Cõi Người Ta
Văn hóa... nhang khói
Tác Giả: Huy Phương
Tôi ra tù năm 1982. Bảy năm qua các trại cải tạo, tôi hiểu được
những người Cộng Sản nhiều hơn ngày trước. Sau khi ra tù, về lại Sài
Gòn, tôi lại hiểu được những người Cộng Sản hơn những ngày còn trong nhà
tù. Cán bộ coi tù dù có chức phận đi nữa thì số phận cũng không hơn gì
thằng tù, cũng thâm sơn cùng cốc, cũng bữa sắn bữa ngô, thằng tù phải
lên rừng xuống rẫy giữa mùa Đông giá rét, hay trời Hè nóng nực, thì
thằng cai tù cũng phải vác súng đi theo. Gia tài cai tù thì áo quần mỗi
năm cũng chỉ hai bộ, đôi dép râu vừa mang trong chân vừa để chà lưng lúc
tắm, cũng có thể để gối đầu lúc ngủ, thêm một cái bàn chải đánh răng,
một cái chén ăn cơm với đôi đũa mang theo. Sang hơn thì có cái ca nhôm
uống nước, nhưng không thì cơm rồi, rót nước vào chén cũng xong.
(Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)
Cán bộ cấp cao còn có cái “xắc cốt” đeo kè kè bên mình.
Năm
2002, tỉnh Quảng Trị lắp đặt hệ thống thoát nước tại cổ thành Quảng Trị
đã phát hiện ra một chiếc hầm chữ A, trong hầm còn nguyên năm bộ hài
cốt của lính miền Bắc trong tư thế đang ngồi, trong đó có bộ hài cốt của
một sĩ quan, Thượng Úy Lê Binh Chủng, chỉ huy phó chính trị của một
tiểu đoàn. Duy nhất bên bộ hài cốt này có chiếc “xắc cốt” da Liên Xô.
Trong “xắc cốt” người ta tìm thấy: Một quyển nhật ký một nửa ghi chép
công việc, một nửa viết cho cho gia đình, một quyển điều lệ đảng, một
quyển 10 điều chính sách của mặt trận GPMN, một chiếc lược làm bằng
nhôm, và một cái bút máy Trường Sơn có khắc dòng chữ tặng. Trong cuốn
nhật ký còn kẹp những lá thư của người vợ từ quê nhà miền Bắc gửi cho
chồng.
Gia tài của một binh sĩ hay một sĩ quan chỉ có ngần ấy.
Lúc
không có gì trong tay, đến cả một đồng bạc lẻ, người ta dễ nói chuyện
lý tưởng hay hy sinh. Năm người lính Bắc Việt trong chiếc hầm này không
chết vì súng đạn mà vì chết đói và hầm bị gạch đá lấp kín, vì lý tưởng
“chết là chết cho Liên Xô-Trung Quốc!”Năm 1982, tức là năm năm sau khi
“giải phóng,” cán bộ Cộng Sản vào Nam không còn nghèo nữa, họ có thể vơ
vét một ít chiến lợi phẩm là “tàn dư” hay “phồn vinh giả tạo” của miền
Nam đem về Bắc đắp đổi, hay được ở lại miền Nam là “chuột sa” vào “hũ
nếp” Mỹ Ngụy.
Nhà tôi ở Quận 10, Sài Gòn, gần đường Minh Mạng, là
nơi chuyên bán đồ mộc. Tôi không chú ý đến chuyện cán bộ miền Bắc mua
sắm, bàn ghế, tủ, giường... vì bây giờ họ có nhà cửa, cơ ngơi, sắm đồ
đạc là chuyện thường tình. Điều tôi chú ý là cán bộ (giờ đó hầu hết còn
mặc đồ bộ đội) đã chở trên xe gắn máy hay những chiếc xích lô những
chiếc tran thờ còn mới mua từ những tiệm mộc đem về nhà.
Đó là
những tran thờ Thần Tài, Ông Địa, dấu hiệu của chuyện bảo vệ tư hữu, tức
là của cải mình có từ vợ con, nhà cửa, tiền của đến chức vụ, quyền lực.
Khi
con người chỉ có một cái chén và một đôi đũa, ăn xong, tự rửa lấy và
đeo bên mình thì không hề sợ mất và cũng chẳng nhờ con người hay ông
Thần, ông Thánh nào giữ giùm.
