Quán Bên Đường
Tình Bạn Và Đời Lính
Thành phố Pleiku, thành phố Cao nguyên nắng bụi mưa bùn. Thành phố như thơ Võ Hữu Định: Đi giam phút trở về chốn cũ...Ở đây mỗi chiều quanh năm mùa đông...Thành phố như thơ Kim Tuấn: Buổi chieèu ở Pleiku những cây thông già đứng leen cũng bụi mù...Buổi chiêøu ở Pleiku không có mặt trời, chỉ có mưa bay trê đầu ngọn núi...Ra trường truyền tin Vũng-Tàu, tôi quyết định chọn đơn vị ở thành phố Pleiku, để xa tít mù xa, để quên em và cho em quên tôi, nhưng muốn quên , lại càng nhớ, muốn xa, lại càng gần. Thành phố buồn bã đó đã cho tôi rất nhiều kỷ niệm đẹp trong đời quân ngũ và gặp những mất mát đau thương...
Thành phố đó tôi gặp lại Trần Văn Toàn, Lê Văn Minh và Đoàn Thạnh, ba thằng bạn thân thương từ thời thơ ấu thời học sinh, sinh viên và đời lính chiến.
Trần Văn Toàn: Trung úy Không Quân, Phi Đoàn 530 Khu Trục. Tôi học chung với Toàn lớp đệ nhị và đệ nhất. Toàn đẹp trai, hát hay, ăn nói duyên dáng, gốc người Huế, sinh và lớn lên ở Đà Nẵng, mỗi tối thứ bảy, Toàn thường đến ty thông tin Đà Nẵng hát với biệt hiệu là Duy Hải. Nhiều em rất đẹp mê Toàn với giọng ca truyền cảm. Năm đệ nhất là năm cuối ở Đà Nẵng, tôi và Toàn thường đèo nhau trên chiếc gobel đi phá làng phá xóm. Đậu tú tài 2 Toàn ra Huế học Luật, tôi vào Saigon học Văn khoa, biệt tăm nhau trong mấy năm, không ngờ gặp nhau trên thành phố heo hút này, một thằng sĩ quan Không Quân, một thằng sĩ quan Truyền Tin
Lê Văn Vinh, trung úy Phi Đoàn 229 trực thăng quê ở Quảng Ngãi, không đẹp trai lắm nhưng ăn nói có duyên, chơi đàn guitar và ngâm thơ rất hay. Biết nhau trong những năm ở Đại học Văn-khoa, nhưng thân nhau trong đoàn thanh niên chí nguyện Việt Nam. Đoàn thanh niên chí nguyện Việt Nam qui tụ nhiều thanh niên lãng tử, nhưng có lý tưởng. Bốn mươi lăm ngày học tập ở sân vận động Cộng Hòa đã cho tôi một thời gian đẹp và dạy tôi rất nhiều nghề. Những đêm sinh hoạt cộn đồng, Vinh phổ nhạc những bài thơ của Nguyễn Tịnh Đông và tập cho anh em hát. Tôi làm thơ, Vinh ngâm cho anh em nghe. Vinh có một chuyện tình buồn khi còn học trung học Quảng Ngãi. Vinh có kể cho tôi nghe một lần. Sau thời gian huýan luyện; mỗi đứa đi công tác mỗi nơi, không gặp nhau và không ngờ gặp lại nhau trên thành phố này. Đoàn Thạnh: Thiếu úy Phi đoàn 235 Trực thăng; cao gầy, nước da đen, lầm lỳ, ít nói, hay cười. Thạnh và tôi cùng quê, Tam Kỳ, Quảng Nam nghèo khổ, cha mẹ Thạnh, cha mẹ tôi cũng là bạn nhau, người nhà quê chân chất, thật thà. Cố gắng tảo tần, nuôi con ăn học và mong con lớn lên có một nghề vững vàng. Không theo nghề nông vất vả nhọc nhằn. Tuổi thơ tôi và Thạnh gắn liền với nhau. Thạnh học sau tôi hai lớp, cùng chung một mái trường tiểu học, trung học. Những ngày hè cùng tắm trên một dòng suối, cùng chơi đá banh trên sân ga và chiều chiều nhín những con tàu qua lại. Ước mơ lớn lên được theo tàu đi một chuyến thật xa. Những ngày Tết, cỡi xe đạp chạy quanh làng thăm bạn bè và khoe áo mới, những đêm trăng quê nhà ngồi trên chiếc chõng tre trước sân nhà tôi, nghe mẹ tôi kể chuyện đời xưa...Thạnh và tôi cùng chung một lý tưởng và sinh hoạt một đoàn. Thạnh chơi với bạn rất chân thật. Năm tôi ra Đà Nẵng học, nghỉ hè thường gặp nhau, đi chơi với nhau, nhưng khi vào Sài gòn, thì không gặp Thạnh, và cũng không ngờ lại gặp nhau ở thành phố buồn hiu này!
