Tô Thùy Yên, tác giả ‘Chiều Trên Phá Tam Giang,’ qua đời ĐẠI DƯƠNG / NGƯỜI VIỆT - May 21, 2019 Nhà thơ Tô Thùy Yên. (Hình: lyrikline.org) HOUSTON, Texas (NV) – Nhà thơ Tô Thùy Yên, tác giả bài thơ “Chiều Trên Phá Tam Giang,” mà một phần của nó được cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ nhạc, vừa qua đời tối Thứ Ba, 21 Tháng Năm, tại Houston, Texas, hưởng thọ 81 tuổi, ông Đinh Hiệt, con trai nhà thơ, xác nhận với nhật báo Người Việt qua một tin nhắn.
Theo bài viết “Tuyển Tập Tô Thùy Yên” của tác giả Trần Doãn Nho đăng trên nhật báo Người Việt hôm 10 Tháng Hai, nhà thơ Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định. Học tại Gia Định và Sài Gòn. Viết từ cuối thập niên 1950. Tại ngũ từ 1964 đến 1975. Tù Cộng Sản 13 năm. Tị nạn tại Hoa Kỳ từ 1993. Vẫn theo tác giả Trần Doãn Nho, Tô Thùy Yên là một trong những nhà thơ lớn của văn học miền Nam Việt Nam (1954-1975). Bài thơ (được xem) như đầu tay của ông, “Cánh đồng, con ngựa, chuyến tàu,” được sáng tác lúc ông còn là một thiếu niên. “Thơ Tô Thùy Yên có rất nhiều khái niệm hoặc hình tượng triết lý – lời thơ đôi khi bí hiểm, khó hiểu – thì đồng thời lại không thiếu những hình ảnh hiện thực, có thể nói còn hiện thực hơn cả những nhà thơ hiện thực nhất,” theo tác giả Trần Doãn Nho nhận xét.
Theo lyrikline.org, một trang mạng sưu tầm thi ca, nhà thơ Tô Thùy Yên tốt nghiệp trung học Petrus Ký và Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trước năm 1975.
Theo nhà thơ Du Tử Lê viết trên blog của ông, thơ Tô Thùy Yên bắt đầu xuất hiện trên báo chí từ năm ông 16 tuổi. Gia nhập nhóm Sáng Tạo thành hình năm 1956, cộng tác đều đặn với nhiều tạp chí văn học ở miền Nam, chủ trương nhà xuất bản văn học Kẻ Sĩ. Đã xuất bản: Thơ Tuyển (một ấn bản tại Đức năm 1994, một ấn bản tại Mỹ năm 1995), Thắp Tạ (năm 2004).
Hồi đầu năm 2019, ông cho ra mắt “Tô Thùy Yên – Tuyển Tập Thơ,” gồm 96 bài thơ, gộp lại những bài từ hai tập trước, cộng thêm một số bài mới được tìm thấy và đưa vào sau này.
Vẫn theo tác giả Trần Doãn Nho, từ khi qua định cư tại Hoa Kỳ, Tô Thùy Yên cư ngụ tại thành phố Houston, tiểu bang Texas. Ông tiếp tục làm thơ và đi nhiều nơi tham gia các buổi sinh hoạt văn học cũng như giới thiệu tập thơ đầu tiên của ông. Tuy nhiên, trong những năm sau này, sức khỏe nhà thơ không được tốt, nên ông hiếm khi đi đâu và ít thấy xuất hiện trước công chúng. Vào năm 2017, nhân dịp 30 Tháng Tư lần thứ 42, đáp lời mời của trường đại học Yale University, muốn có tiếng nói của một nhà thơ miền Nam Việt Nam, dù đi đứng khá khó khăn, ông đã cố gắng đến tham dự và đọc thơ cùng với một số nhà thơ khác như Đinh Linh, Phan Nhiên Hạo, và Chân Phương vào ngày 26 Tháng Tư, 2017. Trong dịp này, ông cũng tham dự một buổi sinh hoạt đọc thơ Tô Thùy Yên khác tại trung tâm Việt-Aids do nhóm văn nghệ sĩ Boston tổ chức vào chiều tối ngày 28 Tháng Tư, 2017.
Hồi Tháng Hai, bà Huỳnh Diệu Bích, vợ ông, cho biết, ông đang nằm tĩnh dưỡng ở bệnh viện sau một cơn đột quỵ. (Đ.D.) Dấu tay & thủ bút của TÔ THÙY YÊN 2014
“Người về một bóng trên đường lớn!” Mới đó… Trời ơi! Một Bóng Ma! Tin ở Houston qua, báo vậy Tô Thùy Yên… mãi mãi Đi Xa!
Mãi mãi từ nay mất một người Mà nghe ngàn triệu tiếng Than Ôi! Chào anh! Vĩnh Biệt Người Anh Lớn Hẹn gặp… mà thôi Hết-Gặp-Rồi!
Mười Tám Thôn Vườn Trầu đang khóc Mưa Sài Gòn mưa tới Hóc Môn Tô Thùy Yên ạ… hoa me rụng Triệu giọt mưa thành Nước Mắt tuôn!
Tôi thật tình tôi đang ngã quỵ Anh về một bóng thiệt sao anh? Quê Hương đã đón anh về thật? Một bóng đường xa… lộ vắng tanh!
Một bóng đường xa… một bóng người Lời Chào Vĩnh Biệt nhận cho tôi! Tô Thùy Yên hỡi Người Anh Lớn Tôi chúc Anh Yên Giấc Ngậm Cười!
Trần Vấn Lệ Temple City 21-5-2019
Đi
Bài thơ cài trên cửa Sau cùng đã khuất duy Những con chữ rơi xuống Tan theo bóng thầm thì Đường lớn ôi đường lớn Ừ thì đi. Rồi đi.
Không còn
chẳng còn gì thắp tạ người ôm hết bó nhang đi về chong nhật nguyệt pha lê màu thủy tinh sẽ không ai nhìn thấy tin thơ. ở dạng hình
Hoàng Xuân Sơn 22/5/2019 Kính tiễn Từ Tạ Chợt tin người đã thiên thu Dưng không trời đổ sa mù trong tôi Ôi Trời! Ôi Đất! Ơi Người! Sao đi bỏ chữ… mồ côi, từ rày! Cao Vị Khanh
“thảng như con ngựa già vô dụng chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình” (thơ TTY)
để kính tiễn ông. sơn dầu trên bố. Đinh Trường Chinh
Chiều Trên Phá Tam Giang - Tô Thùy Yên
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn (Ca dao)
1. Chiếc trực thăng bay là mặt nước Như cơn mộng nhanh Phá Tam Giang, phá Tam Giang Bờ bãi hỗn mang, dòng bát ngát Cát hôn mê, nước miệt mài trôi Ngó xuống cảm thương người lỡ bước Trời nước mông mênh, thân nhỏ nhoi Phá Tam Giang, phá Tam Giang Nhớ câu ca dao sầu vạn cổ Chiều dòn tan, nắng đọng nứt ran ran Trời thơm nước, thơm cây, thơm xác rạ Thơm cả thiết tha đời Rào rào trận gió nhám mặt mũi Rào rào trận buồn ngây chân tay
Ta ngó thấy ghe thuyền quần tụ Từng đoàn như trẻ nhỏ ghê ma Ta ngó thấy thuỳ dương gãy rủ Từng cây như nỗi bất an già Ta ngó thấy rào chà cản nước Từng hàng như nỗ lực lao đao Ta ngó thấy nhà cửa trốc nóc Từng ngôi như mặt đất đang gào Vì sao ngươi tới đây? Hỡi gã cộng quân sốt rét, đói Xích lời nguyền sinh Bắc, tử Nam Vì sao ta tới đây? Lòng xót xa, thân xác mỏi mòn Dưới mắt người làm tên lính nguỵ
Ví dầu ngươi bắn rụng ta Như tiếng hét Xé hư không bặt im Chuyện cũng thành vô ích Ví dầu ngươi gục Vì bom đạn bất dung Thi thể chẳng ai thâu Nào có chi đáng kể Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm Có cùng gom góp lại Mặt đất này đổi khác được bao nhiêu? Ngươi há chẳng thấy sao Phá Tam Giang, phá Tam Giang ngày rày đâu đã cạn?
Ta phá lên cười, ta phá lên cười Khi tưởng tượng ngươi cùng ta gặp gỡ Ở cõi âm nào ngươi vốn không tin Hỏi nhau chơi thoả chút tính bông đùa: Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh Cho tổ quốc Việt Nam - một tổ quốc...? Các việc ngươi làm Ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm Các việc ta làm Ta xét thấy chẳng ra chi Nên ngươi hăng điên, còn ta ảm đạm Khi cùng làm những việc như nhau
Ta tự hỏi vì sao (Còn ngươi, có bao giờ ngươi tự hỏi?) Và ta tự trả lời (Có bao giờ ngươi tự trả lời?) Chúng ta khác nào cánh quạt phi cơ Phải quạt, phải quạt Chỉ vì nó phải quạt Ta thương ta yếu hèn Ta thương ngươi khờ khạo Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng Nên cả hai cùng mắc đường Lịch Sử Cùng mê sa một con đĩ thập thành
Chiều trên phá Tam Giang rộn ràng tiếng chiến trận Chiều trên phá Tam Giang im lìm âm cảm thông
2. Chiều trên phá Tam Giang Anh sực nhớ em Nhớ bất tận
Giờ này thương xá sắp đóng cửa Người lao công quét dọn hành lang Những tủ kính tối om Giờ này thành phố chợt bùng lên Để rồi tắt nghỉ sớm (Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm Sài Gòn không còn buổi tối nữa) Giờ này có thể trời đang nắng Em rời thư viện đi rong chơi Dưới đôi vòm cây ủ yên tĩnh Viền dòng trời ngọc thạch len trôi
Nghĩ tới ngày thi tương lai thúc hối Căn phòng cao ốc vàng võ ánh đèn Quyển sách mở sâu đêm Nghĩ tới người mẹ đăm chiêu, đứa em quái quỷ Nghĩ tới đủ thứ chuyện tầm thường Mà cô gái nào cũng nghĩ tới Rồi nghĩ tới anh, nghĩ tới anh Một cách tự nhiên và khốn khổ Giờ này có thể trời đang mưa Em đi nép hàng hiên sướt mướt Nhìn bong bóng nước chạy trên hè Như những đoá hoa nở gấp rút Rồi có thể em vào một quán nước quen Nơi chúng ta thường hẹn gặp Buông tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao Giữa những đám ghế bàn quạnh quẽ
Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh Cơn nghĩ tới không sao cầm giữ nổi Như dòng lệ nào bất giác rơi tuôn Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng Của chiến tranh mà em không biết rõ Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng Một điều em sợ phải nghĩ tới Giờ này thành phố chợt bùng lên
Chiều trên phá Tam Giang Anh sực nhớ em Nhớ bất tận
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi Rực chiếu bao nhiêu giấc mộng đua đòi Như những mặt trời con thật dễ thương Sẽ rơi rụng dọc đường lên dốc tuổi Mỗi sáng trưa chiều tối đêm khuya Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi Coi chuyện đó như lần đi tuyệt tích Trong nước trời lãng đãng nghìn trùng Không nghe thấy cả tiếng mình độc thoại Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi Một cành mai nhị độ Thấy tình yêu như vận hội tàn đời Để xé mình khỏi ác mộng Mà người đàn ông mê tưởng suốt thanh xuân
Ôi tình yêu, bằng chứng huy hoàng của thất bại!
3. Chiều trên phá Tam Giang Mày nhìn con nước xiết Chảy băng bờ bãi ngổn ngang câm Nghĩ tới, nghĩ tới những công trình mày có thể hoàn thành Mà rồi mày bỏ dở Nghĩ tới kiếp người đang lỡ độ đường Trên mịt mùng nghi hoặc Nghĩ tới thanh xuân mất tích tự đời nào Còn lưu hậu chua cay hoài vọng Nghĩ tới khu vườn ẩn cư cỏ cây khuất lấp Căn nhà ma ám chầy ngày gió thổi miên man Đụt tuổi già bình an vô tích sự Như lau lách bờm sờm trên mặt sông nhăn Cùng cái chết Cái chết lâu như nỗi héo hon dần Làm chính mình bực bội Gió muôn ngàn năm thổi lẽ tuần hoàn Cho cỏ cây thay đời đổi kiếp Và mày kinh sợ nghe nhắc điều vượt sức bình sinh Bởi mày không đủ dạn dày trình diễn tới lui cơn thất chí Như gã hề cuồng mưu sinh giữa chốn đông người Với từng ấy tấn tuồng bần tiện Rút ra từ lịch sử u mê Gió thổi thêm đi, gió thổi thêm đi Cho cỏ cây mau chết, mau hồi sinh Mày mặc kệ
Chiều trên phá Tam Giang Có gã hề cuồng buông tiếng cười lạnh rợn Khiến bầy ác thú mà lịch sử sanh cầm cũng chợt hãi hùng Dớn dác ngó 6-1972
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ nhạc thành bài hát cùng tên.
Nguồn: Tô Thuỳ Yên, Thơ tuyển, Minnesota, 1995
Chiều trên phá Tam Giang anh chợt nhớ em nhớ ôi niềm nhớ ôi niềm nhớ đến bất tận em ơi em ơi
Giờ này thương xá sắp đóng cửa người lao công quét dọn hành lang giờ này thành phố chợt bùng lên để rồi tắt nghỉ sớm ôi Sàigòn Sàigòn giờ giới nghiêm ôi Sàigòn Saigòn mười một giờ vắng yên ôi em tôi Sàigòn không buổi tối
Giờ này có thể trời đang nắng em rời thư viện đi rong chơi hàng cây viền ngọc thạch len trôi nghĩ đến ngày thi tương lai thúc hối căn phòng nhỏ cao ốc vô danh rồi nghĩ tới anh rồi nghĩ tới anh nghĩ tới anh
Giờ này có thể trời đang mưa em đi dưới hàng cây sướt mướt nhìn bong bóng nước chạy trên hè như đóa hoa nở vội giờ này em vào quán nước quen nơi chúng ta thường hẹn rồi bập bềnh buông tâm trí trên từng đợt tiếng lao xao
Giờ này thành phố chợt bùng lên em giòng lệ bất giác chảy tuôn nghĩ đến một điều em không rõ nghĩ đến một điều em sợ không dám nghĩ đến một người đi giữa chiến tranh lại nghĩ tới anh lại nghĩ tới anh nghĩ tới anh...
Con Đường Bè Bạn ** bút ký của Phan Lạc Phúc **
Tô Thùy Yên
Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gia Định. Sinh viên Đại học Sài Gòn, ban văn chương Pháp. Nhập ngũ cuối 1963, sĩ quan ngành Chiến Tranh Chính Trị cho đến 30.04.1975. Bị tập trung cải tạo hơn 10 năm. Sau đó bị bắt hai lần nữa. Tổng cộng gần 13 năm tù. Cuối 1993, qua Hoa Kỳ, định cư tại Minnesota. Làm thơ, viết văn, dịch sách, hoạt động báo chí, xuất bản ... (trích từ Tuyển Tập Thơ Tô Thùy Yên)
. . . . Tô thùy Yên 7 tháng liền trong kiên giam tâm sự với đàn muỗi râm ran, con thằn lằn uể oải, lũ dán hôi tanh, con nhện vô tư và bức tường câm nín: Ta khắc khoải chờ nghe Những tiếng động của người Tiếng động nào bất kể Đột phá những trùng vây điếc đặc muỗi râm ran …
Ta nhìn theo Mấy con thằn lằn uể oải Lũ dán lào xào Con nhện bỏ trống lưới giăng …
Ta nhìn lên những giòng chữ trên tường Viết bằng gạch, bằng than và hình như bằng cả máu …
Hà Thượng Nhân & Tô Thùy Yên
Các bạn tù Thanh Chương đọc thơ Tô Thùy Yên, Hà Thượng Nhân vanh vách. Như vậy là 7, 8 năm nay tôi chưa gặp lại các bạn mà chỉ gặp “tiếng nói” của các bạn. Tôi không có duyên gặp bạn trong tù. Có lúc năm 1979, 1980 ở trại Tân Lập (Vĩnh Phú) tôi ở K1, Thanh Tâm Tuyền ở K2, không gian chỉ cách nhau vài cây số mà không gặp được nhau bao giờ. Có lúc bà cụ thân sinh TTT từ trong Nam lặn lội ra thăm – bạn còn nhờ người đem sang cho tôi ít thuốc lào và một bài thơ tặng PLP. Nhà thơ Tự Do chủ lực của Sáng Tạo lại làm chuyện lạ cho tôi một bài thất ngôn, bát cú. Tôi giữ bài thơ này như một kỷ niệm riêng. Bạn tôi lúc đó làm ở đội chăn nuôi, hằng ngày phải lên đồi gánh lá sắn về băm ra nuôi cá trắm. Đi làm qua khu ao cá xa xa, tôi có lúc nhớ bạn quá đã hú lên một tiếng để xem may ra có tiếng trả lời – Nhưng tiếng hú của tôi tan vào thinh không; cán bộ quản giáo nhìn tôi trừng mắt … Bạn tôi lúc đó chắc đang bận “bầm nát ân tình đều nhịp dao” (thơ Thanh Tâm Tuyền).
Nghe thơ các bạn, tôi vừa buồn vừa vui. Buồn là không có bạn tâm tình ở bên. Vui là chưa gặp nhưng thơ như thế chắc các bạn tôi còn khỏe ít ra về mặt tinh thần. Vui hơn nữa là nghiệp làm thơ của các bạn ở trong tình trạng “luyện ngục” như vậy mà thơ vẫn được tôn vinh. Thơ làm ra là để đọc, để cảm thông, để chuyển tải … Thơ không ai đọc, không ai nghe, không ai hiểu … thì chẳng bao lâu nó sẽ “chết trong lòng mộ tối”. Cho đến lúc ấy (1983) theo tôi hai bạn Tô Thùy Yên, Hà Thượng Nhân làm thơ bao nhiêu năm nay, thơ bao nhiêu người thuộc … mà các bạn chưa từng xuất bản một tập thơ nào. Như vậy là các bạn không in thơ lên giấy trắng, mực đen mà in vào tâm hồn mọi người. Không phải người làm thơ nào cũng được “tuyên dương” như thế. Hôm ấy có bài Mùa Hạn của Tô Thùy Yên rung động toàn thể anh em. Bài thơ như một bản “đại cáo” của lưu đày tù tội. Mùa hạn không riêng cho nông dân – mà mùa hạn của kiếp người.
Nơi đây khô hạn thực phẩm, khô hạn tình thương. “Lịch sử lên cơn dữ lạ thường” khiến cho “máu bung từ mỗi lỗ chân lông, cái chết tru rân giờ nguyệt tận”. Thiên nhiên cũng úa vàng khắc khổ - cây đa già râu tóc, trụi lá trơ cành cây cỏ lụi tàn, bậc hiền nhân quyên sinh ngoài động đá. Ngày tận thế đã điểm rồi chăng? Nhưng không – theo cái lẽ biến dịch thông thường – hay là theo cái vòng chu chuyển “nước đi ra biển lại mưa về nguồn” nên một ngày kia có cơn mưa tái tạo. Mưa rơi như một sự hồi sinh, mưa gột rửa đau thương, mưa làm mọc lên những nhành non lá mới, mưa là nguồn suối yêu thương chảy từ đầu non tới biển. Mưa ôm choàng đất khóc thương mong Mưa báo tin vui chạy khắp đồng Mưa đuổi bắt gào reo hớn hở Mưa mừng trẩy hội nước trăm sông … Ông lão mù lòa ra trước hiên Nghe mưa cũng ngước mắt nhìn lên Má nhăn bỗng sáng hai hàng lệ Ông hiểu ra rồi lẽ biến thiên
Người làm thơ lưu đày được lịch sử tha, một sớm trở về quê cũ. Đây là giấc mơ của người tù biệt xứ hay là câu chuyện sẽ phải xảy ra. Chưa biết được nhưng ít khi đọc xong một bài thơ mà tâm hồn con người được an ủi vỗ về như thế, được nhuần thấm một sự yêu thương đậm đà như thế: Nhóm lên bếp lửa đêm trừ tịch Hát với nhau vài điệu hát vui Nâng chén uống mừng ta sống sót Chợt nghe nồng lệ tự đâu rơi
Lòng ta nay vẫn lòng ta trước Vẫn chảy về con nước thủa nào Sợi tóc mai kia dù có rụng Ba sinh còn để nhớ cho nhau
Đất trời không có chi còn mất Ta bước ra thân đón tuổi già Trước mắt ta còn trăm thứ việc Sửa nhà, chăm sóc lại vườn hoa
Những ai hôm trước từng gây tội Hãy lắng tâm tha lấy lỗi mình Tự tại, thời gian chôn chính nó Đời lên lại mãi tựa bình minh
Sẽ lo chẳng những cho người sống Lo cả cho người khuất mặt kia Quen lạ bạn thù chung giấc ngủ Chung lời thương tiếc khóc trên bia …
Người tù trở về, sau khi đối mặt với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, sự tàn bạo của con người đã nhận ra rằng, giòng chảy chính của cuộc đời, sự cứu rỗi của con người chính là sự yêu thương không phải là thù hận – Bình minh của cuộc sống là ở đó. Tìm ra được điều này, không phải nhờ vào tài năng của Tô Thùy Yên mà chính nhờ vào tâm hồn lớn lao (grandeur d’âme) của tác giả. Đây là bản hùng văn của một cuộc đổi đời. Nhưng trong cuộc đọc thơ hôm ấy, nhiều người trong đó có tôi không được hoàn toàn thỏa mãn. Bài thơ quá dài, quá hay mà anh em Thanh Chương không ai thuộc được hết. Người nhớ đoạn này, người nhớ đoạn kia. Bài thơ đó đi theo tôi hoài như một tấu khúc còn dang dở (Symphonie inachevée). Dạo đầu năm 85 được về, trên con đường bè bạn tôi có lúc đã định rẽ vô thăm nhà bạn Tô Thùy Yên. Từ Hóc Môn lên, qua chợ Gò Vấp tới một cái cầu có ống dẫn nước lớn đen to nằm dài trên đó giống như một con rồng đất rồi tới một ngã ba có những viên sỏi đỏ sậm của đá ong khô, đó là lối vào nhà Tô Thùy Yên. Từ thập niên 60 tôi đã nhiều lần đến đây bù khú với bạn. Nhưng bây giờ về, đến thăm cảnh cũ người xưa, thấy lạ. Những bụi cúc tần xanh tốt dẫn lối hai bên đường, đôi khi có những sợi tơ hồng vàng óng, vương vất bên trên … không còn nữa. Nhà cũ của Tô Thùy Yên có cây vú sữa lớn. Khu gia viên nằm trong vùng cây lá thâm u … bây giờ không thấy cây vú sữa đâu. Bất giác tôi nhớ Nguyễn Gia Thiều “Phong trần đến cả sơn khê, Tang thương đến cả hoa kia cỏ này”. Tôi ngần ngại trước sự đổi thay nên đã tới nhà mà không vào. Tôi biết bạn tôi chưa được về. Mình vô nhà hỏi thăm, có khi lại làm cho gia đình bạn thêm nghĩ ngợi lo lắng cho người vắng mặt.