Bây giờ cướp được chính quyền rồi
thì cán bộ có chức phận, có nhà cửa, có tiền bạc. Thực tế là phải nuôi
con chó giữ nhà để đêm hôm canh chừng trộm đạo, chức sắc lớn thì có nhân
viên bảo vệ, nhà cửa thời đại này chắc chắn phải gắn máy quay phim.
Chưa đủ, phải nhờ thêm đến Thần Linh, tức là Ông Địa, ông Thần Tài để
giữ của, giữ chức vụ, tức là giữ ghế cho bền. Bàn thờ Ông Địa, ông Thần
Tài thì phải nhang khói suốt năm, khi điếu thuốc lá, khi nải chuối, đối
với cấp trên cũng vậy phải nhớ “nhang khói” đừng quên. Cấp trên thì
không cần chuối, cũng chẳng cần gà, cũng chẳng cần điếu thuốc 555 như
thời bao cấp. Bây giờ cái mặt “bác Hồ” cũng chẳng còn giá trị gì nữa mà
phải là chân dung quý vị tổng thống Mỹ.
Thói quen là văn hóa, văn
hóa hối lộ đã tràn qua địa hạt tín ngưỡng hay mê tín, dân tình trong đó
tất nhiên có cán bộ nhét tiền vào tay Phật, đầu rùa, bỏ tiền vào ngai
vua, bỏ lên bài vị, tượng La Hán, Kim Cương bị “ép” cầm tiền lễ ở tay,
bị nhét dưới râu, thậm chí nhét tiền vào thạch nhũ khi thăm động. Hối lộ
để cầu xin may mắn, tiền của vào nhiều, thăng quan tiến chức, giữ yên
ổn cho gia đình và bản thân mình.
Ngày xưa, nghe lời dụ dỗ của
đảng, thanh niên miền Bắc “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,” trên đầu nón
cối, dưới đất dép râu, không biết cầu xin, van vái ai, cuộc đời cũng
chẳng biết đến nhang khói là gì. Ngày nay khi đã có chính quyền trong
tay, với thế giặc phương Bắc, chỉ biết có một điều cư xử là cúi lạy. Khi
người dân cúi lạy xin tha mạng trước bạo lực, thì chính phủ phải lấy đó
làm nhục, vì chính phủ là đại diện của dân, chính phủ không che chở
được cho dân, thì dân lạy vái cũng như chính phủ lạy vái.
Cả nước
ngày này không có gì gọi là dũng khí, ngay cả báo chí Việt Nam cũng đã
than thở đất nước đã đến hồi “mạt vận.” Thay vì ngẩng cao đầu, đứng
thẳng lưng, thì cả biển người lại sống bằng quỳ lạy dập đầu và đi xin xỏ
Thần Thánh ban phát sự giàu có, vinh hiển, công danh sự nghiệp.
Ở
miền Bắc Việt Nam rộ lên cái gọi là lễ hội văn hóa, tôn giáo, với cảnh
chen chúc giẫm đạp nhau nơi đền chùa, dâng đội mâm cao cỗ đầy, sì sụp
lạy lục, lâm râm khấn vái, đốt vàng mã cho thần thánh, để xin xỏ, năn nỉ
xuýt xoa, rồi giành giật nhau, đánh nhau u đầu chẩy máu để lấy hay cướp
lộc mang về.
Xin một cái ấn đền Trần, là được may mắn thăng quan
tiến chức. Chính ông Nguyễn Thiện Nhân, khi còn làm phó thủ tướng kiêm
bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, đã “đích thân” đóng ấn để phát cho du
khách thì còn ra cái sĩ diện quốc gia gì nữa!
Ba triệu thanh niên
miền Bắc với “cái chén ăn cơm và đôi đũa giắt lưng” đã nằm xuống cho ba
triệu đảng viên Cộng Sản hôm nay chỉ biết lạy lục kẻ thù và nhang khói
Thần Thánh.
Trong bức di thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh chết tại cổ thành Quảng Trị, để lại, có viết cho vợ:
-“Thôi nhé em đừng buồn, khi được sống trong hòa bình hãy nhớ tới anh!”
Theo
tôi nghĩ, chỉ tiếc thương cho những cái chết trở thành vô nghĩa như của
liệt sĩ Lê Văn Huỳnh. Máu xương của hàng triệu người đó, không phải hy
sinh để chúng ta có một đất nước như ngày hôm nay!