Làm sao biết được chữ ngờ, thời cắp sách đến trường, ai cũng mơ ước tìm một nghề mình thích như bác sĩ, kỹ sư, dạy học hay luật sư...và có vợ đẹp con thơ; ai có ngờ vào lính đâu. Bốn thằng chun đầu vào lính, lại gặp nhau trên thành phố cao nguyên nắng bụi mưa bùn...Gặp lại tôi, ba thằng bạn trở nên thân nhau hơn.
Những ngày cuối tuần, tôi lái xe jeep từ Câu Lạc Bộ Sĩ Quan Quân Đoàn 2 ra Phi trường Cù Hanh đón ba thằng đi cùng khắp thành phố Pleiku. Những đêm khuya khoắt ngồi uống rưỡu ở Phượng Hoàng. Những sáng Chủ Nhật lang thang ở Biển Ho ngắm người đẹp. Những trưa thứ bảy ăn thịt vịt ở Thanh An; thịt vịt Thanh An (khu dinh điền của Tổng Thống Diệm thời trước) ngon hết chỗ chê. Khoảng ba, bốn chục con vịt cồ mập ú nhốt trong một cái vý khoanh tròn; khách vào chọn một hay hai con mình thích, chỉ cho chủ quán, khoảng 5 phút sau có đỉa tiết canh lai rai với rượu thuốc, hoặc bia 33 và tiếp tục là vịt rô-ti, vịt luộc, cuối cùng là cháo lòng vịt. Ba người, một con vịt mấy chai bia là quên đường về. Tuần nào ba thằng cũng kéo nhau đi ăn vịt Thanh An và trở về phố uống cà phê. Ở Pleiku có nhiều tiệm cà phê đẹp hữu tình: Thiên Lý, Văn, Hoàng Lan. Nhưng tiệm cà phê Dinh Điền là nổi tiếng rất ngon; ai đến Pleiku mà không uống cà phê Dinh Điền là chưa biết Pleiku. Từ sáng sớm đến khuya đều đông khách. Có những người lính tiền đồn xa xôi về thị xã công tác, cũng phải tranh thủ ghé vào Dinh Điền uống một ly cà phê, trở lại tiền đồn mới an lòng, có khi đông khách hết chỗ ngồi, ngồi trên một cái nón sắt, súng kê lên đùi uống một ngụm cà phê, hút một hơi thuốc Captai, thấy tâm hồn sảng khoái yêu đời...
Thành phố Pleiku là thành phố của lính; buổi sáng rất tĩnh lặng, buổi chiều toàn là lính. Chợ trời bán đồ Mỹ ngay trên đường Hoàng Diệu và quanh khu Diệp Kính; buổi chiều những rạp ciné hát nhạc inh ỏi. Chiều chiều, buồn buồn để xe trước nhà thờ, bốn thằng đi lang thang quanh khu Diệp Kính ngắm những cô nữ sinh má đỏ, môi hồng tan trường về trên đường Hoàng Diệu. Nhiều lúc nghĩ cũng buồn cười, ba thằng Không Quân mặc đồ bay, một thằng lính ngành mặc đồ treilli đi lang thang ngoài phố; đi để cho mọi người ngắm, lính này cũng đẹp trai lắ chớ bộ...
