Văn Học & Nghệ Thuật
Về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm - Thụy Khuê
Dự định tìm lại dấu vết phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đã đến với tôi từ cuối thu 1984, khi trở lại lần đầu, sau ba mươi năm xa Hà Nội. 1984, lúc ấy tôi chưa cầm bút, và 1954, khi rời Hà Nội, tôi mới lên mười.
Dự định tìm lại dấu vết phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đã đến với tôi từ cuối thu 1984, khi trở lại lần đầu, sau ba mươi năm xa Hà Nội. 1984, lúc ấy tôi chưa cầm bút, và 1954, khi rời Hà Nội, tôi mới lên mười. Như phần lớn học sinh miền Nam, tôi đã thuộc lòng không chỉ những câu thơ nổi tiếng của Trần Dần:
Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà
chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ
mà còn cả những câu thơ ít nổi tiếng hơn, nhưng không kém phần đau xót:
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió.
Bắc Nam ơi! Ðứt ruột chia đôi.
Tôi cúi xuống quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ, khổ nhiều rồi!
Những tiếng thơ của một thời, thời còn yêu thương, thời vết thương chia cách hai miền chưa đỏ máu, chỉ có nhớ thương và thương nhớ bay bổng như Giấc mơ hồi hương của Vũ Thành:
"Lìa xa thành đô yêu dấu, một sớm heo may về, lệ sầu tràn mi...
... nghẹn nghào thương nhớ em, Hà Nội ơi!"
Đó cũng là thời lạc quan, thời hy vọng đất nước sẽ thống nhất trong hoà bình, Phạm Ðình Chương viết Hội Trùng Dương, Phạm Duy viết Tình Ca, Tình Hoài Hương, ... thiết tha gửi cho một quê hương toàn vẹn trong giao tình Nam Trung Bắc. Và trên đôi bờ vĩ tuyến chưa manh nha mầm mống hận thù chết chóc.
Nhưng rồi yêu thương nhạt dần, nhường chỗ cho tuyên truyền, cho hò hét chiến tranh, cho "lý tưởng thống nhất", "giải phóng dân tộc", cho một mất một còn, cho ngày mai chiến thắng bằng mọi giá bất kể ngàn tấn thịt vạn tấn xương và cũng chẳng nề hà sự lệ thuộc gần như tuyệt đối vào các cường quốc.
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm xuất hiện. Miền Bắc đàn áp Nhân Văn, quy kết Nhân Văn như một mầm mống phản động, theo địch. Miền Nam khai thác phong trào, để chứng minh điều kiện cần và đủ cho một cuộc "Bắc tiến". Đó là một trong những lý do, khiến cho học trò miền Nam thuộc lòng thơ Trần Dần. Nhưng phải công bằng mà xét, nếu không có hậu ý tuyên truyền này, thì ảnh hưởng Nhân Văn Giai Phẩm đã không bao trùm lên toàn thể hai miền Nam Bắc, như một cao trào đấu tranh cho dân chủ, lớn nhất thế kỷ XX, trong văn học Việt Nam.
Năm 1984, khi trở về Hà Nội, tôi muốn tìm lại, dù chỉ một dấu vết nhỏ, chứng minh sự hiện diện của Nhân Văn Giai Phẩm trong lòng người dân Bắc. Nhưng vô ích. Tất cả đều đã bị xóa sổ. Kín đáo dò hỏi những người thân trong gia đình sống ở Hà Nội, thuộc thế hệ "phải biết" Nhân Văn, xem có ai còn nhớ gì không? Nhưng không, tuyệt nhiên chẳng ai "nghe nói" đến những cái tên như thế bao giờ: linh hồn Nhân Văn đã bị xóa trong ký ức quần chúng, và như vậy, "nọc độc" Nhân Văn đã hoàn toàn bị tẩy sạch.
Ðó là lý do chính khiến vài năm sau, khi thực sự bước vào nghề cầm bút, tôi đã coi Nhân Văn Giai Phẩm là một trong những nghi vấn văn học hàng đầu, cần phải tìm hiểu. Bài viết đầu tiên của tôi về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đăng trên nguyệt san Văn Học, California, số 27, tháng 4 năm 1988; tiếp theo là những buổi phát thanh trên đài RFI, trong nhiều chương trình từ 1991 đến 2004, trong số đó có những buổi phỏng vấn các tác nhân chính của phong trào: Lê Đạt, Hoàng Cầm và Nguyễn Hữu Đang.
Cuốn sách này tổng kết công việc tìm kiếm và thu thập các dữ kiện xung quanh phong trào Nhân Văn Giai Phẩm trong hơn 20 năm, từ 1988 đến ngày nay.
Trong quá trình làm việc, có những ngã rẽ bất ngờ: khảo sát về Phan Khôi, tôi thấy sau khi đi Pháp về, Phan Châu Trinh giao cho Phan Khôi nhiệm vụ viết lại lịch sử đời mình, từ đó, phải tìm hiểu về những ngày Phan Châu Trinh ở Pháp, dẫn đến mối tương quan giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh, người tự nhận là lãnh tụ đầu tiên của phong trào Việt kiều Yêu Nước.
Tôi tìm đọc nguyên văn tiếng Pháp các bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc, mới thấy tác giả những bài viết này phải là người biết tiếng Pháp rất sâu và có văn tài; không thể là người mà Trần Dân Tiên mô tả trong cuốn hồi ký "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch". Vậy có một sự giả mạo lịch sử quan trọng cần phải tìm hiểu đến nguồn cội.
Đó là lý do tại sao có phần biên khảo về Vấn đề Nguyễn Ái Quốc trong cuốn sách này.
Thụy Khuê
Paris 2/2005-8/2011
Mục lục
(bổ sung tháng 11-2012 theo tư liệu mới của Hoàng Cầm)
Tựa
Chương 1 : Tìm hiểu phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
Chương 2 : Lịch trình Nhân Văn Giai Phẩm
Chương 3 : Giai Phẩm Mùa Xuân
Chương 4 : Nguyên nhân đưa đến cuộc cách mạng mùa thu của tư tưởng
Chương 5 : Nội bộ báo Nhân Văn
Chương 6 : Trí thức và dân chủ tại Việt Nam trong thế kỷ XX - Từ Phan Châu Trinh, Hoàng Đạo đến Nhân Văn Giai Phẩm
Chương 7 : Biện pháp thanh trừng
Chương 8 : Thụy An (1916-1987)
Chương 9 : Nguyễn Hữu Đang (1913-2007)
Chương 10 : Lê Đạt (1929-2008)
Chương 11 : Trần Dần (1926-1997)
Chương 12 : Hoàng Cầm (1922-2010)
Chương 13 : Văn Cao (1923-1995)
Chương 14: Phùng Cung (1928-1998)
Chương 15 : Cuộc cách mạng hiện đại đầu thế kỷ XX
Chương 16 : Nguyễn Tất Thành
Chương 17 : Hội Đồng Bào Thân Ái - Phong trào ái quốc đầu tiên tại Pháp
Chương 18 : Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản
Chương 19 : Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quấc/Quốc
Chương 20 : Vì sao Phan Châu Trinh phó thác "đại sự" cho Phan Khôi?
Chương 21 : Phan Khôi (1887-1959)
Chương 22 : Vụ án Nam Phong
Chương 23 : Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997)
Chương 24 : Une voix dans la nuit: Cải Cách Ruộng Đất và Cải Tạo Tư Sản
Chương 25 : Une voix dans la nuit: Vấn Đề Trí Thức và Độc Tài Đảng Trị
Phụ Lục
Trò chuyện với người trong cuộc:
- Với nhà cách mạng Nguyễn Hữu Đang
- Với nhà thơ Lê Đạt
- Với nhà thơ Hoàng Cầm
- Với họa sĩ Trần Duy
Thư mục
http://nhanvangiaipham.free.fr/-
13-02-2016, 05:45 #2
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
.
Chương 1
Tìm hiểu phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
Nhân Văn Giai Phẩm là phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ của văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc có tầm vóc lớn lao, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt tháng 6 năm 1958. Hai tư liệu sớm nhất về Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) là Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí do Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá in ở Sài Gòn năm 1959, và Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận do nhà xuất bản Sự Thật[1] in ở Hà Nội, cùng năm.
Ngoài hai cuốn sách này còn có những tập tư liệu khác, ra đời hơn 30 năm sau.
Trước hết là cuốn Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam - Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam của Georges Boudarel[2]. Thời gian ở Việt Nam, Boudarel đã gặp nhiều nhà văn nhà thơ, trong đó có các thành viên NVGP và ông đã mang về Pháp các sách báo xuất bản ở Hà Nội vào thời điểm NVGP. Cuối 1987 đầu 1988, trong bối cảnh "đổi mới", Boudarel viết loạt bài Dissidences intellectuelles au Viêt Nam L'affaire Nhan Van Giai Pham - Trí thức phản kháng tại Việt Nam, vụ Nhân Văn Giai Phẩm[3] sau tập hợp và đào sâu thành cuốn "Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam[4]".
Ngoại trừ việc Boudarel đã sai như Hoàng Văn Chí, khi cho rằng NVGP bắt nguồn từ Trăm hoa đua nở bên Trung Quốc[5], cuốn sách của ông là tập tư liệu có giá trị, nhờ đó, bi kịch NVGP đến được với người đọc tiếng Pháp.
Từ những năm 90, một loạt tài liệu mới về NVGP xuất hiện rải rác trong và ngoài nước, dưới dạng tự thuật, bút ký, sáng tác, của những thành viên đã tham gia phong trào, trong đó có hai tác phẩm viết bằng tiếng Pháp của Nguyễn Mạnh Tường: hồi ký Un Excommunié - Kẻ bị khai trừ[6]; và tiểu thuyết Une voix dans la nuit - Tiếng vọng trong đêm[7].
Sau 9 năm theo kháng chiến, Nguyễn Mạnh Tường từ chiến khu trở về trong số những trí thức được chính quyền ưu đãi. Phong trào NVGP ra đời, ông tham gia và đã chịu sự trừng phạt nặng nề. Nhờ hồi ký Un Excommunié của Nguyễn Mạnh Tường, ta có thể hình dung được các giáo sư đại học như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, đã phải trải qua những kỷ luật như thế nào, và hiểu được cuộc sống cách ly, đói khát, luôn luôn bị theo dõi của họ trong hơn ba mươi năm sa mạc.
Cuốn nhật ký Trần Dần ghi[8] chép những việc hàng ngày đặc biệt trong thời kỳ: Cải Cách Ruộng Đất và cuộc thanh trừng sau NVGP. Nếu Un Excommunié của Nguyễn Mạnh Tường là bản chúc thư[9] gửi cho thế hệ mai sau về sự đối đầu của một trí thức trước áp lực cách mạng, thì nhật ký Trần Dần ghi là những suy nghĩ và sinh hoạt hàng ngày của một nhà thơđã chịu nhận mọi tội để mong được tha thứ, muốn được trở lại sống bình thường như mọi người, nhưng vô hiệu. Tiểu thuyếtUne voix dans la nuit - Tiếng vọng trong đêm mô tả các giai đoạn chính trong thời kỳ xây dựng chế độ toàn trị ở Việt Nam.
Bộ băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ghi âm trong khoảng thời gian 1998-2008, bộc lộ nhiều sự kiện chưa từng thấy ở những tài liệu khác. Hoàng Cầm nói rất dài, rất nhiều chi tiết, ở những thời điểm khác nhau, đôi khi về cùng một sự kiện nhưng có những chi tiết thay đổi; nên chúng tôi không thể trích đoạn, chỉ tóm tắt những ý chính, viết gọn lại, giữ nguyên giọng Hoàng Cầm. Đây là một tư liệu quan trọng về bi kịch NVGP, về những gì xẩy ra trong hậu trường, về sự bắt bớ, giam giữ, tù đầy, tra khảo, hăm dọa, mà Hoàng Cầm đã trải qua năm 1982-1983 vì tập thơ Về Kinh Bắc, về trách nhiệm của giai cấp lãnh đạo dưới thời Hồ Chí Minh và sau Hồ Chí Minh.
Hoàng Văn Chí và Trăm hoa đua nở trên đất Bắc
Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, tác giả Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, cho biết:
"Ở Hà Nội ra đi đầu năm 1955, tôi đã hẹn với các bạn ở lại là hễ có dịp sẽ nói lên tiếng nói của họ", "Tôi làm việc một mình", "Tôi liên lạc được với một ủy viên trong Ủy ban kiểm soát đình chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí xuất bản ở Hà Nội", "Tôi làm việc trong hai năm 56-58". "Bộ Thông Tin và nói chung, chính quyền Sài Gòn không hề giúp. Lý Trung Dung đến chào Bộ Thông Tin, yêu cầu mua cho một số, nhưng chẳng mua một cuốn nào". "Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá ở Việt Nam là một chi nhánh của một tổ chức quốc tế, tên là Congress for Cultural Freedom, trụ sở trung ương ở 104 Boulevard Haussmann, Paris. Bác sĩ Lý Trung Dung làm chủ tịch. Tội nghiệp, chỉ vì làm chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá mà phải đi cải tạo đến nay [1986] chưa được thả". "Trước khi đưa in, Lý Trung Dung nghe nói có người gần ông Diệm ngờ rằng tôi soạn cuốn Trăm hoa đua nở là có ý xúi dục trí thức miền Nam bắt chước trí thức miền Bắc nổi lên chống lại chế độ. Vì vậy nên Lý Trung Dung bàn với tôi nên để bút hiệu Mạc Định là soạn giả. Chỉ ký tên Hoàng Văn Chí vào bài Tựa[10]".
Nhưng tại sao Hoàng Văn Chí lại đặc biệt lưu ý đến NVGP? Ai là những người "ở lại" mà ông đã hứa sẽ nói lên tiếng nói của họ? Tìm sâu hơn về liên hệ gia đình giữa Hoàng Văn Chí và Phan Khôi, chúng ta sẽ thấy câu trả lời:
Sở Cuồng Lê Dư kết hôn với em ruột Phan Khôi, có ba người con gái: cô đầu, Hằng Phương, gả cho nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, cô thứ nhì, Hằng Huân, là vợ Hoàng Văn Chí và cô út, Hằng Phân là vợ Tướng Nguyễn Sơn. Nữ sĩ Hằng Phương, sau này viết bài đả kích mạnh mẽ NVGP, rất có thể vì thế, mà bà Hằng Huân đã là một trong những động cơ thúc đẩy Hoàng Văn Chí thu thập tài liệu và viết về NVGP.
Tác phẩm của Hoàng Văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm đầy đủ nhất về phong trào NVGP, nhưng ba người Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu và Lê Đạt bị loại, có thể ông không tin họ vì Nguyễn Hữu Đang đã từng là người tin cẩn của Hồ Chí Minh, Lê Đạt là bí thư của Trường Chinh và Trương Tửu là nhà phê bình lý luận Mác-Xít. Phần lớn những thành viên khác đều có mặt, với một tiểu sử khá đầy đủ, với những chi tiết đáng quý và những bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ NVGP, đặc biệt tiểu sử Phan Khôi và Văn Cao, với các chi tiết hiếm, mà hiện nay không tìm thấy ở đâu. Sau này, ở trong nước không thiếu sách viết về Văn Cao, Phan Khôi, nhưng thường tô hồng, hoặc cắt xén, vo tròn, ít thấy sự thật.
Nhưng tác phẩm của Hoàng Văn Chí cũng có một số nhược điểm:
- Không phải là người trong cuộc, và đã rời miền Bắc từ đầu 1955, cho nên có một số chi tiết ông viết sai.
- Về mặt biên tập, Hoàng Văn Chí, đã cắt hoặc không chọn những bài, những đoạn có những câu chữ quá khích mà các tác giả trong NVGP lên án "tội ác Mỹ Diệm", hoặc ca tụng Đảng Cộng sản. Đặc biệt bài Nhất định thắng của Trần Dần, ông đã bỏ những câu, những đoạn sắt máu, có tính cách khẩu hiệu, tuyên truyền, khiến cho tác phẩm hay hơn, nhân bản hơn, được độc giả miền Nam chấp nhận, nhưng đã làm lệch ý Trần Dần ở thời điểm ấy. Bản in lại trong Trần Dần thơ[11]mới đây, là bản Hoàng Văn Chí.
Ngày nay, chúng ta đã có khoảng cách để phân tích tư tưởng của mỗi thành viên, qua các văn bản gốc mà họ để lại trên báo Nhân Văn, sách Giai Phẩm. Một mặt khác, qua nhân chứng của các thành viên, chúng ta có thể tái tạo lại diễn biến của phong trào: ai làm gì, ai giữ trách nhiệm gì.
Đối chiếu những nhân chứng này với lời buộc tội của những ngòi bút chính thống đánh họ, in trên các báo chính thức trong thời kỳ này, mà Lại Nguyên Ân đã có công sưu tầm, chúng ta có thể nhìn ra nhiều khía cạnh của sự thật hơn.
Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận
Cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận là tài liệu đầu tiên, tập hợp những trích dẫn bài viết hoặc diễn văn tố cáo, buộc tội NVGP. Phần cuối sách, có một chương nhỏ trích "những lời thú tội" của các thành viên NVGP, còn toàn thể dành cho phía công tố "phát hiện tội", với những lời lẽ vô cùng khiếm nhã, khó thể mường tượng được, từ miệng hoặc từ ngòi bút của giới được gọi là "trí thức văn nghệ sĩ" đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia NVGP.
Tập tư liệu dày 370 trang này rất hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của lớp đấu tranh Thái Hà mà Lê Đạt mô tả tường tận trong các bài phỏng vấn trên RFI. Đồng thời, nó cũng gián tiếp trả lời một số lập luận, cố tình hạ thấp hoặc thu gọn tầm vóc NVGP thành một cuộc "đánh đấm nội bộ", tranh giành thế lực cá nhân, không liên hệ gì đến vấn đề tự do tư tưởng.
Những bài luận tội có tính cách hạ nhục NVGP của 83 văn nghệ sĩ và các đoàn thể, báo chí, nhân dân và các vị cao quyền trong Đảng như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngụy Như Kontum, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị v.v... phản ảnh rất rõ tư cách của người tố. Có thể nói, qua những "văn bản tố", các tác giả đã để lại tư cách của mình trong ký ức dân tộc. Sau cùng, nhờ cách sắp xếp thứ tự"những tên đầu sỏ" mà chúng ta biết được thứ tự "tội" nặng,"tội" nhẹ, của mỗi người.
Những buổi phỏng vấn trên RFI
Ngày 13/4/1999, trong dịp nhà thơ Lê Đạt sang Pháp lần thứ nhì, chúng tôi đề nghị ghi âm ông, mong ông soi tỏ những chỗ chưa được các tài liệu trước đề cập đến, hoặc viết sai. Buổi nói chuyện -thu thanh với chủ đích giữ lại làm tài liệu văn học sử- tuy mang tính cách cá nhân nhưng có hệ thống về NVGP. Chúng tôi đề nghị ông nói thẳng, nói thật hết và cam kết là sẽ chỉ công bố sau khi ông qua đời, bởi ông không định viết hồi ký.
Đầu năm 2004, sau khi thực hiện chương trình phát thanh kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ (1954-2004) với Hữu Mai trên đài RFI, chúng tôi dự định làm thêm một chương trình kỷ niệm 50 năm phong trào NVGP (nếu coi 1954 là thời điểm manh nha) nên đã cố gắng liên lạc với Lê Đạt qua điện thoại Paris - Hà Nội, để làm một cuộc phỏng vấn ngắn gọn có tính cách thời sự, phù hợp với đề tài này, nhưng không thể thực hiện được, vì ông chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu.
Sau nhiều tháng phân vân, cuối cùng, với sự đồng ý của Lê Đạt, chúng tôi quyết định cho phát trên sóng RFI, toàn bộ buổi nói chuyện với ông đã thu ngày 13/4/1999 tại Paris. Do đó mà tài liệu văn học sử này đã đến với thính giả RFI và độc giả sớm hơn dự tính.
Lần đầu tiên, toàn bộ lời kể của một thành viên cột trụ trong NVGP được công bố.
Bên cạnh Lê Đạt, còn có tiếng nói của hai nhân vật chủ chốt khác trong phong trào, đó là cuộc phỏng vấn Nguyễn Hữu Đang về việc ông tổ chức ngày lễ Độc Lập, nhân dịp kỷ niệm ngày 2/9/1945. Buổi nói chuyện này thu thanh qua điện thoại nhà Lê Đạt ngày 30/8/1995 và được phát thanh trên đài RFI ngày 10/9/1995. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, chúng tôi có thể ghi âm được Nguyễn Hữu Đang. Tất cả những cố gắng về sau đều vô hiệu: ông chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu.
Thính giả nghe các chương trình này, đều nhận thấy sự trả lời của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm qua điện thoại Paris - Hà Nội, không đạt mức độ tự do như các cuộc nói chuyện trực tiếp với Lê Đạt ở Paris. Nhưng cả ba chứng nhân, cũng là ba người đầu tiên đã xây dựng nên phong trào NVGP cùng đồng quy ở điểm nói thẳng, nói thật. Có những câu hỏi cùng đặt cho Hoàng Cầm và Lê Đạt ở những thời điểm khác nhau, nhưng sự trả lời gần như tương tự.
Sau cùng là nhân chứng Trần Duy. Hoạ sĩ Trần Duy đã liên lạc với chúng tôi từ nhiều năm qua, ông cho biết đã nghe những chương trình trên đài RFI về phong trào NVGP, có những điều ông muốn nói, nhưng cơ hội chưa thuận tiện. Tháng 6/2008, Trần Duy quyết định lên tiếng. Chúng tôi đã ghi âm ông qua điện thoại Paris - Hà Nội, không bị trở ngại gì. Như thế, chúng ta có thêm nhân chứng của Trần Duy, cựu thư ký toà soạn báo Nhân Văn.
Nếu trong những bài viết trên báo hoặc các chương trình phát thanh, từ 1988 đến ngày nay, còn có những thiếu sót, sai lầm, thì, những chứng nhân quan trọng của Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, đã đính chính và bổ sung. Các ông thay mặt những người đã khuất, viết lại lịch sử của phong trào và lần này, không ai có thể ngăn ngừa sự thật.
Tất nhiên, mỗi người có một sự thực của riêng mình, về mỗi dữ kiện, mỗi vấn đề. Thời gian trôi qua, ký ức cũng có đôi chỗ sai biệt, nhưng những sai biệt ấy, nếu có, thường là những chi tiết không mấy quan trọng. Độc giả sẽ rút ra từ những sự thực có thể khác nhau ấy, phần tổng kết riêng của mình, về phong trào NVGP[12].
Phần phát biểu của nhà thơ Lê Đạt (ghi âm tại Paris ngày 13/4/1999) cho đến nay, vẫn là chứng từ quan trọng nhất và đầy đủ nhất về lịch sử phong trào NVGP.
Lê Đạt mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội.
Những năm gần đây trang điện tử Talawas do Phạm Thị Hoài chủ biên, đã cho in lại và lưu trữ trên mạng Internet toàn bộ sách báo NVGP. Lại Nguyên Ân sưu tầm những bài viết trên các báo chính thức thập niên 60, liên quan đến phong trào NVGP và đưa dần lên Internet. Những tư liệu này góp phần sáng tỏ thêm, giúp các nhà nghiên cứu sau này có thể xây dựng lại toàn diện bối cảnh phong trào NVGP.
Từ tháng 4/1988, khi chúng tôi viết những dòng đầu về Nhân Văn Giai Phẩm đến nay đã hơn hai mươi năm. Chuyên luận này tưởng như hoàn tất một chương trình tìm kiếm lâu dài, nhưng thực ra nó lại là khởi điểm cho một cuộc tìm kiếm mới về những gì đã thực sự xẩy ra, trong thời kỳ kháng chiến và hoà bình lập lại ở miền Bắc. Bởi càng đi sâu vào vấn đề, càng thấy rõ những khoảng trống chưa thể lấp được, về Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Thụy An... và bao nhiêu con người và sự kiện khác nữa, mà chúng tôi không ngờ khi mới bắt tay vào việc.
Những gì chúng ta góp nhặt được về họ, ngoài những văn bản do chính họ đã viết ra, đôi khi lượm lặt được vài ba dòng nhật ký người này, hồi ký người kia, cũng chỉ là một phần rất nhỏ của sự thật. Không kể những loại hồi ký, đã bị cắt xén hoặc được sửa lại cho đúng đường lối, hoặc những di cảo trá hình, viết để tự biện hộ, để đổi lấy bản thông hành đi vào vĩnh cửu. Cho nên người nghiên cứu phải vô cùng thận trọng khitìm và lựa thông tin, phân biệt thật giả trong tư liệu. Tìm tư liệu không khó trong thời buổi Internet này, nhưng sử dụng tư liệu để dựng lại sự thật là một việc khác hẳn.