Bàn ra tán vào (0)
Văn hóa... nhang khói
Tôi ra tù năm 1982. Bảy năm qua các trại cải tạo, tôi hiểu được
những người Cộng Sản nhiều hơn ngày trước. Sau khi ra tù, về lại Sài
Gòn, tôi lại hiểu được những người Cộng Sản hơn những ngày còn trong nhà
tù. Cán bộ coi tù dù có chức phận đi nữa thì số phận cũng không hơn gì
thằng tù, cũng thâm sơn cùng cốc, cũng bữa sắn bữa ngô, thằng tù phải
lên rừng xuống rẫy giữa mùa Đông giá rét, hay trời Hè nóng nực, thì
thằng cai tù cũng phải vác súng đi theo. Gia tài cai tù thì áo quần mỗi
năm cũng chỉ hai bộ, đôi dép râu vừa mang trong chân vừa để chà lưng lúc
tắm, cũng có thể để gối đầu lúc ngủ, thêm một cái bàn chải đánh răng,
một cái chén ăn cơm với đôi đũa mang theo. Sang hơn thì có cái ca nhôm
uống nước, nhưng không thì cơm rồi, rót nước vào chén cũng xong.
(Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)
Cán bộ cấp cao còn có cái “xắc cốt” đeo kè kè bên mình.
Năm
2002, tỉnh Quảng Trị lắp đặt hệ thống thoát nước tại cổ thành Quảng Trị
đã phát hiện ra một chiếc hầm chữ A, trong hầm còn nguyên năm bộ hài
cốt của lính miền Bắc trong tư thế đang ngồi, trong đó có bộ hài cốt của
một sĩ quan, Thượng Úy Lê Binh Chủng, chỉ huy phó chính trị của một
tiểu đoàn. Duy nhất bên bộ hài cốt này có chiếc “xắc cốt” da Liên Xô.
Trong “xắc cốt” người ta tìm thấy: Một quyển nhật ký một nửa ghi chép
công việc, một nửa viết cho cho gia đình, một quyển điều lệ đảng, một
quyển 10 điều chính sách của mặt trận GPMN, một chiếc lược làm bằng
nhôm, và một cái bút máy Trường Sơn có khắc dòng chữ tặng. Trong cuốn
nhật ký còn kẹp những lá thư của người vợ từ quê nhà miền Bắc gửi cho
chồng.
Gia tài của một binh sĩ hay một sĩ quan chỉ có ngần ấy.
Lúc
không có gì trong tay, đến cả một đồng bạc lẻ, người ta dễ nói chuyện
lý tưởng hay hy sinh. Năm người lính Bắc Việt trong chiếc hầm này không
chết vì súng đạn mà vì chết đói và hầm bị gạch đá lấp kín, vì lý tưởng
“chết là chết cho Liên Xô-Trung Quốc!”Năm 1982, tức là năm năm sau khi
“giải phóng,” cán bộ Cộng Sản vào Nam không còn nghèo nữa, họ có thể vơ
vét một ít chiến lợi phẩm là “tàn dư” hay “phồn vinh giả tạo” của miền
Nam đem về Bắc đắp đổi, hay được ở lại miền Nam là “chuột sa” vào “hũ
nếp” Mỹ Ngụy.
Nhà tôi ở Quận 10, Sài Gòn, gần đường Minh Mạng, là
nơi chuyên bán đồ mộc. Tôi không chú ý đến chuyện cán bộ miền Bắc mua
sắm, bàn ghế, tủ, giường... vì bây giờ họ có nhà cửa, cơ ngơi, sắm đồ
đạc là chuyện thường tình. Điều tôi chú ý là cán bộ (giờ đó hầu hết còn
mặc đồ bộ đội) đã chở trên xe gắn máy hay những chiếc xích lô những
chiếc tran thờ còn mới mua từ những tiệm mộc đem về nhà.
Đó là
những tran thờ Thần Tài, Ông Địa, dấu hiệu của chuyện bảo vệ tư hữu, tức
là của cải mình có từ vợ con, nhà cửa, tiền của đến chức vụ, quyền lực.
Khi
con người chỉ có một cái chén và một đôi đũa, ăn xong, tự rửa lấy và
đeo bên mình thì không hề sợ mất và cũng chẳng nhờ con người hay ông
Thần, ông Thánh nào giữ giùm.
