Cõi Người Ta
Phạm Bá Hoa: Thư Số 26 Gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
on December 3, 2013 5:03 PM in VNCH & Quân Lực / 1 comment
Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954,  chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong  bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên  gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng  sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại  tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng  tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không  còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn  trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi  mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính  Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh”  viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ  huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham  Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh  phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là  trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng  chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt  trên căn bản đó.
Với thư này, tôi giúp Các Anh nhận ra thỏa hiệp kinh hoàng giữa lãnh đạo  cộng sản Việt Nam với lãnh đạo Trung Cộng. Tiếp theo là những sự kiện  rất trùng hợp, cho thấy lãnh đạo Các Anh đã và đang thực hiện những điều  đã thỏa hiêp mà theo đó là “Việt Nam đã và đang từng bước sáp phập vào  nước Trung Hoa”. Từ đó, Các Anh có thêm yếu tố mà suy nghĩ …..
Thứ nhất. Hội nghị năm 1990 tại Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Cộng
Ông Nguyễn Văn Linh (Wikipedia – Nguyễn Văn Linh), tên thật là Nguyễn  Văn Cúc, chào đời ngày 1/7/1915 tại Hưng Yên. Không thấy nói trình độ  giáo dục, nhưng năm 14 tuổi có tham gia Học sinh đoàn do Hội Việt Nam  Cách Mạng Thanh Niên lãnh đạo. Ngày 1/5/1930, khi rải truyền đơn chống  Pháp thì bị bắt với án tù chung thân tại trại tù Côn Đảo. Năm 1936,  chánh phủ Pháp thay đổi lãnh đạo và ông được trả tự do. Ông Linh vào  đảng cộng sản tại Hải Phòng.
Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6, ông Nguyễn Văn Linh  giữ chức Tổng Bí Thư Ban Chấp Hành trung ương Trong đại hội 7 năm 1991  và đại hội 8 năm 1996, giữ chức Cố Vấn, Ban Chấp Hành trung ương. Ông  chết ngày 27/4/1998.
Ông Trần Quang Cơ (Google.vn – Hồi ký Trần Quang Cơ). Giữ chức Đại Sứ  tại Thái Lan từ tháng 10/1982 đến tháng 10/1986. Giữ chức Thứ Trưởng  Ngoại Giao từ tháng 1/1987 đến 1993 ông về hưu.
Trước khi đến hội nghị Thành Đô
Từ  đầu năm 2004, giới cán bộ ngoại giao và giới trí thức ở Việt Nam đã  chuyền tay nhau tập hồi ký và suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ  Trưởng Ngoại Giao. Tập hồi ký 82 trang viết từ năm 2001, hoàn tất tháng  5/2003, nhưng chưa được phép xuất bản. Tác giả cung cấp những tài liệu  giá trị về những vấn đề Việt Nam trong giai đoạn nguy khốn nhất, bởi  chiến tranh Campuchia và tái lập bang giao (Các Anh gọi là quan hệ) giữa  hai nước cộng sản đàn anh Trung Hoa với đàn em Việt Nam.
Ngày 9/4/1987, Bộ Chính Trị quyết định thành lập “Tổ Nghiên Cứu Nội Bộ”  để tìm giải pháp trong bang giao với Liên Xô – Trung Cộng – Camphuchia.  Ông Trần Quang Cơ là một thành viên trong tổ nghiên cứu này. Ngày  20/5/1988, Nghị Quyết 13 nhắm giải quyết vấn đề Campuchia trước năm  1990, và cố gắng tái lập bang giao với Trung Cộng. Ngày 14/3/1989, Bộ  Chính Trị quyết định rút hết quân khỏi Campuchia vào cuối tháng 9/1989.  Ngày 13/6/1990, Đại Sứ Trung Cộng tại Việt Nam Từ Đôn Tín, đến gặp Bộ  Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch và nói: “Lần này tôi sang Hà Nội chủ  yếu để bàn với các đồng chí Việt Nam về vấn đề Campuchia, đồng thời cũng  xem xét nguyện vọng của các đồng chí, chúng tôi đã chuẩn bị ý kiến về  quan hệ hai nước Trung Quốc – Việt Nam”.
Ngày 29/8/1990, Đại Sứ Việt Nam tại Trung Cộng Trương Đức Duy trở về  nước để gặp Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh trao thông điệp của Tổng Bí Thư  Giang Trạch Dân, mời các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Cố vấn Phạm  Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên Trung Cộng vào ngày  3/9/1990, để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường  hoá bang giao giữa Việt Nam với Trung Cộng.
Điều lạ là ngày 24/8/1990, Trung Cộng đã bác bỏ việc bàn chuyện bình  thường hóa, mà đòi phải giải quyết vấn đề Campuchia trước. Theo ông  Nguyễn Cơ Thạch, Bộ Trưởng Ngoại Giao nhận định: “Sự thay đổi đột ngột  của Trung Quốc là do họ thấy Mỹ, Nhật, đặc biệt là các nước trong khối  ASEAN, tỏ thái độ thân thiện với Việt Nam, nên họ muốn phá Việt Nam”.
Ngày 30/8/1990, Bộ Chính Trị họp bàn về việc gặp lãnh đạo Trung Cộng.  Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Chúng ta cần bàn hợp tác với  Trung Cộng để bảo vệ Chủ Nghĩa Xã Hội và chống đế quốc, đồng thời hòa  hợp giữa Phnom Penh với Khmer đỏ để giải quyết vấn đề Campuchia”. Quan  điểm của Đại Tướng Lê Đức Anh là: “Phải bàn về hoà hợp dân tộc thực sự ở  Campuchia, vì nếu không có Polpot thì chiến tranh vẫn tiếp tục”.
Ngày 2/9/1990, Ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Phạm Văn Đồng đến Thành  Đô đúng hẹn. Tháp tùng có ông Hồng Hà chánh văn phòng trung ương, ông  Hoàng Bích Sơn Trưởng ban đối ngoại, và ông Đinh Nho Liêm Thứ Trưởng Bộ  Ngoại Giao, nhưng không có Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch vì cho  rằng quan điểm ông Thạch không thích hợp trong lần họp này.
Hội nghị Thành Đô
Ngày  3/9/1990. Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân và Thủ Tướng Lý Bằng của Trung  Cộng, đón các vị lãnh đạo cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và  Phạm Văn Đồng tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô.
Buổi họp đầu tiên chiều hôm nay, ông Nguyễn Văn Linh nói đến nguyện vọng  muốn nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia, và đặt trọng tâm vào vấn  đề bình thường hóa bang giao Việt-Trung.
Ngày 4/9/1990. Buổi sáng tiếp tục họp. Những vấn đề hội nghị thảo luân  hầu như đạt được nhận thức chung một cách đầy đủ, nên quyết định khởi  thảo một bản kỷ yếu của Hội Nghị. Lúc 2 giờ 30 chiều, tại khách sạn Kim  Ngưu, lãnh đạo hai nước Việt-Trung cử hành nghi thức ký kết chánh thức.  Hai bên riêng biệt do Tổng Bí Thư và Thủ Tướng ký. Đây là bước ngoặt  mang tính lịch sử của bang giao hai nước Việt-Trung.
Điều lạ là ông tác giả hồi ký chỉ cho biết hai bên đạt được nhận thức  chung một cách đầy đủ, nhưng không một chi tiết nào cho thấy hai bên đạt  được những gì. Vậy, phải chăng những chi tiết đó thuộc loại tối mật  chăng?
Trong cuốn sách “Mao Chủ Tịch của tôi” của tác giả Hà Cẩn, Viện Văn Học  Trung Cộng đã được giới thiệu trong “Những sự thật không thể chối bỏ” có  đoạn viết: ”Việt Nam cuối cùng cũng đã xích lại gần hơn nữa với Trung  Quốc. Những gì thuộc về quan hệ tốt đẹp của hai đảng từ thời Mao Chủ  tịch và Hồ Chủ tịch đã được Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh cụ thể hơn sau  chiến tranh biên giới năm 1979. Không có gì có lợi hơn cho cả Việt Nam  và Trung Quốc khi đứng cạnh nhau”.
