Quán Bên Đường
Tết với người lính thời xưa cũ - Nguyễn Mạnh Trinh
Nguyễn Mạnh Trinh
Có người nói tết là ngày quay lưng đi quá khứ và ngoảnh nhìn tới tương lai. Với người lính VNCH xưa cũ, những ngày cuối năm là dịp để nhớ về, để tưởng nhớ. Thời gian ở chiến trường, có lúc biền biệt để không thể nhớ được ngày tháng. Nhưng gần tết, khi nắng buổi chiều đã có màu vàng hoe, khi gió bấc đã xạc xào làm thức dậy những chuỗi kỷ niệm tưởng như yên ngủ. Bao giờ cũng là những hướng vọng. Như là những ngày yên bình sắp tới. Như ngày được về nhà hội ngộ với vợ con. Dù ở bất cứ nơi đâu, một tiền đồn heo hút hoang vắng, hay ở một đảo xa cô tịch sóng gió bão bùng, hay ở trong quân trường chỉ cách phố phường có hàng rào kẽm gai ban đêm nhìn ánh đèn thành phố, cái cảm khái cũng đều giống nhau, của một nỗi buồn của bất cứ một người nào có trái tim đều tự nhiên như thế.
Nhân ngày đầu năm, tản mạn về những cái tết của thời chinh chiến mà những ngày tháng ấy không thể nào quên trong trí nhớ chúng ta.
Có người đã đặt câu hỏi nhiều người thích chiến tranh nên hay thường nhắc đến với nhiều cảm khái?
Thời trước, mặc dù tôi là một người lính nhưng cũng không đến nỗi hiếu chiến nên chọn lựa giữa an bình và chém giết thì tôi vẫn thích an bình cho đất nước hơn. Nhưng, vẫn phải đi trên con đường mà cả thế hệ chúng tôi phải đi và không có thể có quyết định nào khác. Khi nước biến thì phải làm nhiệm vụ của mình.
Chiến tranh có lẽ là một đề tài lớn của văn chương nhân loại. Riêng với dân tộc Việt Nam, từ xưa đến nay, đã quen với chinh chiến khói lửa, chỉ riêng ký ức của những người lính cũng đủ làm chất liệu cho những pho tiểu thuyết lớn. Đọc từ văn học miền Bắc đến hai mươi năm văn học miền Nam, từ văn chương trong nước đến hải ngoại, rất nhiều chân dung người lính được phác họa với rất nhiều đặc tính, đặc thù.
Viết về chiến tranh, mô tả chân dung người lính của QLVNCH và bộ đội Cộng sản trong những nền văn học, những nhà văn ở hai phía đã có nhiều khác biệt.
Văn học miền Bắc và văn học trong nước sau 1975 là một nền văn học đầy tiếng súng. Hình tượng người lính được tô vẽ với những nét anh hùng đôi khi gần với tưởng tượng và không có trong thực tế. Dù rằng, có khi chiến tranh đã hết, nhưng âm hưởng vẫn còn. Tới bây giờ vẫn còn những tiểu thuyết tô vẽ những mẫu người được gọi là chiến sĩ, chiến đấu ngay cả khi hòa bình.
Có một khuôn mẫu cho nhà văn miền Bắc khi mô tả về chân dung người lính Cộng sản theo đúng như những đề cương văn hóa đã ấn định.
Chân dung người lính Cộng sản được vẽ ra toàn thiện toàn mỹ với đầy những nét hy sinh cang cường mưu trí và nhất là trung thành vô hạn với chế độ với lãnh tụ. Cả đến khi gần với cái chết cũng không sợ hãi và dù trước những cám dỗ vật chất cũng không chuyển lòng. Đó là chân dung của những con người không có trong thực tại.
Những mô tả khác với ấn định ấy, dù có nét chân thực của tự nhiên con người cũng bị phê phán, cấm đoán. Những tiểu thuyết như “Cái Gốc“ của Nguyễn Thanh Long, truyện ngắn “Một đêm đợi tàu” của Đỗ Phú, hay tùy bút “Tình rừng” của Nguyễn Tuân, … đã bị kết tội “xu hướng lấy cái tầm thường yếu đuối của mình mà gán cho nhân vật theo kiểu lấy bụng ta suy ra bụng người” Hay những bài thơ “Vòng Trắng“ của Phạm Tiến Duật, như “Tâm sự với Thúy Kiều“ của Lý Phương Liên, hay những bài thơ của Dư Thị Hoàn,... cũng bị phê phán, là dao động, ủy mị có những suy nghĩ tiêu cực đi ngược lại chính sách của Đảng.
Trong khi đó, không có một mẫu mực tiền chế nào về chân dung của người lính quân đội VNCH. Trong hai mươi năm văn học miền Nam hay ở văn chương Việt Nam hải ngoại, chân dung người lính ấy được nhìn ngắm từ nhiều góc độ. Không có một khuôn khổ nào được ấn định cho những chân dung người lính ấy. Và không phải lúc nào cũng là những lời lẽ cổ võ chiến tranh. Cái tâm tư không muốn tham dự cuộc chiến nhưng vẫn phải vào cuộc hay sự suy nghĩ của những người tình nguyện đi vào binh nghiệp, có khi tưởng như tương phản nhau nhưng lại là phản ánh trung thực của cả một thế hệ tuổi trẻ lớn lên trong thời kỳ chiến tranh.