Nhưng đến hồi cuối năm 85, người làm thơ biệt xứ Tô Thùy Yên được về - Lúc ấy trời đã sang thu thì phải. Bố con tôi đã phải mặc áo ấm trên con đường tỉnh lộ sào xạc heo may. Khi tôi đi cải tạo con gái út tôi mới có 5 tuổi. Khi tôi về nó đã 15 tuổi bắt đầu thiếu nữ. Các anh chị nó “vượt biên” hết cả chỉ còn nó ở lại với “mẹ cháu” đợi tôi. Khi tôi về, nó theo tôi đi chơi tha thẩn. Ở Hóc Môn nó không có bao nhiêu bạn. Nó theo tôi lên Sài Gòn chơi với Tr. T con gái Thanh Tâm Tuyền, hay “đi chợ” với chị Ch. Con gái bác Hà Thượng Nhân. Thôi thì bố chơi với bố, con chơi với con cũng là phải đạo. Chưa được gặp nhưng con tôi nó muốn gần chị G. con gái đầu của Tô Thùy Yên, học thật giỏi. Trong một xã hội xã hội chủ nghĩa (không có giai cấp) nhưng khi thi vào Đại Học có 15 thứ hạng. Ưu tiên hạng 1, 2, 3 thuộc gia đình cách mạng hay “chính sách” thì thi ba bài từ 7 điểm trở lên đã được “chiếu cố” vô Đại Học rồi. Con cái “ngụy quân” như con chúng tôi đứng hạng thứ 14 áp chót (hạng chót là gia đình phản động, phản cách mạng). Khi bố đi tù cải tạo về rồi thì lại lên được một hạng, hạng 13. Con cái ngụy quân muốn vô Đại Học phải đạt 21 điểm, gấp 3 số điểm gia đình chính sách thì mới vô Đại Học được. G. con gái đầu ông bà Tô Thùy Yên thừa điểm vào Y Khoa. MT con tôi, Tr.T con Thanh Tâm Tuyền và H. con trai Tô Thùy Yên chúng nó cùng học lớp 10. Mấy đứa nhỏ chắc đều suy nghĩ: Ở đây nếu muốn sống cho ra sống thì chỉ còn có cách làm như chị G.
Hơn 10 năm gặp lại bạn … thấy bạn già đi (tất nhiên rồi) mà chắc bạn thấy tôi cũng vậy. Hình như bạn có khuyết một vài cái răng thì phải, cái cười hơi trống vắng. Nhưng khóe mắt vẫn còn nồng ấm và bắt tay thật chặt. Tôi nói “đây là khách cũ … đến xem bạn làm được bao nhiêu việc rồi?” (Trước mắt ta còn trăm thứ việc, sửa nhà chăm sóc lại vườn hoa). Tô Thùy Yên cười cười mà nói “Hãy cứ từ từ nhưng mà bây giờ thì phải làm ngay việc này”. Anh chỉ tay vào một cuốn sách dày trước mặt. Tưởng bạn dịch sách (nhớ ngày xưa bạn có dịch thật kỹ cuốn Phận người (La condition humaine của André Malraux) nhưng khi tôi cầm sách lên xem thì đó lại là một cuốn sách Y khoa bằng tiếng Pháp. Anh nói mình về vừa đúng lúc. Phải giúp con nhỏ G … cho nó kịp học hỏi và nghiên cứu”.
Tôi có nói với bạn về bài thơ Mùa Hạn mà tôi không có đủ. Nhưng anh nói rằng bản thân anh cũng không nhớ hết. Con đồng đã thăng rồi đâu còn nhớ những gì mình đã nói ra. Nhưng bữa ấy Tô Thùy Yên đưa tôi đọc bài Ta về - bài thơ vừa mới làm xong khi thi sĩ lưu đày vừa trở về nguyên quán:
Ta về cúi mái đầu sương điểm Nghe nặng từ tâm lượng đất trời Cám ơn hoa đã vì ta nở Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
Ta về như lá rơi về cội Bếp lửa nhân quần ấm tối nay Chút rượu hồng đây xin rưới xuống Giải oan cho cuộc biển dâu này …
Thật ra tôi đọc thơ Tô Thùy Yên đã lâu. Giữa thập niên 50 khi Sáng Tạo bộ cũ ra đời với những bài Cánh đồng, con ngựa chuyến tàu hay Thân Phận của Thi Sĩ. Lúc ấy ảnh hưởng của văn học Pháp đối với miền Nam còn nồng đậm. Đây là thời buổi của Buồn nôn (La nausée – J.P.Sartre) của Kẻ lạ (L’Etranger – A. Camus) hay Phận người (La condition humaine – André Malraux). Sự hiểu biết của tôi về văn học Pháp rất là hạn chế nhưng tôi có cảm tưởng rằng thời kỳ thập niên 50, 60 là thời kỳ xâm lăng của triết học vào văn học. Những đặc trưng thường thấy của thơ, của tiểu thuyết, của truyện ngắn đã bị xóa nhòa đi. Thay vào đó là những vấn nạn triết học hay những thắc mắc siêu hình. Để làm gì? đi đến đâu? tự do hay không tự do – phi lý hay hữu lý? Sống và nghĩ như thế nào cho phải? Người ta không đi tìm những nguyên nhân gần gũi mà đi tìm những căn do đầu tiên và cuối cùng của sự vật. Tô Thùy Yên là một người đọc sách chuyên cần. Cái ý thức trong sáng của tinh thần nhị nguyên đã phóng ra những cái nhìn chinh phục. Con ngựa (trong Cánh đồng, con ngựa, chuyến tàu) phải chăng là một cố gắng nhằm đo đạc ngoại giới.
Có đọc được thánh thư Linh hồn tôi vẫn vậy Tôi vẫn không thể lạy Dù đứng trước hư vô Đầu tôi cứng và trơn Thượng Đế làm sao ngự Tôi đành trốn chủ nợ Định mệnh đòi linh hồn Thượng Đế điềm nhiên lạ Tôi đánh liều cười khan. (Thân phận thi sĩ)
Bài thơ mang giọng thách thức của Nietzche – đăng quang cho một cái ta Kiêu hãnh. Đây là thời kỳ Tô Thùy yên muốn trở nên một thứ “Vương tôn miền trí tuệ”. Tôi đã cảm phục, đôi khi sợ hãi những bài thơ ấy – nhưng thành thật mà nói tôi không yêu chúng. Sự cảm nghiệm một bài thơ, theo tôi, nó tùy thuộc vào tâm cảnh của từng người. Tôi là một anh học trò nhà quê ra tỉnh, tâm hồn còn vương vấn với lũy tre xanh, đình chùa, miếu mạo, căn nhà tổ, họ hàng làng nước, bờ mương, ao cá. Dù đã cố gắng lắm tôi vẫn không làm sao hiểu được “Tha nhân là hỏa ngục” của J.P.Sartre. Tôi rất sợ mình là “khách lạ” – và điều tôi ao ước là được đến gần, được làm thân, chia sẻ với mọi người. Cái “hội u minh” thời ấy là một phong trào. Hoàng tử bi thương hay nhà thơ bị trù ếm (poète maudit) Đinh Hùng muốn đi khỏi cuộc đời này về miền nguyên thủy: “Thèm ăn một chút hương man dại – và ngủ như loài muông thú kia”. Vũ Hoàng Chương, bậc thi bá của làng thơ tiền chiến cũng bỏ thơ Say, thơ Mây nêu lên một băn khoăn triết học: Ta còn để lại gì không Kìa non đá lở này sông cát bồi Lang thang từ độ luân hồi U minh nẻo trước xa xôi dặm về …
Tô Thùy Yên ngay từ thuở ban đầu đã nghiêng về những điều thầm lặng lớn, mưu đồ đo đạc cả vô biên “ta về tắm lại going sông cũ, truy tầm mê mỏi lý sơ nguyên – Tô Thùy Yên đã rất già khi còn trẻ. Già ở đây là già về tư tưởng, nên trong thơ của anh người ta thấy thiếu vắng sự lãng mạn, không có những nỉ non kể lể về một cuộc tình. Không có Kim Trọng, Thúy Kiều, cũng không có Paul và Virginie. Vào khoảng giữa thập niên 60 có một việc, nhỏ thôi nhưng đã làm thay đổi Tô Thùy Yên. Anh bắt đầu đọc Đường Thi. Yên là một người ưa thích sự toàn hảo (gout du parfait). Anh không bằng lòng với những bản dịch. Yên muốn đọc thơ Đường bằng nguyên tác và Tô Thùy Yên học chữ Nho. “Học cho vui, chơi vậy mà”. Xuống Gò Vấp, thấy Tô Thùy Yên viết chữ Nho rất đẹp. Và đột nhiên tôi được đọc một số bài thơ mang phong cách nhất nguyên của Đông Phương. Đọc thơ trước đây của Yên người ta thấy phảng phất St J.Perse – hoặc Valery – bây giờ thấy Tô Thùy Yên “Quy khứ lai từ” như Đào Tiềm quay về nơi bản trạch. Bài thơ không còn vẻ kiêu hãnh của một ý thức chinh phục mà mang vẻ ngậm ngùi chấp nhận:
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch Bãi bùn trơ trẽn thủy triều lui Con còng ẩn nhẫn bò quanh quẩn Càng nhẹ tênh hênh cõi ngậm ngùi.
Tại sao lại có con còng ở đây? Con còng làm liên tưởng đến con dã tràng ngoài bờ biển. “Dã tràng xe cát biển Đông – nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì?” Phải chăng đã đến lúc Tô Thùy Yên nhận ra sự hạn chế của kiếp người, có những miền “bất khả tri” mà trí lự con người chưa với tới được. Về nơi bản trạch đối với Tô Thùy Yên có nhiều ý nghĩa. Cái nhà của Yên ở Gò Vấp là nhà từ đường bao nhiêu đời ở đấy? Cái nhà không đơn thuần là một “dụng cụ” để ở, mà nó là môt phần đời ta, là chính ta. “Cái nhà là nhà của ta – ông cố ông sơ làm ra” nên cái nhà cũng như cái vườn, cái ngõ đều là sự tích yêu thương, là những liên hệ mà ta không làm sao dứt bỏ được. Về nơi bản trạch về nơi quê nhà (phải chăng le Royaume trong l’Exil et le Royaume mà Camus mơ tưởng cũng nằm trong nghĩa đó) đã dạy ta một điều: cái mà ta tưởng nó là cái không ta (le non moi) lại chính là ta. “Mình với ta tuy hai mà một – Ta với mình tuy một mà hai”. Cái nhìn nhất nguyên nơi Tô Thùy yên đã làm cho thơ anh từ đó về sau yêu thương hơn, thấm đượm hơn nhiều. Nhưng có lẽ những năm tù cải tạo đã giúp chúng ta nhìn rõ cuộc đời hơn. “Ví thử cuộc đời bằng phẳng cả” chúng ta chưa chắc nhận ra chuyện ấy. Những chuyện nhỏ nhặt nhưng có giá trị rất cao. Không đi tù, không thường xuyên đói khát chúng ta làm sao biết được hạt cơm nó quý như thế - không xa vắng cửa nhà, chúng ta làm sao hiểu được cái thắm thiết trong vòng tay vợ, cái âu yếm trong cái hôn con. Người tù lưu đày, ngày trở về cảm ơn trời đất, cảm ơn vợ con, cảm ơn hoa, cảm ơn lá cỏ.
Ta nhìn lá cỏ long mê mẩn Nghĩ tới đời ràn rụa thâm ân …
Tôi đi về nhà có mang theo “Ta về”. Tôi đọc thơ bạn cho nhà tôi nghe: Ta về như tiếng kêu đồng vọng Rau mác lên bờ đá trổ bong Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng Chờ anh như biển vẫn chờ sông Ta gợi thời gian sau cánh cửa Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu Ta nghe như máu ân tình chảy Từ kiếp nào xưa tưởng lạc nhau Ta về dẫu phải đi chân đất Khắp thế gian này để gặp em Đau khổ riêng gì nơi gió cát Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm
Đọc đến đoạn này, nhìn lên thấy nhà tôi đã nhạt nhòa nước mắt.
Cuối năm 1990, ngày thứ sáu 13 tháng 10. Ngày xấu “đi chơi cũng thiệt lọ là đi đâu”. Tôi quanh quẩn ở trong nhà. Chợt có tiếng xe Honda thắng xiết trước chiếc cầu nhỏ, bắc qua con lạch vào căn nhà Hóc Môn của tôi. Nhìn ra thấy H. con trai Tô Thùy Yên đang hấp tấp dắt xe vào. Tôi chạy ra, thấy vẻ hốt hoảng của H. nên vội hỏi “có chuyện gì vậy cháu? – “ Bố cháu vừa bị bắt rồi” – H. thảng thốt nói tiếp: “Trước khi lên xe công an, bố cháu nói nhỏ: đi báo các bác nên cháu vội chạy lên đây”. Nhà tôi bảo H. ở lại ăn cơm cái đã nhưng H. nhất định ra về “Để cháu phải đi ngay cho kịp vài nơi nữa …” Như vậy là Mùa Hạn – Ta về thơ Tô Thùy Yên – Tâm sự với Bạch Cư Dị thơ Hà Thượng Nhân – Bài hát Tự Do – Trăng tù – thơ Thanh Tâm Tuyền, một bài từ của bạn già người viết sử Lam Giang cùng với một số bài viết của tôi đã được “phần thư” ngay chiều hôm đó. Lúc này Thanh Tâm Tuyền cũng như Hà Thượng Nhân đã HO đi Mỹ. Bạn bè thân thiết gần đây chỉ còn Tô Thùy Yên. Bây giờ bạn ta bị bắt rồi. Bao giờ bao giờ gặp bạn ta trở lại.
Phan Lạc Phúc (Khởi Hành số 26 Tháng 12, 1998) Trường Sa hành của Tô Thùy Yên NGUYỄN HƯNG QUỐC
Trong bài “Biển Đông: Quyền lợi quốc gia và tinh thần dân tộc”, tôi có in lại trong phần chú thích, bài thơ “Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn” của Trần Đăng Khoa. Bài thơ ấy được nhắc nhở nhiều và thường xuất hiện trong các tuyển tập thơ ở Việt Nam. Nhưng thành thực mà nói, nó không hay, hoặc nếu hay, chỉ hay ở mức vừa phải. Không có gì đặc sắc. Thơ viết về biển đảo của Việt Nam, cho đến nay, hay nhất có lẽ là bài “Trường Sa Hành” của Tô Thùy Yên. Nhân lúc mọi ánh mắt đều hướng về Biển Đông, đặc biệt Hoàng Sa và Trường Sa, chúng ta cũng nên đọc lại bài thơ này.
Bài thơ có ý nghĩa lịch sử: được sáng tác vào tháng 3 năm 1974, hai tháng sau ngày Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa lúc ấy thuộc Việt Nam Cộng Hòa - là một dấu mốc đáng nhớ. Nó lại có ý nghĩa chính trị: nối liền quá khứ với hiện tại, miền Nam lúc trước và cả nước sau này, vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, những người lính ngày xưa và những người còn tha thiết đối với vận mệnh của đất nước bây giờ. Đặc biệt, nó có giá trị thẩm mỹ: ngay cả khi gạt bỏ hết hai ý nghĩa trên, “Trường Sa Hành”, tự nó, là một bài thơ hay. Đủ hay để thách thức không những thời gian mà còn cả những âm mưu vùi dập tàn bạo của nhà cầm quyền Việt Nam kể từ năm 1975 đến nay.
Xin nói một chút về Tô Thùy Yên: Theo tôi, ông là một trong những nhà thơ lớn nhất của miền Nam trong giai đoạn 1954-75, hơn nữa, cũng là một trong những nhà thơ lớn nhất của Việt Nam nói chung trong cả nửa sau thế kỷ 20.
Thơ ông có một số đặc điểm đáng chú ý.
Một, Tô Thùy Yên viết ít và xuất bản rất muộn: Tập thơ đầu tay của ông, Thơ tuyển, gồm 37 bài, được xuất bản lần đầu năm 1995 (1), tức khoảng 40 năm sau khi ông có thơ đăng báo, tính trung bình mỗi năm ông làm chưa tới một bài. Vậy mà, ngay từ trước 1975, ông đã nổi tiếng và được nhiều người đánh giá rất cao.
Hai, nét nổi bật nhất trong phong cách thơ Tô Thùy Yên là sự giao thoa: thứ nhất, giao thoa giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và cách tân. Đó hẳn là một sự kết hợp rất nhiều người mong muốn. Nhưng không phải ai cũng làm được. Ngay cả Thanh Tâm Tuyền dù từng tuyên bố, trong bài “Một bài thơ”: “không đa đa siêu thực / thẳng thắn / khởi từ ca dao sang tự do” nhưng thơ ông vẫn nghiêng hẳn về phía hiện đại hơn truyền thống. Ở nhiều người khác cũng thế: hoặc nghiêng bên này hoặc lệch về phía bên kia.
Chỉ ở Tô Thùy Yên, người ta mới thấy được sự cân bằng. Cũng xin nói thêm: Ở đây, tôi chỉ ghi nhận một đặc điểm chứ không phải đánh giá. Thứ hai, sự giao thoa giữa cảm xúc và tư tưởng: từ cảm xúc đến hình tượng trong thơ ông đều thấp thoáng chút màu sắc siêu hình với những nghĩ ngợi về cuộc sống và về con người; nói chuyện với ai và về cái gì, với ông, dường như cũng là một cuộc trò chuyện với hư không, với cái mênh mông của trời đất và với cái vô tận của thời gian. Có lúc ông như một Trần Tử Ngang lạc loài ở thời hiện đại. Hai sự giao thoa ấy làm cho thơ Tô Thùy Yên vừa quen vừa lạ, vừa bình dị vừa sâu sắc, vừa rất dễ đọc vừa thấp thoáng rất nhiều bí ẩn, vừa sáng sủa vừa thăm thẳm đến không cùng.
Bài “Trường Sa hành” dưới đây có thể được xem như một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Tô Thùy Yên. Tiêu biểu về thể thơ: Mặc dù Tô Thùy Yên thử nghiệm khá nhiều hình thức, từ lục bát đến tự do, nhưng thể thơ tạo nên phong cách đặc thù và thể hiện cái tài hoa cao ngất của ông, theo tôi, là thể bảy chữ: sau năm 1954, không có nhà thơ Việt Nam nào có nhiều bài thơ bảy chữ hay bằng ông.
Tiêu biểu về tư tưởng: vẫn là một cái “hữu hạn” khao khát hỏi han “Hiu Quạnh Lớn”. Tiêu biểu về nghệ thuật xây dựng hình tượng: Vẫn là những vật bình thường, nhưng dưới ngòi bút của ông, bao giờ cũng có vẻ gì như khốc liệt, từ “sóng thiên cổ khóc” đến “biển tang chế”, từ “đám cây bật gốc chờ tan xác” đến cảnh “trùng dương khóc trắng trời”, từ “mặt trời chiều rã rưng rưng biển” đến “vầng khói chim đen thảng thốt quần”.
Tiêu biểu trong cách liên tưởng: Dùng tâm lý để đo lường khoảng cách không gian (“Bốn trăm hải lý nhớ không tới”), dùng cảnh vật trong không gian để nghĩ đến thời gian (“Thời gian kết đá mốc u tịch”), và dùng thời gian để nói đến những sự “nhỏ nhoi” và những “nỗi tả tơi”.
Tiêu biểu trong ngôn ngữ: Lúc nào cũng thật nhiều hình dung từ và hình dung từ nào cũng mạnh và cũng gắt. Đảo thì “chếch choáng”, gió thì hoặc “miên man thổi” hoặc “thổi trùng điệp”, lòng thì “rách tưa”, khóc cười thì “như tự bạo hành”, mây đỏ thì đỏ đến “thảm thê”; nắng thì “chói chang như giũa”, còn ánh sáng thì “vang lừng điệu múa điên”.
Tất cả đều mang dấu ấn của Tô Thùy Yên. Không lẫn với ai khác.
* TRƯỜNG SA HÀNH
Toujours il y eut cette clameur, Toujours il y eut cette fureur... Saint John Perse (Exil)
Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng! Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề Lính thú mươi người lạ sóng nước Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi
Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi Khiến cả lòng ta cũng rách tưa Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ
Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỉ Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh Lên xác thân người mãi đứng yên
Bốn trăm hải lý nhớ không tới Ta khóc cười như tự bạo hành Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh
Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi? Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời
Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi Đám cây bật gốc chờ tan xác Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng Những cụm rong óng ả bập bềnh Như những tầng buồn lay động mãi Dưới hồn ta tịch mịch long lanh
Mặt trời chiều rã rưng rưng biển Vầng khói chim đen thảng thốt quần Kinh động đất trời như cháy đảo Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân
Ta ngồi bên đống lửa man rợ Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi
Chú em hãy hát, hát thật lớn Những điệu vui, bất kể điệu nào Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ Cho mái đầu ta chớ cúi sâu
Ai hét trong lòng ta mỗi lúc Như người bị bức tử canh khuya Xé toang từng mảnh đời tê điếng Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê
Ta nói với từng tinh tú một Hằng đêm, tất cả chuyện trong lòng Bãi lân tinh thức, âm u sáng Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng
Đất liền, ta gọi, nghe ta không? Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc Con chim động giấc gào cô đơn
Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa Ánh sáng vang lừng điệu múa điên Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên
Ôi! lũ cây gầy ven bãi sụp Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã Hay đến ngày bờ tái tạo xanh
San hô mọc tủa thêm cành nhánh Những nỗi niềm kia cũng mãn khai Thời gian kết đá mốc u tịch Ta lấy làm bia tưởng niệm Người
3-1974
Chú thích: (1) Tập thơ này, sau đó, đã được phổ biến dưới ấn bản điện tử trên Talawas
Nguyễn Hưng Quốc
Đọc “Trường Sa Hành” của Tô Thùy Yên khi biển không yên! đoàn xuân thu.melbourne
Trung Cộng từ khi chiếm được Hoa Lục năm 1949, bắt đầu giương oai diễu võ! Với đầu óc nông dân đặc sệt cả mấy ngàn năm, triều đại nào, hoàng đế Trung Hoa nào bao giờ cũng nghĩ tới giành giựt đất đai, lấn chiếm ao hồ của hàng xóm nhỏ hơn, yếu hơn mình. Cứ chờ thời cơ rồi ngày gặm thêm một chút.