Sau hội nghị Thành Đô
Sau 2 ngày họp 3 và 4/9/1990, kết quả được ghi lại trong “Biên Bản”  gồm 8 điểm. Trong đó có đến 5 điểm nói về Campuchia, 2 điểm nói đến bang  giao quốc tế, chỉ có 1 điểm nói đến cải thiện bang giao Việt Nam –  Trung Cộng. Tác giả nhận định rằng: “Thỏa thuận Việt Nam-Trung Quốc ở  Thành Đô, hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của Việt Nam,  mà ngược lại là một sai lầm hết sức đáng tiếc trong bang giao giữa hai  nước.
Sự kiện Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ đã tác động rất lớn đến ông  Nguyễn Văn Linh, và dẫn đến tư tưởng phục tùng Trung Cộng, kẻ thù ngàn  đời của dân tộc Việt Nam. Mặc dù Nguyễn Cơ Thạch, Võ Chí Công, Trần Xuân  Bách can ngăn, nhưng ông Nguyễn Văn Linh không nghe, vẫn giữ quan điểm:  “Kéo Trung Quốc lại để thay thế Liên Xô, làm chỗ dựa vũng chắc bảo vệ  xã hội chủ nghĩa. Dù Trung Quốc bành trướng thế nào đi nữa thì Trung  Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa”.
Tóm tắt. Những sử liệu của Trung Cộng đã chứng minh nhóm dâng nước và  bán nước do ông Nguyễn Văn Linh đứng đầu. Những ai thật sự lương thiện  đã không theo cộng sản, hoặc nhận thấy cộng sản tồi tệ nên đã ly khai  khỏi đảng, đều công nhận rằng “cộng sản là dối trá và ngụy biện”. Cái  cách mà ông Nguyễn Văn Linh dối gạt dân khi nói đến chủ trương “cởi  trói” chính là cách ngụy biện cho đường lối độc tài của cộng sản: Vậy  thì mỗi chúng ta hãy đem những sự thật này đến với nhân dân Việt Nam, vì  đó là con đường ngắn nhất để cứu nước trước thảm họa đang đến rất gần.  Đấu tranh cho dân chủ, trước hết phải lật đổ cộng sản.
Cuối cùng, tôi không tìm thấy thỏa hiệp về tái lập bang giao giữa hai  nước cộng sản Việt-Trung trong Biên Bản hội nghị Thành Đô, chỉ thấy được  nhận định của tác giả cho rằng, thỏa thuận với Trung Cộng là một sai  lầm hết sức đáng tiếc. Vậy, sai lầm đó là gì? Các Anh hãy theo tôi, để  tìm sự thật qua những tài liệu mà tôi trưng dẫn liên quan đến nhận định  của Thứ Trưởng Ngoại Giao Trần Quang Cơ lúc ấy.
Thứ hai. Đi tìm sự thật trong biên bản hội nghị Thành Đô
Theo hồi ký của ông Trần Quang Cơ, “Biên Bản” hội nghị Thành Đô ngày  4/9/1990 có 8 điểm, trong đó 5 điểm về Campuchia, 2 điểm về quốc tế, chỉ  có 1 điểm nói đến bang giao Việt Nam với Trung Cộng, nhưng không có chi  tiết nào về nội dung. Nhưng tác giả thừa nhận thỏa thuận đó là một sai  lầm hết sức đáng tiếc. Tôi nghĩ, ông Trần Quang Cơ muốn nói đến sai lầm  trong nội dung điểm cải thiện bang giao với Trung Cộng, và có thể vì vậy  mà quyển sách vẫn chưa được lãnh đạo của ông cho phép ấn hành chăng?
Vậy, sai lầm đó là gì?
Mời Các Anh đọc đoạn văn dưới đây để tìm thấy sự thật mà tôi tin là cựu  Thứ Trưởng Ngoại Giao Trần Quang Cơ muốn nói nhưng không dám nói hoặc  không được nói. Xin nhấn mạnh rằng, hồi ký của ông Trần Quang Cơ cũng  như tài liệu dưới đây liên quan đến hội nghị Thành Đô hoàn toàn giống  nhau, ngoại trừ vấn đề cốt lõi là tái lập bang giao giữa hai nước cộng  sản Việt Nam với Trung Hoa thì giấu kín.
Tôi tin chắc rằng, nội dung thỏa hiệp bình thường hóa bang giao giữa  Trung Cộng với Việt Cộng trong Biên Bản hội nghị Thành Đô ngày 4/9/1990,  là tin tức mà tổ chức Wikileaks cho biết họ có trong tay khối tài liệu  liên quan đến Việt Nam vào khoảng 2.300 điện tín gửi đi từ tòa đại sứ  Hoa Kỳ ở Hà Nội, và khoảng 800 điện tín từ tòa lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn,  trong số 251.287 điện tín tài liệu trao đổi giữa 250 tòa đại sứ và tòa  tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại hơn 90 quốc gia với Bộ Ngoại Giao tại Hoa Thịnh  Đốn. Trong số hơn 3.100 điện tín liên quan đến Việt Nam có cả những loại  “tối mật”, đặc biệt hơn cả là Biên Bản về cuộc họp tối mật giữa Tổng Bí  Thư Nguyễn Văn Linh & Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Đỗ Mười của Việt  Nam, với Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân & Thủ Tướng Lý Bằng của Trung  Cộng, ngày 3 và 4/9/1990 tại Thành Đô. Biên Bản này có đoạn:
“… Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản,  đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết  các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun  đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước, do  Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong  quá khứ. Việt Nam bày tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị  phía Trung Quốc để Việt Nam được hưởng quy chế Khu tự trị trực thuộc  chính quyền trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã từng dành cho Nội  Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đã đồng ý và chấp nhận đề  nghị nói trên, cho Việt Nam trong thời hạn 30 năm (1990-2020) để đảng  cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia  nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.
Vậy, có thể nói mà không sợ lầm lẫn là nội dung 1 điểm trong 8 điểm của  Biên Bản Thành Đô liên quan đến vấn đề bang giao giữa hai nước cộng sản  Việt Nam-Trung Hoa là đoạn văn bên trên. Và dưới đây là chuỗi sự kiện từ  sau hội nghị Thành Đô 1990 đến nay, cho dù lãnh đạo Các Anh có phủ nhận  đến đâu đi nữa, nó vẫn là một loạt dẫn chứng lãnh đạo Các Anh đã và  đang thực hiện các bước tiến hành cần thiết đó.
Nhìn lên biên giới
Ngày 30/12/1999 tại Bắc Kinh, lãnh đạo Việt Nam với lãnh đạo Trung  cộng đã ký Hiệp Ước biên giới trên bộ, và ông Nông Đức Mạnh với tư cách  Chủ Tịch Quốc Hội đã phê chuẩn ngày 9/6/2000. Theo đó, biên giới Việt  Nam mất 789 cây số vuông vào tay Trung Cộng, bao gồm Ải Nam Quan và 3/4  thác Bản Giốc.
Xin hỏi: “Các Anh có chấp nhận sự thực này không? Nếu không, mời đọc vài  đoạn ngắn trong bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, Hà Nội: “…  Hiệp Ước bán phần đất biên giới chỉ được lãnh đạo Việt Nam thông báo  trong nội bộ đảng, như thể đất nước này là tài sản riêng của đảng cộng  sản vậy. Thông báo chánh thức đó như thế này: Toàn bộ diện tích các khu  vực hai bên có nhận thức khác nhau khoảng 227 cây số vuông. Qua đàm  phán, hai bên đã thỏa thuận khoảng 113 cây số vuông thuộc Việt Nam, và  khoảng 114 cây số vuông thuộc Trung Hoa. Như vậy, diện tích được giải  quyết cho mỗi bên xấp xỉ ngang nhau, hoàn toàn không có việc ta để mất  một diện tích lớn như bọn phản động và bọn cơ hội chính trị bịa đặt”.  Rồi ông Giang mỉa mai: Vậy là cái xấp xỉ đó có mất đất thật! Nhưng mất  theo nguyên tắc nào? Vì sao Việt Nam chỉ có 320 ngàn cây số vuông lại  phải xẽ cho Trung Hoa với diện tích 9 triệu 600 ngàn cây số vuông để họ  có thêm 1 cây số vuông nữa? Cho dù Trung Hoa có 1 tỉ 300 triệu dân,  nhưng đâu phải họ thiếu đất cho dân ở đến nỗi Việt Nam phải chia cho họ 1  cây số vuông?” …..