Trong khung cảnh của một đất nước chiến tranh, mùa xuân vẫn là một dịp để nhớ nhung, hay một dịp để nhìn vào tương lai sắp tới với những hy vọng. Ngày đầu năm ở quân trường, ngày tân xuân ở chiến trường, những nhà văn, nhà thơ mang áo lính đã sống trong không khí đặc biệt, trôn lẫn buồn vui, chán chường, hy vọng, thương đời và thương mình. Trong những tác phẩm viết về chiến tranh ấy, nhân ngày đầu xuân, chúng ta thử đi vào những không gian riêng, thời gian riêng của những người lính. Mặc dù, chế độ Cộng sản đương thời muốn xóa nhòa đi hình ảnh nền văn học ấy nhưng xem ra ý định ấy đã thất bại. Chẳng có chế độ nào thành công trong việc phần thư khánh nho, cho dù là chế độ Tần Thủy Hoàng ngày xưa đến Cộng sản Việt Nam bây giờ…
Phan Nhật Nam, người lính Nhảy Dù, một nhà văn mà bị Tô Hoài trong cái bỉ thử nhưng vẫn pha sự thán phục cho là “người viết tác phẩm của mình bằng máu nhưng là loại máu cặn bã của chế độ thực dân mới“. Chính thái độ phi văn nghệ khi chửi bới các nhà văn khác chính kiến như Doãn Quốc Sỹ, như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, như Phan Nhât Nam,… đã làm cho tác giả của Trăng Thề, của O chuột bị người đọc ác cảm và hạ thấp đi nhiều giá trị của mình.
Trong “Dấu Binh lửa“ Phan Nhật Nam cũng đã trải qua nhiều cái Tết. Cũng có những cái tết hạnh phúc, những ngày ứng chiến ở thủ đô Sài Gòn.
Nhưng, tiếp theo không phải là thiên đường như vậy. Chiến trường ngày đầu xuân ác liệt, và gian khổ:
“… Đêm mùa khô trời đầy sao, sau khi có mấy muỗng cơm nóng với ngụm nước nhỏ tôi tỉnh người đốt điếu thuốc gối đầu vào nón sắt ghé tai vào máy truyền tin xem chừng các toán phục kích… bên phía hai tiểu đoàn bạn trận đánh mỗi lúc một ác liệt chưa bao giờ tôi thấy gunship đánh trận đêm nhiều đến như thế
Quân rút ra đi như một lũ ma đói hai ngày hai đêm thiếu nước và mất ngủ mọi người phờ phạc trông thấy. Trung đôi tôi đáng lẽ dẫn đầu trở ra lại phải đi chót Tiểu Đoàn. Đại đội 73 đi đầu. Trung đội của Toàn vừa đi được hai mươi thước đạp một trái lựu đạn, hai chết hai bị thương... Mấy thằng lính của Trung đội tôi cười như mếu. May quá, mình đi đầu là chết rồi ! Tôi cũng nhủ thầm mình có số mạng…
Người trước đi, tôi đi theo chẳng cần đội hình ý tứ gì nữa, hai ngày vừa qua có được bốn muỗng cơm, người tôi không còn một sức lực nào nữa... Tôi dặn lính. Tụi mày cứ đi theo Trung đội trước mà đi, sát vào nhau đừng để lạc. Đầu gục xuống súng vác trên vai tôi thở không những bằng mũi mà cả bằng chiếc mồm há ra thật lớn, chiếc lưỡi căng phồng nhức nhối và đôi môi khô không còn chút cảm giác nữa. Tro rừng, đất bụi bám đầy mặt mũi bay đầy vào mồm, không còn tí nước bọt nào để nhổ ra, tôi đưa tay vào mồm chà trên lưỡi từng tảng tro đen. Quốc lộ 15 đây rồi, có thửa ruộng nhỏ bên đường tôi úp chiếc mặt vào giòng nước đục ngầu phủ một lớp bùn non… Uống! Uống! Như loài thú hoang trên sa mạc. Ngày hôm nay mới mồng tám Tết...”
Mùa xuân với người lính quả không phải là một dịp để nghỉ ngơi. Nguyên Vũ, một sĩ quan đề lô pháo binh đã tả cảnh “Nghênh xuân chiến địa”:
“Tết Ất Tỵ trở về bất chợt và ngỡ ngàng. Buổi chiều ngày 28 tết tôi đã định nhảy dù về Sài Gòn. Nhưng sợ hành quân bất tử, chui vào chiếu bạc, cháy túi.