Mỗi lần bắt gặp một cô gái nào đẹp: Tìm đến nhà làm quen, bốn thằng trổ tài tán tỉnh, cuối cùng Toàn là kẻ chiến thắng. Vinh có lúc hạng nhì, tôi và Thạnh hạng chót! Có một lần tôi nhớ hoài. gần tiệm thịt vịt Thanh An có một tiệm cà phê vườn rất đẹp, chủ quán người Bắc di cư lên đây lập nghiệp, có hai người con gái rất dễ thương học đệ tam và đệ nhị Pleiku. Cuối tuần nghỉ học, thường ra coi quán. Cô chị tên Oanh, cô em tên Thục. Mỗi lần ăn thịt vịt xong, bốn thằng vào quán ‘’Không Tên ‘’ uống cà phê ngắm người đẹp, ngắm riết rồi trồng cây si, lần này Thạnh và tôi bàn nhau phải chiến thắng. Oanh của tôi và Thục của Thạnh. Vẻ bên ngoài ăn nói thì thua Toàn và Vinh, nên tôi và Thạnh đi chiến thuật bỏ nhỏ. Tôi tán Thục cho Thạnh, Thạnh tán Oanh cho tôi, và nói Toàn, Vinh đã có bồ ở Sài gòn sắp cưới. Khùng mới lấy những thằng đàn ông sắp cưới vợ; dù có đẹp trai. Thế là tôi và Thạnh chiến thắng...Đêm văn nghệ cuối năm ở trường Trung Học Pleiku; tôi và Thạnh nhật được hai thiệp mời của Oanh và Thục. Đêm đó hai đứa ngồi uống rượu đợi. Tôi và Thạnh trở về trong niềm vui yêu đời.
Cứ tưởng thời gian êm đềm trôi qua, bốn thằng làm hết bổn phận, của người sĩ quan QLVNCH; tâm nguyện công tác trên thành phố cao nguyên một thời gian rồi xin đổi về Sài gòn lập gia đình. Sống một cuộc sống êm ả hơn.
Có ngờ đâu năm 1972, chiến trận lại bộc phát mạnh. Cộng Sản tăng cường xâm lấn miền Nam, đánh chiếm Quảng Trị và vùng cao nguyên. Tại vùng 2 Chiến Thuật, Việt Cộng đánh mạnh vào Thị xã Kontum; chiếm Tân Cảnh. Thị xã Pleiku thiết quân luật. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2, và các đơn vị chung quanh, Tiểu khu Pleiku, cấm quân 100%. Tướng Toàn thay Tướng Ngô Du – tái chiếm Tân Cảnh giải tỏa Kontum. Các gia đình sĩ quan, binh sĩ và dân sự ở thành phố đều di tản khỏi thành phố Pleiku – Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, thành phố Pleiku như thành phố chết. Yên lặng như chờ đợi bước chân tử thần...
Tôi, suốt ngày đêm trực ở đơn vị. Toàn bay khu trục suốt ngày lên xuống Kontum oanh tạc. Vinh và Thạnh bay trực thăng chở quân tiếp viện Tân Cảnh, Kontum, Dakto, Pleime. Mổi lần trở về đều gọi điện thoại cho tôi trong những tiếng thở dài. Co lần Toàn báo cho tôi mừng, trong một phi vụ oanh tạc xe chở quân của Việt Cọng bị súng phòng không bắn lên, may Toàn bay ra khỏi làn đạn thoát chết. Một tối, tôi vào thăm thì thấy khuôn mặt ba thằng đều hốc hác, bơ phờ và lo lắng. Riêng Thạnh có vẻ đăm chiêu, suy tư nhiều hơn. Ngồi uống cà phê lặng lẽ, không như những lần trước tươi cười, đùa giỡn vô tư...Trong giây phút yên lặng đó, lòng tôi thương ba thằng bạn thân vô cùng. Dù sao với tôi, lính ngành truyền tin, cũng an toàn hơn. Còn Toàn, Vinh và Thạnh ngày đêm đối diện với súng đạn, đối diện với cái chết; Trời kêu ai nấy dạ. Tôi cầu mong ơn trên phù hộ cho bốn thằng, khi tàn cuộc chiến vẫn còn ở bên nhau mãi mãi...