Như Việt Nam từ thời lập quốc tới giờ núi liền núi, sông liền sông với “chú Ba” xấu bụng này chẳng lúc nào được yên. Trên bộ thì Ải Nam Quan rồi thác Bản Giốc; dưới biển thì Hoàng Sa rồi Trường Sa…!
Tình hình Biển Đông luôn nổi sóng về cái vụ giàn khoan Trung Cộng lù lù xuất hiện ngoài khơi thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, làm người viết lại nhớ tới bài Trường Sa Hành của nhà thơ Tô Thùy Yên viết cách đây đã bốn chục năm trời ròng rã.
Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938, tại Gò Vấp, Gia Định, học Petrus Ký và Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ban Pháp Văn, gia nhập quân đội khóa 17 Trường Bộ Binh Thủ Ðức. Đến 1975, mang lon thiếu tá Chiến Tranh Chính Trị, trưởng Phòng Văn Nghệ, Cục Tâm Lý Chiến. Ông bị Cộng Sản bắt đi học tập cải tạo gần 13 năm; rồi đi định cư ở Houston, Texas, Hoa Kỳ năm 1993.
Trước bài Trường Sa Hành của ông, cũng có những nhà thơ khác làm thơ có tựa là “Hành” như: bài thơ Tống Biệt Hành của Thâm Tâm, năm 1940…
Hành là đi, là đến trong từ hành trình, du hành, vi hành, bộ hành hay hành khách… Nhà văn đi và viết thì gọi là ký. Nhà thơ đi và làm thơ thì gọi là Hành.
Nhưng “Hành” nghĩa là gì? Có người cho đó là một thể thơ cổ. Song người viết lại nghiêng về một cách cắt nghĩa đơn giản hơn: Hành là đi, là đến trong từ hành trình, du hành, vi hành, bộ hành hay hành khách… Nhà văn đi và viết thì gọi là ký. Nhà thơ đi và làm thơ thì gọi là Hành. Đi Trường Sa làm thơ thì đặt tên bài thơ là Trường Sa Hành! Chắc vậy?!
Trường Sa Hành coi như một nhựt ký viết dưới dạng thơ khi Tô Thùy Yên đến Trường Sa năm 1974 vào Tháng Ba khi gió mùa Đông Bắc thổi. Chuyến đi này được thực hiện hai tháng sau khi Trung Cộng xua tàu hải chiến rồi chiếm Hoàng Sa ngày 19 Tháng Giêng, năm 1974, khiến 75 người lính anh hùng của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong lúc bảo vệ biển đảo quê mình.
Trường Sa cách đất liền hơn 400 hải lý, nhà thơ đến bằng tàu Hải Quân và vẫn còn say sóng cũng y như những người lính thú trấn thủ trên đảo (không phải tất cả là ngư dân) trước khi đến Trường Sa có thể chưa biết biển bao giờ?!
Tô Thùy Yên, dân Gò Vấp, dân Sài Gòn, nên đêm đầu ra Trường Sa say sóng, cứ bồng bềnh, cứ tưởng đảo là con tàu vẫn tiếp tục trôi đi. Tả thực và xuất sắc!
Trường Sa! Trường Sa! Ðảo chuếnh choáng! Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề. Lính thú mươi người lạ sóng nước, Ðêm nằm còn tưởng đảo trôi đi.
Trường Sa là quần đảo, tên tiếng Anh là Spratly Islands, đảo Trường Sa lớn là một đảo trong quần đảo này; lúc nhà thơ đến, không có dân; chỉ có lính… Đảo san hô đứng thứ tư về diện tích (0.15 km2).
Mãi khi Trung Cộng lấn chiếm quần đảo Hoàng Sa, quân đội Việt Nam Cộng Hòa mới đưa lính thuộc Tiểu Đoàn 371 Địa Phương Quân (ĐPQ), thuộc Tiểu Khu Phước Tuy, ra trấn thủ trên các đảo: Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn và đảo Trường Sa lớn.
Nhà thơ đến chào, hỏi han (lính) đảo Hiu Quạnh lớn (có thể là đảo Trường Sa lớn mà nhà thơ tự mình đặt tên! Tôi đoán vậy vì nó viết Hoa?!)
Và có thể vì nhà thơ chỉ là khách, lại là quan “văn nghệ,” đến chơi vài bữa rồi đi… trong khi những người lính gian khổ ở lại… nên bước đầu gặp nhau không vồn vã lắm. Những người lính đó làm “ngơ” cũng phải thôi! Tới đây là cực, là vất vả hết mức rồi thì việc gì phải sợ “quan” nữa chớ?!
Mùa Ðông Bắc, gió miên man thổi Khiến cả lòng ta cũng rách tưa. Ta hỏi han hề, Hiu Quạnh lớn! Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ.
Người sống trên đảo năm ấy là lính Địa Phương Quân, mỗi đảo chỉ khoảng 20 người, từ đất liền ra đảo chẳng bao lâu, nên chưa có ai chết thì hồn ma quỷ làm sao mà có?! Thiệt là hiu quạnh! Thảo mộc cây cối thì hồi nhỏ tới giờ mới thấy; nên hỏng biết tên gì?
Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỷ, Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh Lên xác thân người mãi đứng yên.
Cách bờ xa quá, nơi những người lính thân cô, thế cô, tuân lịnh trên, xa nhà, xa cửa, xa vợ, xa con, xa cha, xa mẹ, anh em đến đây để giữ đảo quê mình. Xưa ai làm công chức hay quân nhân mà bị đổi đi đảo như Côn Sơn ngay cả Phú Quốc đều mang mặc cảm tự ti là mình bị đi đày, bị bỏ quên giữa trùng trùng sóng vỗ. (Dù sau ba tháng, sẽ có đại đội từ trong đất liền ra thay thế!)
Bốn trăm hải lý nhớ không tới Ta khóc cười như tự bạo hành Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục, Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh.
Vậy mà những người lính tưởng chừng như bị bạc đãi, bị lạc loài, bị bỏ quên, không ai nhớ đó lại can đảm đánh nhau với Tàu Cộng trang bị hùng hậu hơn nhiều để bảo vệ biển đảo quê mình rồi ngả xuống… nên:
Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế. Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi? Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời.
Dù gì đi chăng nữa, đã sanh ra làm dân Việt nếu phải chết vì đất nước thì chết. Lớp nầy rồi lớp khác!
Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt, Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi. Đám cây bật gốc chờ tan xác Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng Những cụm rong óng ả bập bềnh Như những tầng buồn lay động mãi Dưới hồn ta tịch mịch long lanh.
Mặt trời chiều rã rưng rưng biển Vầng khói chim đen thảng thốt quần, Kinh động đất trời như cháy đảo… Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân.
Để đêm về sống như người nguyên thủy bên đống lửa, chờ mồi… rồi nhậu!
Ta ngồi bên đống lửa man rợ, Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi, Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi.
Rồi văn nghệ, ca hát, không có ‘quan’ và ‘lính’ chỉ có ‘qua’ và ‘chú em’. Rặt ròng Nam Bộ!
Chú em hãy hát, hát thật lớn Những điệu vui, bất kể điệu nào Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ Cho mái đầu ta chớ cúi sâu.
Rượu lâng lâng sầu viễn xứ rồi nhớ tới những người đã được gởi ra đây lúc trước, chiến đấu rồi chết một cách quạnh hiu mà quân tiếp viện đâu… chờ hoài chẳng thấy… như đã từng xảy ra ở Hoàng Sa chỉ mới hai tháng trước.
Ai hét trong lòng ta mỗi lúc Như người bị bức tử canh khuya Xé toang từng mảng đời tê điếng Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê.
Ta nói với từng tinh tú một Hằng đêm tất cả chuyện trong lòng Bãi lân tinh thức, âm u sáng Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng.
Đất liền, ta gọi, nghe ta không? Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng. Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc. Con chim động giấc gào cô đơn.
Người lính đảo, hầu hết là trẻ, là hoa niên, đến đây vì đất liền, chạm địch, đối mặt với quân thù thì xin đừng bỏ chúng tôi lại chiến đấu một mình trên “Hiu Quạnh lớn” đồng bào ơi!
Ngày trắng chói chang như giũa. Ánh sáng vang lừng điệu múa điên. Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ Kêu giòn như tiếng nứt hoa niên.
Tuổi hoa niên trong binh lửa là vậy đó. Hy sinh phận mình cho đất nước tồn sinh.
Ôi! Lũ cây gầy ven bãi sụp, Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh, Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã Hay đến ngày bờ tái tạo xanh.
San hô mọc tủa thêm cành nhánh Những nỗi niềm kia cũng mãn khai Thời gian kết đá mốc u tịch Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.
Nhà thơ đem “nỗi niềm” kia hỏi Trời và hiểu ra rồi! Hiểu một điều là đất này, biển này, đảo này do những người lính rất bình thường, không phải là quan quyền chi hết… gian khổ giữ lấy! Và nhà thơ cúi đầu khâm phục sự gian khổ hy sinh kính cẩn gọi những người lính vô danh đó trong bài thơ của mình bằng chữ “Người,” trang trọng viết hoa.
Năm 1974, khi Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, Hải Quân ta chống trả quyết liệt thì những nhà thơ quốc doanh miền Bắc chịu nhục, cúi đầu câm lặng. Sau 1975, Bắc quân chiếm được miền Nam thì lại tự cao, tự đại… [dù trong thâm tâm cũng phải cúi đầu khâm phục bài thơ này do một nhà thơ tài hoa Nam Bộ duy nhứt trong nhóm Sáng Tạo (chủ lực có nhà văn Mai Thảo và nhà thơ Thanh Tâm Tuyền…viết…)] Nhưng vốn tánh nhỏ nhen, vẫn cón rán “khoèo” một cái là bài thơ Trường Sa Hành của nhà thơ miền Nam Tô Thùy Yên hay… nhưng thiếu tính chiến đấu.
Tính chiến đấu gì đây? Đâu phải cứ là “Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước, súng ngoài xa chen khúc quân hành ca, đường vinh quang xây xác quân thù…”
Tính chiến đấu không phải là ngư lôi, là tàu chiến, là tàu ngầm Kilo! Đôi khi có rồi mà chưa chắc đã dám “chơi”… vì nhát?!
Tính chiến đấu trong bài Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên là gian khổ của người lính trong trùng trùng gió mùa… khắc nghiệt, nắng cháy đến phỏng da vào mùa khô! Còn mùa mưa bão, những cơn bão nhiệt đới đi qua mạnh đến mức dường như thổi bay luôn cả đảo!
Thiên nhiên là vậy, khắc nghiệt như vậy…vẫn chịu đựng để giữ biển đảo quê mình… Rồi quân thù đến, đánh tới cùng, dù biết rằng chấp nhận ra đây là nếu đụng trận là chỉ có chết chứ còn biết rút đi đâu, còn ai tiếp viện? Đảo mà!… Xa đất liền quá! Hỏng lẽ giơ tay, buông súng mà đầu hàng Tàu Cộng… Hai tháng trước khi nhà thơ đến, hải chiến đã xảy ra rồi đó ở Hoàng Sa. Đã có hy sinh! Biết vậy nhưng không có sợ… Dà! Tính chiến đấu ở đây đó thưa “chư vị” thi sĩ quốc doanh miền Bắc!
Mỗi người đọc thơ đều có thể hiểu cách khác nhau! Càng nhiều cách hiểu càng tốt! Vì một bài thơ hay như một cái kính vạn hoa, mỗi lần đọc lại bài thơ thì tìm ra cái mới, cái hay, cái lạ là lần đọc trước mình chưa tìm thấy, chưa hiểu hết. Như cái kính vạn hoa, mỗi bức hình tuyệt tác chỉ là những hạt thủy tinh được sắp xếp, như những con chữ được sắp xếp trong thơ, lắc lên lại hiện ra hình ảnh khác… rực rỡ muôn màu!
Người viết không phải là nhà phê bình văn học, mạo muội viết ra những điều mình “cảm” về bài Trường Sa Hành của một tác giả nổi tiếng như nhà thơ Tô Thùy Yên là một việc làm mạo hiểm vì dễ bị chê là dốt chẳng hiểu gì thơ.
Tuy vậy, ai chê thì chê… mình hiểu tới đâu hay đó, viết ra chia sẻ cùng bạn đọc thân mến vì trộm nghe có người phê rằng bài thơ hay nhưng không có sức chiến đấu làm mình “tức,” mình “quạu” lên, “quạt” cho nó một trận cho đã tức!
Bài thơ này viết cách đây đã 40 năm vẫn còn đứng vững và chắc rằng sẽ còn đứng rất lâu vì một lẽ đơn giản là nó hay.
Biển Đông không yên và chắc mãi mãi không yên… Mỗi lần biển không yên… lại đọc Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên để yêu nước mình thêm. Tôi xin cảm ơn ông!
đoàn xuân thu.melbourne - tháng 5, 2019
Tâm thức khuất dạng của thơ - Tô Thùy Yên
I.
Năm đó, giặc Trung Quốc bất thần mở mặt trận ồ ạt tấn công vào 8 tỉnh miền Bắc nước ta. Nửa khuya, Công an Cộng sản Việt Nam lùa tất cả những người tù đày của chế độ miền Nam từ những vùng thượng du và trung du lên những chiếc xe đò khẩn cấp trưng dụng, chạy bán mạng về vùng Thanh Nghệ Tỉnh, tức Liên Khu Tư cũ, đất ẩn trú một thời của những Nguyễn Đức Quỳnh, Đào Duy Anh, Hữu Loan, Phạm Duy và ban hợp ca Thăng Long, của những ngày toàn dân kháng chiến chống Pháp cũ. Tại một trại giam ở Nghệ Tĩnh, ẩn khuất trong Trường Sơn, tôi gặp lại người bạn vong niên là nhà thơ lão thành Hà Thượng Nhân, giữa đông đảo những bằng hữu thất tán khác. Trong một lần trò chuyện, nhà thơ Hà Thượng Nhân ngỏ ý khát khao được đọc thơ. Tôi hoàn toàn thông hiểu nỗi khát khao đó của Hà tiền bối.
Bởi tôi cũng hằng khát khao ngày đêm như vậy. Nên một hôm, tôi nỗ lực vận dụng trí nhớ đã nhiều hao kiệt của mình ghi lại toàn bộ một kiệt tác khá dài của thi hào Đỗ Phủ. Đó là bài Đồng Cốc Huyện Chung Cư Thất Ca, gồm bảy khúc ca viết theo lối cổ phong, trong đó thi hào mô tả thời thế loạn ly, người phải rời bỏ quê nhà, thất lạc vô âm tín đám em trai, em gái, nay lê tấm thân tàn bệnh tật, đói kém nơi chướng khí sơn lam, chỉ còn trò chuyện cùng con rắn lớn nơi đầm hoang. Bài thơ đó, tôi ghi lại hoàn toàn bằng Hán tự. Cụ Hà đọc lại bài thơ đó, xúc động, cố gắng chuyển dịch thành thơ Việt Nam để cho nhiều bạn khác không am tường chữ Hán cùng được thưởng thức. Rủi ro cho cụ là có một tên chỉ điểm nào đó đi thóc mách, đồ đạc của cụ bị lục soát, bài thơ tang chứng bị tịch thu nên cụ bị Ban An Ninh trại liên tiếp mấy ngày gọi lên làm việc.
Theo quan điểm của trại, rõ ràng là tên Đỗ Phủ này hoàn toàn không chịu an tâm phấn khởi cải tạo, oán thán chính sách, bôi bác chế độ, tên Đỗ Phủ này quả là một tên phản động bẩm sinh, cho đến thời điểm ồ ạt của ba dòng thác cách mạng thế giới toàn thắng mà vẫn còn ngoan cố chưa chịu giác ngộ, hối cải. Cán bộ lãnh đạo yêu cầu cụ Hà phải thành khẩn khai báo tên Đổ Phủ là bí danh của ai, thuộc đội nào, lán nào, liên hệ như thế nào với cụ. Mãi sau này nhớ lại câu chuyện đó, tôi vẫn còn thử nghĩ nếu ở vào trường hợp của cụ Hà, tôi sẽ phải trả lời như thế nào để hương hồn của thi hào Đỗ Phủ khỏi tủi hổ. Có thể tôi sẽ trả lời: Đổ Phủ là danh hiệu của một con người xứng đáng, ông hiện diện ở mọi đội, mọi lán, một nơi chốn của nhân loại lầm than, ông là người rất đỗi thân thiết của một số khá đông chúng tôi.
II.
Đối với đa số người đời, thông thường, thơ nói riêng, văn học nghệ thuật nói chung là một thứ gì đó rất ư phù phiếm, chẳng hề mang lại ích lợi cụ thể thực tiễn nào cho cuộc sống hằng ngày đầy dẫy những vật vã, tất bật. Chắc chắn Platon không phải là người đầu tiên cũng không phải là người cuối cùng trong lịch sử muốn tống xuất nhà thơ ra khỏi cộng đồng loài người dù cho rằng Plato cũng còn một chút ưu ái là choàng cho lấy có lên đầu nhà thơ một vòng hoa tưởng thưởng. Do đó, dường như chẳng có mấy người làm văn học nghệ thuật nào, nhất là nhà thơ lại chẳng mang sẵn không nhiều thì ít cái mặc cảm mình là kẻ thừa thãi, là kẻ ăn bám trong xã hội loài người quần quật đầu tắt mặt tối. Rõ ràng lao động nghệ thuật, nhất là lao động thi ca, gần như chẳng được xã hội lưu tâm bao nhiêu và đánh giá đúng mức. Và cũng vì cái mặc cảm về sự vô bổ đó của thơ nên đã có một số không ít những người làm thơ đã muốn dĩ thi tải đạo, làm những bài thơ giáo huấn tuyên truyền luận giải thuyết phục, để thấy mình cũng như thơ có được một mục đích lợi ích xã hội thiết thực.
Tất nhiên cũng không hiếm những chế độ chính trị đã tận lực góp thêm phần tạo thành dầy đặc cái mặc cảm vô dụng đó nơi người làm thơ để dễ dàng sử dụng hắn như một công cụ khá cần thiết cho chúng, và khi đã ưng chịu như vậy thì người làm thơ một cách mặc nhiên đã làm một công việc hoàn toàn khác biệt với công việc làm thơ, đã tự mình chối bỏ danh xưng thi sĩ.
Một chế độ chính trị bao giờ cũng bắt buộc phải chứng minh bằng cách này hoặc cách khác. Còn thơ tự bản thân nó chẳng cần chứng minh nó là thơ, một thế giới cảm xúc thế thôi. Sự thiết thân gắn bó của thơ đối với con người, cái lý do tồn tại chính đáng cao cả đó của thơ sẽ phải chỉ tìm thấy được ở một nơi chốn nào khác, và nơi chốn đó là hồn thơ của chính người đọc. Do đó, đã xảy ra điều nghịch lý là khi nhà thơ tự đặt trước cho mình một mục đích lợi ích thực tiễn xã hội nào đó, thì đó cũng là lúc nhà thơ chẳng còn lấy chút lợi ích nào nữa cho đời sống. Tuy rằng, trên thực tế, một thực tế mà người đời ít có dịp nhận ra một cách phân minh, chính xác là thơ, cho dù có bị khước bỏ, hắt hủi, lãng qưên đến đâu đi nữa, vẫn luôn luôn hiện hữu, kết liền một cách thiết thân hình bóng với con người, với cuộc đời như một người tình cực kỳ bất hạnh của định mệnh ràng buộc, chẳng thể để dễ dàng xa lìa, để bỏ.
Bởi lẽ con người nào cũng đều tàng chứa trong tâm thức sâu thẳm của mình cái hồn thơ bàng bạc, chung đồng và vĩnh viễn. Cái hồn thơ đó trường kỳ nghi phục, bất động đâu đó, khó thể nhận biệt trong những lúc bình thường của cuộc sống, để rồi trong những thoáng cơ duyên nào bất chợt nhất, nó lại xuất đầu lộ diện ngự trị, điều động con người theo những luật tắc riêng biệt vừa rộng rãi mà cũng vừa nghiêm nhặt của nó. Và kinh qua những lần chứng nghiệm thơ như vậy, con người bỗng nhận thức được như một đốn ngộ về một nghịch lý: thơ, với tất cả những gì mà người đời cho là những khuyết phế vốn dĩ của thơ, lại cũng là một phương thức nhận thức đặc biệt cùng với những phương thức nhận thức khác của con người triền miên theo đuổi công cuộc tìm kiếm những sự thật lẩn khuất chung quanh mình, ở trong mình.
Và thơ, tội nghiệp thay, cũng là đứa con nhờ vả được đã dẫn dắt người cha mù lòa đi sâu vào những cõi u uẩn huyền nhiệm tuyệt vời và chính những đứa con sáng sủa hằng được trọng vọng khác của trí tuệ con người chẳng tài nào tiếp cận.
III.
Phải, ở những lằn ranh cuối cùng mà tôn giáo, triết học, khoa học đã phải đứng lại, thơ, vâng, chỉ có thơ, vẫn nhẹ nhàng tiến bước, xông pha, bay lượn, vùng vẫy. Lúc đó, những lúc đó, con người chợt cảm nhận rằng mình phơi phới nhẹ nhàng như đã được giải phóng khỏi những nặng nề đè ép thường nhật, rằng mình đã thật sự hòa nhập vào một đời sống có khi còn chính đáng hơn cả cái đời sống mà mình vẫn thường lầm tưởng là duy nhất chính đáng, một đời sống khác nữa không hẳn là không xác thực, một đời sống khác nữa ở ngay trong cõi sâu cùng thăm thẳm nhất của chính đời sống. Những lúc đó, con người nương thả theo thơ, sống trọn vẹn là con người với đầy đủ các tính cách kỳ diệu lạ lùng mà bình thường chưa từng nghe thấy có, tưởng chừng chẳng thể có. Bởi lẽ hồn thơ chính là cái phần u ẩn lẩn khuất mênh mông tuyệt đối của hồn người, nó chính thị là hồn người trong ý thức sau cùng hết của con người.