Làm sao biết được hoạt động chính trị của Lê Đạt trước khi gia nhập Việt Minh? Lê Đạt đã ở trong hàng ngũ Quốc Dân Đảng?
Theo Văn Cao, thì Phạm Duy là người đầu tiên dẫn ông liên lạc với Việt Minh, Phạm Duy cũng là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca, là người "cướp" micro trước cửa Nhà Hát Lớn ngày 17/8/1945 để hát Tiến Quân Ca lần đầu trước công chúng. Nhưng khi viết hoặc in lại hồi ký của Văn Cao về Tiến Quân Ca, người ta đã cắt bỏ tất cả những chi tiết nói về Phạm Duy, có chỗ thay bằng Nguyễn Đình Thi.
Một mặt khác, ngay chính Lê Đạt và Phạm Duy, vì an ninh của bản thân và của gia đình, các ông đã không thể nói tất cả sự thật, càng không thể viết ra trên văn bản.
Chúng ta biết gì về hoạt động của Thụy An? Về "mối tình đầu" của Thụy An với Võ Nguyên Giáp? Về những bí mật giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo, một yếu nhân Quốc Dân Đảng? Tại sao Thụy An quay trở lại Bắc, trong khi gia đình bà di cư vào Nam? Những bí mật ấy, tuy chỉ là những chi tiết, có vẻ không quan trọng, nhưng ngày nay, những người muốn biết sự thực, phải có quyền được biết.
Nếu biết được những chi tiết ấy, chúng ta sẽ thấy tất cả những hoạt động đảng phái thời kháng chiến chống Pháp không đơn giản bên này yêu nước, bên kia bán nước. Mà bất cứ một cá nhân nào, dù văn nghệ sĩ trí thức hay không, cũng có thể theo hai ba đường chính trị khác nhau, trong hành trình sống của mình. Chỉ khi đảng Cộng sản quyết định độc quyền lãnh đạo, độc tôn xã hội chủ nghiã, các khuynh hướng chính trị khác mới trở thành phản động.
Vấn đề của người nghiên cứu là phải tìm hiểu những đầu mối đan cài vô cùng phức tạp giữa các khuynh hướng chính trị, văn hoá khác nhau, trong mối tương giao không xé ra được.
Những người kháng chiến ngoài Đảng hoặc chống Đảng, bị chế độ kết án chung thân, phải chối bỏ lẫn nhau và phủ nhận toàn bộ hành trình của mình, trên đường tranh đấu cho độc lập, tự do, dân chủ.
Bi kịch của họ phản ánh bi kịch chung của dân tộc dưới chế độ cộng sản.
***
Chú thích:
[1] Nay là nxb Chính Trị Quốc Gia.
[2] Georges Boudarel (1926-2003), nhà giáo, đảng viên cộng sản Pháp, sang Việt Nam năm 1947 với mục đích tranh đấu chống chính quyền thực dân. Sau hai năm dạy học tại Sài Gòn, Boudarel theo Việt Minh, đặc trách nhiệm vụ "cải tạo" tù nhân Pháp ở trại 113. Năm 1966, vì không còn đồng ý với chính quyền Hà Nội, ông trở về Pháp.
[3] In trên hai tập san: Sudestasie (số 50 tháng1/1988) và Politique Aujourd'hui en Europe (phụ bản 1/1989).
[4] Do Jacques Bertoin in năm 1991 tại Paris.
[5] Lê Đạt, Hoàng Cầm đã đính chính qua các buổi trả lời phỏng vấn RFI.
[6] Với tiểu tựa: Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectuel - Hà Nội 1954-1991: Kết án một nhà trí thức, Quê Mẹ, Paris, 1992.
[7] Chưa in, với tiểu tựa: Roman sur le Viet Nam 1950-1990 - Tiểu thuyết về Việt Nam từ 1950 đến 1990.
[8] Văn Nghệ, California, 2001.
[9] Viết năm 1991, ở tuổi 82.
[10] Phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí, Từ Nguyên thực hiện, Tự Do số 50, ngày 16/11/1986, phát hành tại Bỉ.
[11] Nxb Đà Nẵng, 2008.
[12] Những buổi phỏng vấn các thành viên chính của NVGP, phát thanh trên RFI, từ 1995 đến 2008: Nguyễn Hữu Đang (10/9/1995), Hoàng Cầm (21/2/1998 đến 10/1/2004, 4 kỳ), Lê Đạt (từ 24/3/2004 - 5/6/2004, 7 kỳ) và Trần Duy (26/6/2008-26/7/2008, 4 kỳ), đều được lưu trữ trên mạng http://thuykhue.free.fr -
13-02-2016, 05:47 #3
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)
Chương 2
Lịch trình Nhân Văn - Giai Phẩm
Lịch sử NVGP gắn bó với các chính sách văn hoá, chính trị của Đảng Cộng sản. Chúng ta thử nhìn lại lịch trình này:
- 27/10/1943, Trường Chinh hoàn thành Đề cương văn hoá Việt Nam, văn kiện chính thức đầu tiên của đảng Cộng sản Đông Dương về văn hóa văn nghệ. Xác định sự lãnh đạo về tư tưởng, học thuật và nghệ thuật của Đảng Cộng sản.
- 17/8/1945, biểu tình của công chức, Phạm Duy hát Tiến Quân Ca lần đầu tiên tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội.
- 19/8/1945, Việt Minh cướp chính quyền, Tiến Quân Cađược hát lần thứ nhì tại Nhà Hát Lớn do Văn Cao điều khiển.
- 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn Độc Lập tại Ba Đình. Lễ Độc Lập do Nguyễn Hữu Đang tổ chức. Vũ Hoàng Chương làm bài thơ Ngày Độc Lập.
- 11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố "tự giải tán", lui vào bí mật, đổi tên là Hội Nghiên Cứu Chủ Nghiã Mác ở Đông Dương. Chính phủ lâm thời lấy danh nghĩa Mặt Trận Việt Minh để tập hợp tất cả mọi thành phần dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- 24/11/1946, Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc I, ở Hà Nội do Nguyễn Hữu Đang tổ chức, tập hợp các thành phần trí thức đủ mọi khuynh hướng trong toàn quốc.
- 19/8/1948, Đại hội Văn Hóa Toàn Quốc II, ở Việt Bắc do Trường Chinh tổ chức, đọc bài Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam, xác định con đường văn nghệ kháng chiến: Tuyên truyền, thi đua, đánh địch, hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Hữu Đang bỏ về Thanh Hoá.
- 1949-1951: Nhiều trí thức văn nghệ sĩ bỏ kháng chiến về thành.
- Tháng 1/1950, tại Đại Hội III, đảng Cộng Sản tuyên bố Việt Nam chính thức đi theo đường lối Trung Quốc, đẩy mạnh chính sách Đấu Tranh Giai Cấp trên toàn lãnh thổ.
- Tháng 7-8/1950, Đại Hội Văn Nghệ I, họp tại Yên Giã, Việt Bắc, chính thức tuyên bố thực thi đường lối văn nghệ xã hội chủ nghĩa, loại bỏ: Tuồng, Chèo, Cải Lương, Kịch thơ... Hoàng Cầm thắt cổ kịch thơ của mình.
- Từ 14- 23/11/1953, Đại Hội I của đảng Lao Động họp tại Việt Bắc chính thức tuyên bố thi hành chính sách Cải Cách Ruộng Đất, qua bản báo cáo của Trường Chinh.
- 1951-1960: Chỉnh Huấn, Giảm Tô, Cải Cách Ruộng Đất, Thanh Trừng Trí Thức (NVGP), Cải Tạo Tư Sản.
- 10/10/1954, Việt Minh tiếp thu Hà Nội.
Cùng ngày 10/10/54 Trần Dần[1] được cử đi Trung Quốc viết thuyết minh cho phim Điện Biên Phủ. Trần Dần bị Hoàng Xuân Tuỳ, cán bộ chính trị, kiểm soát gắt gao. Ngày 10/12/54, Trần Dần bỏ về Hà Nội.
- 24/12/54, Trần Dần bắt đầu tổ chức các cuộc thảo luận đòi thay đổi chính sách văn nghệ quân đội.
- Tháng 2/1955, Trần Dần, sau khi tham khảo ý kiến các bạn, viết bản Đề nghị Chính sách Văn nghệ.
Trần Dần, Tử Phác "chủ mưu", Hoàng Cầm "a dua",nhóm ủng hộ có cả Đỗ Nhuận, Thanh Tịnh...
- Tháng 3 và 4/55, Trần Dần, Tử Phác tổ chức phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu và tiểu thuyết Vượt Côn Đảo của Phùng Quán với sự cộng tác của Hoàng Cầm, Lê Đạt.
- Tháng 4/1955: Nhóm Trần Dần, Tử Phác... ký "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá", gồm 32 điểm, đòi quyền tự do sáng tác và bác bỏ chế độ chính trị viên trong văn nghệ quân đội. Trong một cuộc họp mặt nội bộ khoảng hơn 20 người, Trần Dần đọc cho tướng Nguyễn Chí Thanh nghe. Tướng Thanh đập bàn quát mắng, rồi bỏ ra về.
- 13/6/55-14/9/55: Trần Dần, Tử Phác bị bắt lần thứ nhất, phạt cấm trại 3 tháng, sau đó được đưa đi cải tạo ở Yên Viên, tham gia Cải Cách Ruộng Đất, đợt 5.
- Tháng 1/1956: Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương, với những bài chính: Nhất định thắngcủa Trần Dần, Anh có nghe thấy không của Văn Cao, Làm thơvà Mới của Lê Đạt, ...
- Tháng 2/56: Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu. Ngày 9/2 (28 Tết): Tố Hữu ra lệnh gọi Lê Đạt lên Tuyên Huấn. ngày 16/2 (mùng 5 Tết): Lê Đạt lên trình diện, bị giữ lại 15 ngày để kiểm thảo, trong khi đó Tố Hữu triệu tập Đại Hội Cán Bộ Tuyên Huấn toàn miền Bắc để phê phán Giai Phẩm Mùa Xuân: trong đại hội này, Chế Lan Viên khai ngòi việc đánh Trần Dần. Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần, Tử Phác. Trong tù, Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ. Hội Văn Nghệ tổ chức Đại hội, gồm 150 văn nghệ sĩ, ở 51 Trần Hưng Đạo để đánh Trần Dần.
Chiến dịch đánh Trần Dần trên báo bắt đầu với bài của Hoài Thanh "Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần" trên Văn Nghệ số 110, ngày 7/3/56.
- 24/2/1956: Khrouchtchev tường trình tội ác của Staline tại đại hội XX của đảng Cộng sản Liên Xô.
- 26/5/1956: Mao Trạch Đông phát động "Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng".
- 28/6/1956: Ba Lan nổi dậy.
- Tháng 7/1956: Hoàn thành Cải Cách Ruộng Đất.
- 25/8/56 đến 24/9/56 Hội nghị X Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động phát động Sửa Sai. Trường Chinh từ chức Tổng Bí Thư. Hồ Chí Minh kiêm Tổng Bí Thư lẫn Chủ Tịch. Võ Nguyên Giáp đọc Bẩy sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất.
- 8/8 đến 26/8/56: Hội Văn Nghệ -được lệnh- tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày. Nguyễn Hữu Đang tổ chức và đọc tham luận tổng kết chỉ trích gắt gao đường lối lãnh đạo văn nghệ của Trung Ương Đảng. Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bộ phận lãnh đạo văn nghệ phải "thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa". Hoài Thanh viết bài nhận lỗi đánh Trần Dần.
- 29/8/56: Giai Phẩm Mùa Thu, tập I, ra đời, với những bài chủ chốt: Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn Bính, Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, ...
- 20/9/1956: Nhân Văn số 1, với bài Phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ, bài thơNhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm và tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo ở cổ, bài Chống bè phái trong văn nghệ của Lê Đạt (ký tên Trần Công), ...
- 30/9/1956: Nhân Văn số 2, với bài Phỏng vấn Đào Duy Anh về mở rộng tự do và dân chủ, bài Trả lời Nguyễn Chương và báo Nhân Dân của Nguyễn Hữu Đang (ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy), bài Phấn đấu cho trăm hoa đua nở của Trần Duy...
- 30/9/56: Giai Phẩm Mùa Thu, tập II, với bài Bệnh sùng bái cá nhân của Trương Tửu, Ông bình vôi của Phan Khôi,Những người khổng lồ của Trần Duy, Chống tham ô lãng phícủa Phùng Quán, ...
- 8/10/1956: Giai Phẩm Mùa Xuân tái bản.
- 15/10/56: Nhân Văn số 3, số Kỷ niệm ngày Vũ Trọng Phụng tạ thế 13/10/1939, và các bài Nỗ lực phát triển tự do dân chủ của Trần Đức Thảo, Phỏng vấn bác sĩ Đặng Văn Ngữ về mở rộng tự do và dân chủ, ...
- 20/10/56: Nguyễn Bính xuất bản báo Trăm Hoa, bộ mới, lập trường bênh vực Nhân Văn.
- Trong ba ngày 20, 21 và 23/10/56, Trường Chinh tổ chức tọa đàm với văn nghệ sĩ ở trụ sở Trương Ương Đảng.
- 30/10/56: Nguyễn Mạnh Tường diễn thuyết "Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lãnh đạo" tại Mặt Trận Tổ Quốc, Hà Nội.
- 30/10/1956: Giai Phẩm Mùa Thu, tập III, với bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, Muốn phát triển học thuậtcủa Đào Duy Anh, ...
- 31/10/1956: Bài Võ Nguyên Giáp đọc tại Hội nghị X Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bẩy sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất, được in trên trên báo Nhân Dân.
- 5/11/56: Nhân Văn số 4, với bài Cần phải chính quy hơn nữa của Nguyễn Hữu Đang, Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩNguyễn Bính và báo Trăm Hoa của Người Quan Sát, Thành thật đấu tranh cho dân chủ của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung, Những ngày báo hiệu mùa xuâncủa Văn Cao, ...
- 5/11/1956: báo Sáng Tạo của nhóm điện ảnh sân khấu xuất hiện. Với Hoàng Tích Linh, Trần Công, Cao Nhị, Thanh Châu, Nắng Mai Hồng, Trúc Lâm, Phan Vũ, Phan Tại, Nguyễn Đình Phúc, Sỹ Ngọc, Phạm Kỳ Nam, Trung Sơn, Vũ Phạm Từ, Anh Tâm, Lửa Mới, Nguyễn Sáng.
- 10/11/56: Đất Mới, báo sinh viên, với bài Phê bình lãnh đạo sinh viên của Q. Ngọc và T. Hồng, Lịch sử một câu chuyện tình của Bùi Quang Đoài, ...
- 20/11/56: Nhân Văn số 5, với bài Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? của Nguyễn Hữu Đang, Bài học Ba Lan và Hung-ga-ri của Lê Đạt (ký tên Người Quan Sát), ...
- Tháng 11/56: Dân Quỳnh Lưu, Nghệ An nổi dậy.
- Tháng 12/56: Giai Phẩm Mùa Đông, tập I, với bài Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích của Trương Tửu, Nội dung xã hội và hình thức tự do của Trần Đức Thảo, ...
- 9/12/1956: Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về báo chí. Xác định lại những cấm điều.
- 15/12/56: Nhân Văn số 6 đang in, bị đình chỉ.
- Cuối tháng 12/56: Tự Do Diễn Đàn, tập I, tạp chí chuyên về lý luận, phê bình, sáng tác, do Minh Đức phát hành cuối tháng 12, bị cấm. Tự Do Diễn Đàn có các bài: Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo của Nguyễn Mạnh Tường; truyện ngắn Chú bé làm văn của Trần Dần, Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết đến cuộc đấu tranh văn nghệ? của Nguyễn Hữu Đang, Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích chính sách của Phan Ngọc, Động Long Mạch thơ Lê Đạt, Vài ý nghĩ sau khi đọc bài thơ Động Long Mạch của Hoàng Cầm, Sinh hoạt văn hoá của Trương Tửu và Trần Đức Thảo[2].
- Tết 1957, Minh Đức còn in tập Sách Tết, giai phẩm cuối cùng, bài vở của hầu hết các tác gia trong NVGP.
- Từ 20 đến 28/2/57: Đại Hội Văn Nghệ II họp tại Hà Nội. Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát bọn NVGP".
- Cuối 1957: Mao Trạch Đông đánh phái hữu. "Trong thời gian này Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô, Mông Cổ, CHDCND Triều Tiên có ghé thăm Bắc Kinh chứng kiến và có thể học hỏi các kinh nghiệm tổ chức phong trào đánh phái hữu. Việt Nam cử Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường sang học tập kinh nghiệm, chính sách của Trung Quốc[3]".
- Tháng 2 - 3/1958: Khi họ trở về, đảng tổ chức hai lớp đấu tranh "chống bọn phản động NVGP" ở Thái Hà ấp.
- 4/6/58: Đại Hội Văn Nghệ III, họp tại Hà Nội, hoàn tất "Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP" với bài tổng kết của Tố Hữu, nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ lên án "bọn NVGP" và các Hội Văn Nghệ thi hành biện pháp kỷ luật.
Nhìn lại lịch trình trên đây, thấy nổi bật vai trò của ba Đại Hội Văn Nghệ:
- Đại Hội I, Yên Giã, Việt Bắc 1950, chính thức tuyên bố theo đường lối xã hội chủ nghiã, loại trừ tất cả các hình thức văn nghệ cổ điển.
- Đại Hội II, Hà Nội 1957, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh đập nát phong trào NVGP.
- Đại Hội III, Hà Nội 1958, Tố Hữu tuyên bố đã dẹp xong NVGP.
Ngoài ra, sự xác định trước đây của Hoàng Văn Chí trongTrăm hoa đua nở trên đất Bắc và của Boudarel trong Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam về nguyên nhân phát xuất NVGP từ Trăm hoa đua nở ở Trung Quốc, là không đúng hẳn, vì phong trào ở Việt Nam, chớm nở từ việc đòi hỏitự do sáng tác, tháng 4/55, trong quân đội, và chính thức bắt đầu với Giai Phẩm Mùa Xuân, tháng 1/56; trong khi đến tháng 5/56 Mao Trạch Đông mới phát động phong trào Trăm hoa đua nở.
Tuy nhiên, lập luận này cũng không hoàn toàn sai, bởi vì Trần Dần sang Trung quốc tháng 10/1954, để viết thuyết minh cho phim Điện Biên Phủ, cho nên ông mới biết việc Hồ Phong phản kháng rồi bị đàn áp và chính bản thân ông cũng bị cán bộ chính trị hoạnh họe đủ điều, nên khi về Hà Nội, ông mới tổ chức phong trào trào đòi tự do sáng tác trong quân đội cùng với Tử Phác. Đó là thời điểm manh nha, cuối 1954 đầu 1955.
Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời tháng 1/56, rồi bị dập tắt ngay, nhưng đến tháng 2/1956, Khrouchtchev tố cáo tội ác của Staline tại đại hội XX của đảng Cộng Sản Liên Xô, và tháng 5/1956, Mao Trạch Đông phát động phong trào Trăm hoa đua nở. Vì đảng Lao Động theo sát chính sách Mao và Liên Xô, nên mới nới rộng tự do văn nghệ, tổ chức lớp học tập dân chủ18 ngày, để Nguyễn Hữu Đang có cơ hội trở lại, giữ vai trò lãnh đạo NVGP.
Tác phẩm của Boudarel đặt trọng tâm vào Trần Dần và bi kịch Trần Dần. Theo ông, nhân chuyến đi Trung Quốc, Trần Dần chịu ảnh hưởng tư tương phản kháng của Hồ Phong. Thậm chí Boudarel còn cho rằng hai chữ Nhân Văn lấy từ một câu của Hồ Phong:
"Hiện thực xã hội theo quan niệm của tôi phải quay về với con người... về sự giải phóng con người... về tinh thần nhân văn[4]".
Về nhận xét này, Boudarel đã lầm trên các điểm:
Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang chủ trương, khi ấy Trần Dần đã mệt mỏi, lui vào mặt sau vì chuyện tù tội, vợ con. Tên Nhân Văn, là do Nguyễn Hữu Đang hay Hoàng Cầm đặt. Lê Đạt nói:
"Anh Cầm thì nói rằng tên Nhân Văn là do anh ấy nghĩ ra. Còn anh Ðang cũng nói Nhân Văn do anh ấy nghĩ ra, thực tình tôi cũng không hiểu như thế nào".
Và Hoàng Cầm, trả lời phỏng vấn RFI 2007, bảo chính ông đã nghĩ ra tên Nhân Văn; nhưng trong lời "thú nhận", năm 1958, Hoàng Cầm viết:
"Có Nguyễn Bính, Đang, Tước[5] bàn về tên tờ báo và mời Nguyễn Bính làm thư ký toà soạn, thì tôi nghĩ là "tên báo gì gì cũng được" miễn là có báo ra được"[6].
Vậy tên báo chắc là do Nguyễn Hữu Đang nghĩ ra. Dù Trần Dần có "thú nhận" rằng sự chống đối của mình "có màu sắc tư tưởng Hồ Phong", thì cũng chỉ là một cách gián tiếp, bởi những thành viên chính của NVGP hầu hết đều chịu ảnh hưởng văn hoá Pháp, không mấy người biết Hán văn để đọc Hồ Phong.
Ta có thể xác định nguyên nhân phát xuất NVGP: mọi sự bắt nguồn từ quân đội, hai người đầu xướng là Trần Dần và Tử Phác, với việc phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu và bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá".
Vụ phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Tháng 3/1955, Trần Dần, Tử Phác cùng Hoàng Cầm, Lê Đạt tổ chức phê bình tập Việt Bắc của Tố Hữu, với những bài của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt.
Tháng 4/1955 Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm... ký bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá".
Hai sự kiện này đi đôi và gắn bó với nhau.
Trước kháng chiến, Trần Dần đã cùng Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch - em ruột Vũ Hoàng Chương- ra tạp chí Dạ Đài ngày 16/11/1946, công bố bản Tuyên ngôn tượng trưng. Trong kháng chiến, 1950, Trần Dần gặp Lê Đạt, cùng chí hướng đổi mới thi ca, cùng muốn "chôn đàn anh", nói theo ngôn ngữ Nguyên Sa, Mai Thảo. Ngoài Bắc, trong số những người "đáng chôn", Tố Hữu là tiêu biểu. Nhân dịp Việt Bắcvừa phát hành tháng 12/54, đã có bài ca tụng của Xuân Trường trên báo Nhân Dân, 24/1/55 và một bài ủng hộ của Xuân Diệu trải dài trên hai số Văn Nghệ 64 và 65, tháng 2/55[7]. Ngày 4/3/55, Trần Dần và Tử Phác đứng ra tổ chức một buổi phê bình thơ Tố Hữu trong khôn khổ văn nghệ quân đội, với sự hiện diện của tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị.
Lê Đạt kể lại:
"Lúc đến, tôi đã thấy ông Nguyễn Chí Thanh ngồi đấy rồi. Hoàng Yến lên nói về thơ Tố Hữu và bảo rằng thơ Tố Hữu bây giờ "nhỏ" hơn thơ Tố Hữu thời trước, thì đó cũng là một cách nói thôi. Sau đó, khi anh Thanh lên diễn đàn thì tôi thấy không khí im lặng cả, không ai nói gì nữa. Trần Dần đá chân tôi bảo: "Thôi, thế cậu lên đi." Tôi lên nói một bài về thơ Tố Hữu và tôi có nhắc đến sự sùng bái chủ tịch Hồ Chí Minh của Tố Hữu. Cuộc trao đổi ấy rất vui vẻ rồi ông Thanh cũng không nói gì nữa. Căn cứ trên cuộc thảo luận ấy thì anh em thấy là có thể có đủ bài để viết trên tạp chí Văn Nghệ mà lúc đó tôi là thường trực. Sau đó tôi có lên trình bày với anh Tố Hữu về tờ báo Văn Nghệ"[8].
Buổi thảo luận chỉ là nói miệng, nhưng Lê Đạt muốn đưa lên Văn Nghệ[9] mới lên gặp Tố Hữu để bàn, không ngờ Tố Hữu lại "gợi ý" Lê Đạt nên viết bài phê bình tập thơ Việt Bắc,chắc ông chờ đợi một bài tâng bốc của đàn em. Đã có sẵn bài của Hoàng Yến trong túi, Lê Đạt bèn tập hợp thêm một số bài khác làm số báo đặc biệt về Việt Bắc. Tố Hữu không ngờ vụ việc xẩy ra trái hẳn ý mình, bởi vì, theo Lê Đạt:
"Ở nước Việt Nam người ta chưa quen chê anh Tố Hữu bao giờ"[10].