Bỗng dưng Thạnh cười thật lớn, vỗ vai tôi và nói: ‘’Cuộc chiến càng khốc liệt, rồi có ngày cũng tàn, nhưng ngày tàn đó không biết bốn thằng bạn mình có còn lại đủ không? Nếu mình có hy sinh, bạn nào còn lại nhớ đưa xác mình về quê để an nghỉ với ông bà. Đối với VC không đàm không điếc gì cả, phải đánh tới cùng mới chiến thắng.’’ Nói xong Thạnh lại cười lớn; đứng dậy ôm vai tôi, bắt tay tôi, bắt tay Toàn và Vinh, xin phép về phòng nghỉ để mai bay sớm tiếp viện quân cho Tân Cảnh. Thạnh đi rồi ba thằng còn lại cũng chia tay, tôi lái xe về đơn vị lòng buồn vời vợi...
Tôi đang ngồi làm việc nghe điện thoại reo. Cầm điện thoại nghe, giọng Toàn bên kia đầu dây ngập ngừng báo tin: Thạnh đã chết trong chuyến bay sáng nay tại Tân Cảnh. Máy bay của Thạnh bị bắn rơi; phi hành đoàn chạy thoát, Thạnh chạy sau cùng bị một loạt AK của VC bắn phía sau lưng. Xác Thạnh được toán phi hành đoàn của Mỹ lấy được đem về quàn tại Quân Y Viện Pleiku. Tôi chạy ra xe như xác không hồn sang QYV Pleiku. Thạnh nằm đó như ngủ. Thân hình bị cháy xám. Tôi vuốt mặt Thạnh, không nói nên một lời, nước mắt chảy dài trên hai má. Bạn bè Thạnh đứng xung quanh, Toàn, Vinh đều khóc và nhìn Thạnh trong niềm uất nghẹn...
Ngày hôm sau phi đoàn cho một chiếc trực thăng bay về quê Tam Kỳ, rước cha mẹ Thạnh lên nhận xác con. Tôi nhìn cha mẹ Thạnh già nua, ốm yếu quê mùa, nhận xác Thạnh trong chiếc hòm kẽm. Ông bà không còn nước mắt để khóc cho con, quờ quạng như xác không hồn. Chiếc máy bay đưa xác Thạnh, và cha mẹ Thạnh cùng với toán lính hộ tống tiễn đưa, cất cánh bay lên, bỏ lại ba thằng bạn thân thương đứng nhìn theo, và khóc rống như trẻ con. Chiếc máy bay đã khuất trên bầu trời, ba thằng trở về phòng Toàn, đêm hôm đó không ngủ, ngồi kể lại những kỷ niệm với Thạnh, và khóc suốt đêm...
Thạnh ơi bây giờ bạn đã trở về quê theo lời bạn mong ước, gần cha mẹ ông bà, bên dòng suối mát; bên sân ga, chiều chiều nhìn những con tàu chạy ngang qua, hụ còi inh ỏi...
Thạnh đã mất rồi, còn lại tôi, Toàn và Vinh buồn bã lặng lẽ. Và theo lời Thạnh nói, cuộc chiến bộc phát dữ dội rồi sẽ tàn. Tân Cảnh được tái chiếm, Kontum được giải tỏa. VC được đánh bật ra khỏi lãnh thổ Quân Đoàn 2. Thành phố Pleiku trở lại yên bình...Và ba thằng tôi tiếp tục làm tròn bổn phận của người Sĩ Quan QLViệt NamCH cho đến năm 1975...
Thạnh ơi đã 28 năm rồi, bạn bỏ đi về quê, chắc bạn nhìn thấy nổi trôi của đất nước; điêu linh của dân tộc mình và không biết đến bao giờ tìm lại được những thời hoa mộng của tuổi trẻ, của đời lính gian truân, nhưng đầy vàng son.
Và bây giờ tôi đang sống lưu vong trên đất người, Toàn và Vinh bây giờ không biết đang ở đâu? Dã mùa xuân năm 2000 rồi, tôi chưa gặp lại các bạn, nếu các bạn đọc được những dòng chữ này, mong các bạn tìm gặp nhau để cùng thắp một nén nhang, tưởng nhớ Đoàn Thạnh-người bạn thân thương ngày cũ.