… Thương nhớ đưa tôi vào quán rượu. Những ly rượu đế sủi bọt nồng cháy cuống phổi. Nhưng thấm lạnh tận trong hồn. Mắt tôi mở lớn nhìn ra khung trời khô lạnh - thứ khô lạnh của chiều cuối năm miền Bắc. Mà không thấy gì…
Nửa đêm hôm đó 4 chiếc GMC đưa chúng tôi ngược đường từ Bạc Liêu về Nhu Gia. Nửa đường, đoàn xe ném chúng tôi xuống để nhào tới đột kích xóm Béc Hen.
Băng ruộng băng kinh trong đêm tối giá lạnh. Mò mẫm giữa những lung dừa nước rậm rạp hàng giờ. Ba giờ sáng chúng tôi mới tới mục tiêu và âm thầm xiết chặt vòng vây. Năm giờ, trời vừa rạng sáng dù sương mù còn dày đặc chúng tôi ào ạt tràn vào xóm. Chỉ bắt được hai tên du kích và liên lạc bậy bạ. Báo hại dân chúng xanh máu mặt. Và chắc họ rủa thầm chúng tôi không ít. Mới sáng sớm mồng một Tết đã có lính tráng xông nhà. Rủi hay may đây? Thế nhưng thời buổi này người nông dân Việt Nam làm gì có một chút quyền lực nào dù nhiệm vụ họ rất nặng nề. Nhiệm vụ phải “đóng góp” cho MTGPMN, nhiệm vụ bị thủ tiêu bởi những viên Công an xã ấp hay du kích. Nhiệm vụ khóc cười sao cho hay và ròn rã nếu không may có một trận đánh khai diễn ngay trong xóm.
Dù sao ngoài mặt họ cũng niềm nở pha trà mang mứt mời chúng tôi. Chủ và khách bất đắc dĩ cười nói chúc mứng năm mới tài lộc đắc phúc. Gần trăm mạng Thám Báo chúng tôi chia ra chúc Tết mọi gia đình của cái xóm nhỏ nghèo nàn này… Khi những vệt nắng đầu năm vàng ối đã kết hoa trên vòm lá của những thân sao, trâm bầu và dừa nước chúng tôi từ giã xóm Béc Hen, hướng về phía Tây, để lại sau lưng nắng ấm mùa xuân và những người nông dân ”thân lươn bao quản lấm đầu”
Phan Lạc Tiếp, một nhà văn quân đội nhưng chất đôn hậu lại nhiều hơn chất lính trong văn chương. Trong bút ký Bờ Sông Lá Mục, ông ghi chép lại hành trình của một sĩ quan Hải quân lênh đênh trên sóng nước. “Giao Thừa Trên Đảo” là những dòng ghi lại sinh hoạt của những người lính biển cuối năm ở một hải đảo cô tịch hầu như biệt lập với sinh hoạt bên ngoài. Giao thừa, tập họp trong hàng quân, mỗi người mỗi nặng nề tâm sự.
“… Tiếng còi tập họp nổi lên. Tôi vẫn đứng yên. Sau tôi những bước chân vội vã. Những tiếng động quen thuộc lúc sắp vào đêm. Gió hình như vừa nổi lên và lạnh hơn. Tôi quay vào. Viên trung sĩ dõng dạc hô “nghiêm”. Tôi giơ tay chào và ra đứng trước hàng quân. Tôi ngửa mặt nhìn lên. Những tàn cây che phủ. Bước mấy bước chậm rồi tôi ngừng lại.
- Hôm nay ba mươi tết phải không các anh? Hàng quân như xao động. Tôi tiếp “Bây giờ là bảy giờ tối ba mươi tết“. Tôi vừa bước những bước ngắn và nói. ”Tối ba mươi tết. Chúng ta ở ngoài hòn đảo này. Quanh chúng ta chỉ có rừng cây, ghềnh đá và biển…
... Tôi trở về lều. Cửa sổ mở nhìn ra ngoài khơi. Biển vẫn phẳng lặng không một ánh đèn. Tôi thấy xót xa trong lòng. Nếu tàu không tới thì buồn biết mấy. Tiếng hát từ chiếc loa ngoài kia đều đều vọng tới. Giọng hát Thái Thanh nức nở thiết tha. Tôi khêu to ngọn đèn lên. Chiếc kiếm gác trên vách lá. Di vật của người đội trưởng trước tôi để lại, hồi ông ta nổi điên được đưa về Sài Gòn điều trị. Vội vã quên nên không mang theo. Chiếc kiếm với đầy đủ ngù quàng nơi đốc kiếm. Tôi lấy xuống, rút ra. Lưỡi đã có vài vết han rỉ. Tôi tra vào bao và dựa xuống sau đầu ghế vải thầm hỏi không biết hồi này bịnh tình đã khá chưa. Người con trai thời loạn chẳng lẽ chóng hoen rỉ như lưỡi kiếm này, như chủ nó sao? Tôi cũng không biết tôi sẽ còn phải trấn giữ hòn đảo này trong bao lâu nữa. Rồi ra tôi sẽ phát điên không? Ai sẽ tới thay tôi và sau đó ai sẽ tới nữa. Những buổi chiều bóng núi đổ dài ra ngoài khơi. Khí núi xông lên lạnh và buồn. Những anh tuần viên xúm nhau ngồi trên khúc cây khô ca vọng cổ. Rồi đêm xuống dõi mắt ra khơi tìm những bóng đèn câu lạc loài từ đất mẹ…
Tôi rùng mình thật mạnh như muốn xua đuổi những hình ảnh u buồn ngày cũ. Tôi đứng lên tính đi rửa mặt cho tỉnh táo để còn đi thăm mấy gia đình trong trại. Nhưng vừa bước ra sân đã thấy lố nhố một đám đông quần áo chỉnh tề. Tôi hiểu ngay ý định của họ nên vội vàng sốc gọn lại quần áo. Dẫn đầu là ông Tư-thuốc-mê. Không hiểu ông đã moi được ở đâu một cái áo vét-tông nhầu nát và sực mùi ẩm mốc. Mọi người khác cũng đều mặc thường phục. Ông Tư đằng hắng rồi lên tiếng “Năm mới chúng tôi tới mừng tuổi đội trưởng và cầu chúc đội trưởng thăng quan tiến chức.“ Tôi chắp tay đáp lễ và chúc mọi người sang năm mới ai nấy đều được vạn sự như ý. Tôi còn đang ngập ngừng lựa lời nói tiếp thì một người bật nói “Và sớm được về đất” Mọi người đều cười vang.