Vụ phê bình Việt Bắc mở rộng và chuyển sang các báo khác, kéo dài nhiều tháng[11]. Nhưng Tố Hữu cũng không vừa, ông ra lệnh cho Hội Văn Nghệ tổ chức thêm hai buổi tọa đàm khác, có các vị chức sắc tham dự. Phía ca tụng Việt Bắcchủ chốt có các bài của Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông. Phía chê có: Hoàng Yến, Hoàng Cầm và Lê Đạt. Trần Độ trung dung: vừa khen, vừa chê.
Hoàng Yến muốn chê thơ Tố Hữu bịa nhưng lịch sự nói rằng Tố Hữu chưa nắm vững hiện thực:
"Ta thấy thơ Tố Hữu ngày nay còn bé hơn thơ Tố Hữu trước kia. Bé vì Tố Hữu chưa thổi được vào thơ ngọn lửa hừng hực chiến đấu của thời đại để đốt cháy lòng người đọc. Bé vì chất sống chưa thật sâu sắc nên ý thơ nhiều đoạn còn giả tạo công thức"[12].
Hoàng Cầm chê thơ Tố Hữu "thiếu chất sống thực tế","nhạt nhẽo", "hời hợt", chỉ "lởn vởn ở bên ngoài chứ không đột phá vào một khía cạnh nào của tâm hồn", "những câu văn đèm đẹp" "rủ rỉ một lát rồi thôi", "chỉ thấy những hình ảnh chung chung, gặp bất cứ ở chỗ nào", khi ca tụng lãnh đạo thì"đao to búa lớn", " bài "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên giống như một vại nước to, tràn đầy, pha loãng một màu sữa. Loãng quá" ...
Lê Đạt, trong bài lý luận, cho rằng Tố Hữu "cố gắng đi tới công nông" nhưng trong thơ còn rơi rớt tính chất "ngậm ngùi, buồn buồn... nó là cơ sở điệu tâm hồn của Tố Hữu"... và tổng kết ý kiến của mình và các bạn:
"Tính chất tiểu tư sản và xa thực tế là hai khuyết điểm căn bản, nó cản trở khả năng hiện thực của Tố Hữu. Nó là nguyên nhân của cái buồn, cái công thức, cái hời hợt rải rác trong tập thơ"[13].
Trần Dần không có bài trên báo, nhưng viết trong nhật ký"Tố Hữu nhìn sự vật nó chính trị quá, công thức quá, lười tìm tòi quá. Chỗ nào hay thì lại là lập lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao... Tố Hữu chưa đem tới một cách nhìn mới mẻ gì"[14].Và trong buổi toạ đàm ngày 4/3/55, theo Vũ Tú Nam mách lại, Trần Dần bảo thơ Tố Hữu là "tí ti la haine, tí ti l'amour - tí ti căm thù, tí ti tình yêu "[15]. Tất nhiên Tố Hữu không thể"bỏ qua" vụ này. Tháng sau, Trần Dần, Tử Phác tung ra Bản dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá.
Bản dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá
Tháng 4/1955, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm... ký bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá", nội dung gồm 32 hay 36 điều[16] yêu cầu cải cách chính sách văn nghệ trong quân đội, chủ yếu đòi quyền tự do sáng tác.
Hoàng Cầm viết:
"Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ý tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị". Nhưng: "Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:
“Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!
Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang"[17].
Trong bài viết này, Hoàng Cầm không thể nói rõ những người ủng hộ là ai, người "thẩm quyền bác bỏ" là ai. Nhưng ông thuật lại bối cảnh buổi họp đó trong băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè như sau: Nhân buổi họp mặt khoảng trên 20 văn nghệ sĩ, trong nội thành ở Cửa Đông với tướng Nguyễn Chí Thanh. Đây là một trong những buổi họp mặt thường xuyên, được tổ chức theo lời ông Thanh, để chúng tôi giảng cho ông về văn nghệ. Trần Dần lợi dụng dịp này để đọc bản điều trần cho ông nghe, nhưng mới đọc được độ non nửa bài, thì ông Thanh đập bàn quát:
"Tôi không ngờ các đồng chí đã ăn phải viên đạn bọc đường của giai cấp tư sản... tôi thấy sặc cái mùi tư sản, nào là tự do sáng tác, tự do đi lại... thôi tôi không nghe nữa", rồi ông đứng dậy đi về.
Trong bài đánh Trần Dần trên VNQĐ, Vũ Tú Nam kể lại: Hôm đó, Trần Dần nêu lên ba đòi hỏi chính:
1- Trả lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ.
2- Thành lập trong quân đội một chi hội văn nghệ trực thuộc Hội Văn Nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính Trị.
3- Bỏ mọi "chế độ quân sự hiện hành" trong văn nghệ quân đội...
Nghe xong đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ, còn ấm ức, cho là cấp trên không thông cảm. Trần Dần và vài người khác thì lồng lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản, muốn giải ngũ". Vẫn theo Vũ Tú Nam, Trần Dần viết:
"Biểu hiệu cao nhất của trách nhiệm người viết là thái độ tôn trọng, trung thành với sự thực. Đó là tiêu chuẩn cao nhất đánh giá tác giả và tác phẩm... tôn trọng, trung thành với sự thực vừa là trách nhiệm, vừa là lập trường, vừa là phương pháp làm việc của người viết".
"Sự thực lớn gấp triệu triệu lần bất cứ chỉ thị, lý luận nào... Nếu như sự thực ngược lại chính sách chỉ thị, thì phải viết sự thực chứ không phải là bóp gò sự thực vào chính sách"[18].
Bản dự thảo do chính tay Trần Dần viết trong tháng 2/55, dài 12 trang đánh máy bị Tuyên Huấn bác bỏ.
Vai trò của các tướng Nguyễn Chí Thanh, Lê Liêm, Lê Quang Đạo, Võ Hồng Cương, Trần Độ
Trong quân đội, thời ấy, đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tổng Tư Lệnh, đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, quyền lực ngang ngửa nhau. Tướng Lê Liêm, phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị; Lê Quang Đạo, cục trưởng Cục Tuyên Huấn và Võ Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn.
Theo Hoàng Cầm, tướng Nguyễn Chí Thanh đã có lần bênh vực ông trong buổi văn nghệ mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, do ông tổ chức theo yêu cầu của tướng Giáp. Trong buổi trình diễn, Hoàng Cầm đưa ra màn hát màn quan họ, có câu: "Yêu nhau cởi áo cho nhau", bị một người đứng lên hô hào cử tọa đả đảo đồi trụy, nhưng tướng Thanh lên sân khấu bênh vực, dẹp tiếng đả đảo, để nghệ sĩ tiếp tục trình diễn. Khi tướng Thanh về làm chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, cai quản khoảng một trăm văn nghệ sĩ, ông đề nghị Hoàng Cầm phân phối người đến dậy ông về nghệ thuật, như Mai Văn Hiến về hội họa, Nguyễn Đức Toàn về âm nhạc, Văn Chung về múa, Thanh Tịnh về viết...[19]
Tướng Nguyễn Chí Thanh cũng để cho Trần Dần và các bạn hội họp bàn về tự do sáng tác, nhưng sự phẫn nộ của ông khi nghe Trần Dần đọc bản dự thảo, chứng tỏ ông là người bảo thủ. Hoàng Cầm cho rằng, ở thời điểm 1954-1955, ông bị ảnh hưởng nặng nề chính sách của Mao Trạch Đông. Nhưng khi Trần Dần bị bắt lần thứ nhì, dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện, dù tự ý hay do chỉ thị của Phạm Văn Đồng, ông cũng đã can thiệp cứu Trần Dần. Nhưng rồi cũng chính tướng Nguyễn Chí Thanh đã trao cho người bà con Vũ Tú Nam toàn bộ tư liệu về Trần Dần, kể cả 2 lá thư Trần Dần viết để xin ra khỏi đảng năm 55, để họ Vũ có đủ tư liệu viết bài đánh Trần Dần[20]. Phải chăng ông muốn Vũ Tú Nam, ghi lại cho hậu thế những điều Trần Dần đòi hỏi dân chủ trong bản dự thảo?
Về Nhân Văn, Nguyễn Chí Thanh không viết bài đả kích,nếu ai hỏi về Nhân Văn, ông chỉ nói:
"Ôi giời! mấy cậu văn nghệ sĩ nó cứ hay tự do chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa ấy mà!"[21]
Trường hợp Nguyễn Chí Thanh vẫn còn là một nghi vấn: Ông bênh vực dân chủ hay ông là người cộng sản giáo điều?
Ngoài Nguyễn Chí Thanh, bản dự thảo còn được ai ủng hộ, khiến nó "sắp được thông qua" như lời Hoàng Cầm?
Theo phân tích của Boudarel, thì bản dự thảo này được sự ủng hộ của ba tướng tá cao cấp trong Tổng Cục Chính Trị: Lê Quang Đạo, Trần Độ, và nhất là Lê Liêm:
"Ở những buổi thảo luận nội bộ năm 1955 trong quân đội, có những cán bộ cao cấp ủng hộ nhóm văn nghệ sĩ đòi hỏi quyền tự do sáng tác, nhưng không ai chỉ rõ tên họ ra, rất có thể bởi vì muốn tránh cho họ rơi vào hoàn cảnh khó xử trước những đồng nghiệp quyết liệt. Duy có hai người, hai tướng chính uỷ Trần Độ và Lê Liêm là dễ nhận ra, nhưng cũng không chỉ có hai người đó. Một văn bản chứng minh rằng vào mùa thu năm 1956, tướng Lê Quang Đạo cũng can thiệp khi vụ việc xẩy ra. Nhưng trong chiều hướng nào? Lúc đó ông là cục trưởng cục Tuyên Huấn[22]".
Boudarel phác họa chân dung Lê Quang Đạo, Lê Liêm và Trần Độ, ba tướng lãnh trong Tổng Cục Chính Trị ủng hộ những nhà văn trẻ. Ông phân tích những khúc mắc trong hành động của họ, khi ủng hộ tự do sáng tác và mở rộng dân chủ, lúc phải lùi bước trở lại vị trí chính thống. Điều đặc biệt đáng chú ý là trong suốt thời kỳ NVGP, Boudarel không tìm thấy văn bản nào của các tướng lãnh trong Tổng Cục Chính Trị lên án phong trào.
Cuốn Bọn Nhân văn Giai phẩm trước toà án dư luận tập hợp những bài viết của hơn 80 văn nghệ sĩ và trí thức "dân sự". Trong các bài mà chúng tôi thu thập được trên báo quân đội, có bài Một vài ý kiến góp với bạn đọc[23] của tướng Lê Liêm, lời lẽ nhẹ nhàng, chẳng có ý khiển trách mà còn như bênh vực NVGP.
Theo lời Hoàng Cầm và Trần Duy, Võ Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn, là người hiền hoà, rất gần gũi với anh em. Sau vụ Thái Hà ấp, ông là người được chỉ định viết bài tổng kết đánh NVGP, với bài Cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận văn nghệ hiện nay ký tên Hồng Cương[24], giọng tuy sắt đá, nhưng thâm tâm hình như có ý hỗ trợ: ông chỉ trình bày những đòi hỏi tự do dân chủ của nhóm NVGP cho hậu thế biết, mà không buộc tội họ một cách độc ác như các ngòi bút "dân sự".
Tướng Lê Liêm, phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, một trong những tướng tài ở Điện Biên Phủ, hết sức ủng hộ văn nghệ sĩ. Trong cuộc thanh trừng NVGP, ông giữ một sự im lặng đầy ý nghĩa. Năm 1958, trở thành thứ trưởng Văn Hoá, tuy thăng chức, nhưng không có quyền, bắt đầu sự thất sủng. Phản đối việc thân Tàu, chống Nga. Năm 1965, ông làm thứ trưởng Giáo Dục, năm 1968, trong một bài diễn văn về việc cải tạo giáo dục, Lê Liêm trở lại quan điểm chính thống. Năm 1974, người ta đồn ông bị khai trừ khỏi đảng cùng với Ưng Văn Khiêm, tướng Nguyễn Văn Vịnh và Bùi Công Trừng, vì tội thân Nga. Lê Liêm là một khuôn mặt cởi mở, chấp nhận đối thoại.
Tướng Lê Quang Đạo, cục trưởng Cục Tuyên Huấn, theo lời Hoàng Cầm, "giáo điều", "máy móc", và xa cách hơn, có lúc ông đã kiểm duyệt một vở kịch của Hoàng Cầm, nhưng theo Boudarel, chắc ông cũng đã tác dụng vào những cuộc tranh luận văn học nội bộ trong thời kỳ này, và sau vụ NVGP, ông vẫn tiếp tục con đường cởi mở đến thập niên 80. Năm 1982, ở đại hội V, khuynh hướng bảo thủ thắng thế. Đến 1987, làm chủ tịch quốc hội, ông tiếp tục cổ động cho công cuộc đổi mới.
Trần Độ kiên trì trong quan điểm dân chủ hoá đất nước. Sau Nhân Văn, ông trở lại chiến trường. Dường như ông chỉ tạm thời lùi bước năm 1956 để tiến mạnh hơn, ba mươi năm sau. Năm 1982, trực diện với sự bảo thủ của Hà Xuân Trường trong đại hội V, Trần Độ thua cuộc, nhưng đến năm 1986, khi làm trưởng ban Văn Hoá Tư Tưởng Trung Ương, dưới sự cởi mở của Nguyễn Văn Linh, Trần Độ trở lại vai trò chủ đạo cho công cuộc đổi mới văn học.
Vậy có thể xác định: Trong vụ thanh trừng NVGP, quân đội đứng ngoài. Quân đội sạch tay hơn dân sự.
Nói như Boudarel:
"Tất cả những vấn đề cơ bản đều quy về những năm 1955-1956".
Như vậy, NVGP mở đầu cho tinh thần đấu tranh tự do tư tưởng, cho việc đổi mới văn học, tinh thần này không chấm dứt khi phong trào bị dập tắt, chỉ ngủ yên trong ba mươi năm rồi lại bùng lên những năm 1987- 88.
(còn tiếp) -
13-02-2016, 05:48 #4
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)Trần Dần, Tử Phác bị bắt
Vì hai sự kiện: phê bình thơ Tố Hữu và đề nghị cải cách chính sách văn nghệ quân đội, mà Trần Dần và Tử Phác bị kỷ luật, bị giam từ 13/6/55 đến 14/9/55.
Nhưng về mặt "chính thức", Trần Dần bị kỷ luật vì lẽ khác: về chuyện tình cảm, yêu một người con gái có đạo - Cô Khuê, vợ Trần Dần sau này - cha mẹ đã đi Nam, không được đảng cho phép cưới, tự ý bỏ trại, về với người yêu ở phố Sinh Từ và không chịu lên trình diện. Tử Phác cũng không chịu lên trình diện.
Về việc này, Boudarel có những phân tích thỏa đáng:
"Đối với Trần Dần, trận bút chiến trong ba tháng đầu năm 1955 đi đôi với sự tranh đấu không cân bằng trong Cục Chính Ủy quân đội về vấn đề lý thuyết chính trị và nhân sự, cả hai đan cài khó gỡ. Việc bản dự thảo bị hủy bỏ đối với Trần Dần là một thất bại, nhưng cũng không đau đớn bằng việc bị các bạn đồng hành bỏ rơi, chạy sang phe bên kia. Vì lý do sức khỏe, Trần Dần xin nghỉ một thời gian để thoát khỏi trại binh. Mãi không thấy cấp trên trả lời, anh tự ý bỏ trại về nhà người bạn gái ở phố Sinh Từ. Hai lần cấp trên gọi về chờ lệnh, anh đều từ chối. Bị kiểm thảo vắng mặt, và có lẽ bị trừng phạt nữa, bởi vì trong lần gọi thứ ba, anh đòi hủy bỏ những quyết định chống lại anh. Những phê phán Trần Dần phạm quân kỷ đi đôi với việc trật tự trở lại trong văn nghệ quân đội. Mãi không thấy gì mới, đến giữa tháng 5/1955, Trần Dần viết hai lá đơn xin ra khỏi đảng và ra khỏi quân đội (một cho đảng và một cho quân đội) trong đó anh trình bày những lý lẽ của mình với một sự thẳng thắn, đến độ ngây thơ lạ lùng[25]".
Đây là lần thứ nhất Trần Dần, Tử Phác bị giam, thật ra bị cấm trại, không phải tù. Trong thời gian này, Trần Dần viết bài thơ dài "Nhất định thắng" trao bản thảo cho Lê Đạt giữ[26]. Hết cấm trại, Trần Dần và Tử Phác được về nhà, và hơn tháng sau, cả hai bị gửi đi tham gia Cải Cách Ruộng Đất tại Yên Viên, Bắc Ninh, từ 2/11/1955 đến giữa tháng 2/1956. Trong khi ấy Hoàng Cầm và Lê Đạt ra Giai Phẩm Mùa Xuân.
Tháng 1/1956, Giai Phẩm Mùa Xuân xuất hiện, đăng bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần. Sách vừa phát hành, Lê Đạt bị gọi lên Tuyên Huấn để kiểm thảo. Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu.
Lê Đạt kể lại trên RFI:
"In ra được một tuần thì thấy ảnh hưởng của nó ghê gớm quá, tôi với anh Trần Dần cũng không ngờ. (...) Nhưng mà đồng thời dông bão cũng đã bắt đầu thấy xuất hiện ở trên vòm trời rồi. Hôm tôi đến Hội, tôi gặp cụ Phan Khôi. Cụ Phan Khôi bảo: "Này, gay go đấy nhé!" Tôi bảo: "Cái gì mà gay go hở cụ?" Hôm nọ Tố Hữu đến đây phê phán Giai Phẩm Mùa Xuân nặng lắm và nói rằng: "Lũ này là lũ phản động", thì tôi (Khan Khôi) có nói rằng: "Phản động hay không phản động chưa biết, cứ biết rằng người ta nói mình không bằng lòng thì mình viết, rồi để cho người ta trả lời", thì Tố Hữu nói ngay rằng: "Thừa giấy cho chúng nó viết à?" Phan Khôi bảo tôi: "Cẩn thận!"
Rồi chúng tôi chia tay nhau. Lúc đó đi đâu cũng thấy người ta nói đến Giai Phẩm Mùa Xuân. Bấy giờ là gần Tết rồi và hôm ấy, vào khoảng độ 28 Tết (9/2/1956) trên đường đi tôi gặp một người liên lạc của tôi, đang đi tìm tôi, bảo rằng:
"Anh Tố Hữu có điện đi tìm anh và nói rằng mời anh lên Tuyên Huấn để kiểm thảo".(... ) Tôi bảo với cậu liên lạc: "Bây giờ em về, em cứ nói với cơ quan là không tìm thấy anh, rồi sau Tết anh sẽ lên". Tôi nghỉ ăn Tết xong, mùng 5 Tết (16/2/1956) tôi lên gặp Tố Hữu. Lên, thì lúc ấy Tố Hữu ở trên gác, một anh chánh văn phòng xuống gặp tôi, nói rằng: "Anh đợi một lúc, anh Tố Hữu sẽ xuống!" (...) Trong lúc ngồi ghế đợi, tôi thấy quyển Giai Phẩm Mùa Xuân để trên bàn, bài Nhất định thắng của Trần Dần với rất nhiều câu hỏi của anh Lành (Tố Hữu) đánh bằng bút bi đỏ, ở chung quanh. Nói ghê lắm. Còn bài Mới của tôi, thì bên cạnh câu: Bay cho cao, bay cho xa, anh Tố Hữu có đề câu hỏi: Bay đi đâu? Có phải bay vào miền Nam không? (...) Lúc đó, anh Tố Hữu đi trên gác xuống (...) Câu đầu tiên anh nói với tôi rất lạnh lùng: "Các anh muốn gì?". Tôi hơi bực mình, tôi trả lời: "Chúng tôi chẳng muốn gì cả, chúng tôi chỉ muốn làm văn nghệ. Anh Tố Hữu này, chúng ta vẫn còn là đồng chí với nhau, cho nên anh không thể xử sự với tôi như người ngoài được. Có gì anh cứ nói một cách bình tĩnh." Lúc ấy anh Tố Hữu nghĩ thế nào, mới rút một điếu thuốc lá mời tôi và chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Câu đầu tiên mà anh Tố Hữu nói là: "Tôi rất lo cho tương lai chính trị của anh. Anh thì còn là người ở trong nội bộ, còn Trần Dần hỏng rồi. Chúng tôi đã có tài liệu rằng Trần Dần là có bàn tay của địch dúng vào. Vì anh còn là người của nội bộ cho nên chúng tôi mời anh đến đây kiểm điểm. Anh phải ở lại đây 15 ngày để kiểm điểm và để anh thấy rõ bộ mặt phản động của Trần Dần."
Thế là tôi ở lại đấy ăn cái Tết kiểm thảo 15 hôm[27] (...)
Trong 15 ngày thì có một cuộc Hội Nghị rất lớn, hầu hết các nhân vật sừng sỏ nhất của Tuyên Huấn, nào là anh Kỉnh này, Kỉnh là Trung ương Ủy viên và là phó ban Tuyên Huấn, Nguyễn Chương này. Nguyễn Chương, anh em quen gọi là Xứ Chương, là một cán bộ kỳ cựu sừng sỏ về lý luận (sau này cuộc tranh luận giữa Xứ Chương và Nguyễn Hữu Đang trên báo được rất nhiều độc giả lưu ý). Cả thiếu tướng Lê Chưởng... nhiều, nhiều lắm. Cuộc họp rất to, mà ở bên này chỉ có tôi thôi (cười). Một người thì không thể nào cãi lại được tất cả mọi người. Nhưng tôi cãi được một điểm duy nhất mà tôi có thể cãi lại, và tôi cho là đúng, đó là:" Tôi không thể nào căn cứ vào một văn bản mà kết luận một người (tức Trần Dần) là phản động được". (...)
Tóm lại, cuộc đấu tranh rất căng thẳng. Sau đó, tôi được thả về vì đến đấy coi như đã xong và anh Dần cũng đã bị bắt rồi. Tức là cùng lúc tôi bị gọi lên kiểm điểm ở Tuyên Huấn thì anh Dần bị bắt ở chỗ cải cách ruộng đất. Trần Dần bị bắt cùng với Tử Phác, (...) Ba hôm sau, anh Dần cứa cổ tự tử"[28].
Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho biết:
"Ít ngày sau khi tịch thu Giai Phẩm Mùa Xuân, Tố Hữu triệu tập đại hội toàn thể các cán bộ Tuyên Huấn miền Bắc để phê bình Giai Phẩm Mùa Xuân, họp từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Trong hội nghị này, vai trò của Chế Lan Viên nổi bật. Trần Đĩnh[29] làm việc trong báo Nhân Dân, đi dự hội nghị kể lại với tôi: Tố Hữu khai mạc, Chế Lan Viên "nổ phát súng đầu tiên" lên án -không phải lên án tập sách mà lên án một bài thơ của Trần Dần thôi- rằng nó đã bôi ra một bức tranh u ám của miền Bắc. Trong khi chúng ta đang phấn khởi, tưng bừng đón chế độ mới, mà lại nói "mưa sa trên mầu cờ đỏ" là thế nào? Rõ là mầu cờ cách mạng. Đem quệt một cái màu hết sức u tối lên trên cờ Đảng, là bôi nhọ thành tích của Đảng, của nhân dân. Rõ ràng là một câu thơ hết sức phản động... Tiếp theo Chế Lan Viên, mọi người ào ào lên phát biểu đả kích Trần Dần..., không ai bênh vực.
Vẫn theo lời Hoàng Cầm kể lại lời Trần Đĩnh, đến 5 giờ chiều, tan họp, chỉ còn lại độ 5,7 người, Tố Hữu mới hỏi Văn Phác: "Thế bây giờ chúng nó đâu?" Văn Phác trả lời: "Báo cáo anh, hai anh ấy[30] đang đi cải cách ruộng đất ở bên kia huyện Gia Lâm". Trần Đĩnh cũng chỉ nghe đúng sáu tiếng:"Gọi nó về, giam nó lại![31].