Các Anh có cảm nhận được nỗi đau qua lời than của ông Giang không? Lời  than của một ông Giang trong hàng trí thức của cộng sản, nghe sao mà đau  đớn quá! Cay đắng quá! Lời than như nối dài lời dạy của Vua Trần Nhân  Tông từ trong lịch sử xa xưa! Vào nửa cuối thế kỷ 13, khi trao quyền cho  con (Trần Anh Tông), vua Trần Nhân Tông có lời dạy rằng:
“Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo  làm người. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo, vô  luân. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường  chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải, các việc trên khiến ta nghĩ tới  chuyện khác lớn hơn là họa ngoại xâm. Họ không tôn trọng biên giới theo  qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính  được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai và hải đảo của ta, lâu  dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim  chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn: “Một tấc đất của tiền nhân để  lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác”. Ta cũng để lời nhắn nhủ  đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu.” Kẻ khác, mà vua Trần Nhân  Tông nói đến, thuở ấy là Trung Hoa phong kiến, và bây giờ là Trung Hoa  cộng sản. Ngắn gọn là Trung Cộng.
Nhìn vào vịnh Bắc Việt
Sau khi chiếm được 789 cây số vuông dọc biên giới, ngày 31/12/1999,  Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung Cộng Tang Jiaxuan sang Hà Nội gặp riêng ông  Lê Khả Phiêu, đòi phân chia lại phần biển trong Vịnh Bắc Việt. Ngày  25/2/2000, Lê Khả Phiêu cử Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Dy Niên sang Bắc  Kinh cho biết phía Việt Nam đồng ý giao thêm phần biển. Ngày 26/7/2000,  tại khách sạn Shangri-La ở Thái Lan, Ngoại Trưởng Trung Cộng nói với  Ngoại Trưởng Nguyễn Dy Niên ràng: “Trung Cộng muốn chia Vịnh Bắc Việt  theo tỷ lệ 50/50”. Ngày 24/12/2000, Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng  được Chủ Tịch Trần Đức Lương cử sang Trung Cộng gặp ông Hoàng Di, phụ  trách tình báo và là cánh tay phải của Ngoại Trưởng Trung Cộng. Họ vẫn  khăng khăng đòi tỷ lệ 50/50 trên vịnh Bắc Việt, gồm cả đảo Bạch Long Vĩ.  Lê Công Phụng được lệnh Bộ Chính Trị cố gắng “xin lại 6%” gần khu vực  Bạch Long Vĩ. Kết quả cuối cùng cuộc đi đêm của Lê Công Phụng, biên giới  trên Vịnh Bắc Việt của Việt Nam từ 62% xuống còn 56%, và Trung Cộng từ  38% tăng lên 44%.
Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch nhà nước Trần Đức Lương sang Bắc Kinh ký Hiệp  Ước bán biên giới trên vịnh Bắc Việt cho Trung Cộng. Từ đó, tổ quốc Việt  Nam bị mất 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt. Hãy nghe Lý Bằng nói  với Trần Đức Lương tại Quảng Trường Nhân Dân ngày 26/12/2000 như sau:  “Số tiền 2 tỷ mỹ kim để mua một phần Vịnh Bắc Việt là hợp lý”. Lý Bằng  nói tiếp: “Trong thời gian chiến tranh, Trung Hoa đã giao cho Việt Nam  vô số vũ khí để mua vùng đất Sapa, Ải Nam Quan, thác Bản Giốc,…..
Vậy là, chỉ hơn một năm, họ đã chiếm được 789 cây số vuông trên biên  giới, và 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt, mà Trung Cộng không  chết một mạng người, không bắn một viên đạn, không tốn một giọt xăng  dầu, cũng không nhỏ một giọt mồ hôi, họ chỉ cần nhón 3 ngón tay cầm cây  viết ký vào bản Hiệp Ước là xong. Với tư cách là “Người Lính Quân Đội  Nhân Dân Việt Nam”, có khi nào Các Anh cảm nhận được sự giằng xé từ  trong chiều sâu tâm hồn của Người Lính đối với Tổ Quốc và Nhân Dân  không? Nếu KHÔNG, tôi xin hỏi: “Các Anh là người Việt Nam hay người  Trung Hoa?” Nếu CÓ, tôi xin hỏi: “Vậy, Các Anh đang nghĩ gì…?”
Nhìn ra Biển Đông
Ngày 2/12/2007, Quốc Vụ Viện Trung Cộng thành lập quận Tam Sa trong  tỉnh Hải Nam, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.  Lãnh đạo Các Anh phản ứng qua Lê Dũng, người phát ngôn của Bộ Ngoại  Giao, đủ để gọi là có phản ứng, và sau đó im lặng hoàn toàn. Nhớ lại hồi  tháng 5/2009, Trung Cộng trưng ra tấm bản đồ Biển Đông với hình chữ U  thường gọi là “đường lưỡi bò” để giành chủ quyền hơn 80% diện tích biển  này.
Trích bài viết của tác giả Vũ Cao Đàm, giúp Các Anh nhận rõ thêm về  chính sách bang giao phục tùng của lãnh đạo Các Anh đối với Trung Cộng:
“Năm 2010, tôi đọc được một bài báo sặc mùi hiếu chiến được đăng trên  trang mạng “Trung Quốc Binh Khí Đại Toàn” là một trang mạng của Trung  Cộng. Tôi đã dịch sang Việt ngữ và gửi đăng trên trang Bauxite Việt Nam  (BVN). Ngay sau khi BVN đăng tải, tôi rất vui mừng vì bản dịch rất nhanh  chóng lan truyền trên các trang mạng và blog của Cộng Đồng Việt Nam, và  nhận được những lời bình luận sôi sục tình cảm yêu nước thương nòi, căm  thù bọn cộng sản xâm lược khát máu Đại Hán, và thức tình lương tri của  những ai đang còn mê muội ảo tưởng vào giọng lưỡi xảo trá “đồng chí quốc  tế vô sản, anh em môi hở răng lạnh, 4 tốt, và 16 chữ vàng”. Bài báo kết  thúc bằng lời nguyền của họ là: “hãy giết chết bọn giặc Việt Nam để làm  vật tế cờ cho trận chiến Nam Sa”.
Ngày 28/8/2011, theo bản tin thông tấn xã Việt Mam, Tướng Nguyễn Chí  Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong buổi họp với Tướng Mã Hiểu  Thiên, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Trung Cộng tại Bắc Kinh, Tướng  Vịnh nói: “Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển  thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng… Việt  Nam sẽ ‘kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam,  và dứt khoát không để sự việc tái diễn… Việt Nam không bao giờ  dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”.
Ngày 1/8/2012, theo bản tin của tỉnh Hải Nam thì họ sẽ làm chủ Biển Đông  với hạm đội tàu cá lên đến 22.000 chiếc với 225.000 ngư dân. Trong số  ngư dân, có đến 110.000 ngư dân sắp được võ trang. Riêng đoàn tàu cá  loại lớn với 5.000 chiếc, sẽ dàn trải khắp vùng biển từ hải phận Bà Rịa  Vũng Tàu đến quần đảo Trường Sa. Ngày 2/8/2012, tỉnh Quảng Đông cũng cho  biết, hơn 1.000 tàu cá của thành phố Dương Giang đã quay mũi ra Biển  Đông, ngay sau lời của Phó Chủ Tịch tỉnh Quảng Đông Liu Kun tuyên bố lễ  hội đánh cá bắt đầu. “Phải chăng, Trung Cộng sử dụng đoàn tàu đánh cá  khổng lồ của chúng để bao vây lấn chiếm Biển Đông, hay ít nhất là bao  vây vùng đánh cá rộng lớn trên Biển Đông của Việt Nam?”
Ngày 30/11/2012, tàu khảo sát Bình Minh 2 của Việt Nam đang công tác  nghiên cứu trong vùng biển Việt Nam, bị hai tàu cào cá của Trung Cộng  cắt cáp thu nổ địa chấn. Nhớ lại, tàu Bình Minh 2 đã một lần bị tàu hải  giám của Trung Cộng cắt cáp ngày 26/5/2011.
