Ông cán bộ nói:
 
“Đảng sẽ giữ tài sản cho họ vì sợ bọn biệt kích Mỹ ngụy cướp của giết người.. Cứ yên tâm đưa chính phủ giữ dùm, rồi
 chính phủ sẽ trả lại cho các gia đình sau khi tình hình đã được ổn định.”
 
Tiếp
 theo, mọi người làm thủ tục y tế. Mọi người phải vào phòng kín, cởi hết
 áo quần để y sĩ khám xét. Không thử máu, không nghe tim
 mạch, mà chỉ khám tổng quát. Thủ tục này thì cũng nhanh thôi, ngoại trừ
 những ai còn cất giấu tài sản trong người là bị tịch thu và bị phê 
bình, kiểm thảo. Các gia đình Việt kiều được cán bộ rút sổ tay, xé giấy 
viết biên nhận bằng những tờ giấy vàng úa xấu
 xí với những giòng chữ nghệch ngoạc, không rõ chữ viết và con số, và 
cũng không ghi ngày tháng, chữ ký và tên người nhận:
 
....Đã nhận 300 miếng kim loại bề ngoài màu vàng... Đã nhận một ngàn tiền nước ngoài... Đã nhận hai mươi viên đá nhỏ
 óng ánh...
 
Đến đây thì các Việt kiều biết mình đã lầm, đã mắc gian kế. Họ cũng như Thúy Kiều trong ngày đầu gặp Mã Giám Sinh đã kêu lên:
 
Xem gương trong bấy nhiêu ngày
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!
 
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!
Vài
 ngày sau, các “Việt kiều” được “phân phối” về các thôn xóm ở miền Bắc. 
Gia đình Trương Thế Vinh được “phân phố”i về một làng ở Quảng
 Bình. Ông chất vấn cán bộ:
 
- Chúng tôi xin về Hà Nội là quê hương của tôi và đã được tòa đại sứ Việt Nam ở Bangkok chấp thuận. Nay sao các ông
 lại bắt tôi về Quảng Bình?
 
Tên cán bộ trong “ban Việt kiều yêu nước” nói:
 
”Nay
 chúng ta đang xây dựng Hà Nội thành một thủ đô to lớn và văn minh hơn 
mười lần xưa. Hà Nội tương lai sẽ có những
 tòa cao 40-50 tầng, vĩ đại hơn Mỹ. Vi là xây cất chưa xong, nên chưa có
 nhà cho đồng bào ở. Vậy ông tạm ở lại Quảng Bình một thời gian, rồi sẽ 
đưa gia đình về Hà Nội sau”.
 
Biết
 rằng phản đối cũng vô ích cho nên gia đình ông phải lên xe về Quảng 
Bình. Gia đình ông được đổ xuống quốc lộ I, rồi được công an
 dẫn bộ tới một làng nhỏ, cách quốc lộ vài cây số. Làng này cho ông một 
miếng đất ven sông để ở và canh tác. Nơi ông ở là bãi sông vắng, cách xa
 xóm làng vài cây số. Ông là một kẻ ngụ cư. Hơn nữa, ông là một kẻ nguy 
hiểm. Dân làng không ai dám giao thiệp cùng
 gia đình ông vì họ coi gia đình ông như một những kẻ gián điệp từ ngoại
 quốc về để phá hoại xã hội chủ nghĩa.
 
Tiền
 của mất sạch, gia đình ông trở thành kẻ bần cùng nhất nước, cô đơn nhất
 nước. Thư ông gửi đi không có hồi âm.
 Ông không nhận được lá thư nào từ Thái Lan hay Hà Nội. Ở Thái Lan, ông 
có tài sản, bạn bè, nhưng về đây, quê hương Việt Nam,Trương Thế Vinh và 
gia đình bị lưu đày và cấm cố. Gia đình ông vì yêu nước mà trở về nay 
lại bị coi là kẻ thù của dân tộc. Sống ở Thái
 Lan, ông tự coi là người xa lạ, nay về Việt Nam, ông lại trở thành 
người xa lạ trên chính quê hương mình.
 
Ông
 suy nghĩ xa gần mà lòng đau như cắt. Ông trách ông ngu dại. Nước Thái 
Lan đã cho ông nương tựa, giúp ông làm giàu, con cái ông học
 hành thành tựu, thế mà ông bỏ Thái Lan mà về Việt Nam, về quê mẹ, nhưng
 quê mẹ đã giết gia đình ông, cướp đoạt tài sản và hy vọng của ông! Kẻ 
sát nhân cướp bóc chính là những kẻ mà ông đã nuôi nấng, kẻ đã rao giảng
 tự do, nhân đạo và bình đẳng! Ông đã bỏ mồi
 bắt bóng! Ông là người ngu xuẩn nghe theo những lời phỉnh nịnh để rồi 
làm hại mình và con cháu!
 
Vài
 năm sau, chiến tranh bùng nổ, miền Bắc bắt thanh niên nam nữ “sinh Bắc 
tử Nam”. Trương Thế Vinh có một trai, một
 gái. Con trai ông phải vào “bộ đội” rồi tử thương tại chiến trường miền
 Nam. Con gái ông phải đi “thanh niên xung phong”, lâm bệnh rồi chết 
trên Trường Sơn. Hai vợ chồng cắng đắng nhau. Bà trách ông nhẹ dạ tin 
lời kẻ cướp. Bà không chịu nổi đời sống kham khổ
 và nỗi uất hận vì bị lường gạt nên mắc bệnh, không thuốc men mà chết. 
Còn ông, trong cơn đau khổ, uống rượu say rồi chửi cộng sản. Kết cuộc 
ông bị công an bắt bỏ tù rồi chết trong trại tù Thái Nguyên.
 
Sơn Tùng
ML chuyển
ML chuyển
       
