Với thông tin của Lê Đạt và Hoàng Cầm, chúng tôi xin tạm dựng lại bối cảnh:
Trong hạ tuần tháng 2/1956 có hai đại hội quan trọng: Đại Hội Tuyên Huấn, họp từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều, trong nội bộ tuyên huấn, và Đại Hội Văn Nghệ, do Hội Văn Nghệ tổ chức, 150 người dự, từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng, ở 51 Trần Hưng Đạo. Số phận Trần Dần đã được trung ương quyết định từ trước hai đại hội. Tố Hữu, Chế Lan Viên, gọi đó là "tội phản động", còn Lê Đạt "tội" nhẹ hơn, vì là người của Tuyên Huấn. Lê Đạt bị gọi lên Tuyên Huấn từ 9/2/56, nhưng đến 16/2/56 mới lên trình diện Tố Hữu và bị giữ lại kiểm thảo 15 ngày. Trong thời gian này, Tố Hữu triệu tập Đại Hội Tuyên Huấn. Đại hội này xẩy ra sau ngày 16/2, Chế Lan Viên khai ngòi tuyên cáo tội trạng Trần Dần. Nếu Hoàng Cầm kể đúng lời Trần Đĩnh, thì Trần Dần, Tử Phác bị bắt sau Đại Hội Tuyên Huấn, tức là vào hạ tuần tháng hai.
Đại Hội Văn Nghệ họp ở 51 Trần Hưng Đạo lập lại kịch bản đánh Trần Dần đã tập dượt trong Đại Hội Tuyên Huấn. Phan Khôi tham dự Đại Hội Văn Nghệ và trong bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, ông cảnh cáo các lãnh đạo văn nghệ như sau:
"Hội Văn Nghệ khai hội từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng để phê bình bài thơ Trần Dần, mà kỳ thực là hỏi tội Trần Dần, một mầm non văn nghệ. Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa lũ người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công".
Trần Dần và Tử Phác bị bắt. Bị giam dưới hầm, Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện. Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh ngày 21/2/56 và được tha ngày 5/5/56[32].
Hoàng Cầm viết trong bài Con người Trần Dần trên Nhân Văn số 1 như sau:
"Giai Phẩm Mùa Xuân bị kết tội, bài thơ "Nhất định thắng" bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù:
Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam".
"Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội"[33].
Nguyễn Chí Thanh đọc bài Con người Trần Dần, cử Lê Quang Đạo triệu Hoàng Cầm lên để giải thích. Theo lời "thú nhận" của Hoàng Cầm, sau khi nghe Lê Quang Đạo, ông đã viết bài đính chính rằng có nhìn thấy công lao của quân đội đối với Trần Dần, nhưng ông vẫn thêm vào đoạn cuối: "Việc bỏ tù Trần Dần là quá đáng, đến nỗi Trần Dần phải tự tử, và tôi vẫn viết một câu đại ý: Đồng chí Tố Hữu là người phụ trách toàn bộ công tác lãnh đạo văn nghệ, phải chịu trách nhiệm về việc này"[34]. Bài đính chính của Hoàng Cầm không đăng trên Nhân Văn.
Và đây là lời buộc tội của Tố Hữu:
"Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái "điệu tâm hồn" ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đọa.(...)
Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là "những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra". Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên "tiếng trống tương lai" chửi cán bộ chính trị là "người bệnh", "người ròi" [dòi], "người ụ". Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh "buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu" của họ.
Họ đòi thực hiện những gì? "Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội Văn Nghệ trực thuộc Hội Văn Nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính trị". Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ"[35].
Như vậy, có thể nói, Tố Hữu đánh theo chỉ thị, nhưng tư thù là một trong những động lực chính.
Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần
Về việc Trần Dần cứa cổ, chỉ có Hoàng Cầm kể lại, trong bài cải chính -không in- mà Hoàng Cầm nhắc đến ở trên. Trong buổi nói chuyện với RFI, ông thuật lại ít nhiều chi tiết. Đặc biệt trong hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, đoạn ghi lời của Hoàng Cầm về việc Trần Dần, rõ hơn:
"Hồi Hoàng Cầm cho in tập Giai Phẩm Mùa Xuân, có đăng bài của Trần Dần, Tử Phác. Tố Hữu triệu tập mấy người đến họp: Hoàng Cầm, Văn Phác (phụ trách tổ chức Bộ Văn Hoá), Chế Lan Viên ... Tố Hữu cầm cuốn Giai Phẩm Mùa Xuân, hỏi mọi người: "Các anh thấy tập sách này thế nào?" Không ai dám trả lời, vì không đoán được ý Tố Hữu. Chế Lan Viên nhanh trí, đoán trúng ý thủ trưởng. Anh nói: "Cuốn sách đại phản động!"
Tố Hữu hỏi Văn Phác: "Hiện nay chúng nó đang ở đâu?" Văn Phác: "Thưa, các anh ấy đang đi thực tế ở Yên Viên".
Tố Hữu ra lệnh - Hoàng Cầm nhớ đúng sáu tiếng: "Gọi nó về, bắt lấy nó!"
Thế là Văn Phác làm giấy tờ để bắt Trần Dần, Tử Phác.
Và đây là lời kể của Trần Dần, Hoàng Cầm thuật lại: Chiều hôm ấy, có một cái xe ô tô nhà binh đến Yên Viên. Họ gọi Trần Dần, Tử Phác ra và lập tức bịt mắt. Trần Dần kịp thấy trên xe có lính mang súng, lưỡi lê tuốt trần.
Hoàng Cầm nói, Trần Dần là tay thần kinh rất vững. Anh ta bình tĩnh lắng nghe để đoán xem xe đi đâu. Qua một cái cầu dài. Thế là vào Hà Nội. Nhưng xe lại chạy tiếp khá lâu. Thế là đi quá Hà Nội. Đến một chỗ nào đấy, xe đỗ lại. Người ta dắt Trần Dần, Tử Phác, đi xuống một địa điểm ở sâu dưới đất - vì cứ thấy xuống nhiều bậc, xuống mãi. Đến một độ sâu nào đấy, họ dừng lại và đẩy Trần Dần vào một căn hầm, đóng cửa lại. Trần Dần nghĩ bụng, chắc bị thủ tiêu. Thủ tiêu ở đây thì ai biết được? Coi như mất tích. Anh nghĩ phải tìm cách lên được mặt đất.
Sáng ra, thấy đây là một cái hầm đào sâu dưới đất. Ánh sáng lọt xuống từ nóc hầm qua một ô cửa có chấn song, ở trên thoáng thấy có bóng một anh lính gác.
Trần Dần thấy trong hầm có một cái phản gỗ và một bình nước. Anh kéo cái phản ra chỗ ánh sáng từ trên nóc hầm rọi xuống, cởi áo ngoài, để phơi áo sơ mi trắng bên trong ra, lấy một cái mince lame trong túi, nằm ngửa lên phản, dùng lưỡi dao cứa vào cổ cho máu phun ra ngực áo, rồi giẫy đạp ầm ĩ, cốt cho anh lính gác nghe thấy. Anh lính gác nhìn xuống thấy thế hoảng quá: Nó tự tử, phải đưa cấp cứu ngay! Một lát sau, cửa hầm mở, người ta đưa Trần Dần đi cấp cứu ở một bệnh viện gần đó. Té ra là bệnh viện Hà Đông. Ở đây, Trần Dần may vớ được một người quen bèn viết mẩu giấy nhờ đưa đến Tổng Cục Chính Trị nơi anh công tác. Nguyễn Chí Thanh lập tức đến bệnh viện và ra lệnh tha ngay cả Trần Dần và Tử Phác.
Hoàng Cầm rất phục Trần Dần. Thằng cha thần kinh rất vững. Hoàng Cầm cũng từng bị bắt giam. (Ông nghe Hoàng Hưng, định đưa tập thơ Về Kinh Bắc sang Pháp in). Ông nói: "Tôi nhát lắm, mọi tội tôi xin nhận hết" (Hết hạn tù, người ta cho ra, còn xin ở lại viết kiểm thảo. Tô Hoài cho tôi biết thế). Sợ nhất là trong tù cứ thấy tiếng phát ra đều đều không biết từ đâu: Khai thật đi! Khai thật đi! Khai thật rồi về với vợ con!
Chuyện nghe khá sợ. Một hình thức khủng bố về tâm lý. Chẳng biết Hoàng Cầm có thêm thắt gì vào sự thật không. Nhưng quả là đáng sợ. Hoàng Cầm cũng hay tưởng tượng thêu dệt thêm ra nữa[36]".
Hoàng Cầm kể lại việc bắt Trần Dần
Trong băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ông kể rõ nhiều chi tiết hơn:
Việc này Trần Dần kể lại với tôi và Lê Đạt như sau: Khi ấy tao đang đi cải cách ruộng đất, tao và Tử Phác mỗi người ở một nhà. Một đêm ra ngoài Tết, vào khoảng 12 giờ khuya, tao đang ghi chép, thì thấy đèn pin lấp loá ngoài sân, rồi có tiếng quát: Trần Dần đâu? Có người sập cửa liếp, tao ra mở thì có người hỏi: Anh là Trần Dần phải không? Rồi đọc lệnh bắt, ký tên Ngô Minh Loan, cục trưởng Cục Quân Pháp. Họ bảo tao sắp hết đồ đạc vào ba lô, rồi ra sân. Ra sân thì họ bịt mắt rồi đẩy lên thùng xe, tao nghe tiếng vũ khí tuốt trần chạm nhau. Xe đi độ một lúc, thì qua cái cầu, tao đoán là cầu Yên Viên, sông Đuống. Đi lúc lâu nữa thì đến một con đường phẳng phiu, tao đoán là quốc lộ số 1, rồi qua một cái cầu rất dài, chắc là cầu Long Biên. Đi khoảng một tiếng nữa thì xe dừng, họ nhấc tao xuống, dẫn đi độ dăm phút thì bắt đầu đi xuống, chân chạm các bậc đá, khá cao, tao đếm đúng 37 bậc, vai vẫn đeo ba lô. Xuống đến nơi thì nghe họ mở xích sắt, rồi họ đẩy tao vào. Đến lúc họ tháo băng ra thì mình vẫn thấy tối mù, hai người lính đi lên, lại khoá xích lách cách. Tao nhìn tít lên cao thấy một khoảng sáng mờ độ bằng bàn tay, thỉnh thoảng có ánh đèn pin chiếu xuống, nhờ đó mà tao thấy cái hầm nhốt mình rộng độ hai mét vuông, có cái phản làm bằng hai tấm ván kê trên hai mễ gỗ, một bình nước và cái bô vệ sinh. Tao thấy mệt, nằm xuống ngũ đã. Tỉnh dậy trời đã sáng, qua cái lỗ bé tý trên đỉnh, vẫn thấy đèn pin thỉnh thoảng chiếu xuống. Tao nghĩ mãi không biết mình bị bắt vì tội gì, thằng nào bắt, mà nó giam kiểu này thì tội nặng lắm. Bấy giờ ở Phòng Văn Nghệ quân đội cũng nhiều đứa ghét mình, như loại Vũ Tú Nam, Vũ Cao... Thôi, cứ nghỉ một ngày cho thoải mái đã, tao nằm một lúc thì thấy trên lỗ ném xuống một gói, mở ra thấy hai nắm cơm, kèm gói muối. Tao thấy đói, ăn ngon lắm, lại nằm, lại nghĩ, cứ bình tĩnh, cố giữ tâm hồn thanh thản... Qua hai đêm sau, tao điểm tên những người có thể ra lệnh bắt, trong quân đội thì chỉ có thể là ông Nguyễn Chí Thanh, không thì ông Lê Quang Đạo, hay ông Lê Chưởng. Có thằng Văn Phác, là chính ủy trung đoàn lên làm trưởng Phòng Văn Nghệ nó cũng ghét tao lắm. Ngô Minh Loan chỉ là cục trưởng Quân Pháp thì ký lệnh thôi, chủ trương bắt đến từ người khác.
Chắc tại mình bướng làm bản kiến nghị 36 điều, tại thế chăng? Bây giờ phải làm sao thoát được chỗ này, phải lên được mặt đất, chứ nằm dưới hầm, mỗi ngày nó ném cho hai lần, hai nắm cơm, không ai hỏi han gì, không ai biết ở đâu, chắc vài tháng thì chết. Đây là âm phủ rồi. Phải làm sao lên được trần gian. Nghĩ ngợi tính toán, nằm thêm một đêm nữa, sáng hôm thứ ba tao nghĩ ra: nó bắt giam thế này là tội to, mà tội to thì còn phải hỏi cung, nó không thể để cho mình chết. Nó bảo cô Khuê vợ mình là gián điệp cài lại, thì chắc nó cho mình đã đi theo địch, hay ở trong tổ chức nào của địch gài lại chăng? Vậy nó phải để cho mình sống để moi móc tài liệu. Tao mới nghĩ cách lên mặt đất bằng giả chết, bắt buộc nó phải cho lên mặt đất, giữ mình sống để còn điều tra. May trong ba lô của tao còn hộp dao cạo, có hai mince lame, một còn mới, vậy tao phải đổ máu tại đây. Tao lấy trong ba lô cái chemise trắng mặc vào, nằm thẳng trên ván, kéo hết sức da cổ ra, cắt đứt, cho máu tứa ra cái áo chemise trắng, rồi tao đập chân đập tay vào ván, thế thì trên nó quét ngay đèn pin xuống, thấy máu trên nền chemise trắng, nó nghĩ ngay tên tù này định tự tử. Quả nhiên chỉ một phút sau là cửa xích sắt mở và 2, 3 thằng xuống khiêng tao lên. Tao giả vờ chết đến nơi, xỉu đi, thế là chúng nó đưa ngay vào bệnh viện cấp cứu, Viện 103, là một trong những quân y viện lớn nhất của quân đội, cách thị xã Hà Đông 3, 4 cây số.
Tên đại đội trưởng ra lệnh cho bác sĩ cấp cứu ngay:
"Đây là một tên tội phạm tội to lắm, trên giao cho chúng tôi bảo vệ nó, mà để nó tự tử thì chúng tôi bị kỷ luật". Tao được ưu đãi lắm, trưa hôm ấy họ cho ăn cháo gà. Nghĩ lại mình quá may, nếu không có mince lame thì làm sao lên được mặt đất. Đến chiều thì người bác sĩ trực mới lân la hỏi chuyện: "Anh là Trần Dần chứ gì, tôi đã gặp anh ở Sơn La, anh không nhớ à?" Lại hỏi: "Sao anh xử sự thế này, ai bắt anh?" Tao chỉ trả lời vắn tắt: "Chuyện nó dài lắm, lúc khác anh em mình nói chuyện".
Anh bác sĩ kể, lúc họ đưa anh vào đây, tôi có điện thoại cho anh Phạm Văn Đồng, tôi nói:
"Thưa thủ tướng, tại sao anh Trần Dần đi chiến dịch Điên Biên, viết Người người lớp lớp mới đây, mà lại bị bắt, lại tự tử?"
Tôi nghe đầu kia ông Đồng hét lên: "Cái gì? Làm sao? Ai bắt?" Rồi tôi nghe trong máy có giọng ông Nguyễn Chí Thanh, ông Thanh hơi gắt: "Sao thế nhỉ? Sao chuyện ấy tôi lại không biết? Thôi được rồi, anh cứ để tôi giải quyết ngay lập tức". Thế là ông Thanh điện thoại lại Quân Y Viện, căn dặn chúng tôi là tên tội phạm to thì phải chữa cho thật khỏe lên, sáng mai 9 giờ tôi sẽ xuống bệnh viện. Hôm sau ông Thanh xuống, mang theo một nải chuối và hai cân cam, ông nói với tao: "Anh Dần buồn cười nhỉ, tại sao lại phải tự tử? Anh là đảng viên, có gì thì phải viết thư cho tôi, phải ở trong tổ chức, nếu tôi không giải quyết được thì đề đạt lên Bộ Chính Trị, mà trên nữa còn Hồ Chủ Tịch". Tao trả lời: "Nếu tôi không tự tử thì làm sao gặp được anh hôm nay?" - "Thế anh giả vờ chứ gì?" - "Vâng, tôi giả vờ, nhưng nếu không làm thế thì tôi chết ở đâu anh cũng không biết". Ông Thanh dịu giọng: "Thôi nằm tĩnh dưỡng đi rồi còn về làm việc"[37].
Thoại của Hoàng Cầm, theo ông, là do Trần Dần kể lại, chắc gần sự thực hơn cả nhưng không thấy ông nói đến việc Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh. Vậy có thể hiểu: Khi tướng Nguyễn Chí Thanh xuống bệnh viện thăm, có thể chính ông Thanh đã căn dặn Trần Dần phải viết lá thư trần tình để ông dễ bề can thiệp. Lá thư này đã được Boudarel nhắc đến và Vũ Tú Nam sử dụng.
Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu, Lê Đạt bị kiểm thảo. Trần Dần bị kết tội phản động. Trần Dần, Tử Phác bị bắt. Sự khủng bố trở nên công khai nhưng cũng mở màn cho một phong trào đấu tranh cho dân chủ rộng lớn hơn, nửa năm sau. Vậy nội dung Giai Phẩm Mùa Xuân chứa đựng những gì?
***
Chú thích:
[1] Vừa viết xong tác phẩm Người người lớp lớp về Điện Biên Phủ.
[2] Dẫn theo Boudarel, bài Le tort de parler trop tôt - Sai lầm vì nói quá sớm, viết về Nguyễn Mạnh Tường, Revue Sud Est Asie, số 52.
[3] Lê Hoài Nguyên, Vụ Nhân Văn - Giai Phẩm từ góc nhìn một trào lưu dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành, website nguyentrongtao.com 06/08/2010.
[4] Boudarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, trang 59.
[5] Một người thân thuộc trong nhà xuất bản Minh Đức.
[6] Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[7] In lại trong cuốn "Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc", do Lại Nguyên Ân soạn, nxb Văn Hoá Thông Tin, 2005.
[8] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[9] Do Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt biên tập.
[10] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[11] Xem "Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc" của Lại Nguyên Ân.
[12] Lại Nguyên Ân, sđd, trang 69.
[13] Lại Nguyên Ân, sđd.
[14] Trần Dần ghi trang 143.
[15] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội, tháng 4/58.
[16] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[17] Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1.
[18] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ QĐ, số 4, tháng 4/58.
[19] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[20] Boudarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, trang 100 và 126.
[21] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[22] Boudarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, trích dịch trang 101.
[23] Quân Đội Nhân Dân số 301, ngày 27/11/1956.
[24] Văn Nghệ Quân Đội số 6, tháng 6/1958.
[25] Boudarel, sđd, trang 125-126.
[26] Theo Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1.
[27] Tức là từ 16/2/1956 đến 2/3/1956.
[28] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[29] Trần Đĩnh là một trí thức bạn thân của Hoàng Cầm, Lê Đạt.
[30] Trần Dần và Tử Phác
[31] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[32] Theo Boudarel, sđd, trang 46. Chúng tôi dùng thoại của Boudarel, vì tin rằng Boudarel đã thấy hoặc có tài liệu về bức thư viết ngày 21/2/56. Xin xem thêm thoại của Hoàng Cầm ở phần dưới: Tại bệnh viện, bác sĩ điện thoại cho thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông Đồng trao cho tướng Thanh giải quyết. Có thể cả hai thoại đều đúng: Tướng Thanh sau khi gặp Trần Dần ở bệnh viện đã dặn Trần Dần phải viết thư khiếu nại cho ông, để ông có thể can thiệp hữu hiệu hơn.
[33] Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1.
[34] Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[35] Tố Hữu, Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm "Nhân Văn-Giai Phẩm", BNVGPTTADL, nxb Sự Thật, Hà Nội 1959, trang 22-24.
[36] Trích Hồi Ký Nguyễn Đăng Mạnh, chưa in..
[37] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.(còn tiếp) -
13-02-2016, 05:50 #5
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)Chương 3
Giai Phẩm Mùa Xuân
Giai Phẩm Mùa Xuân do Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương. Hoàng Cầm trong bài Con người Trần Dần[1], và sau này, trả lời phỏng vấn RFI, đều xác nhận Trần Dần không biết gì về việc in bài thơ Nhất định thắng vì lúc đó đang tham gia Cải Cách Ruộng Đất ở xa. Có lẽ là để gỡ tội cho Trần Dần. Sự thực Trần Dần có tham gia Giai Phẩm Mùa Xuân: Sau khi bị bắt lần thứ nhất, bị cấm trại 3 tháng, Trần Dần và Tử Phác bị gửi đi tham gia Cải Cách Ruộng Đất. Trong lời "thú tội", Trần Dần viết: "Sau thời gian đó, trên có cho tôi đi tham quan cải cách ruộng đất để tự cải tạo. Song, tôi lại dựa vào cái thế tham quan, cứ đi lại Hà Nội, tiếp tục quan hệ với một người vợ chưa được phép. Hơn nữa lại quan hệ với Hoàng Cầm, Lê Đạt, ra Giai Phẩm Mùa Xuân. Tuy là họ đề ra, song sau khi thống nhất trước với nhau là: “Tự do lấy bài tôi đưa vào”, thì tôi hoàn toàn đồng tình. Mỗi lần gặp lại thúc đẩy, dục dã, ra cho nhanh. Việc tập hợp bài vở, tôi không rõ chi tiết. Bài Lão Rồng là do tôi viết. Tôi ví đồng chí Văn Phác như tên lý trưởng đã chà đạp Lão Rồng[2]".
Lê Đạt cũng xác định việc chủ trương và tổ chức Giai Phẩm Mùa Xuân như sau: "Trần Dần ra rồi, chúng tôi mới nghĩ đến chuyện này: bây giờ làm sao mà in được một tập thơ, trái với nguyên tắc lúc bấy giờ - nguyên tắc bấy giờ là tất cả các bài đều bị kiểm duyệt. Tôi chủ trương tập này phải là một tập tự do sáng tác hoàn toàn, tức là mỗi cá nhân đều chịu trách nhiệm về bài của mình và không có kiểm duyệt gì cả. Tôi có bàn với Dần, Cầm, với Văn Cao, Tử Phác và mấy anh hội họa nữa là Sỹ Ngọc và Nguyễn Sáng. Lúc đó thì chưa tìm được chữ gì hay lắm. Tôi cũng không thích chữ Giai Phẩm tại chữ Giai Phẩm có vẻ Tự Lực Văn Ðoàn, nghe chữ ấy nó sang trọng quá tôi không thích. Nhưng lúc đó anh Minh Ðức và anh Ðang đều thích chữ ấy. Trước tôi định cái tít là "Thơ năm người", nhưng mọi người bảo thế là "gây sự" quá, thì sau cũng đành lấy chữ Giai Phẩm[3]".
Căn cứ vào các sáng tác trong Giai Phẩm Mùa Xuân, ta có thể xác định: Giai Phẩm Mùa Xuân là giai phẩm đầu tiên ở Bắc, sau cách mạng tháng Tám, đáp ứng hai đòi hỏi: tự do sáng tác và đổi mới văn học do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương, với sự cộng tác của Trần Dần, Văn Cao, Tử Phác...
Giai Phẩm Mùa Xuân chuyên về thơ. Tất cả có 9 bài thơ - Lê Đạt ba, Hoàng Cầm hai, Văn Cao, Nguyễn Sáng, Phùng Quán, mỗi người một và Nhất định thắng của Trần Dần. Ngoài ra, có truyện ngắn Sổ tay của Sỹ Ngọc và truyện phiếm Lão Rồng của Trần Dần.
Về hình thức, thơ trong Giai Phẩm Mùa Xuân khác với Thơ Mới: câu dài, ngắn, không đồng đều; nhịp điệu phóng khoáng; có thể nói đây là giai phẩm thơ đầu tiên thể hiện thơ hiện đại không vần ở miền Bắc.
Sáng tác trong Giai Phẩm Mùa Xuân có ba hướng:
- Khuynh hướng tuyên truyền cách mạng: Cổ động cho chính sách Cải Cách Ruộng Đất: Chống địa chủ, cường hào ác bá, đề cao cách mạng (Mùa xuân đến rồi đây của Hoàng Cầm); thơ chiêu hồi gửi miền Nam (Thơ qua đài phát thanh, Hoàng Cầm); thơ đề cao chiến thắng và công lao của Đảng (Hoa đào vẫn nở, Nguyễn Sáng); thơ kiến thiết đất nước, xây dựng xã hội mới (Mỗi ngày mỗi lớn - Gửi kế hoạch nhà nước 1956, Lê Đạt); thơ ca tụng công nhân quét đường (Thi sĩ và công nhân, Phùng Quán); văn tả cảnh đói khổ của người lao động, sự bóc lột của địa chủ, nhưng nhờ ánh sáng của Đảng, từ nay, trời sẽ "trong sáng vĩnh viễn" (Sổ tay, Sỹ Ngọc).