Ngày 6/12/2012, các hãng thông tấn lớn trên thế giới đều loan tin Trung  Cộng “ra lệnh cho cộng sản Việt Nam phải ngưng tất cả công trình dò tìm  dầu khí ở Biển Đông, và không được quấy nhiễu tàu đánh cá của họ”.
Tôi vẫn không quên là trong thời gian gần đây, Không Quân Nhân Dân Dân  với Hải Quân Nhân Dân Việt Nam, được gia tăng đáng kể về khả năng tuần  thám và chiến đấu. Nhưng tôi xin hỏi: “Có bao giờ Các Anh được hệ thống  truyền thanh truyền hình báo chí, đưa tin Không Quân với Hải Quân Nhân  Dân ra khơi để bảo vệ tàu cá của “Nhân Dân Việt Nam”, khi bị những đoàn  tàu Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm rồi tịch thu tài sản, còn bắt ngư phủ  Việt Nam đem tiền chuộc mạng không?”
Hỏi cũng là trả lời “Hoàn toàn không!” Vậy là, Hải Quân Nhân Dân Các Anh  chỉ bảo vệ đảng độc tài chớ đâu có bảo vệ Dân mà kèm theo hai chữ Nhân  Dân! Phải chăng lãnh đạo Các Anh mua để có được khoản tiền hoa hồng, còn  máy bay với tàu chiến để phô trương chớ không phải ngăn chận Trung  Cộng, vì ngư dân Việt Nam thì có Dân Quân Biển tự lo mà!. Rõ ràng là  thực tế đã chứng minh điều đó.
Nhìn trong nội địa
Tháng 11/2007, ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng đảng cộng sản ban hành  Quyết Định số 167/2007, về thăm dò khai thác quặng Bauxite trên Cao  Nguyên Miền Trung trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2015, xét đến năm  2025, và giao cho Tập Đoàn Than & Khoáng Sản quốc doanh Việt Nam  thực hiện. Tập đoàn này dành một hợp đồng cho Công ty Chalieco của Trung  Cộng khai thác. Để nhận ra sự nguy hại đến an ninh quốc gia, Các Anh  hãy đọc lời cảnh báo từ một số nhân vật quan ngại sâu sắc đến quyết định  nói trên:
Ngày 27/3/2009, báo Tuổi Trẻ tại Hà Nội. Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, Giám  Đốc Công Ty Năng Lượng Sông Hồng thuộc Tập Đoàn Khai Thác Than &  Khoáng Sản, được mời đến văn phòng trung ương đảng dự buổi tọa đàm. Sau  đó, trong thư gởi Bộ Chính Trị, ông Sơn viết: “Lựa chọn nhà thầu Trung  quốc là một sai lầm… Tôi có thể khẳng định, nếu đấu thầu một cách minh  bạch, đúng luật, thì không một nhà thầu Trung Quốc nào có thể thắng thầu  trong bất cứ dự án Bauxite nào”.
Ngày 3/4/2009 (Đối thoại online). Thiếu Tướng Công An Lê Văn Cương,  nguyên Viện trưởng Viện Chiến Lược & Khoa Học Bộ Công An, phân tách  về địa thế của Tây Nguyên như sau: “Trung Quốc vào Tây Nguyên là họ đã  có điều kiện khống chế đối với cả ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.  Hiện nay Trung Quốc đã thuê một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Munbunkiri, sát  biên giới tỉnh Dak Nông với thời gian 99 năm, và họ đã làm chủ các dự  án kinh tế lớn ở tỉnh A-tô-pơ, tỉnh cực Nam của Lào, giáp với Việt Nam  và Campuchia (tại ngã ba Đông Dương). Đây là hậu họa khôn lường đối với  an ninh quốc gia.
Ngày 17/8/2011, trên báo Dân Việt, ông Nguyễn Trần Bạt, Chủ Tịch Tổng  Giám đốc Investconsult Group trong bài “Chuyên gia nói về người Trung  Hoa thuê đất”, hiện tượng này là một sự tranh giành không gian sống.  Không những thế, đó là một hệ thống các hành vi trong âm mưu của họ.  Theo ông thì cứ cái đà này sẽ dẫn đến tình trạng từ sản phẩm cho đến  ruộng đất, từ đất canh tác công nghiệp là rừng, cho đến đất canh tác cây  lương thực đều nằm trong chiến lược của họ, tất nhiên là nguy hiểm cho  Việt Nam.
Ngày 31/8/2011 (trang Bauxite online). Giáo sư Vũ Cao Đàm nhận định:  “Bằng chiêu bài“ hợp tác khai thác bô-xit”, đế quốc Trung Cộng đã đóng  chốt ở một vùng vô cùng hiểm yếu của bán đảo Đông Dương, cộng với những  hợp đồng thuê 300.000 mẫu tây đất rừng đầu nguồn với các “đồng chí” của  họ tại các địa phương trên suốt các vùng biên giới, Trung Cộng đã tạo ra  một thế quân sự vô cùng nguy hiểm có khả năng làm tê liệt khả năng phản  công bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam khi bị Trung Cộng tấn công từ bốn  phía. Chúng ta không quên cộng thêm một bầy nhung nhúc gồm trên  1.300.000 người lao động Trung Cộng, gồm những tráng đinh chắc chắn đã  giải ngũ sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Bọn chúng được các“ đồng  chí” sắp xếp đều khắp đủ mọi miền trên đất Việt Nam đã tạo ra một đạo  quân dự bị khổng lồ, cầm súng bắn được ngay, đang mai phục khắp đất nước  này. Một nguy cơ đang rập rình chờ đợi và người dân Việt – những ai còn  tỉnh táo – đành sống trong muôn nỗi phập phồng!”
Tôi góp nhặt một số sự kiện trong số hằng ngàn sự kiện diễn ra ngay  trong nội địa Việt Nam chúng ta, hẳn là Các Anh đã biết đến sự kiện kinh  khủng này chớ? Tại nơi nhà thầu Trung Cộng đang khai thác ở Nhơn Cơ  (Đắc Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng), bùn đỏ đang là thảm họa trong hiện tại  và trong tương lai đối với con người và rừng thiên nhiên từ Cao Nguyên  Miền Trung xuống thung lũng Đồng Nai, ra vùng duyên hải Đông Bắc Sài  Gòn.
Và thảm họa cao nhất ngay trong tầm mắt, là dân tộc Việt Nam chúng ta bị  kẻ thù từ trong lịch sử xa xưa, tái hiện trong thế giới ngày nay thống  trị lần nữa, với vũ khí chiến lược của họ là “4 tốt với 16 chữ vàng” mà  lãnh đạo Các Anh dùng làm phương châm trong bang giao với Trung Cộng.  Một Trung Cộng vừa thâm lại vừa độc, vừa gian lại vừa dối, trong mục  đích bành trướng bá quyền của họ trên thế giới mà quốc tế cộng sản đã  chủ trương từ đầu thế kỷ 20.
Kết luận
Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm,  15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm  điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn  phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn  trong tay, có bao giờ Các Anh suy nghĩ: “Những sự kiện mất đất dọc theo  biên giới, mất biển trong Vịnh Bắc Việt, mất quyền kiểm soát Biển Đông,  mất quyền kiểm soát tại những làng mạc của Trung Cộng trải dài từ Móng  Cáy Quảng Ninh cực bắc, dọc theo duyến hải đến tận Mũi Cà Mau cực nam,  và từ rừng núi tây bác Hà Nội dọc theo Trường Sơn xuống tận Cao Nguyên  miền Trung? Và liệu, đó có phải là dấu hiệu mà lãnh đạo Các Anh biến  nước Việt Nam chúng ta từ từ mất hút vào tay Trung Cộng không, vì năm  2020 đang chập chờn phía trước?”
Sau khi Các Anh nghiền ngẫm những sự kiện với dẫn chứng rõ ràng, tôi  nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt  thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét  nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng  sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình vào nhà tù lớn do Bộ  Chính Trị lãnh đạo bằng bản chất dối trá, và cai trị dối trá. Từ đó, Các  Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào  hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế  giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam  du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn  năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải  ngoại – đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi – sẽ hết lòng hỗ trợ  Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.
Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh  vượng của đất nước. Và Tự Do, không phải là quà tặng, mà chính chúng ta  phải tranh đấu. (trích trên internet).