Có thể nói mà không sợ quá lời rằng khó lòng tưởng tượng một con người còn có thể là con người nếu như con người đó, một cách giả tưởng, tự mình hoàn toàn tước bỏ cái hồn thơ của mình, tự mình hoàn toàn tước bỏ khả năng, tư duy xúc cảm nhân loại của chính mình. Bởi lẽ, thơ, những lúc đó, mặc nhiên trở thành thi sĩ theo định nghĩa cao cấp nhất của danh xưng: Kẻ tạo dựng một thi cảm, một cách thức nhìn thấy độc đáo về cái thế giới vừa ngoại quan và cũng vừa nội quan mà chính mình đang sống.
Thơ chính là một thị cảm dù được thể hiện theo kỷ luật riêng biệt của bất kỳ trường phái hay khuynh hướng thi ca nào, và nếu như bài thơ nào không truyền đạt được những khêu gợi phải có nhằm đánh thức thôi thúc được một cách mãnh liệt cái hồn thơ ẩn náu bất động nơi người đọc để hình thành một thi cảm nào đó, chắc chắn bài thơ đó đương nhiên không phải là thơ.
Tất nhiên, khi làm bài thơ, phần người làm thơ tận lực cố gắng phần mình nữa trong việc thể hiện được trọn vẹn cái hồn thơ chung đồng của cả đôi bên. Đó chính là chỗ lớn lao đích thực của thơ. Đó chính là lẽ tồn tại xứng đánh của thơ. Hiểu được như vậy, làm được như vậy, người làm thơ mới có thể ngẩng mặt với đời, nhận lấy danh xưng thi sĩ, không hổ thẹn về những đóng góp độc đáo của mình đối với xã hội, đối với lịch sử.
Đặc biệt, trong những tình huống cực kỳ chông chênh, nghiệt ngã, sinh tử mà chính con người đã bị đày đọa dìm đắm vào đó, bị đặt để trước nguy cơ thường trực của sự trấn lột chính cái nhân phẩm còn sót lại của mình, thơ, hơn bao giờ hết, đã chứng tỏ một cách mãnh liệt cái khả năng siêu tuyệt gần như là tôn giáo của thơ. Trong những tình huống đó, rất nhiều người đã nương tựa vào thơ, để mà gìn giữ lấy mình, để mà sống sót với tư cách là con người, gầy dựng cho chính mình và cho cả bằng hữu cùng cảnh ngộ một thế giới ánh sáng, một thế giới niềm tin giữa một thế giới tối tăm, cùng mạt và hủy diệt.
Ở đây, tôi không hề muốn nói thêm qua về cái bản chất của thế giới tù đầy đó. Trong thế giới đó, nhiều con người thất trận của một cuộc chiến đã tạm thời pjải ngã ngũ như vậy từ đất đứng, danh vị, thậm chí đến cả sinh mạng của mình, chỉ còn lại mỗi một phần duy nhất tạm thời chưa thể bị tước đoạt hoàn toàn, đó là nhân phẩm, và niềm tin của chính mình.
Chúng tôi, mỗi người một cách, đều phải ý thức một cách rõ ràng rằng đó mới chính là nỗi sinh tử cốt tủy, đích thực của chính mình, rằng không thể để cho con người trong chúng tôi bị bức tử, ô nhục, rằng đó chính là cái phần mà chúng tôi bắt buộc phải gìn giữ bảo vệ bằng mọi giá, kể cả bằng mạng sống của mình. Lúc đó, một số không nhỏ chúng tôi đã tìm thấy được một sự trợ lực thần thánh. Lúc đó, tôi nghiệm rõ một điều hết sức thông thường như một sự thật cổ lỗ mà bình thường chẳng bao giờ mình để ý đến về thơ.
Thơ là hình loại văn nghệ đầu tìên của con người, khi con người không có gì cả trong tay, và thơ chắc chắn cũng là loại văn nghệ cuối cùng của con người khi con người chẳng còn gì cả trong tay. Thơ sẽ còn hiển hiện tồn tại rạng rỡ với con người, nếu mà con người còn ngôn ngữ, còn tấm lòng, còn ký ức, còn là con người trong cái ý niệm cực kỳ cao cả đầu tiên và cuối cùng của mình.
Thơ, một cách mãnh liệt, đã trở thành sự sống không thể bị hủy diệt của cái ý niệm đó. Thơ còn con người còn. Tự bản thân, tôi vẫn quan niệm rằng văn nghệ cũng y như mọi thứ khác trên đều phải có những cấp độ cao thấp, lớn nhỏ của nó. Có những thứ văn nghệ ở cấp độ thấp nhất là văn nghệ giải oan, giải thoát. Chắc chắn không cần phải nói thêm, chúng ta đều thấy hiểu rằng trong hoàn cảnh lúc đó của chúng tôi, chúng tôi đã nhận chân ra cấp độ cao nhất của văn nghệ.
Lúc đó, thơ đã trở thành một thế giới bất khả xâm phạm, bất khả hủy diệt để con người chúng tôi được nuôi dưỡng tồn tại. Đó là một thế giới vô hình nhưng có thật, thật như một thế giới hữu hình nào. Cám ơn ngôn ngữ của loài người, cám ơn thơ của loài người.
Thế giới của chúng ta không chỉ hẳn là một thế giới có mặt của những con người thân quen, từng gặp gỡ ngoài đời, mà còn là một thế giới có mặt những con người chưa từng gặp gỡ ngoài đời nhưng rất đỗi quen thân. Chắc chắn trong thế giới của chúng ta vẫn hằng lui tới hình bóng của một Khuất Nguyên tiều tụy lang thang bên dòng sông Mịch La, một Lý Bạch tiêu sái nơi một quán rượu của Hàng Châu, một Holderlin quằn quại trong thư phòng khuya khoắt ở Horburg, một Nguyễn Du não nề trở lại Thăng Long trong một ngày đông rét mướt, một Nguyễn Gia Thiều héo hắt ngồi bất động nơi Hồ Tây, một Nguyễn Trãi đạt ngộ giữa vùng cây cỏ Côn Sơn ... Những con người đó đã một lần đi khuất dạng trong lòng ta ...
Cám ơn những con người đó đã đến trong thế giới riêng tư của chúng ta, ở lại đó, bầu bạn thắm thiết cùng chúng ta để chúng ta được đỡ xót xa thương lấy mình hơn nữa, để con người chúng ta còn được tồn vinh xứng đáng. Tô Thùy Yên Bài nói tại Seattle Public Library ngày 26 tháng 7 năm 1997
Thanh Tâm Tuyền, Cung Tiến, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng - 1993
Nhà thơ Tô Thùy Yên, Sáng Tạo và Hậu Sáng Tạo Trần Hoài Thư
Ba trụ cột chính cổ xúy cho nghệ thuật mới, khuynh hướng mới trong thi ca đã có bài rất nhiều trên Sáng Tạo là Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên và Nguyên Sa. Tuy nhiên chúng tôi chỉ đọc được tên hai người trong ban chủ trương là Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên. Nguyên Sa thì không. Sau này, ông cho biết ông chỉ là người cọng tác và ông nhận cái lỗi của ông là viết cho ST.
Bài thơ của TTY đã từng gây nhiều tiếng vang thời ấy là:
(tranh từ Internet)
Cánh đồng con ngựa chuyến tầu
Trên cánh đồng hoang thuần một màu, Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi Tàu chạy mau mà qua rất lâu. Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau. Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu. Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt. Gò nổng cao rồi thung lũng sâu. Ngựa thở hào hển, thở hào hển. Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau. Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn. Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu. Cánh đồng, a! cánh đồng sắp hết. Tàu chạy mau, càng mau, càng mau. Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ, Chấm giữa nền nhung một vết nâu. 4-1956
Hình ảnh một con ngựa chạy theo con tàu, có gì để mà viết thành một bài thơ ? Vậy mà ở đây bài thơ đã mang vào tâm trí ta một cuộc ruợt đuổi thật sôi nổi . Đọan cuối là nỗi bất lực của ngựa, với một cái vết nâu nhỏ nhoi giữa một buổi hòang hôn tàn tạ như dấu vết của một cuộc đuổi bắt vô vọng. Thơ không cần vần, cần tránh những chữ lập lại. Cái chữ “mau” tiếp tục lập đi lập lại nhiều lần như lời dục dã hối hả….Kỹ thuật cấu trúc thì phóng túng. Toàn bài thơ tóat ra một ý nghĩa về triết học. Có thể là sự đuổi bắt không ngưng nghĩ về một điều không thể đạt. Hay cũng có thể lnó hàm chứa ý nghĩa của nền khoa học kỹ thuật đè nặng lên loài người…
Ở vào thời điểm 1956, có một bài thơ với một kỷ thuật mới mẽ và tân kỳ như vậy là cả một hiện tượng hiếm hoi. .
Nhưng thú thật, tôi vẫn không thể cảm nổi bài thơ. Tôi đọc nó chẳng chút nào rung động. Dù tuổi tôi là tuổi ngựa. Bởi những chữ quá cứng, quá lạnh, bởi chúng không bắt tôi phải đọc thơ bằng trái tim mà bằng sự thưởng ngọan như các cụ đồ vỗ đùi vỗ tay khen một câu đối tuyệt chiêu trong thơ Đường.
Mãi đến sau này, với những bài thơ như Qua Sông, Trường Sa hành, Anh hùng tận, Chiều trên Phá Tam Giang và gần nhất là sau 1975 với bài Ta Về, tôi mới được dịp đọc thơ ông với tất cả nỗi cảm xúc dâng tràn.
Thử so sánh:
Thời Sáng Tạo:
Cô đơn bằng Thượng đế, Yếu đuối như linh hồn, Làm sao tôi trèo lên Vực thẳm tờ bản thảo Trắng im lìm giá băng. (Thân phận thi sĩ, 1958)
Thời chiến tranh:
Tiếp tế khó – đôi lần phải lục Trên người bạn gục đạn mươi viên. Di tản khó – sâu dòi lúc nhúc Trong vết thương người bạn nín rên. Người chết mấy ngày chưa lấy xác, Thây sình, mặt nát, lạch mương tanh. (Qua sông)
Rõ ràng, thơ ông bây giờ không còn cao siêu với những từ ngữ như thượng đế, linh hồn, những tuyên ngôn, những câu hỏi đầy triết lý nữa. Trái lại thơ ông bây giờ ở dưới tận cùng của nỗi đau, như thây sình, mặt nát, sâu dòi lúc nhúc… Thơ ông mới ở chỗ đó. Không phải mới ở cái thể thơ phóng túng là thể thơ tự do, (mà thật ra, theo tôi, ý tưởng chẳng mới chút nào) mà mới ở chổ cách trồng cấy chử nghĩa tài hoa của ông, ở việc ông lật bề trái về sự thật của chiến tranh, mà ít có một thi sĩ nào nói được. Như qua bài viết về thơ chiến tranh của Cao Vị Khanh:
…Mấy ông họ Đào, họ Đỗ, họ Lý, họ Sầm…nổi tiếng văn hay chữ tốt, rượu vào lời ra, say nằm bãi cát nghêu ngao cũng chỉ thấy nói tới cái hơi hướm của chiến tranh, cái trống hoác của tàn trận, cái ngao ngán của hậu chiến, lúc kiếm gãy cờ tan u hồn lởn vởn. Cây kích gãy cắm lún trên bờ sông Xích Bích chỉ cho ta cái cảm giác ngậm ngùi. Hình ảnh của đống xương vô định là ước lệ vô tình của chữ nghĩa. Rồi đến Chinh Phụ Ngâm, tuyệt tác chiến tranh của văn học cổ điển cũng chỉ là chiến tranh phơn phớt ngoài da. Hơi gió cuốn người rầu mặt dạn. Dòng nước sâu ngựa nãn chân bon. Ôm yên gối trống đã chồn. Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh. Cái kiểu chiến tranh “trăng treo đầu súng ” có khi làm người ta mơ mộng đến chết người. Đến ngay Trần quang Dũng, người kháng chiến tài hoa của đất Sơn Tây cũng chỉ là Tây tiến đoàn quân không mọc tóc hay Áo bào thay chiếu anh về đất, Sông Mã gầm lên phút độc hành có làm ta thương cảm nhưng dường như cũng có làm ta “vừa lòng” như chợt thấy được mấy nét xổ móc ngang tàng trên dòng cổ tự. Người chết vẫn là chết dấp chết dúi không có cả tấm chiếu quấn thây nhưng bù vào đó cái biểu tượng của chiếc áo bào trong phút chót độc hành đẹp lãng mạn đến làm ta quên đi cái đau đớn, khiến ta ngưỡng mộ tính trượng phu mã thượng mà quên đi cái thiệt thòi của đời thực. Ta kính phục mà không gần gũi. Dường như cái chết đó ở vào một thời nào xưa lắm, của một người nào cao cả lắm, cao đến chẳng ăn nhập gì đến ta, xa đã như là huyền sử vậy. Đến như ông Tô Thùy Yên, người đã đẩy ngôn ngữ thi ca đến ranh giới của tột cùng cũng chỉ nói đến cái ghê rợn của mặt trận đã im tiếng súng. Tiếp tế khó đôi lần phải lục.Trên người bạn gục đạn mười viên. Di tản khó sâu dòi lúc nhúc. Trong vết thương người bạn nín rên. Người chết mấy ngày chưa lấy xác. Thây sình mặt nát lạch mương tanh… Nghe tới rùng mình sởn gáy. (1)
***
Tôi đang tự hỏi: Giai đọan nào, đã giúp đưa TTY lên một vị trí xứng đáng với tên tuổi của ông và tại sao Qua Sông, Chiều Trên Phá Tam Giang, Trường Sa Hành, Ta Về lại được nhiều người yêu thích và nhắc nhở nhiều hơn những bài như Tuyên Ngôn, thân phận thi sĩ trong thời ST? Tôi xin mượn ý kiến của chính nhà thơ Tô Thùy Yên để trả lời:
“Một tác phẩm vượt nổi thời gian là một tác phẩm đã để lại được cho người đi sau một ý thức về đời sống” (2)
Vâng, theo tôi, chính những bài thơ sau này mới giúp tôi một ý thức về đời sống của cá nhân tôi, bạn bè tôi, đồng đội tôi, miền Nam của tôi. Không những riêng tôi mà còn có cả thế hệ con cháu tôi nữa.
Có phải vậy không ?
Trần Hoài Thư _____
(1) Nguồn: Tạp chí Thư Quán Bản Thảo, P.O Box 58South Bound Brook, NJ08880 (2) Nguồn: Nxb Sáng Tạo, Tủ sách Ý Thức, 95B Gia Long, Sài Gòn. Bìa của Duy Thanh. Ấn vụ Lam Giang Ấn Quán Sài Gòn. Ngoài những bản thường còn in thêm 100 bản quý không bán, đánh số từ I đến XV và từ 1 đến 75 đều mang chữ ký tác giả. Bản quyền của nhà xuất bản Sáng Tạo, Sài Gòn, 1965. Bản điện tử do talawas thực hiện. Bản chụp in do Thư Ấn Quán thực hiện năm 2010. TA VỀ - Nhạc: Đinh Đại - Ý thơ: Tô Thùy Yên
Vi Khuê Tô Thùy Yên
Mời xem 2 bài thơ TA ĐI và TA VỀ (PDF) - 31 đoạn 4 câu 7 chữ Hoàng Khởi Phong phỏng vấn Tô Thùy Yên (RFA 2006) Cách đây nửa thế kỷ tạp chí Sáng Tạo ra đời ở Sài Gòn, và có thể được coi là tạp chí văn học đầu tiên của miền Nam, với sự góp mặt của một số nhà văn, nhà thơ của miền Bắcvừa đặt chân xuống miền Nam sau một chuyến di cư vĩ đại. Vào thời điểm đó khu vườn văn học ở miền Nam còn rất trống trải. Những tên tuổi dựng lên tạp chí Sáng Tạo gồm Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sĩ Tế, Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh.. Trong những danh tính vừa kể, toàn bộ là người Bắc, ngoại trừ Tô Thùy Yên là người miền Nam độc nhất có mặt trong giai đoạn hình thành tạp chí Sáng Tạo này.Trong nửa thế kỷ vừa qua, tạp chí Sáng Tạo chỉ sống vỏn vẹn vài năm trời, nhưng đã tạo một ảnh hưởng lớn tới văn học miền Nam. Giờ đây những thành viên của Sáng Tạo chỉ còn lác đác dăm người. Chương trình Văn Học Truyền Thanh kỳ này xin được phỏng vấn nhà thơ Tô Thùy Yên, một trong vài nhà thơ lớn nhất của văn học miền Nam. Nhà thơ Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp Gia Định. Ông bắt đầu làm thơ vào cuối thập niên 50, là sĩ quan QLVNCH từ 1963 tới 1975. Sau chiến tranh ông bị đi tù cải tạo 13 năm. Hoàng Khởi Phong: Xin chào nhà thơ Tô Thùy Yên, trong chiến tranh Việt Nam, là tác giả của những bài thơ nổi tiếng như Trường Sa Hành, Chiều trên Phá Tam Giang, Hề ta trở lại ngôi nhà cỏ.. xin ông cho biết cảm nghĩ của ông về những bài thơ này?.... Hoàng Khởi Phong Youtube - Vọng Ngày Xanh thực hiện MP3 Thơ Tô Thùy Yên: chênh vênh siêu hình/hiện thực Trần Hữu Thực Tô Thùy Yên - Tranh: Đinh Cường
... Chữ nghĩa TTY TTY làm nhiều thể loại thơ: thơ năm chữ, thơ bảy chữ, thơ xuôi, thơ tự do, thơ lục bát, thơ phá thể. Ngắn có (bài “Tặng phẩm” chỉ có 14 chữ), dài và rất dài có (bài “Mùa hạn” thơ bảy chữ, gồm đến 188 câu, 1326 chữ). Như đã nhận xét từ đầu bài, chữ nghĩa TTY pha trộn giữa truyền thống và cách tân. Bên cạnh những từ và cụm từ hiện đại như hư vô, ý thức, Thượng Ðế, sự can trường của hiện hữu, thám hiểm tương lai…ông tận dụng các từ ngữ với ý nghĩa rất cổ điển như : vạn cổ, bí lục, thiên thu, phù du, quan san, kinh thiên, dương thế, gậy trúc, tào khê, trăm họ, thánh đế, sấm truyền; các đặc ngữ dân gian: chớp bể mưa nguồn, hạc vàng thương nhớ, chờ anh như biển vẫn chờ sông, vàng đá nhắn quan san, ngựa đá đã qua sông, nước non ngàn dặm, núi lở sông bồi, đá nát vàng phai, chút phận long đong, bóng xế đường dài …. Ðồng thời, ông sáng tạo nhiều và nhiều cụm từ rất lạ: ngổn ngang câm, bất an già, khoảng cách đặc, án tử hình treo, lãng quên xanh, nỗi sầu vô dạng, u hoài mốc, gió hao đuối, rợp hải hà, rớt nắng, nắm níu, nhớ hư hoặc, một phía mê tưởng, lưu cữu gió, vũng vướng mắc, ráo gió, úng máu, thiu hồn, muối muộn, đuối kiệt, ngất tạnh khuya, réo đuối…Ở điểm này, ta có thể so sánh TTY với Trịnh Công Sơn. Cả hai đều là những người “đẻ” ra nhiều từ mới hoặc sử dụng từ cũ với một ý nghĩa mới. Ở TCS, ta có nào là tuổi đá buồn, vết lăn trầm, lời buồn thánh, nắng khuya, hạ trắng, bồn gió hoang… nào là dài tay em mấy, cồn đá…Nhưng ta ghi nhận một khác biệt: chữ nghĩa TCS dường như thoát thai từ trực giác, còn chữ nghĩa TTY thì là một dụng công đầy ý thức (như sẽ đề cập ở đoạn sau); một điểm khác, TCS do vướng trong việc phổ nhạc nên tương đối bị giới hạn trong lúc TTY tự do hơn nhiều, nhất là khi ông không còn xem trọng chuyện vần điệu trong thơ. Có một nỗ lực rất lớn của TTY trong việc sử dụng từ ngữ để diễn đạt sự vật ngoại giới và tâm cảnh của mình. Ông tìm cách bóc tất cả những lớp vỏ bọc quanh hiện thực bằng cách huy động đủ loại từ ngữ, phối trí chúng trong một cấu trúc theo kiểu riêng của ông. [5] Dường như ông muốn đi đến tận cùng bản thân chúng để tìm thấy cái gì còn ẩn dấu đàng sau hoặc nằm bên trong sự vật. Từ cũ dùng đúng nơi đúng chỗ. Từ mới gây ra ấn tượng mạnh. Ðồng thời tận dụng các đặc ngữ, quán ngữ vừa để làm “mềm” câu thơ hoặc làm dịu đi những cách diễn đạt quá mới vừa là một cách điều hòa tinh tế nhằm tạo hiệu quả cao nhất nơi người đọc. Thơ ông không quá tối tăm, khó hiểu, nhưng để hiểu được, đòi hỏi người đọc phải vận dụng tri thức, kiến thức và óc quan sát tinh nhạy. Ðọc thơ TTY không thể chỉ đọc bằng trực giác vì chúng không gây nên xúc động lập tức nới người đọc. Chúng đã không cho những thi ảnh trơn tru, thuận tai, gợi hình, gợi tình; đã thế, lại đưa ta vào một không khí đầy trầm tư mặc tưởng, đôi lúc khá ngột ngạt. Ông có lối diễn đạt sự vật, cảnh vật chung quanh rất sống động bằng cách sử dụng những tính từ, động từ một cách khá bất ngờ. Xin dẫn ra đây một số: – Ðộng vật: chim “giục giã” hay “hớt hãi kêu van”, con ngựa “cuồng bão táp”, chó “tru thăm thẳm”, di điểu “xẻ luống sầu”, con quạ “kêu ran”, con còng “ẩn nhẫn bò”. – Thực vật: cây “nứt nở vỏ”, “bật gốc” hoặc “sưng vết chặt lồi”; rong thì như những “tầng buồn”; hàng cây dương thì “bất an già”; rễ cây “bung” hay “gượng”; cỏ tranh “khom mỏi”; tàu chuối “reo ngất ngất”; cây xương rồng “gắng gượng”. – Sự vật: con rạch “đen nồng”, chiếu chăn “bức bối”; con đường “duỗi sáng” hay “rọc điếng”; hàng rào chà cản nước “nỗ lực lao đao”; nước ao “lền đặc”; gềnh đá “nhọn rách tơi”; bãi biển “trơ trẽn”; tàu chạy “khoan xoáy” hay “rú”; máu “bung”. – Những hiện tượng tự nhiên: gió “khốc liệt” hay gió “sửa soạn”; thủy triều “sôi”; mùa hè “cọ xát” hay “xô xát reo vang” hay “nhức rát”; biển “nhẫn nại”, “tang chế”; nắng “nứt ran ran”, mặt trời “rã”; khuya “rụng rời”; đêm “tối lền”. – Những ý niệm, trạng thái hay cơ cấu: lịch sử khi thì “ngất lả”, khi thì “thịnh nộ”, khi thì “mài thê thiết”; tứ thơ thì “xiêu tán”; kỷ niệm “buông”, “rú”, “chìm” ; (cái) bất-khả-tư-nghì “đá chởm” Có những câu, mới đọc, ta tưởng nhà thơ đang nói đến một điều “bất khả tư nghì” [6] nào đó. Không. Ông tả chân, rất tả chân. Chẳng hạn: – rền hoa: tim đèn dầu thắp lâu ngày, phía trên cháy thành than xòe ra như một bông hoa nở.
– Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn. Một cách đảo ngữ khá thú vị. Nó khiến cho một chi tiết thực dường như biến thành hư. Ðó chỉ là tiếng trái cây rụng và âm thầm lăn trên mái nhà nghiêng. Ðể ý, nhà thơ dùng những động từ kế tiếp nhau để diễn tả chuyển động: rụng, lăn. Thủ pháp này được ông dùng rất nhiều để gom ý, cô đọng ý và tạo cảm giác lạ: – Thả/trôi hồn một tấu khúc chừng quen Dềnh/ giạt về những quá khứ bỗng ngoi nổi Thả, trôi, dềnh, giạt, ngoi, nổi đều là những động từ.
Một câu khác:
– Kỷ niệm buông tay rú/ngất/chìm
Buông, rú, ngất, chìm là những động từ. Cũng một thủ pháp như thế, nhưng là tính từ, là danh từ hay là một kết hợp giữa các loại từ: – Phòng biệt giam tối mốc thấp hẹp (tính từ) – Tốc độ cao gài cố định mặc (cố định, mặc kệ cho nó chạy) – Trời sao có hồi cũng đuối kiệt (đuối sức, kiệt lực) – Và trong những khoảnh đèn khoét đọng lẻ quạnh (khoét ra, đọng lại, lẻ loi, quạnh quẽ) Từ Hán-Việt cũng được sử dụng trong một vài trường hợp bất ngờ: – Hàng tre cổ chĩu đầu lưu cữu gió (tre trĩu ngọn xuống để lưu cữu – cố giữ – gió lại) – Ta ngồi bên đống lửa man rợ – Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế- Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi – Hừng đông hùng vĩ và thanh thản Nói chung, chữ nghĩa ông rất chọn lọc, nghe lạ tai mà chính xác, khiến câu thơ mang ngay một vóc dáng khác thường, tăng cường thêm ý nghĩa cho chính nó: – Mưa lâu trời mốc, buồn hôi xưa (Qua sông) – Rêu mốc mờ thêm những đã mờ (Huế oán) – Trăng thiếp, sao mê, sông ráo gió – Buồn lan sóng nối, tản không tan (Nhớ có lần, trên bến bắc khuya, nghe một ông lão đàn hát) Kết cấu tinh xảo: -Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh (Vườn hạ) – Quán chật xanh lên rừng lính ướt (Qua sông) – Nghi ngút khuya thiên cổ dặm mù (Thao thức)
Ngoài ra, ta nhận thấy TTY khoái sử dụng từ trắc ở chữ thứ năm trong câu thơ bảy chữ khiến câu thơ có một nhịp điệu riêng biệt, hình thành một phong cách khá đặc thù của thơ TTY:
– Bốn trăm hải lý nhơù không tới – Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt – Sông hồ nẻ đáy giếng vô vọng Loại câu trên nằm lai rai ở nhiều bài. Có bài, như “Ðêm quan ngoại”, kỹ thuật đó được sử dụng hầu như toàn bài, đại loại như: Tạt vào, giũ phủi bóng đêm bám/Gối đầu lên một chỗ không lý/Giờ này đã khuya khoắt thiên cổ…Ta biết, những từ thứ năm trong những câu thơ cước vận trắc, nếu gieo vằn bằng, thì đọc lên nghe trơn tru, thuận mồm hơn. Dùng các từ trắc ở đây khiến câu thơ nghe như có cái gì chẹn, nghẹn lại, gây nên cảm giác bế tắc, lúng búng. Quả thật vậy, đọc chúng, ta thấy ngay tác giả muốn diễn tả những cảm giác day dứt, bất an. Những bài thơ làm thời gian sau này (trong Thắp Tạ), TTY đều sử dụng nhiều từ và cụm từ trắc để diễn tả tâm tình đặc biệt của mình: những nỗi niềm khuất tất, trạng thái ngơ ngẩn cuối đời khi “quỹ thời gian” đang mỗi ngày mỗi cạn (như Soi mệnh, Tỵ khách, Nỗi lần mình giở). Chẳng hạn: Giấc mộc đè cứng nghẹn dẫy la/Gà nửa khuya gáy xộ trăng muộn Sòng phẳng án khổ hình vắt đá lấy máu viết/Viết, viết như chép phạt những điều thừa Về một kỳ tích tối cổ mãi hư bại. (Soi mệnh) Ðoạn thơ trên mà so với những câu, cũng của ông, như: “Thấy gì chăng, chẳng thấy gì/Nước rào, trăng rạt, ta thì mỏi mê/Chầy khuya, nước ủ trăng ê/Uổng công, bãi ấy đi về một ta…” (Ði Về) thì quả là khác nhau một trời một vực. Nói chung, chúng không khó hiểu lắm nhưng lại rất khó đọc. Chữ nghĩa ngổn ngang. Hơi thơ u uất. Vẫn là những ám ảnh siêu hình về thời gian, vô hạn, biến dịch. Ở đây, tôi ghi nhận một khác biệt. Thuở đầu đời, nhà thơ nghênh ngang đối đầu với/và có vẻ “thưởng thức” cái hữu hạn của con người, ném hữu hạn trước vô hạn như một thách đố, thậm chí không dấu nỗi hân hoan: – Giá ta được lên cao, lên cao Ðể ngắm nhìn một lần thấu suốt Ðịnh Mệnh ta Trước ngày từ biệt nó (…) Ta cố gắng làm người. Con người vô ích sáng choang như món hàng đeo lên Hư Vô đen ngời bóng lộn (Bất tận nỗi đời hung hãn đó) Hay: Hoàng hôn xô bóng ta trên cát Ta lớn lao và ta cô đơn Vào lúc sau này, tuổi xế bóng, cái nhìn có khác, nghe ra rất ngậm ngùi: Quá một hạn tuổi nào, Sống nữa hầu như để giữ sống Qua ngày một trí nhớ lâm chung. Ðâu rồi gã trẻ người bạt mạng lao đầu Vào những bất khả tư nghì đá chởm (Soi mệnh) MỜI XEM: TOÀN BÀI VIẾT CỦA TRẦN HỮU THỰC (PDF) Song Thao, Doãn Quốc Sỹ, Tô Thùy Yên NGHĨ VỀ BÀI THƠ “GÓA PHỤ” CỦA TÔ THÙY YÊN NGUYỄN KHIÊM
Trong một bài phỏng vấn trên một tờ báo văn nghệ hải ngoại, hình như Tô Thùy Yên cho rằng không có thứ thơ gọi là thơ triết lý.
Vấn đề theo tôi, chỉ là danh từ. Thơ triết lý hay đượm màu sắc triết lý thì cũng vậy. Nếu không xây dựng trên những chủ đề nhiều ít liên quan tới những ưu tư của nhân quần về ý nghĩa đời người, tình yêu, cái chết…tôi e thơ Tô Thùy yên không có địa vị gần như độc tôn cho tới ngày nay. Toàn bộ sự nghiệp thi ca của mình, không có hoặc rất hiếm bài nào ông không đề cập tới khía cạnh triết lý gần xa nào đó đụng tới phận làm người. Võ Phiến nói rằng đọc một tác giả, ta có cảm tưởng tác giả đó nhỏ hay lớn dường như ngoài chuyện chữ nghĩa, nghệ thuật diễn đạt còn liên quan tới những vấn đề tác giả bị ám ảnh tức các chủ đề, đề tài nhỏ hay lớn nữa. Tất nhiên không phải hễ muốn lớn thì chỉ cần nói tới chuyện lớn mà phải nói tới với tài năng tới đâu và bằng cách nào mới là cốt lõi. Suy nghĩ tới cõi sống cõi chết thì trong đầu ai, lúc nào mà chẳng từng nhưng viết ra thành những câu thơ đẹp tới não lòng như ông thì xưa nay mấy ai? Tôi buồn bã nhận rằng nói tới thơ là nói trong chủ quan, ai thấy có lý phần nào thì chia xẻ, ai nghĩ khác thì cũng lẽ đương nhiên.
Một nhà phê bình văn học có viết rằng Góa Phụ là bài thơ hiện thực nhất của Tô Thùy Yên. Thật lạ, tôi lại thấy bài này có những hình ảnh hiện thực nhưng lại có ý nghĩa tượng trưng, nhiều ẩn dụ nhất của ông:
Con chim nhào chết khô trên cửa,
Cửa đóng tự ngàn năm bặt âm,
Như đạo bùa thiêng yểm cổ mộ.
Sao người khai giải chưa về thăm?
Điều thú vị, nếu để tâm ghi nhận, trong 37 bài thơ ở cuốn Thơ Tuyển, đã có trên 20 bài và ít nhất gần 30 câu ông nhắc tới chim muông, dường như loài chim xuất hiện với tần số cao nhất trong thơ ông. Rõ ràng chim muông là một ẩn dụ đa tầng đa nghĩa được nhìn theo tâm cảnh của thi nhân. Ngoài một lần sống giữa mùa hạn hỏa ngục xứ Quảng Bình khiến ông liên tưởng tới thế giới lâm chung với thiên nhiên cùng kiệt, xác người vương vãi nơi bờ bụi cùng bao nhiêu hình ảnh rùng rợn khác, tỉ như “Ác điểu ngày đêm gào xáo xác” và ma hoang cũng bỏ đi nhường chỗ cho chim kên thì hình ảnh chim muông trong thơ ông:
+ Luôn gần gũi thân thiết và có khi là niềm an ùi:
Chim đã bay quanh từ vạn cổ…Giữa tầng trời cao chim giục giã… (Đãng Tử), Thấy nhành ớt động bóng chim quen… (Vườn Hạ), Nghe tiếng chim quen bay trớt qua, Bóng thoáng như bàn tay dịu mát, Lau nhanh hơi mỏi mặt mày ta …(Và Rồi Tất Cả Sẽ Nguôi Ngoai), Ta đợi vì nghe ngoài ngõ trúc, Có com chim khách kêu chiều nay… (Mùa Hạn), Ta về như bóng chim qua trễ...(Ta Về)…
+ Cũng có lúc tiếng chim vui:
Đông đúc chim về ấm cúng đêm… (Lão Trượng), Con chim chèo bẻo hót lanh chanh... (Hề Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)
+ Cánh chim là một ảnh tượng đẹp và buồn, nhất là buồn và cô lẻ:
Con chim bói cá trong tàn tối, Soi vĩnh hằng xanh rợn mặt hồ… (Nỗi Đợi)…Thăm hỏi con chim màu sặc sỡ, Lời ca u uất giấu nơi đâu? Biển Bắc tuyệt mù con nhạn lạc…, Bóng chim, tăm cá, cành trôi giạt…(Mòn Gót Chân Sương Nắng Tháng Năm), Di điểu qua sông xẻ luống sầu… Núi xa chim giục giã hoàng hôn… (Tưởng Tượng Ta Về Nơi Bản Trạch), Con chim nào hớt hãi kêu van (Bất Tận Nỗi Đời Hung Hãn Đó), Con chim động giấc gào cô đơn… (Trường Sa Hành), Con chim lạc bạn kêu trời rộng... (Vườn Hạ), Giữa khuya có tiếng chim ai oán… (Nỗi Đợi)
+ Có khi phảng phất chút thần bí, siêu hình:
Con chim thần thoại mắt khoen sâu, Giật mình như đã ngàn năm ngủ, Giũ bụi lông, cất khản tiếng gào (Em Nhỏ, Làm Chi Chim Biển Bắc) Ở đâu còn bóng chim huyền diệu, Hót gọi tiền thân ta tái sinh…(Mùa Hạn), Con chim nào vỗ cánh, Động gợn thời gian… (Ánh Tàn Dư), Khắc khoải chim kêu mùa xóa giải… Chim vút lên như hòn đá ném, Rồi thôi, cái có chỉ là qua…(Chim Kêu Bãi Quạnh).
Tôi chỉ lược trích sơ sài chứ thật ra, mỗi câu thơ trên đây là một ảnh tượng riêng biệt có thể là một chủ đề cho một bài khảo sát. Nhất định mai nầy thơ ông phải được nhìn nhận công bình hơn, công phu hơn hầu đúng với giá trị cao cả nó vốn có.
Con chim nhào chết khô trên cửa là hình ảnh chim muông buồn thảm nhất trong thơ TTY. Vì sao con chim nhào chết khô? Ta không rõ. Chỉ biết ở đây chỉ còn nỗi chết. Chết trên cửa. Cửa nào? Đó là cảnh cửa âm dương mở ra cho cái chết nhưng đã đóng chặt rồi. Thiên thu. Im bặt. Vô âm tín. Không ai có thể hiểu gì. Đó là cánh cửa bị yểm bùa, vĩnh viễn không có người khai mở. Người ta chỉ biết sống và chết và không bao giờ biết tại sao. Phải chăng đây chỉ là hình ảnh ẩn dụ cái chết phi lý của người tử sĩ, người chồng của góa phụ trong bài thơ. Một triết gia hiện sinh có nói rằng chính vì con người tuyệt nhiên không biết tại sao mình sống và tuyệt đối mù tịt sau khi chết, chính vì cánh cửa âm dương đóng sập nên tử biệt trở thành tận cùng bi đát và là sự trừng phạt quá nặng trên số phận con người một cách phi lý. Người góa phụ khiếp kinh và không dễ chấp nhận nỗi đau tang tóc là có thật. (Phía sau nỗi chết, thấp thoáng cái nền xám xịt của cuộc chiến tranh phi nghĩa). Thế nên:
Em chạy tìm anh ngoài cõi gió
Lửa oan khốc giỡn cười ghê hồn,
Tiếng kêu đá lở long thiên cổ,
Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn.
Thú thật tôi rợn người khi đọc khổ thơ trên. Ngoài cõi gió gợi nỗi buồn mênh mang, cô quạnh và lạnh lẽo. Thứ lửa oan nghiệt, tàn khốc nào lại mỉa mai giỡn cười trên số phận con người trầm luân, trên chết chóc bi thương? Lửa mà giỡn cười? Làm sao không ghê hồn cái thần bí ma quái ở đây? Câu thơ thứ 3 là “âm thanh cuồng nộ” vô cớ của trời đất hay tiếng kêu thương của hồn người vọng động cả càn khôn? Đá đổ, cát bay long thiên cổ, loạn muôn trùng cho ta cảm tưởng con người quá bé nhỏ trước thiên nhiên rộng lớn không cùng và dữ dội vô tận. Và số phận con người, chung cuộc cũng bị xóa dấu chôn mà thôi. Thơ TTY nhiều lần nói tới bôi xóa, tới “mặt đất bôi trôi”. Người ta bảo TTY chỉ tin ở sự hư vô, họ có lý. Tôi liên tưởng tới mấy câu thơ ông nói với người chiến binh CS cuồng điên say sưa chiến đấu, mê tưởng “sự nghiệp” mình lớn lắm, ngỡ mình làm được chuyện “Lăn địa cầu ra khỏi lối xưa”:
Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm
Có cùng gom góp lại,
Mặt đất này đổi khác được bao nhiêu?
(Chiều Trên Phá Tam Giang)
Và nhất là mấy câu này trong bài Lão Trượng:
Cát vùi cả xương trắng lưu dấu…
Mặt đất vô danh, ký ức lòa.
Hai khổ thơ tiếp sau là cảnh tượng người vợ góa một mình canh xác chồng.
Em độc thoại lời kinh ánh xanh
Trăng lu, khuya mỏi, nén nhang tàn.
Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa.
Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn.
Tác giả chỉ nghe mà thấy được lời kinh ánh xanh (Cũng như Phan Khôi Thấy dưới ánh trăng muôn khúc nhạc, Nghe trong tiếng ếch một màu xanh),giác quan ông cũng chuyển đổi chức năng khiến câu thơ rõ ràng có tính tượng trưng. Ngoài ra lời kinh ánh xanh cũng gợi chút gì bí hiểm rờn rợn. Câu kế chỉ là liên tiếp ba cụm chủ-vị đơn giản nhất, có tính từ làm vị ngữ trong tiếng Việt, vậy mà tài tình thay, lại là câu thơ nhiều hình ảnh nhất gợi nơi lòng người một nỗi tàn phai thê thiết. Đọc câu này tôi không thể không so sánh với một khổ thơ trong bài Ta Về:
Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên.
Nhà cũ, mừng còn nguyên mái, vách,
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền.
Cấu trúc ngữ pháp câu cuối ở đây y hệt câu 2 khổ thơ thượng dẫn, nhịp điệu và nhạc điệu cũng tương tự. Và ngữ nghĩa nữa, toàn động từ, tính từ hàm nghĩa xiêu đổ, điêu tàn, phôi pha, mờ tối, tàn phai. Thanh điệu của 3 từ cuối trong cả 2 câu giống nhau, chùng xuống những thanh bằng diễn một niềm đau thương, cô quạnh.
Nguyễn Bắc Sơn có câu thơ hay: Khu phố quận những đời người đã mỏi, cụ thể, chính xác nhưng không mới lạ bằng khuya mỏi. TTY có biệt tài dùng những chữ vốn già nua và sáo mòn, đặt vào một văn cảnh bất ngờ để tạo hình ảnh mới, chẳng hạn cũng từ này: Ta đợi, nghe chừng thiên cổ mỏi… Tàu đi, lúc đó đêm vừa mỏi, Lúc đú sao trời đã ngủ mê. Kiểu dụng ngữ này nhan nhản trong thơ ông tạo thành điển hình cho một phong cách, thật thú vị nếu để tâm khảo sát.
Ta thấy, trong khổ thơ, tác giả ghi nhận ba thứ âm thanh, ta có cảm tưởng các giác quan ông nhạy bén không cùng và tưởng tượng thì vô tận, ông nghe thấy những gì giác quan người thường không hề cảm nhận được (tới cường độ đó): Cát loạn muôn trùng, đá lở long thiên cổ, Chó tru thăm thẳm ngây thiên địa. Tuyệt vời từ thăm thẳm và ngây. Quả thật chỉ mình ông thấy đất trời cũng ngây dại nghe tiếng chó tru buồn thảm trong đêm tang tóc đó. Trong xã hội nông nghiệp tối tăm ngày trước, tiếng cú và chó tru đêm điển hình cho điềm báo chết chóc, tai ương – quái, kinh nghiệm bản thân tôi thấy đúng, mới ghê! (Đọc câu này tôi không thể không nhớ lại một scène trong phim Doctor Zivago của David Lean, xem rồi, mấy chục năm sau còn nhớ. Giữa cuộc CM loạn ly bạo liệt, vợ chồng bác sĩ Zivago lánh nạn, trở về làng quê Variquino, đêm đầu tiên ngụ trong ngôi biệt thự hoang tàn, khuya muộn, họ thảng thốt nghe tiếng chó sói tru quanh nhà. Hé cửa nhìn ra, dưới ánh trăng bạc trên đồng tuyết lạnh lẽo, những con sói ốm đói đầy hung tợn ngửa mặt lên trời gào tru thê thiết mà cũng đầy đe dọa. Tôi tin không phải tình cờ David Lean đưa cảnh này vào phim mà không gửi theo một ẩn dụ; tiếng chó tru ghê rợn đó cùng với bản nhạc nền Lara theme u uẩn của Maurice Jarre cứ âm vang ray rứt trong lòng khán giả cho tới hết phim và, với tôi, mãi nhiều năm sau nữa; tiếc cho các thế hệ sau này không được xem phim nầy với màn ảnh rộng).
Ngọn đèn hư ảo chong linh vị
Thắp trắng thời gian mái tóc em.
Tim đập duỗi ngoài thân nỗi lạnh.
Hồn xa con đóm lạc sâu đêm.
Mấy câu trên đây, cảnh thì hiện thực nhưng được nhìn qua nhãn quan…siêu thực. Ngọn đèn thức canh quan tài có thật sao gọi là hư ảo? Mái tóc góa phụ hẳn cũng chưa bạc trắng và tim làm sao duỗi đập ngoài thân? Thời gian trong thơ TTY là một thứ ký ức lòa, bị lãng quên, bị bôi xóa. Câu trên nếu thuận nghĩa thì phải là thời gian thắp trắng mái tóc em, nhưng thế thì còn gì thơ! Tôi chưa quên mấy câu thơ khác của ông về thời gian, thứ thời gian trắng không lưu dấu, không ký ức:
Dòng ngày tháng trắng chảy lơ mơ.
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên.
Bay tự ngàn năm trắng cổ thi…
Đêm tối triền miên chốn ruộng vườn, ánh lửa ma trơi và ánh sáng lập lòe của đom đóm trên đồng hoang gợi cảnh tượng lạnh lẽo của cõi âm, chính tác giả cũng tưởng tượng hồn người lạc loài theo ánh sáng xanh bí mật của con đốm. Thứ ánh sáng ma quái chỉ làm đêm tối càng thêm tối và chỉ là không gian đe dọa.Tiếng Việt chỉ có thâu đêm, không có sâu đêm. Sâu ở đây vừa có nghĩa trong không gian và cả thời gian, nghĩa thật rộng và thật mới. Đọc đoạn này, ta còn nhớ tới mấy câu rợn lạnh trong bài Lão Trượng:
Mơ màng có một hồn xiêu lạc
Ngoài tối tăm, nhờ chỉ nẻo về.
Bài thất ngôn ngắn nhất của TTY trong tập Thơ Tuyển kết thúc với khổ thứ 5:
Cỏ cây sống chết há ta thán.