- Khuynh hướng vừa chống vừa theo: Trần Dần (Nhất định thắng).
- Khuynh hướng chống đối và đòi tự do sáng tác: Văn Cao (Anh có nghe thấy không) và Lê Đạt (Làm thơ và Mới).
Thơ Hoàng Cầm
Tiểu biểu cho khuynh hướng đầu tiên là thơ Hoàng Cầm. Là một trong những người xây dựng nên phong trào, nhưng khác với Trần Dần và Lê Đạt, hai nhà thơ trẻ, Hoàng Cầm thuộc lớp đàn anh, đã có vị trí vững vàng trên nhiều địa hạt văn nghệ. Trái với Tố Hữu, được coi là chủ soái dòng thơ cách mạng, ca tụng Bác và Đảng, Hoàng Cầm là nhà thơ dân tộc. Từ Bắc chí Nam, trước và sau 1954, thơ Hoàng Cầm được mọi người yêu mến. Hoàng Cầm cũng làm thơ tuyên truyền, nhưng tuyên truyền cho lòng yêu nước, rất ít những câu ca tụng đảng, ca tụng lãnh tụ. Ông giữ được ngòi bút độc lập, có uy tín đối với quần chúng.
Vì vậy, không phải tình cờ mà Nguyễn Hữu Đang, khi ra Nhân Văn số 1, đã hết sức vận động Hoàng Cầm và nhờ Hoàng Cầm viết bài bênh vực Trần Dần: Bởi trong nền thi ca cách mạng, chỉ Hoàng Cầm mới có đủ tư thế văn học để đương đầu với Tố Hữu lúc bấy giờ.
Hoàng Cầm cùng với Lê Đạt tổ chức Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng thơ ông trong Giai Phẩm Mùa Xuân, còn rất hiền lành, nếu không muốn nói là vẫn theo đường chính thống, không có tính cách quyết liệt như thơ Văn Cao, không tố giác như thơ Trần Dần và cũng không đòi đổi mới thi ca như thơ Lê Đạt.
Bài Mùa xuân đến rồi đây theo đúng chính sách Cải Cách Ruộng Đất lúc bấy giờ, nói lên nỗi khổ của người dân trong bảy mươi năm nô lệ, đói khổ, dưới sự thống trị của bọn "địa chủ cường hào ác bá", nhưng rồi cách mạng thành công đem lại ấm no, công bằng, hạnh phúc:
Bẩy mươi mùa xuân không xuân
Bảy mươi năm cùng tháng tận
Dòng sông Nhị ơi! Con cò lận đận
Bãi ngô dài cát trắng
Lòng sông cuốn nặng
Phù sa
Nước mắt mẹ con ta
Chảy ra ngoài biển rộng
Réo lên đầu sóng
Đùn đùn mây đen
Mưa lọt mái nhà rách thủng.
Mưa thốc xuống tàu chuối khô
Ướt đẫm manh tải
Mẹ con nằm trong đêm mưa
Nằm trong nước mắt đỏ như máu
Nằm trong nước sông đầy bùn nhơ
Dòng sông Nhị ơi! Lúa mượt hai bờ
Địa chủ đứng trên đê
Mắt ngầu hổ dữ ...
Sau khi duyệt lại những năm tháng tối tăm cùng khốn đói khổ, bị đàn áp, Hoàng Cầm ca tụng mùa xuân trở về -cách mạng thành công- mang lại ấm no, công bằng:
Dòng sông Nhị ơi! Mùa xuân đến rồi đây
Mẹ con được chia: hai gánh thóc đầy[4]
"Thơ qua đài phát thanh" là bài thơ gửi "người em" bên kia vĩ tuyến, người yêu hiện đang ngâm thơ trên đài Sài Gòn, trong khi Hoàng Cầm ngâm thơ trên đài Hà Nội, bài thơ có những câu rất lãng mạng:
Tôi tìm Em trên sóng điện bao la
Thơ đã đứng lên, vút đi, cao lớn
Ống nói như môi em chờ đón
Trầm ngâm, ấp một nụ cười
Tôi sung sướng truyền thơ tôi
Cho những Người yêu khắp nước
Tóm lại, trong Giai Phẩm Mùa Xuân Hoàng Cầm mới chỉ thử nghiệm mấy câu thơ không vần, tinh thần cách mạng, chưa đả động đến những vấn đề gai góc như tự do tư tưởng, tự do sáng tác, chưa có câu thơ nào "bôi đen" chế độ.
Trần Dần
Trần Dần đưa ra một nhân vật kỳ quái trong truyện ngắn Lão Rồng, một bần nông say rượu bét nhè, nhưng là một "nhà sáng tác", chuyên làm những bài vè phạm thượng, chế giễu, từ bọn sư mô đến lũ tai to mặt lớn trong làng. Lão Rồng vừa "sáng tác" xong một bài vè là đã có bọn con nít lập tức "xuất bản và phát hành". Cuối cùng lão bị người ta lập mưu đánh chết.
Truyện ngắn Lão Rồng mở đầu phong cách đổi mới tư tưởng trong văn xuôi miền Bắc. Ngòi bút sắc sảo của Trần Dần đã chọc thủng những cấm kỵ, để lộ sự khao khát tự do của con người cùng khốn.
Bài thơ Nhất định thắng là tác phẩm chính của ông trong thời kỳ NVGP, giọng anh hùng ca, phản ánh tính mâu thuẫn trong tư tưởng tác giả. Trần Dần lồng bi kịch cá nhân -yêu người con gái ở phố Sinh Từ- trong bối cảnh chung của đất nước sau hiệp định Genève:
Miền Bắc nghèo đói, thất nghiệp "Anh bước đi không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ". Miền Nam dưới gót dày của "giặc": "Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô, tài của hắn là Khuyển Ưng của Mỹ". Nhưng chúng ta "Nhất định thắng", đất nước sẽ thống nhất: "hàng triệu tâm hồn, đã bỏ miền Nam ra Bắc", và "kẻ thù" -nghèo đói, Ngô, Mỹ- sẽ phải thua: "bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi". Rồi trời lại xanh: "Anh bước đi đã thấy phố đã thấy nhà, không thấy mưa sa, chỉ thấy nắng lên, trên màu cờ đỏ".
* Nhất định thắng, như một bài thơ tuyên truyền. Đây là đoạn mở đầu:
Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui?
Tổ Quốc hôm nay
tuy gọi sống hoà bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh...
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui - khi chợt nhớ - chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt,
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt.
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta?
Người ta nói thằng Ngô con đĩ
Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô
Tài của hắn là: Khuyển Ưng của Mỹ
Bửu bối gớm ghê là: một lưỡi đao cùn
Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc.
Tác giả trình bày cảnh đói khổ của miền Bắc, nhưng thầm ngụ ý Mỹ Diệm mới là nguồn cơn của mọi đớn đau: "Em ơi, Em có biết đâu, Ta khổ thế này, Vì sao? Em biết đâu, Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?". Khi chửi Ngô Đình Diệm, Trần Dần có những câu sắt máu: "Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm", "Đất trời sâu / đương vẩy máu / đuổi theo chân hắn. Hắn run sợ - Quỳ xin đã muộn! / Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu / Máu vẫn đỏ / trúng đầu trúng mặt / Tên tội nhân kia! / Lịch sử vang tên mày!"
Bài thơ kết thúc có hậu: "Em có thấy bay trên trời xanh / Hàng triệu tâm hồn / Họ đã bỏ miền Nam ra Bắc! / Chúng đem súng mà ngăn / Đem dây mà trói! / Giữ thân người không giữ được nhân tâm / Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả / Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi / Đổ lên chúng nó / Mây đen / lửa loạn / bão thù".
Và khi "ta" đã toàn thắng: "Anh bước đi / đã thấy phố thấy nhà / Không thấy mưa sa / Chỉ thấy nắng lên / trên màu cờ đỏ". Người dân phố Sinh Từ đóng cửa xuống đường đi mít tinh: "Vung cờ đỏ hát hò vỡ phổi".
Đó là một bài anh hùng ca theo lối cách mạng, có nhiều câu tuyên truyền rập thông tin nhà nước. Thực ra, tháng 4/1955, khi Trần Dần viết Nhất định thắng, Mỹ chưa vào miền Nam. Ngô Đình Diệm mới về, chỉ là thủ tướng, đang lo dẹp Bình Xuyên, Hoà Hảo, chưa thật sự nắm quyền và chưa có chính sách chống Cộng triệt để như sau này. Ngày 23/10/1955, ông mới tổ chức cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại. Vì vậy, bài Nhất định thắng, trong bối cảnh lúc bấy giờ, là một bài thơ "hai hàng".
Cho nên, khi Chế Lan Viên buộc tội Trần Dần phản động, chống Đảng, ông chứng tỏ mình là tay sai đắc lực của Tố Hữu.
Và khi Hoài Thanh viết:
"Toàn bài của Trần Dần toát ra một sự hằn học sâu sắc đối với chế độ tươi sáng ở miền Bắc, đối với sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, thống nhất của nhân dân ta. Tôi không kết luận về người. Tôi chỉ căn cứ vào bài văn. Tự nó, bài “Nhất định thắng” trong lời và chữ của nó, chứa đựng những tư tưởng phản động, đứng về phía địch chống lại nhân dân ta, chống lại cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Trong nền văn nghệ chúng ta đầy tin tưởng ở hiện tại và tương lai của chế độ, của dân tộc, bài "Nhất định thắng" của Trần Dần thật đúng như lời đồng chí Nguyễn Tuân nói, là một thứ mụn lở trên một cơ thể lành mạnh[5]".
Viết như vậy, Hoài Thanh không còn đứng ở cương vị một nhà phê bình, dựa trên văn bản để xét, mà ông đã xuyên tạc, nói ngược lại ý nghiã của bài thơ.
Thế nhưng chính Trần Dần cũng lại viết trong bài "tự thú" như sau:
"Bài Nhất định thắng sinh ra trong cái nôi những tư tưởng chống đối như thế. Dưới chiêu bài “phát hiện mâu thuẫn xã hội”, "chống công thức, tìm cái mới”, bài Nhất định thắng bôi đen miền Bắc. Thất nghiệp hàng ế, đi Nam, hai năm không thống nhất được v.v… và cái điệp khúc “mưa sa trên màu cờ đỏ” nó nhấn mạnh: “Đảng là nguyên nhân của cái xã hội thê thảm này.” Những sự quy kết khác ép cho địch, thực chất chỉ là chiêu bài. Có những câu đả kích cán bộ chính trị “nhà chính trị lắm mưu trong bụng” về sau in xoá đi. Bài Nhất định thắng là một cuộc đánh thẳng vào tư tưởng của Đảng, trắng trợn và hung hăng[6]".
"Thú nhận" như thế tức là đã hoàn toàn chấp nhận luận điệu của các ông Chế Lan Viên, Hoài Thanh, hoàn toàn nhận lỗi chống chế độ về mình. Mà thực tế văn bản đâu phải thế? Tại sao? Vậy có thể hiểu trong bối cảnh trù dập của lớp học Thái Hà, Trần Dần đã phải thú nhận tất cả mọi "tội", kể cả những tội không phải của mình, ví dụ như "chống công thức, tìm cái mới" là "tội" của Lê Đạt. Nhất định thắng không thể "là một cuộc đánh thẳng vào tư tưởng của Đảng, trắng trợn và hung hăng" như Trần Dần đã tự xác nhận.
Tóm lại xung quanh bài Nhất định thắng có ba vấn đề:
- Tính mâu thuẫn trong tư tưởng Trần Dần
- Việc bắt buộc phải nhận tội dưới áp lực của Đảng.
- Bi kịch Trần Dần.
* Nhất định thắng, như một tác phẩm văn học
Nhất định thắng trước hết là một bài thơ tuyên truyền, nhiều câu khẩu hiệu, có lẽ vì thế mà cả Hoàng Cầm lẫn Phan Khôi, hai người cực lực bênh vực Trần Dần, đều không cho Nhất định thắng là một bài thơ hay.
Nhưng nếu cắt những đoạn tuyên truyền máu mê thô thiển đi, như Hoàng Văn Chí đã làm thì Nhất định thắng trở thành một tác phẩm văn học giá trị. Bởi khi đem bi kịch riêng lồng vào lịch sử, Trần Dần đã có những câu thơ thật xúc động:
Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ!
họ vẫn bảo chờ...
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
ba tháng rồi
em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã...
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Khi nói đến tình trạng thất nghiệp ở miền Bắc, Trần Dần có những hình ảnh thơ mộng và nhức nhối:
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ,
họ vẫn bảo chờ...
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
ba tháng rồi
em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã...
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi.
Khi nói đến nghịch cảnh chia đôi đất nước, Trần Dần có những lời thiết tha, đòi đoạn:
Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những cơn mưa rơi mãi tối sầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
...
Tôi nức nở giữa trời mưa bão.
Họ vẫn ra đi.
- Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
Họ có gì thất vọng?
Đất níu chân đi
gió cản áo bay về
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống
...
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống
quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ
Khổ nhiều rồi!"
Chính những câu thơ hay này đã khiến Nhất định thắng sống mãi trong lòng người dân miền Nam. Toàn bài phản ánh tâm sự mâu thuẫn của Trần Dần về tình hình đất nước, vừa nói lên cái khổ của người dân Bắc dưới chế độ cộng sản: tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà... nhưng lại mong miền Bắc thắng trong việc thống nhất đất nước. Hoặc khi nói về màu cờ: Trần Dần vừa thấy "mưa sa trên màu cờ đỏ", nhưng lại cũng thấy "nắng lên đỏ phố đỏ cờ", "cờ bay đỏ phố đỏ nhà", và có lúc ông còn "cầm cờ đỏ hét hò vỡ ngực".
Phần dở là những câu, những đoạn gợi căm thù: "Hôm nay hàng triệu mối thù sâu / Tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng / Vung đao cùn chém phải quãng trời không".
Phần hay là những đoạn nhân bản, nói lên những đau đớn của người dân đói khổ, thất nghiệp, ở Bắc; của người dân lìa bỏ quê cha đất tổ, đi Nam, và mong một ngày sẽ có hiệp thương, thống nhất, để hai miền cùng đọc tác phẩm và như thế độc giả sẽ tăng lên gấp bội.
Hoàng Văn Chí khi in Nhất định thắng trong Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, đã cắt những câu, đoạn, những lời sắt máu, oán thù, khiến bài thơ hay hơn, nhân bản hơn. Nhưng việc cắt xén này làm thay đổi ý nghĩa của bài thơ và lập trường chính trị của Trần Dần năm 1956, làm cho Nhất định thắng trở thành một tác phẩm chống cộng, được chính quyền miền Nam trưng dụng như một biểu tượng "tố cộng". Và chính quyền miền Bắc dựa vào đó để buộc tội Trần Dần.
Bi kịch của nhà thơ là tác phẩm của ông, đã bị/được, bên này, bên kia gán cho những ý nghĩa không có trong văn bản, sử dụng để tung hô hay buộc tội. Độc giả miền Bắc, năm 1956, theo lời Lê Đạt, khi đọc Nhất định thắng, cũng chỉ giữ lại những câu hay nhất: "Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ". Bởi nó đã nói lên được tâm sự của con người sống dưới chế độ cộng sản. Hậu thế sẽ nhớ đến Trần Dần qua hai câu thơ kiệt tác đó.
Thơ Văn Cao
Hai tác giả đích thực "có vấn đề" trong Giai Phẩm Mùa Xuân phải là Văn Cao và Lê Đạt, bởi họ đã nói đến thực chất của chế độ, đòi quyền tự do tư tưởng, tự do sáng tác, và chủ trương đổi mới văn học. Với bài Anh có nghe thấy không Văn Cao nói đến sự bế quan toả cảng tinh thần trong chế độ cộng sản, đến khát vọng tự do của con người:
Cửa đóng lại từ chín giờ
Không một cuốn sách chờ đợi (...)
Tất cả hướng về biển
Bọt cứ tan trên bãi cát xa
Mà cửa bể vẫn im lìm chưa mở
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả
Những con người không phải của chúng ta
Vẫn ngày ngày ngang nhiên sống
Chúng nó còn ở lại
Trong những áo dài đen nham hiểm
Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người
Chúng nó còn ở lại
Trong những tủ sách gia đình
Ở điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm (...)
Chung quanh còn những người khôn ngoan
Không có mồm
Mắt không bao giờ nhìn thẳng (...)
Anh có nghe thấy không
Chỗ nào cũng có tiếng
Chưa nói lên
Những người của chúng ta
Đang mờ mờ xuất hiện
Le lói hy vọng
Trên những cánh đồng lầy
Nghìn năm cũ phủ mất nhiều giá trị
Đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời
Vào một cuộc đấu tranh mới
Với những người không phải của chúng ta
Anh có nghe thấy không
Vào một cuộc đấu tranh mới
Để mở tung các cánh cửa sổ
Mở tung các cửa bể
Và tung ra hàng loạt hàng loạt
Những con người thật của chúng ta
Giọng Văn Cao nhẹ nhàng, nhưng ý thơ quyết liệt: đòi tự do, lên án sự bưng bít của chế độ và kêu gọi mọi người đứng dậy tranh đấu đến cùng. Những lời đầu, mở vào không gian kín mít, không gian nghẹt thở sau khi cách mạng thành công:
Cửa đóng lại từ chín giờ
Không một cuốn sách chờ đợi
Dù những ngôi sao đang nở trên trời
Dù đêm mùa xuân bắt đầu trở lại
Đó là thứ không khí thiết quân luật. Cửa đóng. Không có sách hay không còn sách. Mặc dù sao -vàng- lấp lánh trên trời. Mặc dù mùa xuân đã đến. Mọi con mắt đều hướng ra biển -về phía tự do- nhưng cửa biển vẫn im ỉm đóng:
Tất cả hướng về biển
Bọt cứ tan trên bãi cát xa
Mà cửa bể vẫn im lìm chưa mở
Giọng ôn hoà nhưng không kém phần khắc hạch, Văn Cao trỏ thẳng bọn gian thần, bọn dốt nát, bọn kìm kẹp văn hoá tư tưởng, mắng và đuổi, khi nào "chúng nó" còn đây thì:
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả
Chúng nó là ai? Nhà thơ trả lời: "Chúng là:
Những con người không phải của chúng ta
Vẫn ngày ngày ngang nhiên sống
Chúng nó còn ở lại
Trong những áo dài đen nham hiểm
Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người".
"Chúng nó", bọn áo thụng, len lỏi khắp nơi, từ trong tủ sách gia đình đến điếu thuốc trên môi đứa bé mười lăm, quẩn trong bước chân người con gái. "Chúng nó" nấp trong mọi lứa tuổi, mọi từng lớp xã hội, "chúng nó" trà trộn vào đời sống hàng ngày, làm ô uế không gian, lũng đoạn thời gian. Sách cũ, sách mới đem bán cân giấy lộn, đến cả những bài thơ mới nhất của Anh. Những kẻ "khôn ngoan" thì ngậm miệng "mắt không bao giờ nhìn thẳng".
Nhưng Anh, người nghệ sĩ tự do, Anh có nghe thấy không?
Bọn chúng đã "đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời".
Còn Anh, anh phải bước vào cuộc đấu tranh mới: mở tung các cửa bể, và anh phải tung ra những con người thật của chúng ta, để thay thế "chúng nó", những con người giả.
Thơ Văn Cao là nộ khí trầm lặng của một nghệ sĩ bị giam hãm tư tưởng, của một kẻ sĩ can trường hạch tội gian thần. Giọng nhẹ nhàng nhưng tha thiết kêu gọi mọi người đứng lên đấu tranh cho tự do tư tưởng. Văn Cao là một nghệ sĩ và cũng là một kẻ sĩ.
Nhưng lạ lùng là cả triều đình và bọn nịnh thần không ai dám động đến Văn Cao. Chẳng lẽ họ không hiểu? Kể cả những người lắm chữ như Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi?
Dĩ nhiên là họ hiểu. Nhưng bởi Văn Cao là một tài năng lớn, trên tất cả "chúng nó". Văn Cao là tác giả quốc ca. Chính bài quốc ca đã đỡ đòn cho Văn Cao trong toàn bộ hành trình Nhân Văn Giai Phẩm.
Thơ Lê Đạt
Lê Đạt là nhà thơ trẻ chưa có tên tuổi gì khi chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng đường lối tranh đấu của Lê Đạt đã rõ ràng qua hai bài: Làm thơ và Mới.
Bài Làm thơ nói lên tâm trạng và hoài bão của một nhà thơ trẻ, trước tình thế đất nước:
Đêm khuya
Bóng đầu anh
Hằn lên trang sách nhỏ
Như bóng hàng cây
quặn gió
Lắng xuống mặt đường
Giông bão mênh mông
Anh nhìn Tổ quốc
Đất nước đêm nay trĩu đầu ngòi bút
Hàng vạn vần thơ mang nặng tình người
Anh nghe tiếng đất trời
Xao động lùm cây ngọn cỏ
Như hiệu thính viên
Đêm không ngủ
Ghi những lời cuộc sống
điện về
Những tiếng nặng nề
Những tiếng cục cằn uất ức
Những tiếng căm thù chua xót
Những tiếng yêu thương
Lê Đạt tự coi mình như một hiệu thính viên lắng nghe tất cả những tiếng đau thương do người đồng loại điện về và thầm kín nói lên tham vọng "Anh nghe tiếng đất trời" như một lãnh tụ. Năm 1956, với những câu thơ như:
Ghi những lời cuộc sống
điện về,
hoặc:
Óc anh là một công trường,
mỗi dòng thơ là một cây số mới,
hoặc:
Một tiếng súng tương lai
nổ vào đầu dĩ vãng
Lê Đạt là người đầu tiên làm thơ hiện đại ở miền Bắc, đã thực sự đưa ra cách suy nghĩ, cách tạo hình và kiến trúc tư tưởng rất mới. Trước đó có Nguyễn Đình Thi với bài Đất nước, nhưng ý thơ Nguyễn Đình Thi còn nằm trong không gian lãng mạn.
Lê Đạt còn là người đầu tiên đặt vấn đề nhà văn dấn thân - écrivain engagé: nhà văn không thể làm ngơ trước những khó khăn của dân tộc, của con người và của cuộc sống. Sự dấn thân này là tự thân Lê Đạt, không do ảnh hưởng của JP Sartre, vì năm 1956, ông chưa đọc Sartre và cả sau này ông cũng không mấy chú ý đến tư tưởng của Sartre.
Tóm lại, Lê Đạt là người có hoài bão chính trị cho dân tộc ngay từ những bước thơ đầu, khác hẳn với Trần Dần là nhà thơ "nổi loạn" chống lại mọi áp bức bó buộc bản thân, nhưng không có mục đích tranh đấu chính trị cho quốc gia dân tộc. Lê Đạt xác định một lần nữa, bản chất và nhiệm vụ của một nhà thơ dấn thân, phải đi vào cuộc sống, phải tìm cách thay đổi xã hội, xây dựng lại con người:
Người làm thơ nắng mưa thiêu đốt
ăn nằm với cuộc đời
Thai nghén đất trời
sinh ra sự sống (...)
Như người thợ
chui xuống lòng hầm mỏ
Moi than moi lửa
đốt sáng cuộc đời
Anh muốn Đảng gọi anh đến nơi
hội ý về cuộc sống
Điều động anh vào
bộ Tâm Hồn quần chúng
Giúp Trung Ương
xây dựng
những con người
Từng từng giọt mồ hôi
đẫm bản đồ chính sách
Anh mở lối giữa cuộc đời ngóc ngách
Óc anh là một công trường
Mỗi dòng thơ là một cây số mới
Trên con đường đi tới
xã hội
ngày mai
Một tiếng súng tương lai
nổ vào đầu dĩ vãng
Anh vác bút đi theo Đảng
xông lên hàng đầu
Năm 1956, khi chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân, Lê Đạt vẫn còn làm việc ở Tuyên Huấn, cạnh những cột trụ Trường Chinh, Tố Hữu. Lê Đạt chưa thể tách rời khỏi Đảng. Đoạn kết bài Làm thơ có những câu tỏ ý ông vẫn tin tưởng vào Đảng, một Đảng sẽ lành mạnh hơn, biết đặt văn nghệ sĩ vào những vị trí xứng đáng để họ có thể nhả tơ xây dựng lại đời sống con người. Đó là chiến lược của chính trị gia Lê Đạt, hay niềm tin của nhà thơ Lê Đạt? Khó biết.