Texas, tháng 12 năm 2013
Phạm Bá Hoa
Phạm Bá Hoa: Thư Số 26 Gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
on December 3, 2013 5:03 PM in VNCH & Quân Lực / 1 comment
Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954,  chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong  bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên  gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng  sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại  tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng  tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không  còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn  trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi  mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính  Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh”  viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ  huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham  Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh  phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là  trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng  chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt  trên căn bản đó.
Với thư này, tôi giúp Các Anh nhận ra thỏa hiệp kinh hoàng giữa lãnh đạo  cộng sản Việt Nam với lãnh đạo Trung Cộng. Tiếp theo là những sự kiện  rất trùng hợp, cho thấy lãnh đạo Các Anh đã và đang thực hiện những điều  đã thỏa hiêp mà theo đó là “Việt Nam đã và đang từng bước sáp phập vào  nước Trung Hoa”. Từ đó, Các Anh có thêm yếu tố mà suy nghĩ …..
Thứ nhất. Hội nghị năm 1990 tại Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Cộng
Ông Nguyễn Văn Linh (Wikipedia – Nguyễn Văn Linh), tên thật là Nguyễn  Văn Cúc, chào đời ngày 1/7/1915 tại Hưng Yên. Không thấy nói trình độ  giáo dục, nhưng năm 14 tuổi có tham gia Học sinh đoàn do Hội Việt Nam  Cách Mạng Thanh Niên lãnh đạo. Ngày 1/5/1930, khi rải truyền đơn chống  Pháp thì bị bắt với án tù chung thân tại trại tù Côn Đảo. Năm 1936,  chánh phủ Pháp thay đổi lãnh đạo và ông được trả tự do. Ông Linh vào  đảng cộng sản tại Hải Phòng.
Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6, ông Nguyễn Văn Linh  giữ chức Tổng Bí Thư Ban Chấp Hành trung ương Trong đại hội 7 năm 1991  và đại hội 8 năm 1996, giữ chức Cố Vấn, Ban Chấp Hành trung ương. Ông  chết ngày 27/4/1998.
Ông Trần Quang Cơ (Google.vn – Hồi ký Trần Quang Cơ). Giữ chức Đại Sứ  tại Thái Lan từ tháng 10/1982 đến tháng 10/1986. Giữ chức Thứ Trưởng  Ngoại Giao từ tháng 1/1987 đến 1993 ông về hưu.
Trước khi đến hội nghị Thành Đô
Từ  đầu năm 2004, giới cán bộ ngoại giao và giới trí thức ở Việt Nam đã  chuyền tay nhau tập hồi ký và suy nghĩ của ông Trần Quang Cơ, nguyên Thứ  Trưởng Ngoại Giao. Tập hồi ký 82 trang viết từ năm 2001, hoàn tất tháng  5/2003, nhưng chưa được phép xuất bản. Tác giả cung cấp những tài liệu  giá trị về những vấn đề Việt Nam trong giai đoạn nguy khốn nhất, bởi  chiến tranh Campuchia và tái lập bang giao (Các Anh gọi là quan hệ) giữa  hai nước cộng sản đàn anh Trung Hoa với đàn em Việt Nam.
Ngày 9/4/1987, Bộ Chính Trị quyết định thành lập “Tổ Nghiên Cứu Nội Bộ”  để tìm giải pháp trong bang giao với Liên Xô – Trung Cộng – Camphuchia.  Ông Trần Quang Cơ là một thành viên trong tổ nghiên cứu này. Ngày  20/5/1988, Nghị Quyết 13 nhắm giải quyết vấn đề Campuchia trước năm  1990, và cố gắng tái lập bang giao với Trung Cộng. Ngày 14/3/1989, Bộ  Chính Trị quyết định rút hết quân khỏi Campuchia vào cuối tháng 9/1989.  Ngày 13/6/1990, Đại Sứ Trung Cộng tại Việt Nam Từ Đôn Tín, đến gặp Bộ  Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch và nói: “Lần này tôi sang Hà Nội chủ  yếu để bàn với các đồng chí Việt Nam về vấn đề Campuchia, đồng thời cũng  xem xét nguyện vọng của các đồng chí, chúng tôi đã chuẩn bị ý kiến về  quan hệ hai nước Trung Quốc – Việt Nam”.
Ngày 29/8/1990, Đại Sứ Việt Nam tại Trung Cộng Trương Đức Duy trở về  nước để gặp Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh trao thông điệp của Tổng Bí Thư  Giang Trạch Dân, mời các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Cố vấn Phạm  Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên Trung Cộng vào ngày  3/9/1990, để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường  hoá bang giao giữa Việt Nam với Trung Cộng.
Điều lạ là ngày 24/8/1990, Trung Cộng đã bác bỏ việc bàn chuyện bình  thường hóa, mà đòi phải giải quyết vấn đề Campuchia trước. Theo ông  Nguyễn Cơ Thạch, Bộ Trưởng Ngoại Giao nhận định: “Sự thay đổi đột ngột  của Trung Quốc là do họ thấy Mỹ, Nhật, đặc biệt là các nước trong khối  ASEAN, tỏ thái độ thân thiện với Việt Nam, nên họ muốn phá Việt Nam”.
Ngày 30/8/1990, Bộ Chính Trị họp bàn về việc gặp lãnh đạo Trung Cộng.  Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Chúng ta cần bàn hợp tác với  Trung Cộng để bảo vệ Chủ Nghĩa Xã Hội và chống đế quốc, đồng thời hòa  hợp giữa Phnom Penh với Khmer đỏ để giải quyết vấn đề Campuchia”. Quan  điểm của Đại Tướng Lê Đức Anh là: “Phải bàn về hoà hợp dân tộc thực sự ở  Campuchia, vì nếu không có Polpot thì chiến tranh vẫn tiếp tục”.
Ngày 2/9/1990, Ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Phạm Văn Đồng đến Thành  Đô đúng hẹn. Tháp tùng có ông Hồng Hà chánh văn phòng trung ương, ông  Hoàng Bích Sơn Trưởng ban đối ngoại, và ông Đinh Nho Liêm Thứ Trưởng Bộ  Ngoại Giao, nhưng không có Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch vì cho  rằng quan điểm ông Thạch không thích hợp trong lần họp này.
Hội nghị Thành Đô
Ngày  3/9/1990. Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân và Thủ Tướng Lý Bằng của Trung  Cộng, đón các vị lãnh đạo cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và  Phạm Văn Đồng tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô.
Buổi họp đầu tiên chiều hôm nay, ông Nguyễn Văn Linh nói đến nguyện vọng  muốn nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia, và đặt trọng tâm vào vấn  đề bình thường hóa bang giao Việt-Trung.
Ngày 4/9/1990. Buổi sáng tiếp tục họp. Những vấn đề hội nghị thảo luân  hầu như đạt được nhận thức chung một cách đầy đủ, nên quyết định khởi  thảo một bản kỷ yếu của Hội Nghị. Lúc 2 giờ 30 chiều, tại khách sạn Kim  Ngưu, lãnh đạo hai nước Việt-Trung cử hành nghi thức ký kết chánh thức.  Hai bên riêng biệt do Tổng Bí Thư và Thủ Tướng ký. Đây là bước ngoặt  mang tính lịch sử của bang giao hai nước Việt-Trung.
Điều lạ là ông tác giả hồi ký chỉ cho biết hai bên đạt được nhận thức  chung một cách đầy đủ, nhưng không một chi tiết nào cho thấy hai bên đạt  được những gì. Vậy, phải chăng những chi tiết đó thuộc loại tối mật  chăng?
Trong cuốn sách “Mao Chủ Tịch của tôi” của tác giả Hà Cẩn, Viện Văn Học  Trung Cộng đã được giới thiệu trong “Những sự thật không thể chối bỏ” có  đoạn viết: ”Việt Nam cuối cùng cũng đã xích lại gần hơn nữa với Trung  Quốc. Những gì thuộc về quan hệ tốt đẹp của hai đảng từ thời Mao Chủ  tịch và Hồ Chủ tịch đã được Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh cụ thể hơn sau  chiến tranh biên giới năm 1979. Không có gì có lợi hơn cho cả Việt Nam  và Trung Quốc khi đứng cạnh nhau”.