Em khóc hoài chi lẽ diệt sinh?
Thảng như con ngựa già vô dụng,
Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình.
Làm sao ta biết cỏ cây sống chết không hay có ta thán? Chẳng là giác quan ta hạn hẹp nên chỉ nhìn ra vậy; ý thức ta chỉ biết được chết là hết, là vĩnh viễn xa lìa nên tử biệt là điều ghê khiếp quá sức chịu đựng của cõi người. Góa phụ chắc cũng biết tới lẽ diệt sinh nhưng không thể âm thầm chấp nhận được nên phải “khóc hoài”.
Hai câu kết gợi hình vô kể tượng trưng của buồn đau, bị bỏ rơi, bị hất hủi; ẩn dụ của phận làm người phi lý. Con người mù lòa bị ném vào đời với đam mê vô ích, loay hoay với lao khổ, cô đơn, rồi chết. Chẳng để làm gì. Ngựa ở đây gợi nhớ tới con ngựa trong bài thơ nổi tiếng của TTY thời trai trẻ “Cánh Đồng Con Ngựa Chuyến Tàu”. Chúng nhiều hay ít nhất quán ở tính bi đát.
Như đã nói, bài thất ngôn nầy ngắn nhất trong tập Thơ Tuyển nhưng theo tôi, vì cô đọng và hàm súc nhất nên phải ngắn. Cô đọng và hàm súc về nội dung, chặt chẽ về bố cục, Phong phú về hình ảnh. Ngôn từ thì tinh xác và mới mẻ, càng đọc càng thấy chưa hiểu đủ nên phải cứ đọc hoài.
NGUYỄN KHIÊM Nói Về Thơ, Người Làm Thơ và Người Đọc Thơ TÔ THÙY YÊN
Nhà thơ Tô Thùy Yên đang nói chuyện tại buổi ra mắt sách tại Houston (Ảnh Nguyễn Hoàng Nam)
(LTS: Trong dịp ra mắt tuyển tập thơ Tô Thùy Yên tại nhà hàng Song Long ở Houston vào tối 9 tháng 3-1996, nhà thơ Tô Thùy Yên, từ Minnesota xuống, đã nói chuyện về sáng tạo và thưởng ngoạn mà sau đó ông dành cho NGÀY NAY được đăng tải nguyên văn dưới đây.)
Trong phần mở đầu, sau khi cám ơn gần 200 quan khách và thân hữu hiện diện, ông nói "Ban Tổ Chức buổi ra mắt sách hôm nay đã dành cho tôi một vinh dự lớn lao được đứng nơi đây trong tư cách một người làm thơ để nói về thơ. Thực sự, tôi hoàn toàn không dám nghĩ rằng tấm thịnh tình của quý vị, của các bạn được dành riêng cho cá nhân tôi, dành riêng cho thơ tôi, mà tôi chỉ dám nghĩ rằng tấm thịnh tình đó được dành cho thơ, thơ nói chung, thơ của mọi người làm thơ và đọc thơ, thơ như một điều gì đó rất đỗi thiết thân nhưng cũng cực kỳ xa lạ của đời sống."
Phải, từ bao giờ, cổ lẽ từ lúc hồn thơ bắt đầu phát sinh trong tâm thức con người, cùng với sự sáng tạo thần kỳ của tiếng nói, dường như thơ luôn luôn bị người đời trong một định kiến hết sức oan uổng cho thơ, hoặc ruồng rẫy rẻ rúng nó đến độ tưởng như nó không hề hiện hữu, hoặc lưu đầy quản thúc nó vào một cõi vô thức, hão huyền dành riêng cho một số ít tâm hồn bị nguyền rủa nào đó lui tới.
Thơ như một đứa con chẳng trông nhờ gì được của người cha mù lòa quờ quạng là đời sống không ngừng hoài vọng tìm gặp cho được một lần những giải đáp soi sáng niềm bí ẩn lớn lao đời đời bao quanh nó, ở trong nó.
Giữa đời sống và thơ, từ bao giờ dường như đã có một khoảng cách xa vời chẳng thể thu ngắn, người đọc đến với cõi thơ luôn luôn có cảm tưởng mơ hồ đã phải tạm thời tách lìa thế giới thực tại vây bủa, thơ mặc nhiên bị coi như ngày nghỉ xả hơi nào đó của trí não tù hãm, u trệ, như một khác thường đôi lúc xẩy ra của đời sống, và ý niệm như vậy về thơ tưởng cũng như là làm một điều ân sủng tử tế lắm lắm cho thơ. Nói cách khác, đời sống trong vận động miên man sinh tồn và phát triển của nó, giữa những chập chùng ngặt nghèo hỗn độn của bao nhiêu là sự kiện thực tế hiển hiện lúc nào cũng chực gây thương tổn và hủy hoại phẩm cách của con người, vâng, đời sống, trong những điều cực kỳ bi đát như vậy, dường như thường xuyên có phản ứng gần như bản năng chối nhận thơ như một đeo đẳng trì kéo phiền toái có nguy cơ phá hoại trầm trọng chính sự vận động sinh tử đó của đời sống. Nhưng chính cái phản ứng gần như bản năng chối nhận thơ đó phần nào cũng xác nhận rằng thơ luôn luôn có mặt một cách cơ hữu mật thiết ở trong đời sống, cùng với đời sống.
Tất nhiên, khoảng cách có tính tưởng chừng đó giữa đời sống và thơ chẳng phải do chính người làm thơ cố tình tạo ra như thông thường hắn vẫn bị chê trách nặng nề như đó chính là lỗi của hắn vậy. Và khoảng cách đó, cuối cung rồi cũng phải được người làm thơ, để làm tốt công việc của mình là chụp bắt hồn thơ trong cái hình trạng hoàn toàn trung thực vốn biến ảo khôn lường của nó, bất đắc dĩ chấp nhận như là điều kiện mặc nhiên của thơ.
Thơ như một điều gì đó mập mờ, hư giả, thậm chí lắm lúc còn tối tăm, bí hiểm, và do đó, không những đã vô ích mà còn bị tình nghi có hại là đằng khác. Nhưng dù thế nào đi nữa, thơ, như vừa nói qua, vẫn đời đời ở lại với loài người như một tình nhân định mệnh thắt buộc, không muốn cũng không được. Và cũng vì tính chất thoạt trông có vẻ phù phiếm vô bổ đó của thơ nhiều lúc có thể tạo thành dễ dàng một mặc cảm nặng nề nơi người làm thơ nên một số không ít những người làm thơ đã muốn dĩ thi tải đạo, làm những bài thơ giáo huấn tuyên truyền luận giải thuyết phục, để thấy mình cũng như thơ có được một mục đích lợi ích xã hội thiết thực.
"Khi người làm thơ sử dụng thơ như một công cụ cho chế độ chính trị thì đã tự mình chối bỏ danh xưng thi sĩ...
Khi làm bài thơ, phần người làm thơ tận lực cố gắng đã đành, mà cả người đọc, khi đọc bài thơ đó, cũng phải tận lực cố gắng phần mình nữa trong việc thể hiện được trọn vẹn cái hồn thơ chung chạ của cả đôi bên."
Tất nhiên không hiếm những chế độ chính trị đã tận lực góp thêm phần tạo thành dầy đặc cái mặc cảm vô dụng đó nơi người làm thơ để dễ dàng sử dụng hắn như một công cụ cũng khá cần thiết cho chúng, và khi đã ưng chịu như vậy thì người làm thơ một cách mặc nhiên đã làm một công việc hoàn toàn khác biệt với công việc làm thơ, đã tự mình chối bỏ danh xưng thi sĩ.
Một chế độ chính trị bao giờ cũng bắt buộc phải chứng minh bằng cách này hoặc bằng cách khác. Còn thơ tự bản thân nó chẳng nhằm chứng minh bất kỳ điều gì, ngoại trừ chỉ chứng minh nó là thơ, thế thôi. Sự thiết thân gắn bó của thơ đối với con người, cái lý do tồn tại chính đáng cao cả đó của thơ sẽ phải chỉ được tìm thấy ở một nơi chốn nào khác, và nơi chốn đó là hồn thơ của chính người đọc. Điều ngộ nhận thông thường của người đời là mặc nhiên coi hồn thơ như cái phần sở đắc trời đất đã ưu ái - hay độc địa? - dành cho người làm thơ mà thôi, và hắn phải cam chịu mịt mùng cô độc vô vọng vì cái phần sở đắc ngặt nghèo riêng tư đó.
Sự thật không phải như vậy, hồn thơ luôn luôn là sở hữu chung đều của mọi con người, cả người làm thơ lẫn người đọc thơ, không phân biệt ai ai. Tất nhiên, qua thời gian chung đụng với đời sống, mỗi cá nhân hoặc giả đã đầu tư phát triển ít hay nhiều theo một cách thức nào đặc biệt của mình cái vốn liếng sẵn sàng đó, hoặc giả đã không muốn đá động sử dụng gì đến nó cả.
Nói cách khác, hồn thơ ở mỗi cá nhân lâu ngày chầy tháng khuôn thành theo hình dạng tâm tính đặc thù của cá nhân đó. Nhưng cho dù hồn thơ ở một cá nhân nào có tuyệt đối bị bỏ quên trùm lấp chăng nữa, ở cá nhân đó, hồn thơ cũng chẳng hoàn toàn tàn rụi mất biến được.
Bởi lẽ hồn thơ vĩnh viễn tàng ẩn bàng bạc trong tận cùng sâu thẳm của tâm thức con người giăng mắc mạng lưới phức tạp những xúc cảm tư duy cực kỳ tinh vi trong tương phùng chuyển hóa sinh động miên man của ngôn ngữ hàm xúc trùng trùng những huyền nhiệm bất khả tư nghị, nó trường kỳ nghi phục bất động đâu đó, để rồi trong những thoáng cơ duyên nào bất chợt nhất, nó lại xuất đầu lộ diện ngự trị, điều động con người theo những luật tắc riêng biệt vừa rộng rãi mà cũng vừa nghiêm ngặt của nó. Và kinh qua những lần chứng nghiệm thơ như vậy, con người bỗng nhận thức được như một đốn ngộ về một nghịch lý: thơ, với tất cả những gì mà người đời cho là những khuyết phế vốn dĩ của thơ, lại cũng là một phương thức nhận thức đặc biệt cùng với những phương thức nhận thức khác của con người triền miên theo đuổi công cuộc tìm kiếm những sự thật lẩn khuất chung quanh mình, ở trong mình.
Và thơ, tội nghiệp thay, cũng là đứa con nhờ vả được đã dẫn dắt người cha mù lòa đi sâu vào những cõi u ẩn huyền nhiệm tuyệt vời mà chính những đứa con sáng sủa hằng được trọng vọng khác của trí tuệ con người chẳng tài nào tiếp cận. Phải, ở những lằn ranh cuối cùng mà tôn giáo, triết học, khoa học đã phải đứng lại, thơ, vâng, chỉ có thơ, vẫn nhẹ nhàng tiến bước, xông pha, bay lượn, vùng vẫy.
Lúc đó, những lúc đó, con người chợt cảm nhận rằng mình phơi phới nhẹ nhàng như đã được giải phóng khỏi những nặng nề đè áp thường nhật, rằng mình đã thật sự sở hữu được chính mình nhiều hơn nữa, đã thật sự hòa nhập vào một đời sống có khi còn chính đáng hơn cả cái đời sống mà mình vẫn thường lầm tưởng là duy nhất chính đáng, một đời sống khác nữa không hẳn là không xác thực, một đời sống khác nữa ở ngay trong cõi sâu cùng thăm thẳm nhất của chính đời sống. Những lúc đó, con người nương thả theo thơ, sống trọn vẹn là con người với đầy đủ các tính cách kỳ diệu lạ lùng mà bình thường chưa từng nghe thấy có, tưởng chừng chẳng thể có. Bởi lẽ hồn thơ chính là cái phần u uẩn lẩn khuất mênh mông tuyệt đối của hồn người, nó chính thị là hồn người trong ý thức sau cùng hết của hồn người.
Người đọc thơ, những lúc đó, mặc nhiên trở thành thi sĩ theo định nghĩa cao cấp nhất của danh xưng: kẻ tạo dựng một thị cảm, một cách thức nhìn thấy độc đáo và cái thế giới vừa ngoại quan và cũng vừa nội quan mà chính mình đang sống. Thơ chính là một thị cảm dù được thể hiện theo kỷ luật riêng biệt của bất kỳ trường phái hay khuynh hướng thi ca nào, và nếu như bài thơ nào không truyền đạt được những khêu gợi phải có nhằm đánh thức thôi thúc được một cách mãnh liệt cái hồn thơ ẩn náu bất động nơi người đọc để hình thành một thị cảm nào đó, chắc chắn bài thơ đó là một thất bại, bài thơ đó đương nhiên không phải là thơ.
Tất nhiên, khi làm bài thơ, phần người làm thơ tận lực cố gắng đã đành, mà cả người đọc, khi đọc bài thơ đó, cũng phải tận lực cố gắng phần mình nữa trong việc thể hiện được trọn vẹn cái hồn thơ chung chạ của cả đôi bên. Một cách thông thường, con người ù lì bất động trước những quen thuộc nhàm chán nhưng lại sẵn sàng có phản ứng tức thì xô chối phủi xua những điều đầu tiên còn xa lạ ngỡ ngàng.
Người làm thơ thành công dường như bao giờ cũng phải là người vừa có vẻ là cố tri, lại vừa thật sự là sơ ngộ đối với người đọc. Đó cũng là yếu tính chung cua mọi nỗ lực sáng tạo, phải trông thấy quen quen để được đón nhận, rồi sau đó mới có thể trưng bày được những khác biệt phải có.
Trong nghệ thuật, không hề có niềm tự hào vô lối về một sự làm mới tuyệt đối. Có thể quả quyết rằng mọi sáng tạo đều phải phát xuất từ một gia sản có tính truyền thống nào đó. Mọi sáng tạo, trong giai đoạn đầu tiên ngắn ngủi thôi, là một mô phỏng, một lặp lại. Kể cả những người khai phá làm mới táo bạo nhất trong nghệ thuật cũng ít nhiều để lộ ở nơi họ những vết tích nào đó của một quá khứ xa xôi. Không có một thứ gì không có cội nguồn. Cái quá khứ xa xôi tồn đong đó chính là cốt tủy khuất ẩn của hồn người. Thơ không ở ngoài lề luật chung đó, bao giờ nó cũng khởi đi từ lớp lớp quá khứ truyền thống của ngôn ngữ.
Cũng như mọi sáng tạo khởi đầu vốn là công việc của một người đơn độc để rồi sau đó, chỉ có thể hoàn thành trọn vẹn với sự hợp tác gia công của một người khác nữa, người thưởng ngoạn. Lẽ đơn giản rõ ràng là nghệ thuật bao giờ cũng mang nặng trong bản chất của nó niềm mong mỏi chia xẻ. Cả lúc khởi đầu cũng đã là sự chia xẻ ngay trong tự thân, với chính mình, của người làm nghệ thuật.
Thế giới mà chúng ta đang sống đây càng lúc càng hiển lộ một hiện tượng tách biệt trầm trọng lạ lùng giữa thơ và đời sống. Tách biệt đến mức tưởng chừng bây giờ thơ đã trở thành một công việc riêng tư hết sức chuyên môn như trong một hội kín giữa các người làm thơ với nhau thôi. Tách biệt đến mức tưởng chừng bây giờ hồn thơ của loài người đang hồi cạn kiệt rồi vậy, nòi giống của những người làm thơ và những người đọc thơ đang lâm vào nguy cơ tuyệt diệt rồi vậy.
Trước đây trong lịch sử, cũng đã có những thời đại suy thoái cùng khốn vất vưởng của thơ, nhưng dường như chưa từng có một thời đại nào mà thơ đã bị dồn đẩy thảm thương tuyệt lộ vào một xó góc tù túng bí thở tăm tối lãng quên như trong thời đại của chúng ta. Ngày nay, số người thật sự đọc thơ càng lúc càng hiếm hơi, và người làm thơ càng lúc càng bị quy kết một cách nghiệt ngã, hoặc oan hoặc ưng, đã chẳng có đủ tài năng và cả thiện chí thực hiện mỹ mãn công việc của mình. Lý do viện dẫn thông thường làm sao thơ bây giờ khó khăn bí hiểm quá, sỗ sàng thô trọc quá, xa lạ kỳ cục quá, nó thế nào ấy, nó không còn giống như thơ nữa.
Từ những nguyên nhân nào và phần lỗi thuộc về ai, ở đây chúng ta không đề cập rốt ráo một phân tích chi li và rốt ráo. Ở đây chỉ ghi nhận là hiện có một chênh lệch rất đỗi lớn lao tưởng chừng khó thể trùng nhập được nữa giữa hai màng lưới xúc cảm tư duy đã bắt đầu khác biệt về khuôn khổ cũng như về cấu trúc của người làm thơ và người đọc thơ. Một chênh lệch như vậy đôi khi cũng được bắt gặp trong giai đoạn khởi đầu của những thời kỳ văn học nghệ thuật được canh tân nhưng nó không đến mức trầm trọng vô phương điều chỉnh như là sau đó không lâu, may mắn thay, đã điều chỉnh được, thông thường từ phía quần chúng đã có đủ thời gian kết thân thích nghi.
Khác hẳn với sự chênh lệch có tính chia lìa chẳng thể còn quay về, được ghi nhận hôm nay và được nhìn thấy như một hậu quả đương nhiên của tính gia tốc khốc liệt của lịch sử đã làm nẩy sinh tính tức thời vụn nát và tính thực tiễn đáp ứng tối thiết yếu của đời sống. Được nhìn thấy như mối đe dọa bị hủy hoại càng lúc càng trầm trọng bức bách con người. Ngôn ngữ, công cụ tư duy duy nhất của con người, thành tựu cao cả tuyệt vời của con người càng lúc càng giảm nhẹ uy thế lâu đời của nó trong đời sống, lần lượt bắt buộc phải nhường chỗ cho một ngôn ngữ khác cụ thể hơn, gọn gàng hơn, dễ nhận hơn, nhanh chóng hơn, ngôn ngữ của những dãy dãy tiếp chuyển hình ảnh tới tấp chồng chất.
Thơ bây giờ sẽ phải như thế nào đây? Có lẽ không một người làm thơ nào không trăn trở vì câu hỏi đó. Ngôn ngữ đích thực đã bị sàng sẩy giản lược vào mỗi chức năng đầu tiên thô sơ là trao đổi giao thiệp xã hội thuần túy. Phần huyền nhiệm sâu thẳm vốn ôm ấp ẩn chứa bao nhiêu là tình tự tích lũy nghìn đời của ngôn ngữ đã bị chính đời sống xã hội một cách không thương tiếc, tước bỏ, lãng quên không cần dùng tới nữa.
Nhiều thể loại văn học cáo chung. Sách vở bị truất phế. Thư viện có nguy cơ trở thành hầm mộ của những xương cốt cổ thời. Và rồi theo cái đà đó, điều gì sẽ xẩy đến với con người? Hẳn cũng chẳng khó khăn gì mà chẳng tiên cảm được điều này: đó sẽ là thời kỳ khô hạn, héo rụi khác thường của con người cằn cỗi, rã rời, thời kỳ đáng sợ nhất trong suốt dòng lịch sử nhân loại. Có lẽ vậy. Việc đánh mất cái phần trừu tượng của con người hiển nhiên sẽ dẫn đưa đến việc đánh mất toàn thể con người. Sự tắt lụi của ngôn ngữ đích thực cũng đồng nghĩa với sự tắt lụi của chất lửa tồn trữ trong phiến đá sống là con người.
Và rồi sau đó nữa thì sao? Mong mỏi thay cho con người sẽ vì niềm luyến nhớ ám ảnh day dứt khôn nguôi về chính hồn mình từ lâu lạc loài thất tán, lại phải đem thân dầu dãi vào một cuộc phiêu lưu khác nữa, một cuộc phiêu lưu chắc chắn cực kỳ gian truân để tìm gặp cho bằng được chính hồn mình giữa cảnh giới bao la trù mật thanh sắc của ngôn ngữ đích thực mà ở đó, bao giờ thơ cũng là hình dáng biểu hiện cao diệu nhất. Và như vậy, cho dù ở vào tình huống nào đi nữa, càng thách đố càng phải nỗ lực, chúng ta đã chẳng muốn để mất đi lòng tự hào được làm người, chúng ta sẽ còn tiếp tục vun dưỡng cái thần siêu đẳng của ngôn ngữ, còn tiếp tục đọc thơ, làm thơ, nếu như chúng ta còn có một phẩm giá nào đó cần phải bảo trọng. Bởi lẽ thơ chính là phần sinh lực dự trữ tối hậu mãnh liệt nhất của con người không bao giờ khứng chịu bị hủy hoại vong thân. Đó là lý do tồn tại chính đáng cao cả của thơ để cho con người cùng tồn tại với. Khoảng cách cho là có giữa đời sống và thơ sẽ chẳng còn là khoảng cách nữa nếu như hồn thơ trong con người đã thức dậy, đã hiển minh.
Thơ là con đường trải dài của thời gian, nối liền quá khứ với hiện tại nhằm hướng đến tương lai, không gián đoạn, trong nỗ lực xác nhận sự đồng nhất của hồn người toàn vẹn. Nếu lịch sử là nỗ lực mô tả những diễn biến cụ thể của thời gian thì thơ, một cách khái quát, là lịch sử trừu tượng của thời gian, là phần hồn thiêng của lịch sử. Nhìn thấy thơ như vậy mới thật sự nhìn thấy đầy đủ thơ.
Tô Thùy Yên (Ngày Nay Minnesota số 164, 31-3-1996)
Xúc cảm cùng thơ Tô Thùy Yên May 24 - Đinh Trường Chinh
Thủ bút nhà thơ Tô Thùy Yên và ảnh Đinh Cường & Tô Thùy Yên
“ví dù ta ngủ không còn dậy ắt hẳn lòng ta cũng dửng dưng”
đã đôi lần, tôi đã rơi vào cảm giác ấy. chỉ muốn ngủ một giấc thật dài. dửng dưng tạm biệt cuộc đời vô lượng. nhưng rồi khi thức dậy, thấy mặt trời lên bừng cháy, lòng lại không khỏi reo vang.