Trần Thế Phong
( Biên Hùng chuyển )
Tình Bạn Và Đời Lính
Thành phố Pleiku, thành phố Cao nguyên nắng bụi mưa bùn. Thành phố như thơ Võ Hữu Định: Đi giam phút trở về chốn cũ...Ở đây mỗi chiều quanh năm mùa đông...Thành phố như thơ Kim Tuấn: Buổi chieèu ở Pleiku những cây thông già đứng leen cũng bụi mù...Buổi chiêøu ở Pleiku không có mặt trời, chỉ có mưa bay trê đầu ngọn núi...Ra trường truyền tin Vũng-Tàu, tôi quyết định chọn đơn vị ở thành phố Pleiku, để xa tít mù xa, để quên em và cho em quên tôi, nhưng muốn quên , lại càng nhớ, muốn xa, lại càng gần. Thành phố buồn bã đó đã cho tôi rất nhiều kỷ niệm đẹp trong đời quân ngũ và gặp những mất mát đau thương...
Thành phố đó tôi gặp lại Trần Văn Toàn, Lê Văn Minh và Đoàn Thạnh, ba thằng bạn thân thương từ thời thơ ấu thời học sinh, sinh viên và đời lính chiến.
Trần Văn Toàn: Trung úy Không Quân, Phi Đoàn 530 Khu Trục. Tôi học chung với Toàn lớp đệ nhị và đệ nhất. Toàn đẹp trai, hát hay, ăn nói duyên dáng, gốc người Huế, sinh và lớn lên ở Đà Nẵng, mỗi tối thứ bảy, Toàn thường đến ty thông tin Đà Nẵng hát với biệt hiệu là Duy Hải. Nhiều em rất đẹp mê Toàn với giọng ca truyền cảm. Năm đệ nhất là năm cuối ở Đà Nẵng, tôi và Toàn thường đèo nhau trên chiếc gobel đi phá làng phá xóm. Đậu tú tài 2 Toàn ra Huế học Luật, tôi vào Saigon học Văn khoa, biệt tăm nhau trong mấy năm, không ngờ gặp nhau trên thành phố heo hút này, một thằng sĩ quan Không Quân, một thằng sĩ quan Truyền Tin
Lê Văn Vinh, trung úy Phi Đoàn 229 trực thăng quê ở Quảng Ngãi, không đẹp trai lắm nhưng ăn nói có duyên, chơi đàn guitar và ngâm thơ rất hay. Biết nhau trong những năm ở Đại học Văn-khoa, nhưng thân nhau trong đoàn thanh niên chí nguyện Việt Nam. Đoàn thanh niên chí nguyện Việt Nam qui tụ nhiều thanh niên lãng tử, nhưng có lý tưởng. Bốn mươi lăm ngày học tập ở sân vận động Cộng Hòa đã cho tôi một thời gian đẹp và dạy tôi rất nhiều nghề. Những đêm sinh hoạt cộn đồng, Vinh phổ nhạc những bài thơ của Nguyễn Tịnh Đông và tập cho anh em hát. Tôi làm thơ, Vinh ngâm cho anh em nghe. Vinh có một chuyện tình buồn khi còn học trung học Quảng Ngãi. Vinh có kể cho tôi nghe một lần. Sau thời gian huýan luyện; mỗi đứa đi công tác mỗi nơi, không gặp nhau và không ngờ gặp lại nhau trên thành phố này. Đoàn Thạnh: Thiếu úy Phi đoàn 235 Trực thăng; cao gầy, nước da đen, lầm lỳ, ít nói, hay cười. Thạnh và tôi cùng quê, Tam Kỳ, Quảng Nam nghèo khổ, cha mẹ Thạnh, cha mẹ tôi cũng là bạn nhau, người nhà quê chân chất, thật thà. Cố gắng tảo tần, nuôi con ăn học và mong con lớn lên có một nghề vững vàng. Không theo nghề nông vất vả nhọc nhằn. Tuổi thơ tôi và Thạnh gắn liền với nhau. Thạnh học sau tôi hai lớp, cùng chung một mái trường tiểu học, trung học. Những ngày hè cùng tắm trên một dòng suối, cùng chơi đá banh trên sân ga và chiều chiều nhín những con tàu qua lại. Ước mơ lớn lên được theo tàu đi một chuyến thật xa. Những ngày Tết, cỡi xe đạp chạy quanh làng thăm bạn bè và khoe áo mới, những đêm trăng quê nhà ngồi trên chiếc chõng tre trước sân nhà tôi, nghe mẹ tôi kể chuyện đời xưa...Thạnh và tôi cùng chung một lý tưởng và sinh hoạt một đoàn. Thạnh chơi với bạn rất chân thật. Năm tôi ra Đà Nẵng học, nghỉ hè thường gặp nhau, đi chơi với nhau, nhưng khi vào Sài gòn, thì không gặp Thạnh, và cũng không ngờ lại gặp nhau ở thành phố buồn hiu này!