Tố Hữu nhìn thấy những "nguy cơ" trong bài thơ thứ nhì của Lê Đạt, bài Mới, như một lời tố cáo, mạnh mẽ và quyết liệt của lớp đảng viên trẻ, muốn đổi mới văn học, muốn "đập cánh bay lên", muốn chống lại "bao nhiêu gồng xiềng tập quán / cột lấy bước chân", muốn chống lại những thành phần kỳ cựu đã sống quá lâu, trở thành những ông bình vôi, khép kín trong công thức, bị xỏ dây vào mũi:
Tôi mới hai mươi lăm tuổi
Chung quanh tôi bao cuộc đời mệt mỏi
Thất bại cúi đầu
Công thức xỏ giây vào mũi
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Ỳ như một chiếc bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Tôi đã sống rất nhiều ngày thảm bại
Khôn ngoan không dám làm người
Bao nhiêu lần tôi không thực là tôi
Lê Đạt nhìn quanh: một xã hội "công thức giả tạo", với những ông bình vôi hủ lậu kéo dài cuộc sống và nhìn lại chính mình, còn trẻ, nhưng đã tự đánh mất mình, vì "khôn ngoan", nên không dám làm người! Cuối cùng nhà thơ mạnh dạn đứng lên hô hào đổi mới toàn diện thi ca, xã hội và con người:
Mới Mới!
Luôn luôn Mới
Bay cho cao
Bay cho xa
Trên những vết già nua cũ kỹ
Trên lề đường han rỉ
Vượt ngày hôm nay
Vượt ngày mai, ngày kia,
Vượt mãi
Tố Hữu khó chịu nhất những câu thơ này, có thể coi là bản tuyên ngôn, là lời kêu gọi của Lê Đạt cho một đường hướng sáng tác mới vượt trên lối mòn cũ của các bậc đàn anh Xuân Diệu, Tố Hữu. Thấy sự nghiệp thi ca cách mạng của mình có thể bị chao đảo, sẵn quyền uy trong tay, Tố Hữu đã thẳng tay triệt hạ mầm mống nổi loạn đòi thay đổi cục diện văn nghệ, đòi "chôn đàn anh" của nhà thơ trẻ.
Phục xuống mà sáng tác
Theo Hoàng Cầm, sau khi Giai Phẩm Mùa Xuân bị phê phán, Trần Dần, Tử Phác được về rồi, chúng tôi vẫn họp nhau ở phòng trà Phúc Châu: Văn Cao, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng. Một hôm, bàn nhau: mình mới ra được Giai Phẩm Mùa Xuân, chỉ mới hoe hoe lên gọi là đổi mới một chút, mà nó đã đánh như vậy, liệu mình có chịu được không? Đéo thằng nào chịu được chuyện phê phán như thế, tức là chính quyền nó không cho mình ra một tờ báo nào hết. Thế thì Văn Cao mới nói một câu có thể ghi vào văn học sử: Nhưng quyền sáng tác là ở mình, vậy mình phải phục xuống mà sáng tác. Những chữ ấy chính là của Văn Cao: Phải phục xuống mà sáng tác.
Sau này khi phê phán Nhân Văn, họ cứ vin vào câu ấy mà đánh: Cái âm mưu của bọn NVGP nó kiên trì lắm: nằm phục xuống, tức là chúng nó nằm im, giấu mình một chỗ, để mà sáng tác chống Đảng. Họ phê phán Nhân Văn ghê gớm hơn phê phán Giai Phẩm nhiều, các ông văn nghệ sĩ chính cống như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi... rồi những nhân vật như Lê Đình Kỵ, Vũ Tú Nam, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ... nhất là Vũ Đức Phúc, lúc bấy giờ đã ở Viện Văn Học rồi, nhân vật này nó đánh Nhân Văn ghê gớm nhất. Bọn phê bình chỉ đánh theo khẩu hiệu, còn bọn văn nghệ sĩ nó đánh mới ác, đánh sâu sắc chứ không như bọn phê bình đâu, nó đánh ác mà trúng: Đại khái nó bảo bọn NVGP chúng nó không yêu gì Đảng cả, chúng nói yêu Đảng chỉ là nói giáo đầu, nói để đỡ đòn, chứ sự thực thì chúng chẳng yêu gì Đảng cả. Mà nó đánh như vậy là đánh trúng, đánh vào tâm mình, sự thực thì cũng không sai đâu.
Cho nên Văn Cao nói : Phục xuống mà sáng tác, thì tất cả chúng tôi đều tán thành, nó không cho mình ra báo thì mình phục xuống mà sáng tác: Trần Dần bắt đầu viết Cổng Tỉnh, Lê Đạt bắt đầu viết những bài thơ về quê hương, tôi viết trường ca Tiếng hát quan họ... Vậy, ngay từ năm 1956, sau Giai Phẩm Mùa Xuân, chúng tôi đã "phục xuống mà sáng tác" như lời Văn Cao[7].
Giai Phẩm Mùa Xuân là tác phẩm đầu tiên ở miền Bắc chủ trương đổi mới thi ca, tự do sáng tác, với những khuynh hướng khác nhau: tuyên truyền theo đường lối cách mạng của Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Phùng Quán; nói lên tình hình nghèo khổ thất nghiệp ở Bắc và tố cáo tội ác Mỹ Diệm trong Nam của Trần Dần; đòi tự do tư tưởng và chửi bọn nịnh thần của Văn Cao; xây dựng một xã hội mới, một nền thơ mới của Lê Đạt.
Bài thơ quyết liệt nhất là của Văn Cao. Nhưng không ai dám đánh Văn Cao. Chế Lan Viên khai ngòi đánh Trần Dần, nhưng không dám đụng đến Văn Cao. Tất cả mũi dùi đổ vào Trần Dần, Lê Đạt, hai nhà thơ trẻ chưa nổi tiếng. Chính vì vụ đánh Trần Dần và Lê Đạt mà trí thức nhập cuộc. Lúc đầu trí thức chưa tham gia, nhưng việc đánh hội đồng Trần Dần, Lê Đạt khiến Phan Khôi trở lại vai "ngự sử văn đàn" với bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ.
Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang đọc trước lớp học 18 ngày và bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi là hai yếu tố chủ chốt, đã thuyết phục Trương Tửu và những trí thức khác tham gia, tạo nên một phong trào rộng lớn: Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
Chú thích:
[1] In trên Nhân Văn số 1, 8/1956.
[2] Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ, số 12, tháng 5/58, trg 60.
[3] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[4] Mùa xuân đến rồi đây
[5] Hoài Thanh, Vạch trần chất phản động của bài Nhất định thắng của Trần Dần, Báo Văn nghệ, Hà Nội, số 110 (1.3.1956), Lại Nguyên Ân sưu tầm.
[6] Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ, số 12, tháng 5/58, tr. 60.
[7] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
(còn tiếp) -
15-02-2016, 07:11 #6
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)Chương 4
Nguyên nhân đưa đến
cuộc Cách Mạng Mùa Thu Của Tư Tưởng
Hiện nay, thời điểm chính thức xác định chính sách Đấu Tranh Giai Cấptheo đường lối Trung Quốc là tháng 1/1950, tại Đại Hội III của Đảng Cộng Sản, sau khi Hồ Chí Minh bí mật đi Liên Xô và Trung Quốc về.
Thời điểm quyết định và giải thích chính sách Cải Cách Ruộng Đất là bài diễn văn Hồ Chí Minh đọc tại Hội Nghị Nông Vận Và Dân Vận Toàn Quốc ngày 5/2/1953.
Thời điểm chính thức áp dụng chính sách Cải Cách Ruộng Đất là tại Đại Hội I của đảng Lao Động, họp tại Việt Bắc từ 14 đến 23/11/1953, với bản báo cáo của Trường Chinh.
Đấu Tranh Giai Cấp -phát sinh Cải Cách Ruộng Đất- là nguyên nhân sâu xa đưa đến chia rẽ, hận thù.
Heinz Schütte, trong bài Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua đua nở ở Việt Nam 1954-1960, tóm tắt khá rõ tình hình miền Bắc thập niên 1950 như sau:
"Tháng 1/1950, Đại Hội III Đảng Cộng sản, tuyên bố Việt Nam chính thức đi theo đường lối Trung Quốc và đẩy mạnh chủ trương đấu tranh giai cấp trong cả nước. Điều này dẫn tới việc thủ tiêu những người bị cho là những "phần tử phản cách mạng". Sách vở Trung Quốc, đặc biệt những tác phẩm của Mao được dịch ra tiếng Việt -vài tác phẩm do chính Hồ Chí Minh dịch- để truyền bá những phương pháp của Trung Quốc trong việc vận dụng chủ nghiã Mác-Lê-Mao, trong việc tiến hành cách mạng và cải tạo tư tưởng ở Việt Nam. Tại chiến khu Việt Bắc, từ những năm 1951 đã có các khoá Chỉnh huấn tư tưởng dành cho trí thức[1]".
Đấu Tranh Giai Cấp phát sinh Chỉnh Huấn, chuẩn bị cho chiến dịch Giảm Tô, rồi Cải Cách Ruộng Đất[2]... kéo dài từ 1950 đến 1956, đã gây những tội ác làm đảo lộn xã hội Việt Nam. Sự phát động Đấu Tranh Giai Cấp là yếu tố chính trị có tính cách quyết định đối với những người không theo cộng sản. Nhưng sự bất mãn của trí thức bắt đầu từ trước.
Trường hợp Nguyễn Hữu Đang, sự bất mãn có thể đã bắt đầu ngay từ 1930, với bản Luận Cương Chính Trị của Đảng do Trần Phú soạn, nội dung ngụ ý: "Tất cả giai cấp tư sản đều là phản động", nhưng chỉ thực sự thành hình khi Trường Chinh, lý thuyết gia Đảng Cộng sản, hoàn thành bản "Đề Cương Văn Hoá Việt Nam", năm 1943, nội dung thu gọn trong công thức: Đảng lãnh đạo tư tưởng, học thuật và nghệ thuật, mà không một người làm văn hoá chân chính nào có thể chấp nhận được.
Tuy nhiên, bản Đề Cương chỉ lưu hành trong đảng Cộng Sản, và đảng này đến năm 1945, theo Nguyễn Hữu Đang, chỉ có khoảng 5000 người. Vì vậy, đến tháng 12/1946, khi hầu hết trí thức văn nghệ sĩ đi theo tiếng gọi toàn quốc kháng chiến của Việt Minh, phần lớn chưa biết có một chính sách văn hoá như vậy. Tạ Tỵ, Hoàng Cầm, Trần Duy... đều nói lúc đó không biết Cộng Sản là gì và Hồ Chí Minh là ai.
Nhưng ngày 19/7/1948, khi Trường Chinh đọc bài Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam tại Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc II, ở Việt Bắc, xác định đường lối văn nghệ kháng chiến: Văn nghệ thi đua, văn nghệ tuyên truyền, phục vụ công nông binh, văn nghệ phân biệt ta-địch, văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì sự đổ vỡ bắt đầu: Nguyễn Hữu Đang bỏ về Thanh Hoá.
1948 chắc chắn là năm bản lề: kết thúc sự hợp tác chặt chẽ trong kháng chiến giữa hai thành phần dân tộc: cộng sản và không cộng sản. Từ 1949 trở đi, nhiều văn nghệ sĩ bỏ kháng chiến về thành, hoặc vào Khu Bốn với tướng Nguyễn Sơn.
Nguyễn Sơn và vùng văn nghệ tự do Khu Bốn, từ 1948 đến 1951
Đối với những văn nghệ sĩ sống gần tướng Nguyễn Sơn (1908-1956) ở Khu Bốn, như Phạm Duy thì Nguyễn Sơn là một khuôn mặt huyền thoại[3]. Làm Tư lệnh Quân Khu Bốn[4] Nguyễn Sơn đã để họ tự do sáng tác. Nguyễn Tiến Lãng[5], sau khi ra tù, được phái làm thư ký riêng cho Nguyễn Sơn, mô tả[6] vị tướng này như một người hiếu học, lãng mạn, yêu văn chương, cô đơn và bí mật. Nhưng đối với những người sống ở Việt Bắc, gần Trung Ương như Lê Đạt, thì Nguyễn Sơn chẳng có tài cán gì. Vậy sự thực Nguyễn Sơn là ai?
Đáng tin cậy nhất có lẽ là chân dung do Hoàng Văn Chí, anh rể Nguyễn Sơn viết, ở chương XI, cuốn Từ thực dân đến cộng sản, xin lược trích sau đây:
"Nguyễn Sơn tên thật là Vũ Văn Bác, sinh tại làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh; bên Tầu ông lấy tên là Hồng Thủy. Con một nhà nho tham gia Đông Kinh Nghiã Thục. 1925, đang học trường Sư phạm Hà Nội, vì theo phong trào sinh viên bãi khoá, nên bị truy nã, phải trốn sang Tàu và được vào học trường quân sự Hoàng Phố. Là người Việt Nam duy nhất tham gia Quảng Châu Công Xã, trở thành đảng viên đảng Cộng Sản Trung Hoa. Nổi tiếng về tài lãnh đạo quân sự trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh (1934-1936), được bổ làm tùy tướng cho Bành Hoài Đức, chỉ huy trưởng Đệ Bát Lộ Quân. Nguyễn Sơn là một trong bẩy tướng còn sống sót của Quảng Châu Công Xã và một trong 18 tướng sống sót sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Vì vậy, năm 1949, sau khi Mao Trạch Đông toàn thắng, Nguyễn Sơn được tuyên dương là "Anh Hùng Dân Tộc" của Trung Quốc.
Cuối 1945, Nguyễn Sơn đang ở Diên An, gặp một ký giả Canada vừa từ Hà Nội qua, báo tin Việt Nam đã tuyên bố độc lập, nhưng Pháp vẫn tấn công, mưu chiếm lại. Nhà báo này nói đã gặp vị chủ tịch chính phủ lâm thời, một ông già biết nói tiếng Anh tên là Hồ Chí Minh. Đoán chắc Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Sơn bèn xin lãnh đạo Trung Quốc cho phép hồi hương chống Pháp. Mao Trạch Đông giữ lại, nhưng Nguyễn Sơn cứ nằng nặc đòi về, nên Mao cũng thuận cho về, làm giấy tờ chứng nhận Nguyễn Sơn và Nguyễn Khánh Toàn là nhân viên phái đoàn Trung Cộng từ Diên An xuống Trùng Khánh để điều đình với chính phủ Trung Hoa dân quốc, rồi nhân dịp đó trốn xuống Hoa Nam, về Việt Nam.
Vì quyết tâm về nước kháng chiến, nên ngay khi về, Nguyễn Sơn đã bị Trung Cộng phê bình là nặng tinh thần quốc gia, nhẹ tinh thần quốc tế. Có lẽ ông Hồ Chí Minh cũng phê bình Nguyễn Sơn như vậy, nên đầu năm 1946, khi Sơn về tới Hà Nội, ông Hồ không thèm tiếp và các lãnh tụ cộng sản khác cũng lạnh nhạt. Nhưng vì Pháp tấn công mỗi ngày một mạnh ở miền Nam và cộng sản Quảng Ngãi bất chấp lệnh, giết bừa bãi, nên ông Hồ phái Sơn vào Khu Năm (miền nam Trung Việt) với nhiệm vụ đình chỉ chém giết và điều khiển công việc chống Pháp. Sau đó Sơn được đổi ra Khu Bốn (miền bắc Trung Việt) làm "Khu phó" phụ trách huấn luyện quân đội. Chẳng bao lâu, khu trưởng là Thiết Hùng bị mất chức vì liên can đến một vụ buôn thuốc phiện lậu, nên Sơn được cử lên thay thế. Nhờ hai mươi năm kinh nghiệm hành quân, nên Nguyễn Sơn được quân đội Khu Bốn rất mến phục. Lại có tâm hồn nghệ sĩ và tận tâm giúp đỡ văn nghệ sĩ, nên Nguyễn Sơn cũng được giới văn nghệ sĩ hết sức hâm mộ.
Năm 1948, ông Hồ phong Võ Nguyên Giáp làm đại tướng và Nguyễn Sơn làm thiếu tướng, khiến Sơn khó chịu vì Sơn chê Giáp "i-tờ" về quân sự. Sự thực thì Giáp chỉ là sinh viên trường Luật, được huấn luyện qua loa về du kích chiến trong một khóa do quân đội Mỹ mở ở Tinh Tây, hồi thế chiến thứ hai.
Tuy nhiên, mối bất hoà lớn giữa Nguyễn Sơn và các lãnh đạo, không phải vì kèn cựa địa vị mà vì Sơn phản đối việc xin viện trợ Trung Quốc, vì Sơn cho rằng hễ nhận viện trợ của Trung Quốc thì sẽ mất hết chủ quyền. Theo Sơn, hồi chiến tranh chống Nhật, Mao không thèm xin viện trợ Nga, cứ để Nga tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch. Nên tự lực kháng chiến, đánh Pháp bằng vũ khí thu được của Pháp, tuy gian lao nhưng không bị lệ thuộc bất cứ ngoại bang nào. Sau một cuộc thảo luận to tiếng với ông Hồ, Sơn bực mình, nhắm hướng bắc, đi thẳng sang Trung Quốc[7]. Vì đã được tôn là "Anh Hùng Dân Tộc", nên từ Lạng Sơn đến Bắc Kinh, qua các tỉnh, Sơn đều được tiếp đón trọng thể. Nhưng ông Hồ đã điện sang Bắc Kinh, bá cáo với ông Mao là Sơn vô kỷ luật, và Võ Nguyên Giáp cũng bắt quân đội Việt Minh học tập một tài liệu đặc biệt, tả Sơn là một cán bộ "điển hình xấu".
Vì bị ông Hồ bá cáo trước, nên khi tới Bắc Kinh, Sơn phải đi chỉnh huấn ngay. Sau chỉnh huấn, Sơn tình nguyện đi học Đại Học Quân Sự ở Nam Kinh, do chuyên viên Nga dạy về chiến thuật quân sự hiện đại. Năm 1956, Sơn bị ung thư dạ dầy và khi biết mình sắp chết, xin phép mang vợ con về Việt Nam. Hai ngày sau khi về tới Hà Nội, Sơn chết và Võ Nguyên Giáp phải đi đưa đám. Những người quen biết Nguyễn Sơn đều công nhận ông có tinh thần quốc gia mặc dầu suốt đời tranh đấu trong hàng ngũ cộng sản[8]".
Heinz Schütte, trong bài đã dẫn, cho rằng: Trung Quốc chỉ cho "mượn" Nguyễn Sơn và chính Nguyễn Sơn cũng miễn cưỡng về Việt Nam, việc ông trở lại Trung Quốc đã được thoả thuận ngay từ đầu. Nhưng thông tin của Hoàng Văn Chí có lẽ đúng hơn, vì Hoàng là anh rể Nguyễn Sơn, nên biết rõ những uẩn khúc chỉ trong gia đình mới biết: Nguyễn Sơn xin về Việt Nam vì tin Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, như hầu hết mọi người Việt[9]. Nguyễn Sơn chống lại việc nhận viện trợ của của Tàu, sự kiện này một số người biết nhưng không dám nói ra. Sau cùng, vì sự hiềm khích với Võ Nguyên Giáp, nên sau khi Nguyễn Sơn bỏ đi, Giáp cho quân đội học tập Sơn là điển hình xấu, để xoá huyền thoại về Nguyễn Sơn,việc này giải thích tại sao những người ở gần trung ương, như Lê Đạt, có định kiến không tốt về Nguyễn Sơn.
Tuy Nguyễn Sơn không ảnh hưởng đến phong trào NVGP nhưng ông cũng tạo cho văn nghệ sĩ một khoảng trời tự do sáng tác, ít nhất từ 1948 đến 1951, trước khi ông trở lại Trung Quốc.
Trong thời gian này, những trí thức và văn nghệ sĩ tên tuổi như Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu... đã lên tiếng phản đối chính sách lãnh đạo tư tưởng của Trường Chinh. Nhưng bản thân Nguyễn Sơn là một mâu thuẫn: ông chủ trương tự do sáng tác, nhưng ông cũng là người đầu tiên đem phương pháp chỉnh huấn của Mao vào Việt Nam.
Sự đối lập giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang
Khảo sát bị kịch Nhân Văn, ta thấy rõ sự đối lập giữa hai nhân vật: Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh, cả hai đều được Hồ Chí Minh tin dùng. Trường Chinh là Tổng Bí Thư từ 1941 đến 1956, còn Nguyễn Hữu Đang là ai?
Vì bất đồng ý kiến với Trường Chinh, năm 1948, Nguyễn Hữu Đang đã bỏ Đảng. Nhưng sau 1954, ông lại được Đảng gọi về và đến tháng 8/56, ông được cử ra tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày và trở thành nhà lãnh đạo phong trào NVGP.
NVGP chống lại toàn bộ chính sách văn hoá văn nghệ của đảng Cộng Sản. Vì vậy, chúng ta cần tìm hiểu chính sách văn hoá văn nghệ ấy như thế nào? Nói đến đường lối văn hoá văn nghệ của đảng Cộng Sản là phải nói đến Trường Chinh, lý thuyết gia của Đảng, người soạn thảo những văn bản chính thức theo chỉ thị của Hồ Chí Minh.
Trường Chinh
Trường Chinh Đặng Xuân Khu (1907-1988), nhà chính trị nhưng cũng là nhà báo, có viết văn, làm thơ dưới bút hiệu Sóng Hồng. Năm 1927, gia nhập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội - tiền thân của đảng Cộng Sản. 1940, làm chủ bút báo Cờ Giải Phóng, cơ quan của Xứ Ủy Bắc Kỳ. Sau đó làm chủ bút tờSự Thật, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng Sản. Từ tháng 5/1941 đến tháng 9/1956, làm Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đảng Cộng Sản thành lập tháng 2/1930.
Từ tháng 9/1930 đến tháng 11/1945, lấy tên là Đảng Cộng Sản Đông Dương. Tháng 11/1945 Đảng "tự giải thể", rút vào bí mật. 1951, Đảng công khai trở lại với tên Lao Động và đến năm 1976, mới chính thức lấy tên là đảng Cộng Sản Việt Nam. Đảng này trải qua hai biến cố quan trọng:
Ngày 2/9/1945: Tuyên ngôn độc lập. Hơn hai tháng sau, ngày 11/11/1945, Đảng tuyên bố "tự giải tán", đổi tên thành Hội Nghiên Cứu Chủ Nghiã Mác ở Đông Dương. Chính phủ lâm thời tạm giấu cái gốc quốc tế cộng sản, lấy danh nghĩa Mặt Trận Việt Minh, để tập hợp mọi thành phần dân tộc cả quốc gia lẫn cộng sản trong công cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hà Xuân Trường kể lại: "Đảng lúc bấy giờ, sau khi tuyên bố "tự giải tán", để chuyển thành Hội nghiên cứu chủ nghiã Mác ở Đông Dương (ngày 11/11/1945). Anh Trường Chinh lúc bấy giờ là Tổng bí thư Đảng, trưởng tiểu ban tuyên truyền của Trung ương, kiêm chủ bút (tức Tổng biên tập) tờ Sự Thật"(ra số 1, ngày 5/12/1945 ở Hà Nội)[10]".
Nguyễn Hữu Đang cho biết: "Vai trò của Hồ chủ tịch rất quan trọng. Cụ có thành lập Mặt Trận Việt Minh thì mới có Cách Mạng Tháng Tám. Nếu đảng Cộng Sản đứng ra vận động cuộc Cách Mạng Tháng Tám, tôi tin là không được kết quả như là Mặt Trận Việt Minh. Đó là một mặt trận gồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp tham gia cho nên phát triển mạnh, được nhân dân ta hưởng ứng hơn chứ còn nếu đảng Cộng Sản đứng ra thì vẫn bị hạn chế đấy". "Đảng Cộng Sản lúc bấy giờ có 5000 người chứ ăn thua gì đâu[11]".
Trường Chinh, được Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ viết đề cương, chỉ đạo đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng Cộng Sản bằng hai văn bản: "Đề Cương Văn Hoá Việt Nam" (1943) và Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam đọc tại Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc II, ở Việt Bắc, ngày 19/7/1948, văn bản này là nguồn gốc đoạn tuyệt giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang.