Khi mọi người kéo nhau vào, kẻ ngồi người đứng quanh chiếc bàn nhỏ thì tôi chợt nhận ra một ánh sáng long lanh qua kẽ lá ngoài cửa sổ mọi người cùng nhìn theo tôi và bật reo mừng ồn ào. Hai chấm xanh đỏ. Đúng là đèn hải hành của con tàu sắp tới. Chúng tôi cùng chạy ùa ra ngoài bãi cát. Triền cát mát lạnh dưới chân, cái mát lạnh cảm thấy được qua đế giầy da và làn bít tất đen dầy. Con tàu mỗi lúc lại tiến lại gần. Mọi người bàn tán xôn xao. Phía sau chúng tôi ngọn lửa vẫn âm ỉ cháy. Tôi quay lại nói lớn:
Đốt lửa lên, cao nữa lên, anh em!”
Trần Hoài Thư, cũng đón giao thừa. Nhưng, là đêm giao thừa nằm giữ đường làm an ninh cho các cuộc vui thâu đêm suốt sáng của các quan to súng ngắn :
“Dẫn một đàn con chiều xuống núi
giao thừa không ai nhắc mà đau
giao thừa hai tiếng đâm tâm não
trừ tịch: poncho gạch lót đầu
một đêm sao lại buồn như mếu
muốn nổ tan tành cả cõi đêm
giao thừa giao thừa ta xuống núi
làm hiệp sĩ mù giữa cõi u minh
giao thừa ai đó mời ta rượu
một nhấp mà hồn tê tái ư
anh bạn nghe gì không, tiếng nhạc
người ta đang nhảy đầm
dạ vũ mừng xuân
Giao thừa mừng tuổi con heo bịnh
Xin của nhà dân làm cỗ xuân
Trung đội lập bàn thờ giữa mả
Ta khấn âm hồn
Bảo bọc đàn con…”
Một bài thơ khác đón xuân say sưa của một người lính thường không uống rượu.
“Ông già chống gậy, cũng xong
một thau xá xị đủ nồng thịt da
mày tao lính trận xa nhà
cuối năm thì cũng ba hoa tiệc bầy
Uống cho núi lở, ông thầy
Đầu gà sao cứ chỉ ngay ly buồn
Thinh không giá rét từng cơn
Bâng khuâng nghe chuyện mất còn vu vơ
Phá mồi đừng có giả ngơ
Vài lon thịt có bao giờ đủ say
Uống cho trời đất lăn quay
Mốt mai vào núi men cay đâu cùng
Cầm súng bắn vào không trung
Lửa nào bốc mãi tận cùng sầu ta
Bạn tao vừa chết đêm qua
Hai mươi mốt tuổi chưa già đã đi
Uống cho đã nỗi thầm thì
cuộc chơi bom đạn còn gì thế thân
Vết thương máu giọt mấy lần
Hay đầu dao nhọn phân vân tháng ngày
Rượu còn, sao quắc, ông thầy
Dỡn mày, ly cạn rót đầy cho tao
Lính trận giữa chốn binh đao
Cuối năm giấc bướm trăng sao chẳng về…”
Thau xá xi pha lộn xộn những loại rượu nội hóa rẻ tiền quen thuộc với lính. Ông già chống gậy như Vĩnh Tồn Tâm, Vĩnh Sanh Hòa,... Đồ mồi đơn sơ và trò chơi quay đầu gà để chỉ định người cạn chén. Những người lính xúm nhau mượn men cay để đón xuân, để quên đi những bèo bọt cuộc đời. Nhưng quên đi sao được khi hình ảnh của những người đã hy sinh vẫn cứ hiện về, nhức nhối.