Sau hội nghị Thành Đô
Sau 2 ngày họp 3 và 4/9/1990, kết quả được ghi lại trong “Biên Bản”  gồm 8 điểm. Trong đó có đến 5 điểm nói về Campuchia, 2 điểm nói đến bang  giao quốc tế, chỉ có 1 điểm nói đến cải thiện bang giao Việt Nam –  Trung Cộng. Tác giả nhận định rằng: “Thỏa thuận Việt Nam-Trung Quốc ở  Thành Đô, hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của Việt Nam,  mà ngược lại là một sai lầm hết sức đáng tiếc trong bang giao giữa hai  nước.
Sự kiện Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ đã tác động rất lớn đến ông  Nguyễn Văn Linh, và dẫn đến tư tưởng phục tùng Trung Cộng, kẻ thù ngàn  đời của dân tộc Việt Nam. Mặc dù Nguyễn Cơ Thạch, Võ Chí Công, Trần Xuân  Bách can ngăn, nhưng ông Nguyễn Văn Linh không nghe, vẫn giữ quan điểm:  “Kéo Trung Quốc lại để thay thế Liên Xô, làm chỗ dựa vũng chắc bảo vệ  xã hội chủ nghĩa. Dù Trung Quốc bành trướng thế nào đi nữa thì Trung  Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa”.
Tóm tắt. Những sử liệu của Trung Cộng đã chứng minh nhóm dâng nước và  bán nước do ông Nguyễn Văn Linh đứng đầu. Những ai thật sự lương thiện  đã không theo cộng sản, hoặc nhận thấy cộng sản tồi tệ nên đã ly khai  khỏi đảng, đều công nhận rằng “cộng sản là dối trá và ngụy biện”. Cái  cách mà ông Nguyễn Văn Linh dối gạt dân khi nói đến chủ trương “cởi  trói” chính là cách ngụy biện cho đường lối độc tài của cộng sản: Vậy  thì mỗi chúng ta hãy đem những sự thật này đến với nhân dân Việt Nam, vì  đó là con đường ngắn nhất để cứu nước trước thảm họa đang đến rất gần.  Đấu tranh cho dân chủ, trước hết phải lật đổ cộng sản.
Cuối cùng, tôi không tìm thấy thỏa hiệp về tái lập bang giao giữa hai  nước cộng sản Việt-Trung trong Biên Bản hội nghị Thành Đô, chỉ thấy được  nhận định của tác giả cho rằng, thỏa thuận với Trung Cộng là một sai  lầm hết sức đáng tiếc. Vậy, sai lầm đó là gì? Các Anh hãy theo tôi, để  tìm sự thật qua những tài liệu mà tôi trưng dẫn liên quan đến nhận định  của Thứ Trưởng Ngoại Giao Trần Quang Cơ lúc ấy.
Thứ hai. Đi tìm sự thật trong biên bản hội nghị Thành Đô
Theo hồi ký của ông Trần Quang Cơ, “Biên Bản” hội nghị Thành Đô ngày  4/9/1990 có 8 điểm, trong đó 5 điểm về Campuchia, 2 điểm về quốc tế, chỉ  có 1 điểm nói đến bang giao Việt Nam với Trung Cộng, nhưng không có chi  tiết nào về nội dung. Nhưng tác giả thừa nhận thỏa thuận đó là một sai  lầm hết sức đáng tiếc. Tôi nghĩ, ông Trần Quang Cơ muốn nói đến sai lầm  trong nội dung điểm cải thiện bang giao với Trung Cộng, và có thể vì vậy  mà quyển sách vẫn chưa được lãnh đạo của ông cho phép ấn hành chăng?
Vậy, sai lầm đó là gì?
Mời Các Anh đọc đoạn văn dưới đây để tìm thấy sự thật mà tôi tin là cựu  Thứ Trưởng Ngoại Giao Trần Quang Cơ muốn nói nhưng không dám nói hoặc  không được nói. Xin nhấn mạnh rằng, hồi ký của ông Trần Quang Cơ cũng  như tài liệu dưới đây liên quan đến hội nghị Thành Đô hoàn toàn giống  nhau, ngoại trừ vấn đề cốt lõi là tái lập bang giao giữa hai nước cộng  sản Việt Nam với Trung Hoa thì giấu kín.
Tôi tin chắc rằng, nội dung thỏa hiệp bình thường hóa bang giao giữa  Trung Cộng với Việt Cộng trong Biên Bản hội nghị Thành Đô ngày 4/9/1990,  là tin tức mà tổ chức Wikileaks cho biết họ có trong tay khối tài liệu  liên quan đến Việt Nam vào khoảng 2.300 điện tín gửi đi từ tòa đại sứ  Hoa Kỳ ở Hà Nội, và khoảng 800 điện tín từ tòa lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn,  trong số 251.287 điện tín tài liệu trao đổi giữa 250 tòa đại sứ và tòa  tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại hơn 90 quốc gia với Bộ Ngoại Giao tại Hoa Thịnh  Đốn. Trong số hơn 3.100 điện tín liên quan đến Việt Nam có cả những loại  “tối mật”, đặc biệt hơn cả là Biên Bản về cuộc họp tối mật giữa Tổng Bí  Thư Nguyễn Văn Linh & Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Đỗ Mười của Việt  Nam, với Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân & Thủ Tướng Lý Bằng của Trung  Cộng, ngày 3 và 4/9/1990 tại Thành Đô. Biên Bản này có đoạn:
“… Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản,  đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết  các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun  đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước, do  Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong  quá khứ. Việt Nam bày tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị  phía Trung Quốc để Việt Nam được hưởng quy chế Khu tự trị trực thuộc  chính quyền trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã từng dành cho Nội  Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đã đồng ý và chấp nhận đề  nghị nói trên, cho Việt Nam trong thời hạn 30 năm (1990-2020) để đảng  cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia  nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.
Vậy, có thể nói mà không sợ lầm lẫn là nội dung 1 điểm trong 8 điểm của  Biên Bản Thành Đô liên quan đến vấn đề bang giao giữa hai nước cộng sản  Việt Nam-Trung Hoa là đoạn văn bên trên. Và dưới đây là chuỗi sự kiện từ  sau hội nghị Thành Đô 1990 đến nay, cho dù lãnh đạo Các Anh có phủ nhận  đến đâu đi nữa, nó vẫn là một loạt dẫn chứng lãnh đạo Các Anh đã và  đang thực hiện các bước tiến hành cần thiết đó.
Nhìn lên biên giới
Ngày 30/12/1999 tại Bắc Kinh, lãnh đạo Việt Nam với lãnh đạo Trung  cộng đã ký Hiệp Ước biên giới trên bộ, và ông Nông Đức Mạnh với tư cách  Chủ Tịch Quốc Hội đã phê chuẩn ngày 9/6/2000. Theo đó, biên giới Việt  Nam mất 789 cây số vuông vào tay Trung Cộng, bao gồm Ải Nam Quan và 3/4  thác Bản Giốc.
Xin hỏi: “Các Anh có chấp nhận sự thực này không? Nếu không, mời đọc vài  đoạn ngắn trong bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, Hà Nội: “…  Hiệp Ước bán phần đất biên giới chỉ được lãnh đạo Việt Nam thông báo  trong nội bộ đảng, như thể đất nước này là tài sản riêng của đảng cộng  sản vậy. Thông báo chánh thức đó như thế này: Toàn bộ diện tích các khu  vực hai bên có nhận thức khác nhau khoảng 227 cây số vuông. Qua đàm  phán, hai bên đã thỏa thuận khoảng 113 cây số vuông thuộc Việt Nam, và  khoảng 114 cây số vuông thuộc Trung Hoa. Như vậy, diện tích được giải  quyết cho mỗi bên xấp xỉ ngang nhau, hoàn toàn không có việc ta để mất  một diện tích lớn như bọn phản động và bọn cơ hội chính trị bịa đặt”.  Rồi ông Giang mỉa mai: Vậy là cái xấp xỉ đó có mất đất thật! Nhưng mất  theo nguyên tắc nào? Vì sao Việt Nam chỉ có 320 ngàn cây số vuông lại  phải xẽ cho Trung Hoa với diện tích 9 triệu 600 ngàn cây số vuông để họ  có thêm 1 cây số vuông nữa? Cho dù Trung Hoa có 1 tỉ 300 triệu dân,  nhưng đâu phải họ thiếu đất cho dân ở đến nỗi Việt Nam phải chia cho họ 1  cây số vuông?” …..