Giá trị và ảnh hưởng của hai văn bản này đối với chế độ Cộng Sản, được Hà Xuân Trường so sánh với lập thuyết của Mao: "Chúng ta chỉ cần nghiên cứu Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943, báo cáo Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam năm 1948 của đồng chí Trường Chinh, và so sánh những văn kiện đó với phần "Văn hóa dân chủ mới" và "Tọa đàm văn nghệ ở Diên An" của Mao Trạch Đông thì rõ ràng khác nhau lắm, khác từ gốc, khác từ mục tiêu đến phương pháp nhận thức (...) Công tác văn hoá - văn nghệ lúc bấy giờ nằm trong sự chỉ đạo của Tiểu ban tuyên truyền do anh Trường Chinh đứng đầu. Anh Tố Hữu lúc này được Trung Ương giao trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác văn nghệ"[12]. Vậy Trường Chinh là người chỉ đạo chính sách văn hoá văn nghệ kháng chiến. Tố Hữu, giữ nhiệm vụ tổ chức.
Đề cương văn hoá Việt Nam
Bản Đề Cương Văn Hoá Việt Nam có 5 phần chính:
1- Cách đặt vấn đề.
2- Phân đoạn văn hoá VN.
3- Nguy cơ văn hoá dưới ách phát-xít Nhật, Pháp.
4- Xác định văn hoá cách mạng VN.
5- Nhiệm vụ của các nhà văn hoá mác-xít VN[13].
Văn bản chính quy này xác định sự lãnh đạo văn hoá của Đảng: "đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hoá tiên phong". Và định nghiã văn hoá theo quan niệm của Đảng: "Văn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật". Tóm lại, Đảng lãnh đạo: tư tưởng, học thuật và nghệ thuật.
Ở phần hai, Trường Chinh chia văn hóa Việt Nam làm ba giai đoạn một cách rất bất kỳ: Trước Quang Trung -tại sao lại Quang Trung?- là "phong kiến, nô lệ, phụ thuộc Tàu". Từ Quang Trung đến Pháp thuộc là "phong kiến, tiểu tư sản"; và từ Pháp thuộc đến 1943, là "phong kiến, tư bản, thuộc địa". Tóm lại, có thể thayvăn hóa bằng bất cứ một danh từ nào khác như: chính trị, kinh tế, giáo dục, pháp luật... cũng được.
Phần ba, Trường Chinh buộc tội: "những thủ đoạn phát-xít trói buộc văn hoá và giết chết văn hoá Việt Nam", để đi đến phần bốn, xác định: cách mạng văn hoá phải do Đảng lãnh đạo, và nền văn hóa được Đảng chọn là văn hoá xã hội chủ nghiã.
Phần năm, kê khai những nhiệm vụ cần kíp mà các nhà văn hoá mác-xít phải làm ngay:
Đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở ta: triết học Khổng, Mạnh, Đê-các-tơ (Descartes), Béc-son (Bergson), Căng (Kant), Nít-sờ (Nietzsche) v.v... Làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng. Chống chủ nghiã cổ điển, chủ nghiã lãng mạn, chủ nghiã tự nhiên, chủ nghiã tượng trưng v.v... Làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghiã thắng.
Bản Đề Cương Văn Hoá Việt Nam chính là nguyên nhân sâu xa của tình trạng suy đồi của văn hoá văn nghệ Việt Nam: bắt buộc sáng tác và phê bình phải theo con đường duy nhất phục vụ sự lãnh đạo độc tôn của đảng Cộng Sản. Triệt hạ những đường hướng tư tưởng khác. Triệt hạ tài năng cá nhân và tiêu diệt tự do sáng tác.
Nguyễn Hữu Đang
Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) theo cách mạng từ buổi đầu, có óc tổ chức và tài hùng biện, Nguyễn Hữu Đang từng được coi là "cánh tay phải" của Hồ Chí Minh.
Năm 1929, Nguyễn Hữu Đang gia nhập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Hoạt động đắc lực trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ từ 1938.
1937- 39, làm báo cùng Trường Chinh Đặng Xuân Khu và Trần Huy Liệu. 1943: Tham gia đảng Cộng Cản Đông Dương, liên lạc mật thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và Thành ủy Hà Nội, nhưng chưa được kết nạp.
1943-46: Cùng Trường Chinh sáng lập và lãnh đạo Hội Văn Hóa Cứu Quốc. Được Hồ Chí Minh giao trách nhiệm tổ chức ngày tuyên ngôn độc lập 2/9/1945. Tham gia Chính phủ lâm thời, làm thứ trưởng Bộ Truyên Truyền, rồi Bộ Thanh Niên, Chủ tịch Uỷ Ban Vận Động Mặt Trận Văn Hoá. Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất tại Hà Nội, "Khai mạc Đại hội văn hoá toàn quốc lần thứ nhất vào chiều 24/11/1946 có Bác Hồ đến nói chuyện[14]".
Nhưng mãi đến năm 1947, Nguyễn Hữu Đang mới được chính thức kết nạp vào Đảng. Và năm sau, 1948, ông rời mọi sinh hoạt của Đảng, lui về Thanh Hoá.
Từ vị trí được xem như "cánh tay phải của cụ Hồ", "trên cả Ủy Ban Kháng Chiến", tại sao năm 1948, Nguyễn Hữu Đang lui về Thanh Hoá?
Hoàng Cầm kể: "Vào khoảng tháng 7 năm 48, có Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc do ông Trường Chinh đề xướng và làm chủ tịch (...) đề ra Văn Nghệ Kháng Chiến (...) Trong hội nghị có mặt anh Nguyễn Hữu Đang. Sau hội nghị đó, không hiểu vì lý do gì thì anh Đang không làm công tác kháng chiến nữa, anh về Thanh Hóa, ở nhà người bạn là anh Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất bản Minh Đức(...) hình như trong Hội Nghị Văn Hóa Toàn Quốc, anh Đang có mâu thuẫn về đường lối văn nghệ, văn hóa với ông Trường Chinh. Do mâu thuẫn không giải quyết được, cho nên anh Đang không làm việc nữa, anh nghỉ. Anh về Thanh Hóa[15]".
Vũ Tường phân tích:
"Trong thời kỳ ban đầu Trường Chinh không thể chi phối được mọi hoạt động của Văn Hoá Cứu Quốc do đa số những người thực hiện là các trí thức có ảnh hưởng tư tưởng Dân Chủ Tư Sản. Do điều kiện kháng chiến, Việt Minh không thể thành lập bộ máy văn hóa riêng để áp đặt đường lối của mình. Mâu thuẫn đã bộc lộ ra giữa Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh ngay từ lúc tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Cứu Quốc toàn quốc tháng 10 năm 1946 và có thể nói kết thúc bằng Hội Nghị Văn Hóa toàn quốc lần thứ II xóa bỏ Văn Hoá Cứu Quốc thành lập Hội Văn Nghệ Việt Nam hoàn toàn theo quỹ đạo của đường lối văn nghệ Maois vào thời điểm tháng 7- 1948[16]".
Vũ Tường có lý, bởi sự bất đồng ý kiến giữa Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh lộ rõ trong những bài Nguyễn Hữu Đang viết trên Tiên Phong năm 1945. Cách tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc I của Nguyễn Hữu Đang cũng bất chấp đường lối độc tôn của Đảng Cộng Sản (Xem chương 9, về Nguyễn Hữu Đang).
Tháng 7/1948 tại Việt Bắc có hai hội nghị:
Hội Nghị Văn hoá Toàn Quốc II (15/7/48) do Trường Chinh chủ trì, đọc bàiChủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam, quyết định bỏ Hội Văn Hoá Cứu Quốc, lập Hội Văn Nghệ, Nguyễn Hữu Đang có tham dự.
Hội Nghị Văn Nghệ Toàn Quốc I, từ 23 đến 25/7/48, chính thức ra mắt Hội Văn Nghệ, Nguyễn Hữu Đang không tham dự. Sự đoạn tuyệt này có nhiều lý do, nhưng lý do chính đến từ nội dung bài Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam của Trường Chinh.
Vậy nội dung bản báo cáo này ra sao?
Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam
Bản báo cáo Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam được nhà xuất bản Sự Thật in thành sách - Chúng tôi không có văn bản này. Phần VII, được in trên báo Văn Nghệ số 6 tháng 11/48, dưới tiêu đề "Mấy vấn đề thắc mắc trong văn học nghệ thuật[17]".
Bài "Mấy vấn đề thắc mắc trong văn học nghệ thuật" đặt trọng tâm trả lời những thắc mắc của người làm văn học nghệ thuật, đồng thời đưa ra những chủ đích:
1- Đồng hoá nghệ thuật với tuyên truyền và xác định: "Tuyên truyền của phe xâm lược, phản động là tuyên truyền phản chân lý. Tuyên truyền của phe cách mạng là tuyên truyền chân thật, phù hợp với chân lý rõ ràng".
2- Khẳng định khuynh hướng sáng tác: Hiện thực xã hội chủ nghĩa.
3- Chỉ ra đường lối "phê bình đúng nguyên tắc", "chú trọng đả kích tư tưởng, văn học, nghệ thuật phản động của địch".
4- Cho rằng "Quần chúng là nhà phê bình nghệ thuật sành hơn ai hết, chính vì quần chúng gồm nhiều tai, mắt, óc khôn và có cảm giác chung đấu lại. Không một nhà phê bình nào sánh được với quần chúng về mặt đó".
5- Chỉ 4 điều cho nhà văn noi theo, để "làm sao cho sáng tác văn nghệ được tốt".
6- Xác định sáng tác thi đua: "Đối tượng sáng tác văn nghệ của ta là nhân dân". "Sáng tác văn nghệ có cả một nguồn cổ vũ mạnh mẽ là phong trào thi đua".
Tóm lại, con đường văn học nghệ thuật của Đảng do Trường Chinh vạch ra năm 1948, gồm những yếu tố: Văn nghệ tuyên truyền. Văn nghệ thi đua. Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đả kích tư tưởng phản động của địch. Sáng tác cho nhân dân. Nhân dân làm chủ phê bình.
Là người làm văn hoá, dĩ nhiên Nguyễn Hữu Đang từ chối con đường văn nghệ này. Và trong kháng chiến, không chỉ có một Nguyễn Hữu Đang chống lại đường lối văn hoá văn nghệ của đảng, còn nhiều tiếng nói khác, Hoàng Trung Thông kể về Nguyễn Mạnh Tường và Trương Tửu:
"Cuộc tranh đấu tư tưởng duy nhất ở Liên Khu Bốn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là cuộc đấu tranh với một số quan điểm của Nguyễn Mạnh Tường. Trong một cuộc nói chuyện Nguyễn Mạnh Tường cho rằng văn nghệ ta như một cái chuồng nhốt các văn nghệ sĩ trong đó".
"Đồng chí Nguyễn Chí Thanh - bấy giờ là bí thư Đảng bộ Liên Khu Bốn, đã có ý kiến về những luận điểm tơ-rốt-kít của Trương Tửu trong buổi lễ kỷ niệm ngày thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong cuộc đấu tranh chính trị năm 1952, Trương Tửu bị đưa ra phê phán gay gắt[18]".
Hà Xuân Trường kể về Tô Ngọc Vân:
"Anh Tô Ngọc Vân tỏ ý không đồng tình về sự phân tích của đồng chí Trường Chinh về chủ nghiã "quy-bít". Nhưng anh Trường Chinh không trực tiếp trả lời, và tờ Sự Thật không lên tiếng, để tránh gây các mặc cảm không cần thiết đối với anh chị em văn nghệ đang đến với Đảng, và tự giác chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng. Bài viết của tôi thảo luận với anh Tô Ngọc Vân, ký tên Lê Trọng Lâm, lại đăng trên tạp chí Văn Nghệ".
Thái độ của Trường Chinh đối với những người chống đối rất khôn khéo: ông không ra mặt trả lời, chỉ khuyên cấp dưới "cần phải đấu tranh tư tưởng nhưng đừng nặng lời quá; vì lúc bấy giờ chúng ta đang cần phải đoàn kết để kháng chiến chống Pháp, mặc dầu đoàn kết không có nghiã là thủ tiêu đấu tranh[19]".
Tóm lại, đã có những người làm văn hoá văn nghệ bắt đầu thắc mắc về đường lối văn hoá văn nghệ của đảng Cộng Sản và lên tiếng phản đối ngay từ 1948. Những thắc mắc này càng lớn mạnh sau 1954, kết hợp thành sự phản kháng toàn diện trong phong trào NVGP.
Nguyễn Hữu Đang, bỏ về Thanh Hoá, cộng tác với nhà xuất bản Minh Đức từ 1948. Nhưng tại sao năm 1954, ông trở lại hoạt động? Mọi việc trong chế độ cộng sản không thể tình cờ, ngoài ra Trường Chinh mâu thuẫn với Nguyễn Hữu Đang, chưa chắc đã muốn Đang về. Vậy việc gọi ông trở lại phải do lệnh của Hồ Chí Minh. Hoàng Cầm kể: "Đến khi hòa bình lập lại, năm 1954, tôi cũng chỉ được nghe kể lại chứ không được chứng kiến, là như sau: Ông Trường Chinh có hỏi ông Tố Hữu: Anh Đang anh ấy đã không làm việc gì từ lâu rồi, từ mấy năm nay, thì bây giờ hòa bình thắng lợi rồi, ta phải mời anh ấy ra làm việc chứ. Thế là anh Tố Hữu cũng nghe theo và mời anh Đang ở Thanh Hóa ra[20]".
Nguyễn Huy Tưởng, là người được cử vào Thanh Hoá mời Nguyễn Hữu Đang. Và theo Hoàng Cầm, khi Nguyễn Hữu Đang ra, Tố Hữu đề nghị chức giám đốc Sở Văn Hóa Thông Tin Hà Nội, nhưng Nguyễn Hữu Đang từ chối, ngỏ ý muốn làm báo Văn Nghệ, Tố Hữu đành phải bằng lòng.
(còn tiếp)
-
15-02-2016, 07:12 #7
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)Những thắc mắc
Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI:
"Anh Đang về báo Văn Nghệ, nhưng anh Đang là người đặc biệt có tài tổ chức: trong kháng chiến anh ấy đã tổ chức Thanh Niên Xung Phong, tổ chức Mặt Trận Bình Dân Học Vụ, sau đó lại là tổ chức Hội Nghị Văn Hóa Toàn Quốc. (...) Vì anh ấy có tài tổ chức cho nên anh ấy tổ chức ngay hai cuộc phê bình trong văn học:
Thứ nhất là cuộc phê bình tác phẩm Vượt Côn Đảo của Phùng Quán (...) Và tổ chức một lớp học tập chính trị, đầu đề tài liệu học tập là "Những tài liệu của Mác, Lê-nin, Staline nói về vấn đề văn nghệ".
Về không khí của lớp học này, Hoàng Cầm kể:
"Buổi sáng học, buổi chiều làm việc cơ quan. Tôi nhớ học 18 ngày. Nhưng từ hôm mở lớp đến độ ngày thứ năm thì có cái mục gọi là liên hệ thực tế. Tất cả các văn nghệ sĩ ở các tỉnh hoặc đi tập kết về Hà Nội, thì họ đều nêu lên những thắc mắc, mà phải nói là những thắc mắc ghê gớm về vấn đề văn nghệ và lãnh đạo văn nghệ. Nó gần như là một cuộc tố khổ: các văn nghệ sĩ đều nói ra những thắc mắc về việc lãnh đạo địa phương, cả lãnh đạo trung ương nữa, đối với văn nghệ (...) Toàn là những thắc mắc mà anh em lôi ra từ thực tế trong kháng chiến và thực tế trong hòa bình lập lại".
Trong băng ghi âm Hoàng Cầm cho biết: Đến năm 1956, chúng tôi, tức là một số văn nghệ sĩ trí thức tự nhận thấy những trái ngược trong xã hội, những lý tưởng mà mình mang đi kháng chiến chống Pháp đều sụp đổ hết. Những nhà trí thức như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, cũng đều thấy chán nản, hụt hẫng, thấy bị rơi vào cái bẫy.
Georges Boudarel, trong Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam đặt trọng tâm trên hai chữ thắc mắc mà Hoàng Cầm dùng, theo ông đây là một thứ mây mù của ý thức, một kỹ xảo nói mà như không nói, một nghệ thuật không gọi sự vật theo tên của nó.
Hai chữ thắc mắc theo Boudarel, không thể dịch sang tiếng Pháp, là trung tâm của vấn đề:
Trong một nước mà cuộc đấu tranh chống thực dân, giành độc lập, bảo vệ truyền thống dân tộc, được phất lên dưới ngọn cờ của chủ nghiã Mác-Lê-Mao như một nghịch lý, thì thắc mắc là đứa con lai lạ lùng, sinh ra từ cuộc tình vừa nóng bỏng vừa tương phản vừa không thể thú nhận được giữa quốc tế vô sản và lòng ái quốc cực đoan.
Chủ nghiã cộng sản mà người ta du nhập vào đã thủ tiêu nhanh chóng mọi hình thức tự do phát biểu của xã hội dân sự kể cả những người ủng hộ nhiệt thành. Năm 1950, khi chủ nghiã Mao ào ạt tràn vào, với những đợt chỉnh huấn, phát hiện, tố giác, kiểm thảo, tự kiểm thảo... mang lại những hậu quả tai hại.
Nếu năm 1946, hầu hết mọi thành phần dân tộc đều đi theo kháng chiến chống Pháp, thì tới 1950, nhiều trí thức văn nghệ sĩ nổi tiếng trong đó có Phạm Duy, Vũ Hoàng Chương... đã không thể chịu được, họ phải quay "về thành".
Sự phản kháng của họ mang tính chất bi đát, bởi họ phải chọn lựa giữa hai con đường: hoặc tiếp tục chống thực dân Pháp thì phải theo chủ nghiã cộng sản Mao; hoặc chống cộng sản Mao thì phải vào vùng Pháp đóng. Bị xâu xé giữa, một bên là lòng yêu nước thúc đẩy họ phải chấp nhận tất cả để chiếm lại tổ quốc đã mất và một bên là cái vốn văn hoá Tây phương thúc đẩy họ đòi hỏi một thứ tự do không thể có được với đảng Cộng Sản. Người trí thức, những năm tháng ấy, vừa như sống một bản hùng ca, lại vừa chịu một bi kịch gậm nhấm từ bên trong.
Đại đa số thành phần dân tộc, trong đó có người trí thức, tìm cách hoà mình với đời sống mới, từ đó nẩy sinh những thắc mắc: Nền dân chủ cộng hoà, do Hồ Chí Minh tạo dựng, có mang lại độc lập thật sự cho nước Việt không? Những người có thắc mắc trong lòng muốn tin vào lãnh đạo của họ nhưng trong thâm tâm vẫn không thể nào tin được. Chỉ biết là mình có những thắc mắc không thể nói ra. Cái hình thức đối lập bị dồn nén, sự phản kháng bị chôn vùi, chỉ được nói thầm, nói một nửa, đọc giữa hai hàng chữ, đoán ngầm những ngụ ý... trở thành một phần của đời sống Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Và những vấn đề mở ra từ năm 1956, với NVGP, vẫn còn đúng với hôm nay[21].
Những thắc mắc tạm ngủ yên trong chiến tranh, nhưng bùng lên sau 1954, và trong lớp học 18 ngày, Nguyễn Hữu Đang đã bắt mạch được tình thế, mạnh bạo đứng lên, đặt với lãnh đạo những câu hỏi cần thiết.
Đáp lời ông, văn nghệ sĩ trí thức cùng đứng lên xây dựng phong trào NVGP.
Trong tiểu thuyết Une voix dans la nuit - Tiếng vọng trong đêm, viết 37 năm sau, luật sư Nguyễn Mạnh Tường cho rằng Đảng giăng ra một chính sách quỷ quyệt đưa những trí thức dân chủ vào bẫy để bắt trọn ổ.
Từ xuân 1956 sang thu 1956
Có thể chia NVGP làm hai giai đoạn:
Giai đoạn I gắn bó với Giai Phẩm Mùa Xuân và giai đoạn II gồm toàn bộ những tờ báo phát hành từ tháng 8/1956 đến tháng 12/56.
Giai đoạn I: Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời cuối tháng 1/1956. Hơn một tuần sau, nhiều sự kiện quan trọng xẩy ra:
9/2/56, Tố Hữu sai người gọi Lê Đạt lên Tuyên Huấn.
16/2/56: Lê Đạt lên trình diện, bị giữ lại kiểm thảo 15 ngày. Hạ tuần tháng 2/56 có hai "đại hội":
- Đại Hội Tuyên Huấn luận tội Giai Phẩm Mùa Xuân. Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần, Tử Phác. Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ, được đưa đến bệnh viện. Ngày 21/2/56 Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh. Trần Dần, Tử Phác được tha ngày 5/5/56.
- Đại Hội Văn Nghệ, ở 51 Trần Hưng Đạo, khoảng 150 văn nghệ sĩ, chủ yếu đánh Trần Dần.
Chiến dịch đánh Trần Dần trên báo bắt đầu ngày 7/3/1956 với bài viết của Hoài Thanh trên báo Văn Nghệ số 110. Giai phẩm bị dập tắt lần thứ nhất.
Giai đoạn II, khởi sự sau biến cố lớn ở các nước cộng sản và trong đảng Cộng Sản VN:
Ngày 24/2/1956, tại đại hội XX của đảng Cộng sản Liên Xô: Khrouchtchev đọc bản phúc trình mật về tội ác của Staline.
Ngày 26/5/1956, Mao Trạch Đông phát động phong trào "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng".
Ngày 28/6/1956, Ba Lan nổi dậy. Những biến cố này ảnh hưởng trực tiếp đến chính quyền miền Bắc, luôn hành động rập theo đường lối Liên Xô - Trung Quốc:
Đảng Lao Động mở rộng chính sách học tập tự do dân chủ - Lớp học 18 ngày trong tháng 8/1956. Đảng phát động chính sách Sửa Sai, sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất 1953 -1956. Tại Hội Nghị Thứ X của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, từ 25/8/56 đến 24/9/56, Trường Chinh bị "nghiêm khắc kiểm điểm sai lầm"trong công tác Cải Cách Ruộng Đất, phải tự kiểm thảo và xin từ chức. Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương bị loại khỏi Bộ Chính Trị. Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng. Hồ Chí Minh kiêm nhiệm hai chức Chủ tịch Đảng và Tổng bí thư từ 9/1956 đến 9/1960[22].
Võ Nguyên Giáp thay mặt Đảng, đọc bản "thú nhận" bẩy sai lầm, đại ý:
1/ Phủ nhận thành tích của những người chống Pháp.
2/ Coi phú nông như địa chủ.
3/ Đả kích tràn lan, không phân biệt những người có công với cách mạng.
4/ Dùng những biện pháp trấn áp, đánh địch, tràn lan phổ biến.
5/ Làm sai phạm chính sách tự do tôn giáo.
6/ Không coi trọng phong tục tập quán địa phương (các vùng thiểu số).
7/ Không dùng giáo dục mà truy bức (tra tấn) để chính đốn[23].
Từ cuối tháng 8 đến cuối tháng 11 năm 1956: không những Giai Phẩm Mùa Xuân được in lại mà còn ra tiếp 4 số nữa, tổng cộng là 5 số Giai Phẩm và 5 số Nhân Văn. Ngoài ra, còn có 1 số Đất Mới của sinh viên và 11 số Trăm Hoa của Nguyễn Bính, ra từ tháng 10/56 đến tháng 1/57; thêm báo Nói Thật của Hoàng Công Khanh và Tập San Phê Bình, xuất hiện tới cuối năm 1957.
Cuối tháng 11/56, trên các báo Nhân Văn và Giai Phẩm, nhà xuất bản Minh Đức còn quảng cáo mời độc giả tìm đọc Tự Do Diễn Đàn và Sáng Tạo (chuyên về điện ảnh kịch trường). Rút cục Tự Do Diễn Đàn in xong bị cấm. Nhưng Văn, báo chính thức của Hội Nhà Văn, sang năm 57 vẫn còn in bài của những người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, đến số 36, ra ngày 10/1/58, Văn mới bị đình bản vì đăng bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi.
Cuộc Cách Mạng Mùa Thu Của Tư Tưởng đã xẩy ra.
Nhân Văn Giai Phẩm được phát triển trở lại cùng thời với vụ Sửa Sai Cải Cách Ruộng Đất và bị dập tắt bốn tháng sau, dưới thời Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng kiêm Tổng bí thư. Vậy ai là người trách nhiệm chính?
Ai trách nhiệm vụ Nhân Văn Giai Phẩm?