Nguyễn Mạnh Trinh
Tân Sơn Hòa chuyển
Tết với người lính thời xưa cũ - Nguyễn Mạnh Trinh
Nguyễn Mạnh Trinh
Có người nói tết là ngày quay lưng đi quá khứ và ngoảnh nhìn tới tương lai. Với người lính VNCH xưa cũ, những ngày cuối năm là dịp để nhớ về, để tưởng nhớ. Thời gian ở chiến trường, có lúc biền biệt để không thể nhớ được ngày tháng. Nhưng gần tết, khi nắng buổi chiều đã có màu vàng hoe, khi gió bấc đã xạc xào làm thức dậy những chuỗi kỷ niệm tưởng như yên ngủ. Bao giờ cũng là những hướng vọng. Như là những ngày yên bình sắp tới. Như ngày được về nhà hội ngộ với vợ con. Dù ở bất cứ nơi đâu, một tiền đồn heo hút hoang vắng, hay ở một đảo xa cô tịch sóng gió bão bùng, hay ở trong quân trường chỉ cách phố phường có hàng rào kẽm gai ban đêm nhìn ánh đèn thành phố, cái cảm khái cũng đều giống nhau, của một nỗi buồn của bất cứ một người nào có trái tim đều tự nhiên như thế.
Nhân ngày đầu năm, tản mạn về những cái tết của thời chinh chiến mà những ngày tháng ấy không thể nào quên trong trí nhớ chúng ta.
Có người đã đặt câu hỏi nhiều người thích chiến tranh nên hay thường nhắc đến với nhiều cảm khái?
Thời trước, mặc dù tôi là một người lính nhưng cũng không đến nỗi hiếu chiến nên chọn lựa giữa an bình và chém giết thì tôi vẫn thích an bình cho đất nước hơn. Nhưng, vẫn phải đi trên con đường mà cả thế hệ chúng tôi phải đi và không có thể có quyết định nào khác. Khi nước biến thì phải làm nhiệm vụ của mình.
Chiến tranh có lẽ là một đề tài lớn của văn chương nhân loại. Riêng với dân tộc Việt Nam, từ xưa đến nay, đã quen với chinh chiến khói lửa, chỉ riêng ký ức của những người lính cũng đủ làm chất liệu cho những pho tiểu thuyết lớn. Đọc từ văn học miền Bắc đến hai mươi năm văn học miền Nam, từ văn chương trong nước đến hải ngoại, rất nhiều chân dung người lính được phác họa với rất nhiều đặc tính, đặc thù.
Viết về chiến tranh, mô tả chân dung người lính của QLVNCH và bộ đội Cộng sản trong những nền văn học, những nhà văn ở hai phía đã có nhiều khác biệt.
Văn học miền Bắc và văn học trong nước sau 1975 là một nền văn học đầy tiếng súng. Hình tượng người lính được tô vẽ với những nét anh hùng đôi khi gần với tưởng tượng và không có trong thực tế. Dù rằng, có khi chiến tranh đã hết, nhưng âm hưởng vẫn còn. Tới bây giờ vẫn còn những tiểu thuyết tô vẽ những mẫu người được gọi là chiến sĩ, chiến đấu ngay cả khi hòa bình.
Có một khuôn mẫu cho nhà văn miền Bắc khi mô tả về chân dung người lính Cộng sản theo đúng như những đề cương văn hóa đã ấn định.
Chân dung người lính Cộng sản được vẽ ra toàn thiện toàn mỹ với đầy những nét hy sinh cang cường mưu trí và nhất là trung thành vô hạn với chế độ với lãnh tụ. Cả đến khi gần với cái chết cũng không sợ hãi và dù trước những cám dỗ vật chất cũng không chuyển lòng. Đó là chân dung của những con người không có trong thực tại.
Những mô tả khác với ấn định ấy, dù có nét chân thực của tự nhiên con người cũng bị phê phán, cấm đoán. Những tiểu thuyết như “Cái Gốc“ của Nguyễn Thanh Long, truyện ngắn “Một đêm đợi tàu” của Đỗ Phú, hay tùy bút “Tình rừng” của Nguyễn Tuân, … đã bị kết tội “xu hướng lấy cái tầm thường yếu đuối của mình mà gán cho nhân vật theo kiểu lấy bụng ta suy ra bụng người” Hay những bài thơ “Vòng Trắng“ của Phạm Tiến Duật, như “Tâm sự với Thúy Kiều“ của Lý Phương Liên, hay những bài thơ của Dư Thị Hoàn,... cũng bị phê phán, là dao động, ủy mị có những suy nghĩ tiêu cực đi ngược lại chính sách của Đảng.
Trong khi đó, không có một mẫu mực tiền chế nào về chân dung của người lính quân đội VNCH. Trong hai mươi năm văn học miền Nam hay ở văn chương Việt Nam hải ngoại, chân dung người lính ấy được nhìn ngắm từ nhiều góc độ. Không có một khuôn khổ nào được ấn định cho những chân dung người lính ấy. Và không phải lúc nào cũng là những lời lẽ cổ võ chiến tranh. Cái tâm tư không muốn tham dự cuộc chiến nhưng vẫn phải vào cuộc hay sự suy nghĩ của những người tình nguyện đi vào binh nghiệp, có khi tưởng như tương phản nhau nhưng lại là phản ánh trung thực của cả một thế hệ tuổi trẻ lớn lên trong thời kỳ chiến tranh.