Các Anh có cảm nhận được nỗi đau qua lời than của ông Giang không? Lời  than của một ông Giang trong hàng trí thức của cộng sản, nghe sao mà đau  đớn quá! Cay đắng quá! Lời than như nối dài lời dạy của Vua Trần Nhân  Tông từ trong lịch sử xa xưa! Vào nửa cuối thế kỷ 13, khi trao quyền cho  con (Trần Anh Tông), vua Trần Nhân Tông có lời dạy rằng:
“Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo  làm người. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo, vô  luân. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường  chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải, các việc trên khiến ta nghĩ tới  chuyện khác lớn hơn là họa ngoại xâm. Họ không tôn trọng biên giới theo  qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính  được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai và hải đảo của ta, lâu  dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim  chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn: “Một tấc đất của tiền nhân để  lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác”. Ta cũng để lời nhắn nhủ  đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu.” Kẻ khác, mà vua Trần Nhân  Tông nói đến, thuở ấy là Trung Hoa phong kiến, và bây giờ là Trung Hoa  cộng sản. Ngắn gọn là Trung Cộng.
Nhìn vào vịnh Bắc Việt
Sau khi chiếm được 789 cây số vuông dọc biên giới, ngày 31/12/1999,  Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung Cộng Tang Jiaxuan sang Hà Nội gặp riêng ông  Lê Khả Phiêu, đòi phân chia lại phần biển trong Vịnh Bắc Việt. Ngày  25/2/2000, Lê Khả Phiêu cử Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Dy Niên sang Bắc  Kinh cho biết phía Việt Nam đồng ý giao thêm phần biển. Ngày 26/7/2000,  tại khách sạn Shangri-La ở Thái Lan, Ngoại Trưởng Trung Cộng nói với  Ngoại Trưởng Nguyễn Dy Niên ràng: “Trung Cộng muốn chia Vịnh Bắc Việt  theo tỷ lệ 50/50”. Ngày 24/12/2000, Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng  được Chủ Tịch Trần Đức Lương cử sang Trung Cộng gặp ông Hoàng Di, phụ  trách tình báo và là cánh tay phải của Ngoại Trưởng Trung Cộng. Họ vẫn  khăng khăng đòi tỷ lệ 50/50 trên vịnh Bắc Việt, gồm cả đảo Bạch Long Vĩ.  Lê Công Phụng được lệnh Bộ Chính Trị cố gắng “xin lại 6%” gần khu vực  Bạch Long Vĩ. Kết quả cuối cùng cuộc đi đêm của Lê Công Phụng, biên giới  trên Vịnh Bắc Việt của Việt Nam từ 62% xuống còn 56%, và Trung Cộng từ  38% tăng lên 44%.
Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch nhà nước Trần Đức Lương sang Bắc Kinh ký Hiệp  Ước bán biên giới trên vịnh Bắc Việt cho Trung Cộng. Từ đó, tổ quốc Việt  Nam bị mất 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt. Hãy nghe Lý Bằng nói  với Trần Đức Lương tại Quảng Trường Nhân Dân ngày 26/12/2000 như sau:  “Số tiền 2 tỷ mỹ kim để mua một phần Vịnh Bắc Việt là hợp lý”. Lý Bằng  nói tiếp: “Trong thời gian chiến tranh, Trung Hoa đã giao cho Việt Nam  vô số vũ khí để mua vùng đất Sapa, Ải Nam Quan, thác Bản Giốc,…..
Vậy là, chỉ hơn một năm, họ đã chiếm được 789 cây số vuông trên biên  giới, và 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt, mà Trung Cộng không  chết một mạng người, không bắn một viên đạn, không tốn một giọt xăng  dầu, cũng không nhỏ một giọt mồ hôi, họ chỉ cần nhón 3 ngón tay cầm cây  viết ký vào bản Hiệp Ước là xong. Với tư cách là “Người Lính Quân Đội  Nhân Dân Việt Nam”, có khi nào Các Anh cảm nhận được sự giằng xé từ  trong chiều sâu tâm hồn của Người Lính đối với Tổ Quốc và Nhân Dân  không? Nếu KHÔNG, tôi xin hỏi: “Các Anh là người Việt Nam hay người  Trung Hoa?” Nếu CÓ, tôi xin hỏi: “Vậy, Các Anh đang nghĩ gì…?”
Nhìn ra Biển Đông
Ngày 2/12/2007, Quốc Vụ Viện Trung Cộng thành lập quận Tam Sa trong  tỉnh Hải Nam, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.  Lãnh đạo Các Anh phản ứng qua Lê Dũng, người phát ngôn của Bộ Ngoại  Giao, đủ để gọi là có phản ứng, và sau đó im lặng hoàn toàn. Nhớ lại hồi  tháng 5/2009, Trung Cộng trưng ra tấm bản đồ Biển Đông với hình chữ U  thường gọi là “đường lưỡi bò” để giành chủ quyền hơn 80% diện tích biển  này.
Trích bài viết của tác giả Vũ Cao Đàm, giúp Các Anh nhận rõ thêm về  chính sách bang giao phục tùng của lãnh đạo Các Anh đối với Trung Cộng:
“Năm 2010, tôi đọc được một bài báo sặc mùi hiếu chiến được đăng trên  trang mạng “Trung Quốc Binh Khí Đại Toàn” là một trang mạng của Trung  Cộng. Tôi đã dịch sang Việt ngữ và gửi đăng trên trang Bauxite Việt Nam  (BVN). Ngay sau khi BVN đăng tải, tôi rất vui mừng vì bản dịch rất nhanh  chóng lan truyền trên các trang mạng và blog của Cộng Đồng Việt Nam, và  nhận được những lời bình luận sôi sục tình cảm yêu nước thương nòi, căm  thù bọn cộng sản xâm lược khát máu Đại Hán, và thức tình lương tri của  những ai đang còn mê muội ảo tưởng vào giọng lưỡi xảo trá “đồng chí quốc  tế vô sản, anh em môi hở răng lạnh, 4 tốt, và 16 chữ vàng”. Bài báo kết  thúc bằng lời nguyền của họ là: “hãy giết chết bọn giặc Việt Nam để làm  vật tế cờ cho trận chiến Nam Sa”.
Ngày 28/8/2011, theo bản tin thông tấn xã Việt Mam, Tướng Nguyễn Chí  Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong buổi họp với Tướng Mã Hiểu  Thiên, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Trung Cộng tại Bắc Kinh, Tướng  Vịnh nói: “Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển  thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng… Việt  Nam sẽ ‘kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam,  và dứt khoát không để sự việc tái diễn… Việt Nam không bao giờ  dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”.
Ngày 1/8/2012, theo bản tin của tỉnh Hải Nam thì họ sẽ làm chủ Biển Đông  với hạm đội tàu cá lên đến 22.000 chiếc với 225.000 ngư dân. Trong số  ngư dân, có đến 110.000 ngư dân sắp được võ trang. Riêng đoàn tàu cá  loại lớn với 5.000 chiếc, sẽ dàn trải khắp vùng biển từ hải phận Bà Rịa  Vũng Tàu đến quần đảo Trường Sa. Ngày 2/8/2012, tỉnh Quảng Đông cũng cho  biết, hơn 1.000 tàu cá của thành phố Dương Giang đã quay mũi ra Biển  Đông, ngay sau lời của Phó Chủ Tịch tỉnh Quảng Đông Liu Kun tuyên bố lễ  hội đánh cá bắt đầu. “Phải chăng, Trung Cộng sử dụng đoàn tàu đánh cá  khổng lồ của chúng để bao vây lấn chiếm Biển Đông, hay ít nhất là bao  vây vùng đánh cá rộng lớn trên Biển Đông của Việt Nam?”
Ngày 30/11/2012, tàu khảo sát Bình Minh 2 của Việt Nam đang công tác  nghiên cứu trong vùng biển Việt Nam, bị hai tàu cào cá của Trung Cộng  cắt cáp thu nổ địa chấn. Nhớ lại, tàu Bình Minh 2 đã một lần bị tàu hải  giám của Trung Cộng cắt cáp ngày 26/5/2011.