“bạn có nghe, này bạn có nghe vũ trụ miên man chuyển động đều”
phải chăng. con người luôn có những cuộc xung đột thẳm chung trong mình như thế. thậm chí, khi tỉnh giấc, lại tham lam muốn ôm hết cái đẹp của cuộc đời. muốn cảm ơn một nhành hoa lẻ loi. muốn đi đến tất cả những ngóc ngách cuộc đời.
“đến ngã ba, đành theo một lối tiếc ngẩn không cùng theo lối kia”
những ngày này, có khi tôi cảm thấy dửng dưng trước cả cái chết của một ai đó, ngay cả người thân quen. cùng lúc, lòng lại chùng xuống vực sâu, cũng vì một cái chết ấy.
và có lẽ buồn hơn cả khi chúng ta đã ngồi chờ đợi một sự ra đi, sẽ đến, sẽ kề bên. như hơi thở. yếu dần. tôi đã từng ngồi bên bố tôi với ba hơi thở cuối. mỗi hơi thở mỗi cách nhau dần xa hơn. từng nhịp. 1 giây, 2 giây, 5 giây… rồi ngưng hẳn. im lặng.
nhận ra rằng im lặng cũng là một tiếng động. the sound of silence. như một tiếng rơi sủi tăm xuống vực thẳm.
tử là quy, là trở về quê hương đích thực của mình. tôi thấy ông như trở về miền đất cũ. không hẳn phải là Gia Định. quê hương, có khi ông gọi là “Ngôi Nhà Lớn”, hay có lúc chỉ xem như “gian nhà cỏ”. quê hương là vũ trụ lớn/nhỏ này. để trở về, rất thảnh thơi. vì những người thi sĩ như ông đã nhìn ra, đã hiểu, thấy tất cả. “vinh dự lầm than” một kiếp người. đã sống trọn và trao tặng cuộc đời những bài thơ đẹp đến từng đơn vị chữ .
nếu có nhớ đến thi sĩ thì cũng chỉ biết lấy thơ của họ, “viết” lại cho chính người thi sĩ ấy .
“ngày kia trở lại Ngôi Nhà Lớn, lòng những bằng lòng một kiếp chơi … mai sau, nằm lại bên bờ cỏ thôi cũng an lòng ta có đi”
đtc chút cảm xúc trưa 22.5.2019
(*) những câu thơ trích trên đều của Tô Thùy Yên. Tô Thùy Yên & Đinh Cường
Đinh Cường vẽ Tô Thùy Yên
Bài viết về nhà thơ Tô Thùy Yên dưới đây được được trích từ tập di cảo "Mặc Khách Sài Gòn" của cố nhà thơ Tô Kiều Ngân. Hình ảnh nhà thơ Tô Thùy Yên được Tô Kiều Ngân khắc họa bằng những dòng văn đầy cảm xúc.
Cánh đồng con ngựa chuyến tàu
Trại của tôi cách xa trại Tô Thùy Yên nhưng thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau trong những lần đi lao động, đẵn cây đốn nứa. Có lần gặp chỉ đủ để Yên dúi vào tay tôi một gói thuốc lào rồi sau đó là mỗi người một ngả.
Có lần đứng trong sân trại nhìn qua hàng rào kẽm gai tôi thấy Tô Thùy Yên đang gánh một gánh khoai mì đi qua. Anh bước đi có vẻ nặng nhọc. Vai bị gánh khoai mì trĩu xuống, lưng cong như lưng tôm, mồ hôi chảy có giọt. Tôi bỗng xót xa nhớ đến đêm nào cùng anh và Cung Tiến còn đi “tăng hai” ở Sài Gòn… Bữa ấy Trần Lê Nguyễn có bày tiệc nhậu. Có mặt Mai Thảo, Thanh Nam, Trịnh Công Sơn, Cung Tiến, Tô Thùy Yên và tôi. Tiệc tàn, mọi người lục tục đứng lên. Trịnh Công Sơn say xỉn vào nôn mửa trong phòng tắm. Trần Lê Nguyễn sau đó cũng đã ra về. Còn lại Cung Tiến và Tô Thùy Yên chẳng chịu về, nhất định đòi đi “tăng hai”. Đêm đã hầu khuya, chiều bạn tôi đem hai cậu lên xe hơi chở xuống Phú Nhuận. Trời mưa lất phất. Con đường vào hẻm sũng nước, loáng loáng ánh đèn. Tô Thùy Yên xuống xe, hai tay vén ống quần chạy lúp xúp trên đường mưa, vừa chạy vừa cười khanh khách. Cung Tiến thì nhà nào cũng đập cửa rầm rầm báo hại bọn thanh niên trong xóm nhào ra, xô ngã Cung Tiến nằm lăn ra đất. Cơ khổ chàng nhạc sĩ tác giả những bản nhạc tuyệt vời: Hoài Cảm, Nguyệt Cầm, Hương Xưa tay chân vung vít, miệng la bải hoải: “Sao lại đánh tôi… sao lại đánh tôi…” Còn tỉnh nên tôi xin lỗi bà con trong xóm và lại đem hai lãng tử lên xe, chạy về gần thấu nhà mà còn chưa chịu xuống, còn đòi “đi nữa”.
Tiếng cười của Tô Thùy Yên đêm ấy và hình ảnh anh chạy lúp xúp trong mưa tôi còn nhớ rõ. Tiếng cười sao mà hồn nhiên ngây thơ so với hình ảnh Tô Thùy Yên oằn mình dưới gánh khoai mì hôm nay thật là một sự đối nghịch quá đau lòng.
Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp, lúc bấy giờ là một quận ngoại thành Sài Gòn. Anh học đến đại học, bị động viên đi học trường sĩ quan Thủ Đức, ra thiếu úy rồi được bổ về một đơn vị tác chiến thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sợ anh chết uổng, anh em vận động bốc thẳng anh từ Vùng Bốn về ngay trung ương để làm văn nghệ.
Cùng Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh, Ngọc Dũng… Tô Thùy Yên là nòng cốt của nhóm Sáng Tạo, anh thường đăng thơ trong mục Thơ tự do của tạp chí Sáng Tạo, nơi được coi như đại diện của phong trào thơ tự do miền Nam thời 50-60.
Sau 30 tháng Tư, Tô Thùy Yên đi học tập cải tạo 10 năm. Được tha về rồi bị bắt lại, tính ra 13 năm tất cả. Ba năm sau, có lần anh bị biệt giam 7 tháng sau khi cắt mạch máu định quyên sinh. Cuối cùng, anh được cùng vợ là cô giáo Huỳnh Diệu Bích và gia đình sang định cư ở hải ngoại theo diện H.O.
Tô Thùy Yên được nhiều người biết đến nhờ bài thơ “Cánh đồng con ngựa chuyến tàu” đăng trên tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo, năm 1956:
Trên cánh đồng hoang thuần một màu, Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi Tàu chạy mau mà qua rất lâu Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu…
Cả bài thơ như những thước phim vụt qua. Hình ảnh đuổi bắt nhau. Cây cối, lũng đồi quay vòng đến chóng mặt. Cuối cùng con ngựa thở dốc, lăn kềnh ra giữa thảo nguyên “Chấm giữa nền nhung một vết nâu”. Hình ảnh như chụp từ trên cao xuống - cánh đồng thì mông mênh như vô tận, mướt cỏ nhung xanh còn con ngựa thì chỉ còn lại một vết nhỏ. Nó chết mà không biết vì sao mà chết. Cũng không biết suốt đời mình lao đầu phi về phía trước để làm chi? Những câu hỏi đó cũng đặt ra cho con gười, những tra hỏi không có lời giải đáp. Xưa nay trời đất vốn vô ngôn.
Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt Gò nổng cao rồi thung lũng sâu Ngựa thở hào hển, thở hào hển Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau
Tô Thùy Yên thật trẻ mà thơ lại thật già. Mỗi câu viết ra dường như chưa nói hết mà sau đó còn một chuỗi ý nghĩ để cho người đọc suy cảm thêm ra. Ý tại ngôn ngoại. Luôn bị cô đơn vậy hãm, bị đọa đày thân xác, dày xéo tâm hồn nhưng Tô Thùy Yên luôn chịu đựng, tìm chỗ dựa tâm linh, đề cao cái tâm độ lượng để vượt qua gai góc, khổ đau. Anh vẫn luôn mơ ước:
Bao giờ ta trở về dương thế, Sống đáng vinh danh lại kiếp người, Để thấy đường đi muôn lối rộng Dập dìu những chéo áo reo vui?
Thơ Tô Thùy Yên đăng rải rác trên các báo tạp chí văn học, mãi đến năm 1995 anh mới xuất bản tập “Thơ tuyển”, có tất cả 37 bài, có nhiều bài rất dài, đó là tác phẩm chọn lọc của Tô Thùy Yên, một đời làm thơ, một đời yêu thương, một thời tù ngục.
Cánh đồng con ngựa chuyến tàu
Trên cánh đồng hoang thuần một màu, Trên cánh đồng hoang dài đến đỗi Tàu chạy mau mà qua rất lâu. Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu. Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt. Gò nổng cao rồi thung lũng sâu. Ngựa thở hào hển, thở hào hển. Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau. Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn. Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu. Cánh đồng, a ! cánh đồng sắp hết. Tàu chạy mau, càng mau, càng mau. Ngựa ngã lăn, mình mướt như cỏ, Chấm giữa nền nhung một vết nâu.
1956
Tô Kiều Ngân
SÁNG TẠO VÕ PHIẾN
Tháng 10 năm 1956 tạp chí Sáng Tạo ra đời. Tờ báo đáp ứng một sự thiếu vắng, nó được hoan nghênh ngay.
Trước “vận hội mới” quần chúng độc giả chờ đợi một xuất hiện mới trên lãnh vực văn nghệ. Loại thơ văn trên báo Đời Mới của Trần Văn Ân chẳng hạn không còn sức thu hút nữa, những sáng tác ra mắt trên nhật báo không thể thõa mãn, tờ Mùa Lúa Mới vẫn chỉ là của một địa phương. Tờ Sáng Tạo chính đã đến đúng lúc. Và nó đã nhằm đúng vào tâm trạng quần chúng: chờ cái mới.
Thoạt ra mắt, Sáng Tạo đã phát động ngay “một nền nghệ thuật mới”, “nghệ thuật hôm nay”. Phát động thật ồn ào. Mười bốn năm sau, Mai Thảo nói về lúc khởi đầu ấy vẫn còn nói bằng giọng say sưa: “Chất nổ ném vào. Cờ phất. Xuống núi, xuống đường. Ra biển, ra khơi. Và cuộc cách mạng tất yếu và biện chứng của văn chương đã bắt đầu” (1) – Cách mạng chống lại cái gì? Phá bỏ cái gì vậy? – Những cái không thuộc về hôm nay: “Trong một thực trạng dày đặc những chất liệu của sáng tạo và phá vỡ như vậy, văn học nghệ thuật mặc nhiên không thể còn là tả chân Nguyễn Công Hoan, lãng mạn lối Thanh Châu, những khái niệm Xuân thu, những luận đề Tự lực.” (2) Cuộc cách mạng này “tựu trung vẫn chỉ là lịch sử tiến trình biện chứng của những trào lưu cạn dòng phải nhượng bộ rứt thoát cho những ngọn triều lớn dậy thay thế” (3)
Nhưng đến khi cần biết về “ngọn triều lớn” thì không thể biết gì rõ ràng. “Văn nghệ hôm nay” chủ trương ra sao? Đưa ra lý thuyết gì? Vạch ra những đường lối gì? Bác bỏ văn nghệ hôm qua ở chỗ nào? – Nhóm Sáng Tạo không có giải đáp: “ … thế nào cũng được. Điều đáng ghi nhận là lên đường ấy đã có.” (4) Vâng, thì lên đường đã được ghi nhận xong; nhưng lên đường đi về hướng nào đây? Về thi ca, Mai Thảo bảo rất đại khái: “Và thơ bây giờ là thơ tự do.” (5); về các bộ môn khác, không thấy có ý kiến gì. Thơ tự do không phải là cái mới mẻ nữa. Nó không phải là sáng kiến của văn nghệ hôm nay, của cách mạng. Sau này, có lần Mai Thảo thú nhận: “Tôi không nhìn Sáng Tạo như nơi phát xuất và hình thành một dòng văn học nghệ thuật. Lớn chuyện quá. Một tinh thần nào, một cách thế thì có.” (6)
Nhìn như một tinh thần, thì đó là một tinh thần đổi mới đầy tự tin, đầy hứng khởi. Tinh thần ấy có sức lôi cuốn, động viên; một tinh thần đáng tán thưởng. Nhưng nhìn như một cách thế, thì cách thế Sáng Tạo có những chỗ khó bảo là “tuyệt đẹp”. Chẳng hạn trong lối “khai tử” nền văn học tiền chiến có một cách thế kiêu căng; chẳng hạn trong lối diễn đạt của những vị trong nhóm chủ trương có một cách thế kiêu kỳ; hoặc hoa hòe hoa sói, kiểu cách ưỡn ẹo, hoặc tối tăm rối rắm.
Tuy nhiên Sáng Tạo đã có những đóng góp đáng kể. Mặc dù chỉ xuất hiện trong một thời gian ngắn 31 tháng, nó đã phát huy được một số văn tài đông đảo. Nhiều người trong số đó về sau, sau khi tờ tạp chí đình bản, tiến lên giữ vai trò quan trọng trong những hoạt động văn nghệ riêng biệt của mình. Thanh Tâm Tuyền dần dần viết truyện nhiều hơn làm thơ, viết truyện rất thành công và có ảnh hưởng rộng trong văn giới lớp sau; Doãn Quốc Sỹ chủ trương một nhà xuất bản, giới thiệu thêm một số cây bút mới nữa (trong đó có Phan Nhật Nam); Nguyên Sa rồi đứng ra chủ trương các tạp chí Gió Mới, Hiện Đại, và có một uy thế riêng; Tô Thùy Yên, Sao Trên Rừng (sau đổi ra là Nguyễn Đức Sơn) rồi trở thành những thi sĩ có bản sắc đặc biệt; Dương Nghiễm Mậu sáng tác mỗi lúc mỗi phong phú mỗi độc đáo, chủ trương nào nhà xuất bản nào tạp chí Văn Nghệ (cùng với Lý Hoàng Phong), là một cây bút xuất sắc hoạt động mạnh mẽ cho đến ngày cuối cùng của Miền Nam v. v…
Võ Phiến (Trích “Văn Học Miền Nam Tổng Quan” (Võ Phiến, Nxb Văn Nghệ, tháng 7-1988)
1,2,3) Mai Thảo, “Đứng về phía những cái mới”, Tuyển truyện Sáng Tạo, Sống Mới tái bản tại Hoa Kỳ, các trang 8, 11, 13.
4) Sđd, trang 12.
5) Sđd, trang 11.
6) Nguyễn Nam Anh, “Mai Thảo, nhà văn ở phút nói sự thật”, tạp chí Văn, Sài gòn, số 192 ra ngày 15-12-1971. Tôi lên tiếng Tôi gật đầu trước mặt ái tình Như một loài cỏ ngoan vâng lời gió dạy Kìa máu chảy ngoài đường Kìa máu chảy Tôi ra giữa công trường cất tiếng kêu oan Nhân loại ngây thơ đời đời chịu tội Sắt đỏ cày nhăn trán mịn màng Lúa đầy đồng người gặt thiếu ăn Chúng nó đòi thủ tiêu thi sĩ Tôi là thi sĩ tôi yêu Chúng ta góp tay đẩy đời đi tròn
Tô Thùy Yên đóng góp bài thơ tự do cho tạp chí Sáng Tạo - số 8 tháng 5, 1957
TRANG THƠ TÔ THÙY YÊN - Website: http://www.thivien.net Hàng ngồi từ trái: Ngọc Hoài Phương, Tô Thùy Yên, Đăng Khánh, Du Tử Lê. Hàng đứng: Phương Hoa, bà Tô Thùy Yên, Khánh Minh, Tuấn Ngọc, Nguyễn Lương Vỵ, Bùi Xuân Hiến Ngô Nhân Dụng và Đinh Quang Anh Thái - Người Việt Daily News - bàn về nhà thơ Tô Thùy Yên Phần 1 Phần 2 Phần 3 Phần 4
Tô Thùy Yên: thơ, như một vinh dự lầm than của kiếp người BÙI VĨNH PHÚC
Nguồn: Bài này đã đăng một vài đoạn khác nhau, lần đầu trên các nguyệt san Hợp Lưu và Văn Học (California), vào những năm 1992 và 1994. Toàn bộ bài viết được in trong Lý Luận và Phê Bình / Hai mươi năm văn học Việt ngoài nước 1975-1995 của Bùi Vĩnh Phúc, nhà xuất bản Văn Nghệ, California, 1996. Bài viết hiện tại được nhuận sắc và cập nhật vào tháng Một, 2019.
Biểu dương—hãy biểu dương cùng tận Vinh dự lầm than của kiếp người Hy hữu một lần trên trái đất Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai. TTY
.1.
Tô Thùy Yên là một giọng thơ đặc thù, có một, và vô cùng u hiển của nền thi ca Việt Nam trong dòng văn học miền Nam kể từ Sáng Tạo.
Từ cuối thập niên năm mươi cho đến thời điểm bị cắt đứt 1975, dòng thi ca miền Nam Việt Nam không phải là không thấy nổi bật lên những khuôn mặt khôi ngô của thơ, những tiếng nói mới lạ của tình cảm, của cảm xúc, của trí tuệ; không phải là nó không thấy rạo rực lên trong chính thân xác và tâm hồn mình cái thiết tha và mạch sống của thời đại. Mà không phải chỉ ở Việt Nam, nơi các luồng ý thức hệ trái chiều đã dùng làm địa bàn để thử nghiệm những con toán suy tư của mình, nơi những con sóng của các triều nước lý trí, dâng lên từ phương Tây và từ châu Mỹ, thỉnh thoảng hắt lên trên mặt đất này những lượng nước cuối mùa từ cái dòng trào của nó, con người nói chung, ở Việt Nam cũng như ở khắp nơi trên thế giới, nơi ánh sáng của văn minh nhân loại vẫn còn có cơ hội soi rọi đến, trong những thập niên ‘50, ‘60 và ‘70, đều đã tìm thấy cho mình một hơi thở mới, một tiếng nói mới, một cái nhìn mới về đời sống. Hơi thở ấy đẩy người ta đi vào cuộc sống mỗi ngày với một thái độ dấn thân và tha thiết hơn. Cái nhìn ấy đem vào nhãn giới con người những gì đã trượt ra khỏi tầm nhìn của nó ở những thế hệ trước, vì lý do này hay lý do khác. Và tiếng nói mới mà con người tìm được trong thời đại này đã giúp cho nó tìm xuống những chiều sâu mới của chính tâm hồn mình, dẫn nó đi qua những bậc đá trắng và lạnh của ngôi đền thâm u, kỳ bí, có khi in đậm hình bóng rêu rong của kinh hoàng, khủng khiếp, nhưng cũng có khi ứ đầy và chói sáng ánh mặt trời khiết bạch. Ngôi đền này chính là trái tim con người. Trái tim ấy bóp và đập, bóp và đập, nhưng trong từng giây phút, qua chính những nhịp bóp và đập ấy, nó để nở vào đời sống muôn vàn đoá hoa bí nhiệm làm nên cuộc đời của mỗi con người. Và làm nên cuộc sống của nhân loại.
Nhà thơ là người nhìn vào được trái tim của những đoá hoa bí nhiệm ấy.
Thơ, chẳng phải chỉ là những cửa ngõ để nhìn vào trái tim, mà thường khi, nó chính là trái tim. Nó là ngôi đền thâm u kia. Và nó cũng chính là những đoá hoa bí nhiệm của đời sống.
Tô Thùy Yên là một nhà thơ Việt Nam lớn lên trong cái bối cảnh tinh thần ấy của con người thế kỷ. Ông đã nhận chịu và đã kế thừa cái gia sản chung của nhân loại trong suy nghĩ và trong tiếng nói của mình. Nhưng trong tiến trình sống và phát triển, trong khi học hỏi và chia sẻ những kinh nghiệm chung của nhân loại, ông còn có được những kinh nghiệm riêng của chính mình. Những kinh nghiệm riêng này của Tô Thùy Yên là những kinh nghiệm của một con người nói riêng, mang cá...
Bùi Vĩnh Phúc
Đọc tiếp: trang 3 bản pdf Tô Thùy Yên,thời gian, tồn tại, cô đơn và đá THỤY KHUÊ
Hành giả của cô đơn, Tô Thùy Yên đáp chuyến tốc hành “cánh đồng con ngựa chuyến tàu”, năm 56, vào vòng khác biệt của thời gian, nghiền nát hình hài, đập tan bão tố, giã vụn tâm tư, biến tất cả thành hư vô, trừ đá: Đá ở lại. Đá ở lại, trong ánh tàn dư, khiến cho thời gian, đá và con người trở thành tương quan tồn tại.
Trên cánh đồng hoang thuần một mầu Trên cánh đồng hoang dài đến nỗi Tàu chạy mau mà qua rất lâu Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu. Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt Gò nổng cao rồi thung lũng sâu. Ngựa thở hào hển, tở hào hển. Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau. Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn. Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu. Cánh đồng, a! Cánh đồng sắp hết. Tàu chạy mau, càng mau, càng mau. Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ, Chấm giữa nền nhung một vết nâu.
(Cánh Đồng Con Ngựa Chuyến Tàu, tháng 4-1956)
Ý niệm “chạy đua” lạ lắm. Mà đây không phải là cuộc chạy đua tầm thường giữa phường tục tử. Đây là cuộc chạy đua giữa ba “kẻ” không phải người, không cùng “giống”: Cánh đồng (đất và cỏ) vừa là một tĩnh thể bất biến (đất), vừa là một sinh thể lụi tàn (cỏ). Ngựa thuộc loài tử kiếp (mortel), cố rượt theo con tàu, guồng máy vô tri, vô kiếp. Tô Thùy Yên đã đoạn tuyệt với quá khứ thơ tiền chiến bằng cuộc đua này, một cuộc đua rất cô hồn, siêu thực và có thật. “Chúng” chạy đi đâu? Chạy vào không gian và thời gian, mịt mùng vô tận. Ngựa chạy mau, tàu càng mau hơn. Vân tốc (thời gian) càng gia tăng, cánh đồng (không gian) càng “dãn” ra như thể hai cái biển gian ấy cùng nhập bọn một lúc, điều mà Phạm Duy rất ngại: đừng cho không gian đụng thời gian (Thương tình ca).
Như thế, ý thức thời gian gia nhập lãnh phận Tô Thùy Yên ngay từ đầu, “thời gian” vào thơ như một nhận thức về sự tồn tại xuyên qua thời gian.