Bây giờ cướp được chính quyền rồi
thì cán bộ có chức phận, có nhà cửa, có tiền bạc. Thực tế là phải nuôi
con chó giữ nhà để đêm hôm canh chừng trộm đạo, chức sắc lớn thì có nhân
viên bảo vệ, nhà cửa thời đại này chắc chắn phải gắn máy quay phim.
Chưa đủ, phải nhờ thêm đến Thần Linh, tức là Ông Địa, ông Thần Tài để
giữ của, giữ chức vụ, tức là giữ ghế cho bền. Bàn thờ Ông Địa, ông Thần
Tài thì phải nhang khói suốt năm, khi điếu thuốc lá, khi nải chuối, đối
với cấp trên cũng vậy phải nhớ “nhang khói” đừng quên. Cấp trên thì
không cần chuối, cũng chẳng cần gà, cũng chẳng cần điếu thuốc 555 như
thời bao cấp. Bây giờ cái mặt “bác Hồ” cũng chẳng còn giá trị gì nữa mà
phải là chân dung quý vị tổng thống Mỹ.
Thói quen là văn hóa, văn
hóa hối lộ đã tràn qua địa hạt tín ngưỡng hay mê tín, dân tình trong đó
tất nhiên có cán bộ nhét tiền vào tay Phật, đầu rùa, bỏ tiền vào ngai
vua, bỏ lên bài vị, tượng La Hán, Kim Cương bị “ép” cầm tiền lễ ở tay,
bị nhét dưới râu, thậm chí nhét tiền vào thạch nhũ khi thăm động. Hối lộ
để cầu xin may mắn, tiền của vào nhiều, thăng quan tiến chức, giữ yên
ổn cho gia đình và bản thân mình.
Ngày xưa, nghe lời dụ dỗ của
đảng, thanh niên miền Bắc “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,” trên đầu nón
cối, dưới đất dép râu, không biết cầu xin, van vái ai, cuộc đời cũng
chẳng biết đến nhang khói là gì. Ngày nay khi đã có chính quyền trong
tay, với thế giặc phương Bắc, chỉ biết có một điều cư xử là cúi lạy. Khi
người dân cúi lạy xin tha mạng trước bạo lực, thì chính phủ phải lấy đó
làm nhục, vì chính phủ là đại diện của dân, chính phủ không che chở
được cho dân, thì dân lạy vái cũng như chính phủ lạy vái.
Cả nước
ngày này không có gì gọi là dũng khí, ngay cả báo chí Việt Nam cũng đã
than thở đất nước đã đến hồi “mạt vận.” Thay vì ngẩng cao đầu, đứng
thẳng lưng, thì cả biển người lại sống bằng quỳ lạy dập đầu và đi xin xỏ
Thần Thánh ban phát sự giàu có, vinh hiển, công danh sự nghiệp.
Ở
miền Bắc Việt Nam rộ lên cái gọi là lễ hội văn hóa, tôn giáo, với cảnh
chen chúc giẫm đạp nhau nơi đền chùa, dâng đội mâm cao cỗ đầy, sì sụp
lạy lục, lâm râm khấn vái, đốt vàng mã cho thần thánh, để xin xỏ, năn nỉ
xuýt xoa, rồi giành giật nhau, đánh nhau u đầu chẩy máu để lấy hay cướp
lộc mang về.
Xin một cái ấn đền Trần, là được may mắn thăng quan
tiến chức. Chính ông Nguyễn Thiện Nhân, khi còn làm phó thủ tướng kiêm
bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, đã “đích thân” đóng ấn để phát cho du
khách thì còn ra cái sĩ diện quốc gia gì nữa!
Ba triệu thanh niên
miền Bắc với “cái chén ăn cơm và đôi đũa giắt lưng” đã nằm xuống cho ba
triệu đảng viên Cộng Sản hôm nay chỉ biết lạy lục kẻ thù và nhang khói
Thần Thánh.
Trong bức di thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh chết tại cổ thành Quảng Trị, để lại, có viết cho vợ:
-“Thôi nhé em đừng buồn, khi được sống trong hòa bình hãy nhớ tới anh!”
Theo
tôi nghĩ, chỉ tiếc thương cho những cái chết trở thành vô nghĩa như của
liệt sĩ Lê Văn Huỳnh. Máu xương của hàng triệu người đó, không phải hy
sinh để chúng ta có một đất nước như ngày hôm nay!