Trong khung cảnh của một đất nước chiến tranh, mùa xuân vẫn là một dịp để nhớ nhung, hay một dịp để nhìn vào tương lai sắp tới với những hy vọng. Ngày đầu năm ở quân trường, ngày tân xuân ở chiến trường, những nhà văn, nhà thơ mang áo lính đã sống trong không khí đặc biệt, trôn lẫn buồn vui, chán chường, hy vọng, thương đời và thương mình. Trong những tác phẩm viết về chiến tranh ấy, nhân ngày đầu xuân, chúng ta thử đi vào những không gian riêng, thời gian riêng của những người lính. Mặc dù, chế độ Cộng sản đương thời muốn xóa nhòa đi hình ảnh nền văn học ấy nhưng xem ra ý định ấy đã thất bại. Chẳng có chế độ nào thành công trong việc phần thư khánh nho, cho dù là chế độ Tần Thủy Hoàng ngày xưa đến Cộng sản Việt Nam bây giờ…
Phan Nhật Nam, người lính Nhảy Dù, một nhà văn mà bị Tô Hoài trong cái bỉ thử nhưng vẫn pha sự thán phục cho là “người viết tác phẩm của mình bằng máu nhưng là loại máu cặn bã của chế độ thực dân mới“. Chính thái độ phi văn nghệ khi chửi bới các nhà văn khác chính kiến như Doãn Quốc Sỹ, như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, như Phan Nhât Nam,… đã làm cho tác giả của Trăng Thề, của O chuột bị người đọc ác cảm và hạ thấp đi nhiều giá trị của mình.
Trong “Dấu Binh lửa“ Phan Nhật Nam cũng đã trải qua nhiều cái Tết. Cũng có những cái tết hạnh phúc, những ngày ứng chiến ở thủ đô Sài Gòn.
Nhưng, tiếp theo không phải là thiên đường như vậy. Chiến trường ngày đầu xuân ác liệt, và gian khổ:
“… Đêm mùa khô trời đầy sao, sau khi có mấy muỗng cơm nóng với ngụm nước nhỏ tôi tỉnh người đốt điếu thuốc gối đầu vào nón sắt ghé tai vào máy truyền tin xem chừng các toán phục kích… bên phía hai tiểu đoàn bạn trận đánh mỗi lúc một ác liệt chưa bao giờ tôi thấy gunship đánh trận đêm nhiều đến như thế
Quân rút ra đi như một lũ ma đói hai ngày hai đêm thiếu nước và mất ngủ mọi người phờ phạc trông thấy. Trung đôi tôi đáng lẽ dẫn đầu trở ra lại phải đi chót Tiểu Đoàn. Đại đội 73 đi đầu. Trung đội của Toàn vừa đi được hai mươi thước đạp một trái lựu đạn, hai chết hai bị thương... Mấy thằng lính của Trung đội tôi cười như mếu. May quá, mình đi đầu là chết rồi ! Tôi cũng nhủ thầm mình có số mạng…
Người trước đi, tôi đi theo chẳng cần đội hình ý tứ gì nữa, hai ngày vừa qua có được bốn muỗng cơm, người tôi không còn một sức lực nào nữa... Tôi dặn lính. Tụi mày cứ đi theo Trung đội trước mà đi, sát vào nhau đừng để lạc. Đầu gục xuống súng vác trên vai tôi thở không những bằng mũi mà cả bằng chiếc mồm há ra thật lớn, chiếc lưỡi căng phồng nhức nhối và đôi môi khô không còn chút cảm giác nữa. Tro rừng, đất bụi bám đầy mặt mũi bay đầy vào mồm, không còn tí nước bọt nào để nhổ ra, tôi đưa tay vào mồm chà trên lưỡi từng tảng tro đen. Quốc lộ 15 đây rồi, có thửa ruộng nhỏ bên đường tôi úp chiếc mặt vào giòng nước đục ngầu phủ một lớp bùn non… Uống! Uống! Như loài thú hoang trên sa mạc. Ngày hôm nay mới mồng tám Tết...”
Mùa xuân với người lính quả không phải là một dịp để nghỉ ngơi. Nguyên Vũ, một sĩ quan đề lô pháo binh đã tả cảnh “Nghênh xuân chiến địa”:
“Tết Ất Tỵ trở về bất chợt và ngỡ ngàng. Buổi chiều ngày 28 tết tôi đã định nhảy dù về Sài Gòn. Nhưng sợ hành quân bất tử, chui vào chiếu bạc, cháy túi.