Ở ông, thời gian phát động những câu thơ rất sâu và rất mạnh:
“Thời gian” rũ trắng xương làm nhớ . . . .
“Thời gian” gia tốc thảm thê thay . . . .
“Thời gian” đứt quãng dài vô định . . . .
“Thời gian” mất trí trắng vô âm . . . .
Lục lại “thời gian” kiếm chính mình . . . .
Thăm thẳm trưa “thời gian” chết xanh . . . .
Hồn “thời gian” phất phơ lưới nhện
Thời gian đứt quãng là một nhận thức cô cùng sâu, dẫn đến những đớn đau khác: thời gian rũ trắng xương làm nhớ, thời gian mất trí, thời gian gia tốc, thời gian chết xanh, hồn thời gian phất phơ lưới nhện … và trong cái biển thời gian dữ dằn, tàn khốc ấy, có kẻ đi lục lại thời gian kiếm chính mình, thì quả là cao đạo.
*
Cùng với Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên đem ý thức về bản ngã, về nỗi hoang tưởng của con người vào thi ca những năm 60, với một phong cách khác.
Ở Thanh Tâm Tuyền, con đường ý thức được vẽ trên cấu trúc gián đoạn, tượng trưng mạch đứt của thời gian.
Đêm ngã xuống khoảng thì thầm tội lỗi Em bé quàng khăn đỏ ơi Này một con chó sói (Tôi Không Còn Cô Độc)
Ở mỗi tích tắc, Thanh Tâm Tuyền chụp một bức ảnh và dàn trải chúng bên nhau.
Ba hình ảnh “đêm ngã xuống”, “em bé quàng khăn đỏ” và “con chó sói” rời rạc, không có gì liên lạc với nhau, cả ba xuất hiện cùng một lúc thành một bức tranh “siêu thực lập thể”.
Ở Tô Thùy Yên, ý thức hoang tưởng xuất hiện dưới dạng cổ điển và liên tục. Tô Thùy Yên không phá cách trong hình thức mà phá cách trong tư tưởng:
Thời gian đứt quãng dài vô định Như sợi dây diều băng mất tăm. Lòng anh thảng thốt, sông chao song Kỷ niệm buông tay, rú ngất chìm. (Vườn Hạ)
Cách tạo hình siêu thực gắn với ý thức về bản ngã, về sự đứt quãng của thời gian, được Tô Thùy Yên nhào nặn nhuần nhuyễn trong một cấu trúc liên tục: Thời gian đứt quãng dài vô định như sợi dây diều băng mất tăm, lòng anh thảng thốt, sông chao sóng đến đây vẫn là một “chuỗi thơ” hiền lành theo lối cũ, bỗng “kỷ niệm buông tay, rú ngất chìm”, từ đâu rớt xuống khiến người đọc thảng thốt, giật mình kịp thấy nỗi hoang mang, hoang tưởng. Trễ rồi. Hắn đã nhập cuộc. Vào cõi thơ Tô Thùy Yên, vào cõi hoang tưởng của chính mình, với những hình ảnh cực kỳ phức loạn: “nằm nghe tóc rụng”, “chiều hôm nhìn lửa nhớ tiền thân”, “con rạch đen nồng như máu chết”, “mắt người sâu vời vợi ẩm hơi chiều”, “đất bạc màu đi, đất bạc màu”.
Đi từ những nghiệm sinh về sự tồn tại và thời gian, rất Heidegger ấy, thơ Tô Thùy Yên đớn đau và sâu sắc, ông tạo ra một mẫu cô đơn hành giả, có khả năng đi ngược thời gian, suốt đời tìm lại chính mình, đằng vân trong một vũ trụ đau thương, ô nhiễm những lừa lọc, tội tù và chết chóc:
Nao nao mường tượng bóng mình Mịt mùng cõi tới, u minh tiếng rền Xuống đò, đời đã bỏ quên Xuống sông nước lớn trào lên mắt ngời. (Qua Sông)
Những chyến đi tuyệt vọng chỉ kéo dài thêm, lâu thêm, nỗi khắc khoải của cô đơn:
Năm tháng nhúng hoàng hôn Đến rã rời thể xác Tôi đã thấy mất mát Tất cả trừ cô đơn. Cuộc sống nhiễm lầm than Nằm liệt trên buồn bã Thượng đế điềm nhiên lạ Tôi đánh liều cười khan (Thân Phận Của Thi Sĩ)
Nhưng nói gì, làm gì rồi cũng thế thôi, cũng thừa thôi. Bởi từ lâu, người đãng tử ấy đã biết rằng:
Chim đã bay quanh từ vạn cổ Gió thật xưa, mây thật già nua. (Đãng Tử)
*
Với đá, Ngô Thừa Ân bắt đầu Tây Du Ký, Tôn Ngộ Không là con khỉ đá. Tào Tuyết Cần mở Hồng Lâu Mộng bằng đá, Giả Bảo Ngọc là hậu thân của hòn đá dưới núi Thanh Ngạnh. Luận Ngữ, Tam Tự Kinh … trong Văn Miếu tại Trường An cũng khắc trên bia đá. Rút cục chỉ có đá còn lại. Đá ở lại. Đá ở lại sau khi tất cả những ánh tàn dư khác đều đã trôi đi, biến đi:
Trên dốc thời gian, hòn đá tuột Lăn dài khinh động cả hư vô (Hề, Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ)
Tiếng kêu đá lở long thiên cổ Cát loạn muôn trùng xóa dấu chôn (Góa Phụ)
Đá là thể xác của vĩnh cửu. Nhưng đá cũng lại muôn kiếp cô đơn. Đá không có bạn. Đá không nói. Không có thông ngôn. Đá đợi ngàn năm. Đá là nỗi đợi vô tận.
Nữ Oa góp nhặt những hòn đá lớn, ngoan cường nhất để vá lại bầu trời thương khuyết, nứt nẻ, tật nguyền. Với sự tính toán tỉ mỉ, Nữ Oa cho rằng: Phải cần đến hàng vạn năm mới kiếm được 36.500 hòn đá lớn để lấp kín vết thương của bầu trời. Bà chuẩn bị được 36.501 hòn đá, nhưng lại chỉ cần có 36.500. Hòn đá duy nhất, bé nhất còn sót lại bị bà bỏ quên trên núi Thanh Ngạnh.
Về tâm sự đứa con út của Nữ Oa, Tào Tuyết Cần viết: “Đá khát vọng lên trời, nhưng bầu trời bao la rộng lớn lại vứt bỏ nó. Đá muốn xuống với đất nhưng năm tháng dằng dặc qua đi, mòn mỏi đợi chờ vẫn không có cơ may để nó được đặt chân lên bàn cờ huyền bí trên mặt đất.” Nhà văn muốn giải thích cái nhân duyên của đá. Không được lên trời, không chôn xuống đất. Đá hóa thân thành: Giả Bảo Ngọc. Đứa con út của Nữ Oa, chẳng qua là con người bị kết án chung thân di chuyển, lủng lẳng giữa thời gian và không gian một chiều đi duy nhất: Tiến về cõi Không. Dẫm lên lầm than, tang tóc, cô đơn, phi lý, nguyền rủa, căm thù, lắng nghe những chuyện trần thế thất thiệt. Thân phận đợi chờ, di biến, trơ đá ấy, Tô Thùy Yên đã viết được, như một định mệnh, một vinh dự lầm than của kiếp người, như một định nghĩa của cô đơn, của con người, lửng lơ trong cõi vô chung, vô thủy:
Con chim bói cá trong tàn tối Soi vĩnh hằng xanh rợn mặt hồ Hư ảnh lờn rờn tụ tán tụ Hoài công không định nổi chân như Trái đất thì buồn như xác rỗng Ta thì như gió, tuyệt bơ vơ, Trăm năm, cửa khép hờ mưa nắng … Mãi chẳng ai về qua gọi cho. Ta đợi nghe chừng thiên cổ mỏi Hàng hàng thân trụ đứng hư hao Hoàng hôn, thần thánh bưng mặt khóc Ta chẳng buồn thăm hỏi tại sao Ôi đá địa đầu vần vụ mộng Ai xưa qua yểm lại tình sầu Thời gian rủ trắng xương làm nhớ Gió cát không nguôi khóc dãi dầu. (Nỗi Đợi)
Ý thức về đá làm lạnh thơ, giá băng những câu thơ tha thiết nhất:
Từng chút vỗ về, từng chút một Em tạt vào anh rồi rút đi … Thương tích chẳng lành chan muối xót Bào sâu thân đá, nước tay ghì (Hải Phận)
Và với lạnh băng ấy, nhà thơ đi vào hành trình ý thức, tìm lại chính mình:
Một sáng ta về qua bãi sụp Thấy tàn tro váng biết là ta. (Nỗi Đợi)
*
Ở Tô Thùy Yên, còn một con người nữa trong đó chất hành giả, ý niệm quân tử và hào hung nhào nặn thành một tâm hồn “tráng sĩ” hiện đại. Hình ảnh này rất được quần chúng (di tản) ngưỡng mộ. Giọng thơ quan hoài, biên tái, mang hào khí của người (anh hùng) bại trận, bất khuất. Coi nhẹ tù đày. Xem thường gian khổ. Kể chuyện mười năm lao cải nhẹ như lông.
Bài Ta Về được phổ biến ngay khi Tô Thùy Yên còn ở trong nước như một bài ca ngất ngưởng của người tù cải tạo, cao ngạo trở về, với cái ta khinh mạn và ngạo nghễ:
Ta về một bóng trên đường lớn Thơ chẳng ai đề vạt áo phai … Sao vẫn nghe đau mềm phế phủ? Mười năm, đá cũng ngậm ngùi thay. Vĩnh biệt ta – mười năm chết dấp Chốn rừng thiêng ỉm tiếng nghìn thu Mười năm, mặt xạm soi khe nước Ta hóa thân thành vượn cổ sơ.
Ta về qua những truông cùng phá Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ, Nghe tàn cát bụi tháng năm bay
. . . .
(Ta Về)
Nhiều người cho Ta Về, Chiều Trên Phá Tam Giang, Trường Sa Hành … là những bài thơ tiêu biểu Tô Thùy Yên, có lẽ tiêu biểu thơ chính khí, chính luận thì đúng hơn. Bài Ta về, như có ý tái tạo một chính nghĩa, môt chí khí cho người bại trận, xướng lên cái căn cước của miền Nam, tấm long “rộng lượng” của người tù lao cải, sẵn sàng tha thứ cho những kẻ đã hành hạ, đày đọa mình.
Nhưng dường như thơ hay không cần chính nghĩa, không cần bày tỏ. Lão Tử có nói đến tính “vô ích” của các sự xướng danh. Vô danh mới là Đạo. Đạo thường ẩn. Đạo vốn mộc mạc, không có tên. Không có tên nên mới có khả năng biến hóa. Thơ hay không lộ. Mà lại ngại những hình ảnh cliché, sáo mòn như thơ đề vạt áo, niềm đau phế phủ, chốn rừng thiêng, tiếng nghìn thu, truông cùng phá, hóa thân thành vượn … Những nỗi đau thật không hợp với tạng chữ lấp lánh láng diện, như thể đám tang không mặc áo màu.
Cho nên những câu thơ như:
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh lớn Mà Hiu Quạnh lớn vẫn làm ngơ.
trong Trường Sa Hành, dù được ca tụng, e rằng chúng cũng rất xa với nỗi quạnh hiu dù rất lớn của nhà thơ và của con người.
*
Ở Tô Thùy Yên, cô đơn, hiu quạnh và thất phận âm ỷ dưới những câu thơ khác không viết hoa, khiêm tốn hơn, tinh tế hơn và ít được chú ý hơn.
Dường như nỗi đau đã đến với Tô Thùy Yên từ rất sớm, từ những ngày đầu chiến tranh, nỗi đau đời, bắt gặp một đêm qua bắc Vàm Cống:
Đêm qua bắc Vàm Cống, Mối sầu như nước sông, Chảy hoài mà chẳng cạn, Cuốn phăng kiếp bềnh bồng.
. . . .
Tôi châm điếu thuốc nữa Đốt tàn thêm tháng năm Chiếc bắc xa dần bến Đời xa dần tuổi xanh Nước tách nguồn về biển Sầu lại chảy về hồn Khi tôi vuốt lấy mặt Nghe bàn tay trống trơn
Đây là một trong những bài thơ lọt vào người như kẻ trộm như lời Tô Thùy Yên. Chính cái khẽ khàng, cái nhỏ nhẹ ấy mới thấm và đau, nó là những sợi thần kinh của cảm giác. Không hề có những chữ “lớn” mà mối sầu vẫn lớn. Một thời gian gian dối: Đốt tàm thêm tháng năm. Một trống vắng âm thầm xâm lấn, cô đơn nạo sát hồn người: Khi tôi vuốt lấy mặt, nghe bàn tay trống trơn. Thơ đã tìm được tần sóng của những ngõ vắng, những lối lạc của tâm hồn; thơ mở những cửa kín, phát lộ những nỗi đau dấu sâu trong tim người.
Bài Vườn Hạ, lạnh lung chăng lên phận số con người, những kiếp mỏng manh như những sợi diều, bị bắt làm con tin cho một mẹ mìn thời gian luôn luôn bất trắc phản bội chỉ chờ dịp là quất ngựa truy phong:
Thời gian đứt quãng dài vô định Như sợi dây diều băng mất tăm Lòng anh thảng thốt, sông chao song Kỷ niệm buông tay rú ngất chìm. Ai ngắt dùm anh cây cỏ sướt Làm đôi gà đá, đá ăn cười Mùa hè đi khuất kêu không lại Bãi mía điêu tàn gốc cháy thui.
Trời cao mỏi mắt, chòm mây bạc Thăm thẳm trưa, thời gian chết xanh. Ngoài cõi chói chang hư áo múa Dường như ai gọi ấu danh anh. Hàng cây đứng bóng ôm tròn gốc Đất ẩm vương hương, cỏ trở màu Ai cúi soi mương rong khỏa mặt Thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao. (Vườn Hạ)
Một mối ‘sầu” mới dấy lên, không phải sầu tiền chiến, sầu lãng mạn Lưu Trọng Lư, Huy Cận. Sầu Tô Thùy Yên mang tính chất nội tại, sầu hiện sinh, sầu sống, sầu hôm nay, sầu tự bản thân lan ra vũ trụ “lòng anh thảng thốt sông chao sóng” khác với sầu hôm qua, “sóng cuộn tràng giang buồn điệp điệp” (Huy Cận). Sầu mới xuất phát từ người, làm chao đảo thiên nhiên, khác với sầu cũ: thiên nhiên gây thương cảm trong lòng người.
Ở cõi sầu mới, con người làm chủ tình cảm và tình thế, vũ trũ bị nhân hóa (việc nhân hóa này rất khác với nhân cách hóa trong thơ lãng mạn: phất phơ hồn của bông hường, Xuân Diệu) như: Trời cao mỏi mắt chòm mây bạc: trời, mây ở đây là người, chứ không bị ví là người như bong hường của Xuân Diệu.
Thăm thẳm trưa thời gian chết xanh, ngoài cõi chói chang hư ảo múa, hàng cây đứng bóng ôm tròn gốc, đất ẩm vương hương cỏ trổ màu …: thời gian, hư ảo, hàng cây, đất, cỏ … đều là người, và người lại biến thành vật ảo, thành bóng ma của chính mình:
Ai cúi soi mương rong khỏa mặt Thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao.
Những rung động mới này xuất phát từ những nghiệm sinh về tồn tại và thời gian, hợp với cách tạo hình siêu thực, tạo thành ”nỗi đau hôm nay”, một nỗi đau xâm thẳng vào bản thể, dày vò tâm thức, cực kỳ nhức nhối (khác hẳn với nỗi đau lãng mạn êm dịu thời tiền chiến), tạo nên những hình ảnh thầm lặng mà vô cùng chua xót như mùa hè đi khuất kêu không lại, thăm thẳm trưa thời gian chết xanh, thấy hồn mùa cũ đọng xanh xao … Nơi Tô Thùy Yên, có tồn tại nào qua mắt được thời gian? Tồn tại và thời gian ẩn kiếp trong nhau: Không biết ai phụ ai? Ai lấn át ai? Ai chết trước ai?
Hải Phận, một bài thơ nhỏ với mối sầu lớn. Tô Thùy Yên dựng hải phận tình yêu trong hải phận người. Vừa chia cắt, vừa gần gụi như biển và cát, như nước và đá. Ảo tưởng gần xa, hợp tan, sáng tối, tuy một mà hai, giao nhau tạo nên một mối sầu non trẻ luôn luôn bắt đầu, luôn luôn trở lại:
Như một con sò giữa chiếc vỏ Chúng ta cuộn trốn trong tình yêu Như đôi dã tràng không biết mỏi Chúng ta khởi sự lại mối sầu Từng chút vỗ về từng chút một Em tạt vào anh rồi rút đi Thương tích chẳng lành chan muối xót Bào sâu thân đá, nước tay ghì.
Người lính trong hải phận cũng nhập nhằng, khiêm tốn. Ở đây không có khí hạo nhiên, không có lời hào sảng mà chỉ là những tích tụ đau thương, nhục cảm, tìm đến đối tượng yêu đương như một cõi sống, cõi về, cõi hải đăng sáng diệu:
Anh sống làm quen cùng cái chết Liếm lấy mặn mà trên đau thương Chìm mãi xuống em và mất tích Như mặt trời rã trong nước loang. Vị thần mun hải đăng trơ trọi Trừng mỏi con mắt ngó không gian Em trở về em chờ biến đổi Trở về em như kim chỉ nam. (Hải Phận)
Sau này, nếu tất cả nhân gian đã bị thời gian cuốn đi, ý thức cô đơn nơi Tô Thùy Yên sẽ còn dội lại như một âm thừa tưởng lạc đến muôn sau. Và những gia tốc vận hành của nhà thơ, ngược thời gian, tìm về tiền thân, rồi cũng sẽ được lưu lại như một thử nghiệm tư tưởng.
May ra, trong một mùa hạn nào đó, Tô Thùy Yên sẽ tìm thấy:
Ở đâu còn cụm mây hư ảo Bay tự ngàn năm trắng cổ thi Tưởng tượng ta gom vào hiện kiếp Trọn luân hồi ấy, một lần đi.
THỤY KHUÊ Paris tháng 10/1998 (Trích Sóng Từ Trường II, Thụy Khuê, nxb Văn Nghệ, 1998) NGỰA PHI ĐƯỜNG XA - Đặng Tiến ... Gần đây và hiện nay, về mặt văn hóa, trong nước đang thảo luận dài dòng về đề tài: truyền thống và hiện đại; dân tộc và thế giới; cái riêng trong cõi chung… Ý hướng tốt: muốn liên minh cái nọ với cái kia, điều hòa cuộc sống dân tộc trong một thế giới đang bước đi những bước khổng lồ.
Thực tế văn hóa, nghệ thuật không rắc rối như vậy. Người nghệ sĩ làm thơ, vẽ tranh một cách hồn nhiên muốn sao làm vậy, rồi tác phẩm của họ nó ra sao còn tùy; dân tộc hay hiện đại là do người xem người đọc. Nếu rung cảm chân thành và sâu sắc thì phải mang đủ hai yếu tố, với phần liều lượng khác nhau. Nói rằng điều hòa truyền thống với hịện đại, ngày nay trở thành một khẩu hiệu, một cách chào hàng trong thị trường văn hóa. Trong thâm tâm người sản xuất đã có hậu ý đối lập: làm sao cho có bản sắc dân tộc mà vẫn hiện đại; làm sao theo kịp các trào lưu của thế giới mà vẫn giữ truyền thống. Hai chữ “mà vẫn” có tính cách lãnh đạo và tham lam. Mà lãnh đạo và tham lam là phi văn hóa. Người nghệ sĩ chân chính, dù cho bề ngoài phải chịu ức thúc, nhưng trong đáy tâm hồn, trong cõi thâm sâu của sáng tạo, họ là những cá nhân tự do sống và sáng tác với “cái có trong ta” như chữ nghĩa Tô Thùy Yên.
Con người nô lệ, vụ lợi và xu thời, giỏi lắm là nghệ nhân hay văn công. Trong thực tế sáng tạo, dân tộc và hiện đại là một đơn vị bất khả phân. Nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân, trong một tác phẩm mới in, đã nói chí lí và dũng cảm: “cái khẩu hiệu Dân tộc Hiện đại của văn nghệ chúng ta trong nhiều năm nay là một mệnh đề thiếu chính xác và hoàn chỉnh ngay ở mặt tu từ (…) khẩu hiệu này thiếu cái hàm ý nhân loại trong truyền thống” (tr 58). Trong một bài khác, anh nói thêm “ Cũng vậy đối với nghệ thuật bản sắc dân tộc và tính toàn cầu phải được hiểu là một”.(tr 73).
Cần nêu lên tiền đề này trước khi đề cập đến đề tài cục bộ: Tô Thùy Yên, dân tộc và hiện đại, đặt một trường hợp riêng lẻ trong cuộc thảo luận chung của đất nước – dù rằng cuộc thảo luận khập khiễng. Nói khác đi, vấn đề không đặt ra với tôi; với tôi chỉ có thân xác những bài thơ ngoài thời gian và vô quốc tịch; nó là thơ Tô Thùy Yên thế thôi, không dân tộc hiện đại gì ráo. Nhưng với người đọc – người đọc báo chẳng hạn, người viết có nhiệm vụ (và hạnh phúc) phải cập nhật hóa bài viết, trong bối cảnh lý luận rộng lớn hơn, hiện hành trên đất nước.
Tô Thùy Yên đến với văn học Việt Nam ở một giai đọan mới, mở ra tại miền Nam khoảng 1955-1956. Anh là thanh niên trí thức, đọc nhiều sách báo nước ngoài, trên một mảnh đất mở vào “Thế giới tự do” thì dĩ nhiên tâm hồn và trước tác cũng phải hiện đại: câu thơ, nhịp thơ, hình ảnh, ý tứ trong thơ Tô Thùy Yên minh chứng điều đó, chúng ta không cần đồ họa lôi thôi. Cái chính là làm nổi bật tính dân tộc trong thơ Tô Thùy Yên, đã đưa thơ anh đến với một nhân loại muôn đời, vượt qua hàng rào “hiện đại”...
MỜI XEM TOÀN BÀI: "NGỰA PHI ĐƯỜNG XA" CỦA ĐẶNG TIẾN
|