Làm sao biết được chữ ngờ, thời cắp sách đến trường, ai cũng mơ ước tìm một nghề mình thích như bác sĩ, kỹ sư, dạy học hay luật sư...và có vợ đẹp con thơ; ai có ngờ vào lính đâu. Bốn thằng chun đầu vào lính, lại gặp nhau trên thành phố cao nguyên nắng bụi mưa bùn...Gặp lại tôi, ba thằng bạn trở nên thân nhau hơn.
Những ngày cuối tuần, tôi lái xe jeep từ Câu Lạc Bộ Sĩ Quan Quân Đoàn 2 ra Phi trường Cù Hanh đón ba thằng đi cùng khắp thành phố Pleiku. Những đêm khuya khoắt ngồi uống rưỡu ở Phượng Hoàng. Những sáng Chủ Nhật lang thang ở Biển Ho ngắm người đẹp. Những trưa thứ bảy ăn thịt vịt ở Thanh An; thịt vịt Thanh An (khu dinh điền của Tổng Thống Diệm thời trước) ngon hết chỗ chê. Khoảng ba, bốn chục con vịt cồ mập ú nhốt trong một cái vý khoanh tròn; khách vào chọn một hay hai con mình thích, chỉ cho chủ quán, khoảng 5 phút sau có đỉa tiết canh lai rai với rượu thuốc, hoặc bia 33 và tiếp tục là vịt rô-ti, vịt luộc, cuối cùng là cháo lòng vịt. Ba người, một con vịt mấy chai bia là quên đường về. Tuần nào ba thằng cũng kéo nhau đi ăn vịt Thanh An và trở về phố uống cà phê. Ở Pleiku có nhiều tiệm cà phê đẹp hữu tình: Thiên Lý, Văn, Hoàng Lan. Nhưng tiệm cà phê Dinh Điền là nổi tiếng rất ngon; ai đến Pleiku mà không uống cà phê Dinh Điền là chưa biết Pleiku. Từ sáng sớm đến khuya đều đông khách. Có những người lính tiền đồn xa xôi về thị xã công tác, cũng phải tranh thủ ghé vào Dinh Điền uống một ly cà phê, trở lại tiền đồn mới an lòng, có khi đông khách hết chỗ ngồi, ngồi trên một cái nón sắt, súng kê lên đùi uống một ngụm cà phê, hút một hơi thuốc Captai, thấy tâm hồn sảng khoái yêu đời...
Thành phố Pleiku là thành phố của lính; buổi sáng rất tĩnh lặng, buổi chiều toàn là lính. Chợ trời bán đồ Mỹ ngay trên đường Hoàng Diệu và quanh khu Diệp Kính; buổi chiều những rạp ciné hát nhạc inh ỏi. Chiều chiều, buồn buồn để xe trước nhà thờ, bốn thằng đi lang thang quanh khu Diệp Kính ngắm những cô nữ sinh má đỏ, môi hồng tan trường về trên đường Hoàng Diệu. Nhiều lúc nghĩ cũng buồn cười, ba thằng Không Quân mặc đồ bay, một thằng lính ngành mặc đồ treilli đi lang thang ngoài phố; đi để cho mọi người ngắm, lính này cũng đẹp trai lắ chớ bộ...