… Thương nhớ đưa tôi vào quán rượu. Những ly rượu đế sủi bọt nồng cháy cuống phổi. Nhưng thấm lạnh tận trong hồn. Mắt tôi mở lớn nhìn ra khung trời khô lạnh - thứ khô lạnh của chiều cuối năm miền Bắc. Mà không thấy gì…
Nửa đêm hôm đó 4 chiếc GMC đưa chúng tôi ngược đường từ Bạc Liêu về Nhu Gia. Nửa đường, đoàn xe ném chúng tôi xuống để nhào tới đột kích xóm Béc Hen.
Băng ruộng băng kinh trong đêm tối giá lạnh. Mò mẫm giữa những lung dừa nước rậm rạp hàng giờ. Ba giờ sáng chúng tôi mới tới mục tiêu và âm thầm xiết chặt vòng vây. Năm giờ, trời vừa rạng sáng dù sương mù còn dày đặc chúng tôi ào ạt tràn vào xóm. Chỉ bắt được hai tên du kích và liên lạc bậy bạ. Báo hại dân chúng xanh máu mặt. Và chắc họ rủa thầm chúng tôi không ít. Mới sáng sớm mồng một Tết đã có lính tráng xông nhà. Rủi hay may đây? Thế nhưng thời buổi này người nông dân Việt Nam làm gì có một chút quyền lực nào dù nhiệm vụ họ rất nặng nề. Nhiệm vụ phải “đóng góp” cho MTGPMN, nhiệm vụ bị thủ tiêu bởi những viên Công an xã ấp hay du kích. Nhiệm vụ khóc cười sao cho hay và ròn rã nếu không may có một trận đánh khai diễn ngay trong xóm.
Dù sao ngoài mặt họ cũng niềm nở pha trà mang mứt mời chúng tôi. Chủ và khách bất đắc dĩ cười nói chúc mứng năm mới tài lộc đắc phúc. Gần trăm mạng Thám Báo chúng tôi chia ra chúc Tết mọi gia đình của cái xóm nhỏ nghèo nàn này… Khi những vệt nắng đầu năm vàng ối đã kết hoa trên vòm lá của những thân sao, trâm bầu và dừa nước chúng tôi từ giã xóm Béc Hen, hướng về phía Tây, để lại sau lưng nắng ấm mùa xuân và những người nông dân ”thân lươn bao quản lấm đầu”
Phan Lạc Tiếp, một nhà văn quân đội nhưng chất đôn hậu lại nhiều hơn chất lính trong văn chương. Trong bút ký Bờ Sông Lá Mục, ông ghi chép lại hành trình của một sĩ quan Hải quân lênh đênh trên sóng nước. “Giao Thừa Trên Đảo” là những dòng ghi lại sinh hoạt của những người lính biển cuối năm ở một hải đảo cô tịch hầu như biệt lập với sinh hoạt bên ngoài. Giao thừa, tập họp trong hàng quân, mỗi người mỗi nặng nề tâm sự.
“… Tiếng còi tập họp nổi lên. Tôi vẫn đứng yên. Sau tôi những bước chân vội vã. Những tiếng động quen thuộc lúc sắp vào đêm. Gió hình như vừa nổi lên và lạnh hơn. Tôi quay vào. Viên trung sĩ dõng dạc hô “nghiêm”. Tôi giơ tay chào và ra đứng trước hàng quân. Tôi ngửa mặt nhìn lên. Những tàn cây che phủ. Bước mấy bước chậm rồi tôi ngừng lại.
- Hôm nay ba mươi tết phải không các anh? Hàng quân như xao động. Tôi tiếp “Bây giờ là bảy giờ tối ba mươi tết“. Tôi vừa bước những bước ngắn và nói. ”Tối ba mươi tết. Chúng ta ở ngoài hòn đảo này. Quanh chúng ta chỉ có rừng cây, ghềnh đá và biển…
... Tôi trở về lều. Cửa sổ mở nhìn ra ngoài khơi. Biển vẫn phẳng lặng không một ánh đèn. Tôi thấy xót xa trong lòng. Nếu tàu không tới thì buồn biết mấy. Tiếng hát từ chiếc loa ngoài kia đều đều vọng tới. Giọng hát Thái Thanh nức nở thiết tha. Tôi khêu to ngọn đèn lên. Chiếc kiếm gác trên vách lá. Di vật của người đội trưởng trước tôi để lại, hồi ông ta nổi điên được đưa về Sài Gòn điều trị. Vội vã quên nên không mang theo. Chiếc kiếm với đầy đủ ngù quàng nơi đốc kiếm. Tôi lấy xuống, rút ra. Lưỡi đã có vài vết han rỉ. Tôi tra vào bao và dựa xuống sau đầu ghế vải thầm hỏi không biết hồi này bịnh tình đã khá chưa. Người con trai thời loạn chẳng lẽ chóng hoen rỉ như lưỡi kiếm này, như chủ nó sao? Tôi cũng không biết tôi sẽ còn phải trấn giữ hòn đảo này trong bao lâu nữa. Rồi ra tôi sẽ phát điên không? Ai sẽ tới thay tôi và sau đó ai sẽ tới nữa. Những buổi chiều bóng núi đổ dài ra ngoài khơi. Khí núi xông lên lạnh và buồn. Những anh tuần viên xúm nhau ngồi trên khúc cây khô ca vọng cổ. Rồi đêm xuống dõi mắt ra khơi tìm những bóng đèn câu lạc loài từ đất mẹ…
Tôi rùng mình thật mạnh như muốn xua đuổi những hình ảnh u buồn ngày cũ. Tôi đứng lên tính đi rửa mặt cho tỉnh táo để còn đi thăm mấy gia đình trong trại. Nhưng vừa bước ra sân đã thấy lố nhố một đám đông quần áo chỉnh tề. Tôi hiểu ngay ý định của họ nên vội vàng sốc gọn lại quần áo. Dẫn đầu là ông Tư-thuốc-mê. Không hiểu ông đã moi được ở đâu một cái áo vét-tông nhầu nát và sực mùi ẩm mốc. Mọi người khác cũng đều mặc thường phục. Ông Tư đằng hắng rồi lên tiếng “Năm mới chúng tôi tới mừng tuổi đội trưởng và cầu chúc đội trưởng thăng quan tiến chức.“ Tôi chắp tay đáp lễ và chúc mọi người sang năm mới ai nấy đều được vạn sự như ý. Tôi còn đang ngập ngừng lựa lời nói tiếp thì một người bật nói “Và sớm được về đất” Mọi người đều cười vang.