Ngày 6/12/2012, các hãng thông tấn lớn trên thế giới đều loan tin Trung  Cộng “ra lệnh cho cộng sản Việt Nam phải ngưng tất cả công trình dò tìm  dầu khí ở Biển Đông, và không được quấy nhiễu tàu đánh cá của họ”.
Tôi vẫn không quên là trong thời gian gần đây, Không Quân Nhân Dân Dân  với Hải Quân Nhân Dân Việt Nam, được gia tăng đáng kể về khả năng tuần  thám và chiến đấu. Nhưng tôi xin hỏi: “Có bao giờ Các Anh được hệ thống  truyền thanh truyền hình báo chí, đưa tin Không Quân với Hải Quân Nhân  Dân ra khơi để bảo vệ tàu cá của “Nhân Dân Việt Nam”, khi bị những đoàn  tàu Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm rồi tịch thu tài sản, còn bắt ngư phủ  Việt Nam đem tiền chuộc mạng không?”
Hỏi cũng là trả lời “Hoàn toàn không!” Vậy là, Hải Quân Nhân Dân Các Anh  chỉ bảo vệ đảng độc tài chớ đâu có bảo vệ Dân mà kèm theo hai chữ Nhân  Dân! Phải chăng lãnh đạo Các Anh mua để có được khoản tiền hoa hồng, còn  máy bay với tàu chiến để phô trương chớ không phải ngăn chận Trung  Cộng, vì ngư dân Việt Nam thì có Dân Quân Biển tự lo mà!. Rõ ràng là  thực tế đã chứng minh điều đó.
Nhìn trong nội địa
Tháng 11/2007, ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng đảng cộng sản ban hành  Quyết Định số 167/2007, về thăm dò khai thác quặng Bauxite trên Cao  Nguyên Miền Trung trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2015, xét đến năm  2025, và giao cho Tập Đoàn Than & Khoáng Sản quốc doanh Việt Nam  thực hiện. Tập đoàn này dành một hợp đồng cho Công ty Chalieco của Trung  Cộng khai thác. Để nhận ra sự nguy hại đến an ninh quốc gia, Các Anh  hãy đọc lời cảnh báo từ một số nhân vật quan ngại sâu sắc đến quyết định  nói trên:
Ngày 27/3/2009, báo Tuổi Trẻ tại Hà Nội. Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, Giám  Đốc Công Ty Năng Lượng Sông Hồng thuộc Tập Đoàn Khai Thác Than &  Khoáng Sản, được mời đến văn phòng trung ương đảng dự buổi tọa đàm. Sau  đó, trong thư gởi Bộ Chính Trị, ông Sơn viết: “Lựa chọn nhà thầu Trung  quốc là một sai lầm… Tôi có thể khẳng định, nếu đấu thầu một cách minh  bạch, đúng luật, thì không một nhà thầu Trung Quốc nào có thể thắng thầu  trong bất cứ dự án Bauxite nào”.
Ngày 3/4/2009 (Đối thoại online). Thiếu Tướng Công An Lê Văn Cương,  nguyên Viện trưởng Viện Chiến Lược & Khoa Học Bộ Công An, phân tách  về địa thế của Tây Nguyên như sau: “Trung Quốc vào Tây Nguyên là họ đã  có điều kiện khống chế đối với cả ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.  Hiện nay Trung Quốc đã thuê một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Munbunkiri, sát  biên giới tỉnh Dak Nông với thời gian 99 năm, và họ đã làm chủ các dự  án kinh tế lớn ở tỉnh A-tô-pơ, tỉnh cực Nam của Lào, giáp với Việt Nam  và Campuchia (tại ngã ba Đông Dương). Đây là hậu họa khôn lường đối với  an ninh quốc gia.
Ngày 17/8/2011, trên báo Dân Việt, ông Nguyễn Trần Bạt, Chủ Tịch Tổng  Giám đốc Investconsult Group trong bài “Chuyên gia nói về người Trung  Hoa thuê đất”, hiện tượng này là một sự tranh giành không gian sống.  Không những thế, đó là một hệ thống các hành vi trong âm mưu của họ.  Theo ông thì cứ cái đà này sẽ dẫn đến tình trạng từ sản phẩm cho đến  ruộng đất, từ đất canh tác công nghiệp là rừng, cho đến đất canh tác cây  lương thực đều nằm trong chiến lược của họ, tất nhiên là nguy hiểm cho  Việt Nam.
Ngày 31/8/2011 (trang Bauxite online). Giáo sư Vũ Cao Đàm nhận định:  “Bằng chiêu bài“ hợp tác khai thác bô-xit”, đế quốc Trung Cộng đã đóng  chốt ở một vùng vô cùng hiểm yếu của bán đảo Đông Dương, cộng với những  hợp đồng thuê 300.000 mẫu tây đất rừng đầu nguồn với các “đồng chí” của  họ tại các địa phương trên suốt các vùng biên giới, Trung Cộng đã tạo ra  một thế quân sự vô cùng nguy hiểm có khả năng làm tê liệt khả năng phản  công bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam khi bị Trung Cộng tấn công từ bốn  phía. Chúng ta không quên cộng thêm một bầy nhung nhúc gồm trên  1.300.000 người lao động Trung Cộng, gồm những tráng đinh chắc chắn đã  giải ngũ sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Bọn chúng được các“ đồng  chí” sắp xếp đều khắp đủ mọi miền trên đất Việt Nam đã tạo ra một đạo  quân dự bị khổng lồ, cầm súng bắn được ngay, đang mai phục khắp đất nước  này. Một nguy cơ đang rập rình chờ đợi và người dân Việt – những ai còn  tỉnh táo – đành sống trong muôn nỗi phập phồng!”
Tôi góp nhặt một số sự kiện trong số hằng ngàn sự kiện diễn ra ngay  trong nội địa Việt Nam chúng ta, hẳn là Các Anh đã biết đến sự kiện kinh  khủng này chớ? Tại nơi nhà thầu Trung Cộng đang khai thác ở Nhơn Cơ  (Đắc Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng), bùn đỏ đang là thảm họa trong hiện tại  và trong tương lai đối với con người và rừng thiên nhiên từ Cao Nguyên  Miền Trung xuống thung lũng Đồng Nai, ra vùng duyên hải Đông Bắc Sài  Gòn.
Và thảm họa cao nhất ngay trong tầm mắt, là dân tộc Việt Nam chúng ta bị  kẻ thù từ trong lịch sử xa xưa, tái hiện trong thế giới ngày nay thống  trị lần nữa, với vũ khí chiến lược của họ là “4 tốt với 16 chữ vàng” mà  lãnh đạo Các Anh dùng làm phương châm trong bang giao với Trung Cộng.  Một Trung Cộng vừa thâm lại vừa độc, vừa gian lại vừa dối, trong mục  đích bành trướng bá quyền của họ trên thế giới mà quốc tế cộng sản đã  chủ trương từ đầu thế kỷ 20.
Kết luận
Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm,  15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm  điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn  phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn  trong tay, có bao giờ Các Anh suy nghĩ: “Những sự kiện mất đất dọc theo  biên giới, mất biển trong Vịnh Bắc Việt, mất quyền kiểm soát Biển Đông,  mất quyền kiểm soát tại những làng mạc của Trung Cộng trải dài từ Móng  Cáy Quảng Ninh cực bắc, dọc theo duyến hải đến tận Mũi Cà Mau cực nam,  và từ rừng núi tây bác Hà Nội dọc theo Trường Sơn xuống tận Cao Nguyên  miền Trung? Và liệu, đó có phải là dấu hiệu mà lãnh đạo Các Anh biến  nước Việt Nam chúng ta từ từ mất hút vào tay Trung Cộng không, vì năm  2020 đang chập chờn phía trước?”
Sau khi Các Anh nghiền ngẫm những sự kiện với dẫn chứng rõ ràng, tôi  nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt  thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét  nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng  sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình vào nhà tù lớn do Bộ  Chính Trị lãnh đạo bằng bản chất dối trá, và cai trị dối trá. Từ đó, Các  Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào  hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế  giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam  du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn  năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải  ngoại – đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi – sẽ hết lòng hỗ trợ  Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.
Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh  vượng của đất nước. Và Tự Do, không phải là quà tặng, mà chính chúng ta  phải tranh đấu. (trích trên internet).
Texas, tháng 12 năm 2013
Phạm Bá Hoa
       
