Mỗi lần bắt gặp một cô gái nào đẹp: Tìm đến nhà làm quen, bốn thằng trổ tài tán tỉnh, cuối cùng Toàn là kẻ chiến thắng. Vinh có lúc hạng nhì, tôi và Thạnh hạng chót! Có một lần tôi nhớ hoài. gần tiệm thịt vịt Thanh An có một tiệm cà phê vườn rất đẹp, chủ quán người Bắc di cư lên đây lập nghiệp, có hai người con gái rất dễ thương học đệ tam và đệ nhị Pleiku. Cuối tuần nghỉ học, thường ra coi quán. Cô chị tên Oanh, cô em tên Thục. Mỗi lần ăn thịt vịt xong, bốn thằng vào quán ‘’Không Tên ‘’ uống cà phê ngắm người đẹp, ngắm riết rồi trồng cây si, lần này Thạnh và tôi bàn nhau phải chiến thắng. Oanh của tôi và Thục của Thạnh. Vẻ bên ngoài ăn nói thì thua Toàn và Vinh, nên tôi và Thạnh đi chiến thuật bỏ nhỏ. Tôi tán Thục cho Thạnh, Thạnh tán Oanh cho tôi, và nói Toàn, Vinh đã có bồ ở Sài gòn sắp cưới. Khùng mới lấy những thằng đàn ông sắp cưới vợ; dù có đẹp trai. Thế là tôi và Thạnh chiến thắng...Đêm văn nghệ cuối năm ở trường Trung Học Pleiku; tôi và Thạnh nhật được hai thiệp mời của Oanh và Thục. Đêm đó hai đứa ngồi uống rượu đợi. Tôi và Thạnh trở về trong niềm vui yêu đời.
Cứ tưởng thời gian êm đềm trôi qua, bốn thằng làm hết bổn phận, của người sĩ quan QLVNCH; tâm nguyện công tác trên thành phố cao nguyên một thời gian rồi xin đổi về Sài gòn lập gia đình. Sống một cuộc sống êm ả hơn.
Có ngờ đâu năm 1972, chiến trận lại bộc phát mạnh. Cộng Sản tăng cường xâm lấn miền Nam, đánh chiếm Quảng Trị và vùng cao nguyên. Tại vùng 2 Chiến Thuật, Việt Cộng đánh mạnh vào Thị xã Kontum; chiếm Tân Cảnh. Thị xã Pleiku thiết quân luật. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 2, và các đơn vị chung quanh, Tiểu khu Pleiku, cấm quân 100%. Tướng Toàn thay Tướng Ngô Du – tái chiếm Tân Cảnh giải tỏa Kontum. Các gia đình sĩ quan, binh sĩ và dân sự ở thành phố đều di tản khỏi thành phố Pleiku – Mùa Hè đỏ lửa năm 1972, thành phố Pleiku như thành phố chết. Yên lặng như chờ đợi bước chân tử thần...
Tôi, suốt ngày đêm trực ở đơn vị. Toàn bay khu trục suốt ngày lên xuống Kontum oanh tạc. Vinh và Thạnh bay trực thăng chở quân tiếp viện Tân Cảnh, Kontum, Dakto, Pleime. Mổi lần trở về đều gọi điện thoại cho tôi trong những tiếng thở dài. Co lần Toàn báo cho tôi mừng, trong một phi vụ oanh tạc xe chở quân của Việt Cọng bị súng phòng không bắn lên, may Toàn bay ra khỏi làn đạn thoát chết. Một tối, tôi vào thăm thì thấy khuôn mặt ba thằng đều hốc hác, bơ phờ và lo lắng. Riêng Thạnh có vẻ đăm chiêu, suy tư nhiều hơn. Ngồi uống cà phê lặng lẽ, không như những lần trước tươi cười, đùa giỡn vô tư...Trong giây phút yên lặng đó, lòng tôi thương ba thằng bạn thân vô cùng. Dù sao với tôi, lính ngành truyền tin, cũng an toàn hơn. Còn Toàn, Vinh và Thạnh ngày đêm đối diện với súng đạn, đối diện với cái chết; Trời kêu ai nấy dạ. Tôi cầu mong ơn trên phù hộ cho bốn thằng, khi tàn cuộc chiến vẫn còn ở bên nhau mãi mãi...