Khi mọi người kéo nhau vào, kẻ ngồi người đứng quanh chiếc bàn nhỏ thì tôi chợt nhận ra một ánh sáng long lanh qua kẽ lá ngoài cửa sổ mọi người cùng nhìn theo tôi và bật reo mừng ồn ào. Hai chấm xanh đỏ. Đúng là đèn hải hành của con tàu sắp tới. Chúng tôi cùng chạy ùa ra ngoài bãi cát. Triền cát mát lạnh dưới chân, cái mát lạnh cảm thấy được qua đế giầy da và làn bít tất đen dầy. Con tàu mỗi lúc lại tiến lại gần. Mọi người bàn tán xôn xao. Phía sau chúng tôi ngọn lửa vẫn âm ỉ cháy. Tôi quay lại nói lớn:
Đốt lửa lên, cao nữa lên, anh em!”
Trần Hoài Thư, cũng đón giao thừa. Nhưng, là đêm giao thừa nằm giữ đường làm an ninh cho các cuộc vui thâu đêm suốt sáng của các quan to súng ngắn :
“Dẫn một đàn con chiều xuống núi
giao thừa không ai nhắc mà đau
giao thừa hai tiếng đâm tâm não
trừ tịch: poncho gạch lót đầu
một đêm sao lại buồn như mếu
muốn nổ tan tành cả cõi đêm
giao thừa giao thừa ta xuống núi
làm hiệp sĩ mù giữa cõi u minh
giao thừa ai đó mời ta rượu
một nhấp mà hồn tê tái ư
anh bạn nghe gì không, tiếng nhạc
người ta đang nhảy đầm
dạ vũ mừng xuân
Giao thừa mừng tuổi con heo bịnh
Xin của nhà dân làm cỗ xuân
Trung đội lập bàn thờ giữa mả
Ta khấn âm hồn
Bảo bọc đàn con…”
Một bài thơ khác đón xuân say sưa của một người lính thường không uống rượu.
“Ông già chống gậy, cũng xong
một thau xá xị đủ nồng thịt da
mày tao lính trận xa nhà
cuối năm thì cũng ba hoa tiệc bầy
Uống cho núi lở, ông thầy
Đầu gà sao cứ chỉ ngay ly buồn
Thinh không giá rét từng cơn
Bâng khuâng nghe chuyện mất còn vu vơ
Phá mồi đừng có giả ngơ
Vài lon thịt có bao giờ đủ say
Uống cho trời đất lăn quay
Mốt mai vào núi men cay đâu cùng
Cầm súng bắn vào không trung
Lửa nào bốc mãi tận cùng sầu ta
Bạn tao vừa chết đêm qua
Hai mươi mốt tuổi chưa già đã đi
Uống cho đã nỗi thầm thì
cuộc chơi bom đạn còn gì thế thân
Vết thương máu giọt mấy lần
Hay đầu dao nhọn phân vân tháng ngày
Rượu còn, sao quắc, ông thầy
Dỡn mày, ly cạn rót đầy cho tao
Lính trận giữa chốn binh đao
Cuối năm giấc bướm trăng sao chẳng về…”
Thau xá xi pha lộn xộn những loại rượu nội hóa rẻ tiền quen thuộc với lính. Ông già chống gậy như Vĩnh Tồn Tâm, Vĩnh Sanh Hòa,... Đồ mồi đơn sơ và trò chơi quay đầu gà để chỉ định người cạn chén. Những người lính xúm nhau mượn men cay để đón xuân, để quên đi những bèo bọt cuộc đời. Nhưng quên đi sao được khi hình ảnh của những người đã hy sinh vẫn cứ hiện về, nhức nhối.
Nguyễn Mạnh Trinh
Tân Sơn Hòa chuyển