Bỗng dưng Thạnh cười thật lớn, vỗ vai tôi và nói: ‘’Cuộc chiến càng khốc liệt, rồi có ngày cũng tàn, nhưng ngày tàn đó không biết bốn thằng bạn mình có còn lại đủ không? Nếu mình có hy sinh, bạn nào còn lại nhớ đưa xác mình về quê để an nghỉ với ông bà. Đối với VC không đàm không điếc gì cả, phải đánh tới cùng mới chiến thắng.’’ Nói xong Thạnh lại cười lớn; đứng dậy ôm vai tôi, bắt tay tôi, bắt tay Toàn và Vinh, xin phép về phòng nghỉ để mai bay sớm tiếp viện quân cho Tân Cảnh. Thạnh đi rồi ba thằng còn lại cũng chia tay, tôi lái xe về đơn vị lòng buồn vời vợi...
Tôi đang ngồi làm việc nghe điện thoại reo. Cầm điện thoại nghe, giọng Toàn bên kia đầu dây ngập ngừng báo tin: Thạnh đã chết trong chuyến bay sáng nay tại Tân Cảnh. Máy bay của Thạnh bị bắn rơi; phi hành đoàn chạy thoát, Thạnh chạy sau cùng bị một loạt AK của VC bắn phía sau lưng. Xác Thạnh được toán phi hành đoàn của Mỹ lấy được đem về quàn tại Quân Y Viện Pleiku. Tôi chạy ra xe như xác không hồn sang QYV Pleiku. Thạnh nằm đó như ngủ. Thân hình bị cháy xám. Tôi vuốt mặt Thạnh, không nói nên một lời, nước mắt chảy dài trên hai má. Bạn bè Thạnh đứng xung quanh, Toàn, Vinh đều khóc và nhìn Thạnh trong niềm uất nghẹn...
Ngày hôm sau phi đoàn cho một chiếc trực thăng bay về quê Tam Kỳ, rước cha mẹ Thạnh lên nhận xác con. Tôi nhìn cha mẹ Thạnh già nua, ốm yếu quê mùa, nhận xác Thạnh trong chiếc hòm kẽm. Ông bà không còn nước mắt để khóc cho con, quờ quạng như xác không hồn. Chiếc máy bay đưa xác Thạnh, và cha mẹ Thạnh cùng với toán lính hộ tống tiễn đưa, cất cánh bay lên, bỏ lại ba thằng bạn thân thương đứng nhìn theo, và khóc rống như trẻ con. Chiếc máy bay đã khuất trên bầu trời, ba thằng trở về phòng Toàn, đêm hôm đó không ngủ, ngồi kể lại những kỷ niệm với Thạnh, và khóc suốt đêm...
Thạnh ơi bây giờ bạn đã trở về quê theo lời bạn mong ước, gần cha mẹ ông bà, bên dòng suối mát; bên sân ga, chiều chiều nhìn những con tàu chạy ngang qua, hụ còi inh ỏi...
Thạnh đã mất rồi, còn lại tôi, Toàn và Vinh buồn bã lặng lẽ. Và theo lời Thạnh nói, cuộc chiến bộc phát dữ dội rồi sẽ tàn. Tân Cảnh được tái chiếm, Kontum được giải tỏa. VC được đánh bật ra khỏi lãnh thổ Quân Đoàn 2. Thành phố Pleiku trở lại yên bình...Và ba thằng tôi tiếp tục làm tròn bổn phận của người Sĩ Quan QLViệt NamCH cho đến năm 1975...
Thạnh ơi đã 28 năm rồi, bạn bỏ đi về quê, chắc bạn nhìn thấy nổi trôi của đất nước; điêu linh của dân tộc mình và không biết đến bao giờ tìm lại được những thời hoa mộng của tuổi trẻ, của đời lính gian truân, nhưng đầy vàng son.
Và bây giờ tôi đang sống lưu vong trên đất người, Toàn và Vinh bây giờ không biết đang ở đâu? Dã mùa xuân năm 2000 rồi, tôi chưa gặp lại các bạn, nếu các bạn đọc được những dòng chữ này, mong các bạn tìm gặp nhau để cùng thắp một nén nhang, tưởng nhớ Đoàn Thạnh-người bạn thân thương ngày cũ.
Trần Thế Phong
( Biên Hùng chuyển )