Trả lời câu hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh có trách nhiệm như thế nào về vụ NVGP, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố:
"Cái việc mà người ta cứ nói là việc nọ việc kia là người dưới làm chứ cụ Hồ không biết, cụ Hồ không thực tiễn làm, đó là một cách nói không đúng sự thật. Người ta thấy việc gì mà có dư luận kêu ca, thắc mắc thì không muốn để cái kêu ca thắc mắc đó hướng vào vị lãnh tụ mà người ta suy tôn tuyệt đối. Có thể nói là người ta thần thánh hóa cụ Hồ. Vì cái lý do nó là như thế. Thực chất thì cụ Hồ không phải là người bị vô hiệu hóa trong bộ máy lãnh đạo của đảng và của dân tộc. Cụ Hồ lúc nào cũng là người có đầy đủ quyền hành, lúc nào cụ cũng sáng suốt, linh lợi, lúc nào cụ cũng có uy tín với dân và cũng có quyền đối với các đồng chí trong đảng, đối với những người lãnh đạo khác. Chắc bà cũng biết rằng những vị lãnh đạo khác của đảng, đối với cụ Hồ là học trò chứ không phải như ở các đảng Cộng Sản khác đâu. Cho nên uy tín của cụ Hồ, quyền hành của cụ Hồ bao giờ cũng rất vững, cụ Hồ biết hết cả, và việc đó cụ Hồ cũng đồng tình làm.
Có thể nói tóm một câu là cho đến mấy năm sau cùng, vì cụ yếu cụ ít chăm nom công việc, cụ khoán cho Bộ Chính Trị, cụ ít can thiệp trực tiếp, chứ còn trước đó thì bất cứ việc gì cũng là trong phạm vi chỉ đạo của cụ cả. Hay cũng ở cụ, dở cũng ở cụ. Cụ phải gánh trách nhiệm, điều đó rõ ràng.
Có khi nào một lãnh tụ tối cao đối với dân tộc, lãnh tụ tối cao của Đảng mà lại không có trách nhiệm về việc nọ, việc kia. Điều đó không đúng. Chế độ gọi là "báo cáo thỉnh thị" rất chặt chẽ trong nội bộ đảng Cộng Sản và trong bộ máy chuyên chính của nhà nước cũng thế, nghiêm ngặt lắm[24]".
Nhận định trên đây của Nguyễn Hữu Đang phù hợp với một số nhận định khác của những người trong Đảng về vai trò của Hồ Chí Minh trong đời sống văn hóa văn nghệ. Hà Xuân Trường viết về vai trò của Đảng trong "Mặt trận văn hoá văn nghệ" và địa vị chỉ đạo của Hồ Chí Minh như sau:
"Sự đầu tư công sức và tâm huyết của Đảng vào mặt trận này [tức "Mặt trận văn hoá văn nghệ"] là đáng kể: từ Bác, đến các anh Trường Chinh, Tố Hữu. Cần nhắc thêm vai trò của Bác và các ý kiến của Bác căn dặn giới báo chí và văn hoá - văn nghệ ngay từ buổi đầu này. Bác thường gửi bài cho báo Đảng, trên Sự Thật lúc ấy, cũng như trên tờ Nhân Dân sau này[25] dưới các bút danh ta đã quen thuộc: C.B[26], X.Y.Z[27], A.G (chúng tôi thường gọi Anh Già)... Điều đặc biệt là Bác viết rất ngắn và mỗi lần gửi bài cho báo, Bác thường viết luôn một loạt có đánh số thứ tự. Bác dặn anh em chúng tôi là đánh số như thế để cho bạn đọc và cả Bác dễ nhớ, bao giờ gần hết bài thì Bác chỉ cần xem trên báo là Bác biết để Bác kịp viết tiếp, "các chú không cần phải nhắc[28]".
Và ông xác định vai trò của từng người trong giai cấp lãnh đạo:
"Công tác văn hoá - văn nghệ lúc bấy giờ nằm trong sự chỉ đạo của Tiểu ban tuyên truyền do anh Trường Chinh đứng đầu. Anh Tố Hữu lúc này được Trung Ương giao trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác văn nghệ. Tôi là người của Tiểu ban tuyên truyền, làm tờ Sự Thật, do vậy mà có trách nhiệm liên lạc giữa Trung ương và bộ phận văn hoá - văn nghệ, giữa anh Trường Chinh và anh Tố Hữu. Trách nhiệm chính là làm sao giúp Trung ương nắm tình hình văn nghệ, và từ góc độ báo Đảng, mà góp phần gợi giúp cho người văn nghệ mạnh dạn đi vào quần chúng, dần dần nắm hiểu đời sống, tham gia công tác cách mạng, và khắc phục từng bước các ảnh hưởng của cách nhìn và thói quen cảm xúc tiểu tư sản (...) Anh (Trường Chinh) còn cho biết thêm là bản báo cáo (Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam)tuy là do anh trực tiếp soạn thảo, nhưng đã được ban thường vụ Trung ương thông qua và Bác đã xem và góp ý kiến[29]".
Hoàng Trung Thông cũng cho biết:
"Sau này tôi mới biết cuốn truyện về chiến sĩ thi đua đầu tiên là do Bác Hồ viết để làm mẫu cho những người khác viết theo[30]".
Tháng giêng năm 1956, Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, thể hiện tự do sáng tác, bị dập tắt ngay. Vậy có thể hiểu là Trường Chinh đã giao cho Tố Hữu, người có tư thù với Hoàng Cầm, Trần Dần và Lê Đạt trong việc phê bình tập thơ Việt Bắc, xử lý vụ Giai Phẩm Mùa Xuân, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh.
Trong tháng 8 và 9 năm 1956, có hai sự kiện trùng hợp đáng kể: Đảng phát động Sửa Sai trong đại hội X và phong trào NVGP phát triển trở lại.
Vậy quyết định cho phép Hội Văn Nghệ tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày, theo đường lối Liên Xô, trong tháng 8/1956, đến từ ai, nếu không là Hồ Chí Minh?
Lớp học này do Nguyễn Hữu Đang phụ trách. Chọn Nguyễn Hữu Đang cũng là do Hồ Chí Minh bởi Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang là kình địch về mặt chính trị văn hoá.
Vai trò của Nguyễn Hữu Đang sẽ nổi bật trong lớp học này và bài tham luận ông đọc ngày 26/8/56 tổng kết lớp học sẽ là cái mốc quan trọng đẩy mạnh tiến trình đòi hỏi tự do dân chủ, việc thành lập báo Nhân Văn và tục bản Giai Phẩm, tạo nên cuộc Cách Mạng Mùa Thu của Tư Tưởng.
Tháng 10/56 Hungary nổi dậy. Tháng 11/56 xe tăng Xô Viết tiến vào Budapest.
Ngày 9/12/1956, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ quyền tự do báo chí. Đóng cửa báo Nhân Văn. Nhân Văn và Giai Phẩm bị dập tắt, lần thứ nhì, tháng12/56.
Tháng 2/57 trong Đại Hội Văn Nghệ Toàn Quốc II, họp từ 20 đến 28/2 tại Hà Nội, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát âm mưu phản động" của nhóm NVGP.
Năm 1957, Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô và Mông Cổ, ghé Bắc Kinh để học tập chính sách của Mao Trạch Đông đánh phái hữu[31]. Huy Cận và Hà Xuân Trường cũng được cử đi học tập chính sách của Trung Quốc. Khi họ trở về, tháng 2/58 việc thanh trừng NVGP được tổ chức quy mô và toàn diện trong hai lớp đấu tranh Thái Hà.
***
[1] Trích bản dịch từ tiếng Đức của Talawas.
[2] Vấn đề Cải Cách Ruộng Đất sẽ được trình bầy trong chương 24.
[3] Phạm Duy, Hồi ký II, Thời cách mạng kháng chiến, Phạm Duy Cường, California, 1989.
[4] Quân Khu Bốn: từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên.
[5] Con rể Phạm Quỳnh, bị bắt cùng với Phạm Quỳnh năm 1945.
[6] Nguyễn Tiến Lãng, Les chemins de la révolte - Những nẻo đường nổi dậy, Amiot-Dumont, Paris, 1953; Ý Việt, Paris, 1989.
[7] Theo Heinz Schutte, Nguyễn Sơn trở lại Trung Quốc năm 1951.
[8] Lược trích Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Chân trời mới, Paris 1962, trang 173-177.
[9] Sự thực Hồ Chí Minh không phải là người viết những văn bản ký tên Nguyễn Ái Quốc, xin xem phần "Phân tích văn bản Nguyễn Ái Quốc", ở chương 18, 19.
[10] Hà Xuân Trường, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, trg 31.
[11] Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI.
[12] Hà Xuân Trường, bđd, trang 46 và 41.
[13] Tiên Phong số 1, 10/11/45, Sưu tập trọn bộ Tiên Phong 1945-1946 của Lại Nguyên Ân, Hội Nhà Văn, 1996.
[14] Hà Xuân Trường, bđd, trang 40.
[15] Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI.
[16] Lê Hoài Nguyên, bđd, trích Vũ Tường, Ngày nay cách mạng Đông Dương phải hiện nguyên hình: Bước ngoặt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp và nội chiến Việt Nam vào năm 1948. Journal of Southeast Asian Studies, 40, 3/10/ 2009), 519- 542. Bản dịch tiếng Việt của Talawas số Mùa Thu chuyên đề Bao nhiêu chủ nghĩa dân tộc là đủ?
[17] In lại trong cuốn Cách Mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, đổi tên thành "Mấy vấn đề cụ thể trong văn học và nghệ thuật".
[18] Trích bài Trên địa bàn văn nghệ khu Bốn và Việt Bắc, Hoàng Trung Thông kể, Tôn Phương Lan ghi, in trong Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập I, Tác Phẩm Mới, 1985, trg 181-187.
[19] Hà Xuân Trường, bđd, trang 42-43.
[20] Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI.
[21] Tóm lược phân tích của Boudarel trong Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam từ trang 9 đến 20.
[22] Sau đó là thời kỳ Lê Duẩn làm Tổng bí thư, từ 9/1960 đến 7/1986, thời kỳ này xẩy ra vụ Xét Lại Chống Đảng.
[23] Toàn văn in trên Nhân Dân số 970, ngày 31/10/1956, in lại trong Từ thực dân đến cộng sản của Hoàng Văn Chí, Chân Trời Mới, Paris 1962, trang 281-282. Sách có bản điện tử trên Talawas.
[24] Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI, ngày 3/9/1995.
[25] Sau Sự Thật là Nhân Dân, số 1, ra ngày 11/3/1951.
[26] Theo Bùi Tín, CB là viết tắt hai chữ Của Bác.
[27] X.Y.Z chỉ thành phần Cố Nông, trong Cải Cách Ruộng Đất.
[28] Hà Xuân Trường, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, Tác Phẩm Mới, 1987, trang 44-45.
[29] Hà Xuân Trường, bđd, trang 41- 42.
[30] Hoàng Trung Thông, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập I, Tác Phẩm Mới, 1985, trang 191.
[31] Lê Hoài Nguyên, bđd.
(còn tiếp) -
15-02-2016, 07:13 #8
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)
Chương 5
Nội bộ báo Nhân Văn
Nhân Văn Giai Phẩm do hai nhóm bạn cùng chí hướng hợp tác điều hành.
Theo Hoàng Cầm, ngay từ đầu năm 1955, Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Đạt, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, thường họp nhau, khoảng 5 giờ chiều, ở quán trà Phúc Châu của người Tầu ở phố Hàng Giầy[1] để bàn chuyện văn nghệ. Chính tại quán này, họ đã bàn nhau ra một số báo Tết và đó sẽ là Giai Phẩm Mùa Xuân. Báo Nhân Văn không có trụ sở, "toà soạn" là căn nhà của Trần Thiếu Bảo thuê, rất lớn, có nhiều buồng để làm nhà xuất bản, ở 25 Phan Bội Châu, Nguyễn Hữu Đang ở gần đấy; tầng trệt để mấy máy in nhỏ, chỉ in lặt vặt, những tờ báo to như Nhân Văn, kể cả các tập Giai Phẩm cũng không in được, phải in ở nhà Xuân Thu của Đỗ Huân[2].
Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân. Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang đề xướng, với Hoàng Cầm. Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo chủ trươngcác tập Giai Phẩm.
Đó là những viên gạch nền móng, từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1956, đã quy tụ được một số đông văn nghệ sĩ trí thức, họp thành phong trào NVGP.
Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt trách nhiệm bài vở. Giai Phẩm là một tập sách định kỳ, do Trương Tửu trông nom. Nhân Văn hướng về đấu tranh chính trị. Giai Phẩm đi vào chiều sâu của tư tưởng. Giai Phẩm xuất hiện trước, với Giai Phẩm Mùa Thu, tập I, ra ngày 29/8/56, nhưng Nhân Văn vẫn được coi là "đầu não" của phong trào. Hiện nay, chưa biết rõ nội tình Giai Phẩm vì Trương Tửu và Trần Thiếu Bảo cho đến lúc mất, đều không phát biểu gì. Về nội bộ Nhân Văn, một phần sự thật được thuật lại, nhờ tiếng nói của những thành viên chính. Những người viết cho Nhân Văn cũng đều có mặt trên Giai Phẩm và ngược lại.
Ngày 20/9/1956, Nhân Văn số 1 ra đời. Về mặt chính thức, tờ báo do Phan Khôi làm chủ nhiệm và Trần Duy, thư ký toà soạn. Nhưng thực sự, nội bộ báo Nhân Văn đã được cấu trúc như thế nào? Để dựng lại sự việc đã xẩy ra, chúng tôi dùng hai loại chứng:
- Loại thứ nhất: Gồm những lời tuyên bố của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Duy, trên RFI; những bản "thú nhận" của các thành viên chính, viết trong đợt đấu tranh chống NVGP ở Thái Hà ấp, giữa tháng 3 và 4 năm 1958; và loạt băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ghi âm trong khoảng 1998-2008. Những lời"thú nhận" ưu tiên, vì đã được viết trong thời gian bi kịch xẩy ra, tại chỗ, trong khi những lời viết, tuyên bố, ghi âm sau này, qua nửa thế kỷ, có thể trí nhớ không trung thành.
- Loại thứ hai: Các bài đánh NVGP, phản ảnh chính sách đàn áp, bôi nhọ và các ngõ ngách bên trong của chế độ.
Đôi lời về những bài "thú nhận"
Về những lời "thú nhận" cũng nên đặt câu hỏi: đã viết trong điều kiện như thế nào?
1- Viết trong đợt đấu tranh thứ nhì chống NVGP tại Thái Hà ấp, tháng 3 và 4/58, có 304 người dự (bối cảnh cả hai lớp Thái Hà sẽ đề cập đến trong chương 6).
2- Theo Lê Đạt, ở hội trường, mọi người đứng lên "phát hiện tội Nhân Văn".Và "Sau khi tất cả mọi người phát hiện các tội của Nhân Văn xong rồi, thì mới đến lượt Nhân Văn, từng người một, nhận tội". Rồi sau đó, các "Nhân Văn" về tổ của mình làm "bài khai". "Bài khai phải được tổ thông qua, và lại phải đưa ra hội trường thông qua nữa, thì anh mới được xong". Tức là mới được về.
3- Như thế, những "bài khai" được viết dưới áp lực của "đấu trường" kéo dài trong một tháng, và cũng là bài "tổng kết tội trạng" mà mỗi người phải tự mình viết ra. Trong khi viết, họ không được trao đổi với nhau, sau đó phải đọc trong tổ, tổ thông qua, rồi mới đọc cho hội trường nghe và duyệt. Vì những lẽ đó, họ khó có thể "khai man" (vì sợ bị so sánh tại chỗ với những lời khai của người khác).
4- Vì vậy, chúng tôi coi những bài thú nhận là những văn bản sớm nhất (viết từ tháng 3/58) về những việc thực sự đã xẩy ra trong thời kỳ NVGP[3]. Chính Hoàng Cầm trong băng ghi âm, cũng coi bài khai khoảng 100 trang giấy học sinh của mình là cuốn "hồi ký" tự tố rất đúng về những gì xẩy ra trong thời kỳ này.
5- Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Duy, "không được" dự lớp Thái Hà vì thuộc diện những "phần tử xấu". Vì vậy, không có bản "thú nhận" của họ. Lê Đạt cho biết:
"Không phải là chị Thụy An, anh Trần Duy và ông Phan Khôi không chịu đi học. Ở đấy người ta chia ra: Những người nào hoạt động chính trị mà người ta cho là có tính chất phản động, là những phần tử xấu thì người ta "không cho" đi học lớp ấy: Phan Khôi, Thụy An, Trần Duy "không được" học. Chỉ có những văn nghệ sĩ mà người ta cho là những người vì quan điểm lầm lạc, được Ðảng chiếu cố cải tạo giúp đỡ, thì mới được đi học lớp ấy thôi. Cho nên đi học lớp ấy, gay go thế cũng là một "ưu tiên"[4]".
6- Văn bản "thú tội" phản ảnh tâm thức người viết: Qua những bài khai, Lê Đạt và Trần Đức Thảo giữ được phong độ của người trí thức: Chịu trách nhiệm việc mình làm. Không đổ lỗi cho người khác. Không gọi bạn đồng hành là tên, là nó, là bọn, tuy đó là cách phải gọi những người NVGP trong các lớp học tập. Văn bản "thú tội" phản ảnh không khí trù dập, đàn áp, xuống cấp và thù nghịch ở ấp Thái Hà và sức chịu đựng của từng người: Trong ba người bạn thân: Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, thì Lê Đạt có bản lãnh hơn cả.
7- Văn bản đánh NVGP cũng cho rất nhiều thông tin: nó phản ảnh không khí trù dập, đàn áp, vu khống, bức hại và tư cách của người viết: có người không thể từ chối, miễn cưỡng viết cho qua, có người ác tâm vụ lợi, đánh để tiến thân, lên chức.
Ý định ra báo Nhân Văn
Ý định ra báo là của Nguyễn Hữu Đang. Nguyễn Hữu Đang thuyết phục Hoàng Cầm. Hoàng Cầm bàn với 5 người bạn trong Giai Phẩm Mùa Xuân: Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Văn Cao và Đặng Đình Hưng. Phần đông đều e ngại, không muốn cộng tác vì nghi ngờ Nguyễn Hữu Đang là người làm chính trị. Một mặt khác, sau vụ đàn áp Giai Phẩm Mùa Xuân, Trần Dần, Lê Đạt đều muốn nghỉ - chuyện gia đình, mới lấy vợ, có con. Hoàng Cầm nhận phụ trách phần văn nghệ, nhưng đến Nhân Văn số 2, Lê Đạt phải vào.
Hoàng Cầm kể trên RFI, 8/2/2008: "...thì lúc bấy giờ (xong lớp 18 ngày) anh Đang anh ấy mới nẩy ra một ý: Đang lúc văn nghệ sĩ có nhiều "thắc mắc" như thế này thì chúng mình nên ra một tờ báo. Tôi bảo: Ra báo thì phải có tiền, chứ tự nhiên ra thế nào được. Anh Đang bảo: Tiền thì tôi sẽ nhờ người bạn đi vay và chắc chắn chỉ vài số báo là đã có thể trả được... Đầu tiên tôi không nhận lời, vì lúc ấy tôi đang làm ở nhà xuất bản của Hội Văn Nghệ, nhiều công việc bận lắm. Nhưng mà anh ấy vẫn không tha. Anh ấy cứ bám riết lấy. (...) giữ riệt lấy tôi và thúc đẩy tôi. Thế rồi cuối cùng tôi cũng phải nhận lời. Bởi tôi cũng dễ tính và hay nể bạn".
Trong bài "thú nhận", tháng 3/1958, Hoàng Cầm viết:
"Bàn về tiền ra báo, tôi tán thành tên Tước[5] do Nguyễn Hữu Đang giới thiệu, bỏ tiền ra làm vốn. Tôi đã đi họp hai lần ở nhà tên Tước, lần đầu với Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Tước bàn về thể tài tờ báo. Tư tưởng tôi lúc đó phản đối mọi đường lối, chính sách của Đảng nên tôi nghĩ: Báo văn nghệ hay văn hoá xã hội cũng được, miễn là ra được, nhưng chỗ tôi biết hơn cả là mặt văn nghệ, thì tôi tự nhận phần văn nghệ, còn ngoài ra ai muốn viết về vấn đề gì, tôi cũng tán thành. Một lần nữa, có Nguyễn Bính, Đang, Tước bàn về tên tờ báo và mời Nguyễn Bính làm thư ký toà soạn, thì tôi nghĩ là “tên báo gì gì cũng được” miễn là có báo ra được"[6].
Như vậy, Nguyễn Bính đã có mặt trong những buổi họp trước khi ra báo Nhân Văn. Nhưng rút cục Nguyễn Bính không vào Nhân Văn mà làm tờ Trăm Hoa, bộ mới.
Lê Đạt, kể lại trên RFI như sau:
"Trong buổi học tập văn nghệ đó (lớp 18 ngày), anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: "Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm (...) Ðến lúc ra báo Nhân Văn, cũng lại có nhiều khó khăn. Anh Dần muốn trực tiếp lo chuyện gia đình vì anh ấy gặp nhiều khó khăn quá: bị bắt, rồi lại phải lo cho con cái. Còn tôi lúc đó, tôi cũng muốn nghỉ. Anh Ðang lại không thuộc nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân, anh Ðang là một cán bộ chính trị cũ, anh ấy chỉ biết tôi thôi, thế còn quan hệ với anh em Giai Phẩm Mùa Xuân, anh Đang lại không có. Mà các anh ở Giai Phẩm Mùa Xuân cũng không thích anh Ðang. Chúng tôi mới quyết định thế này: Anh Cầm đang rỗi rãi, bèn giao cho anh Cầm; tách anh Cầm ra làm việc chung với anh Ðang[7]".
Trong bài "thú nhận", tháng 3/1958, Lê Đạt viết:
"Sau thời gian lớp học 18 ngày, Nguyễn Hữu Đang cùng với Hoàng Cầm ra báo. Hoàng Cầm đặt vấn đề với nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân. Văn Cao, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm và tôi bàn ở tiệm trà Phúc Châu. Đa số đồng ý là không tham gia biên tập vì cho Nguyễn Hữu Đang không phải là người văn nghệ, có thể nhiều động cơ cá nhân không tốt, hai là tập họp anh em đông quá trong số đó có nhiều phần tử chạy theo, cơ hội không nắm chặt được, sợ manh động (viết lách ẩu, quá khích bị lãnh đạo đánh)"[8].
Trần Dần trong bài "thú nhận", viết:
"… Đến lớp học mười tám ngày, Nguyễn Hữu Đang từ lâu nằm phục xuống, nhờ cơ hội này đứng dậy phất cờ. Nếu không có Đang sẽ không có tham luận với những đề nghị: Gặp Trung ương, ra báo v.v… mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn.
Tư tưởng chống đối trong tôi cũng ngóc dậy. Tuy đồng tình với Nguyễn Hữu Đang, song không đồng tình về phương pháp (...) Nguyễn Hữu Đang định kéo nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân làm vốn cho hắn ra báo, đấu tranh với Đảng, vì từ lâu hắn đã ngửi thấy ở đó có vấn đề có thể kiếm chác được. Vấp phải sự rùng rằng (dùng dằng) không muốn tham gia của nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân (vì nhiều lẽ), hắn kéo lẻ từng người. Đầu tiên là Hoàng Cầm (...) Đến khi Nhân Văn thông qua bài số 1, tôi đến, thấy hỗn độn táp nham quá, mình dự đây là dại, nên nửa chừng bỏ về. Lúc đó tôi đã nghi Nguyễn Hữu Đang, cho là thằng quá tả, vấn đề gì cũng định đưa ra công khai, tôi cho rằng hắn sẽ làm hỏng phong trào của lớp học mười tám ngày thôi. Sẽ lại thất bại như hồi bộ đội. Nên tôi tự đặt nhiệm vụ dùng Hoàng Cầm, Lê Đạt mà ghìm hắn lại[9]".
Trần Dần vì nghi kỵ Nguyễn Hữu Đang, không muốn tham dự, nhưng cũng không bỏ hẳn. Trong nội bộ Nhân Văn, từ đầu, đã có những bất đồng: Nguyễn Hữu Đang muốn mở rộng cuộc tranh đấu sang chính trị: đòi hỏi tự do dân chủ. Hoàng Cầm thế nào cũng được. Trần Dần chỉ muốn đòi tự do sáng tác. Lê Đạt giữ vị trí trung gian: Đồng ý với Nguyễn Hữu Đang về đấu tranh tự do dân chủ nhưng chỉ muốn thực hiện bằng con đường sáng tác.
Đó là những "khó khăn" mà Lê Đạt nói đến khi lập tờ Nhân Văn, nhưng không chỉ có những "khó khăn" nội bộ, mà còn cả những khó khăn do áp lực bên ngoài. Một chủ trương "rầm rộ" như vậy, lãnh đạo không thể không biết. Và Trung Ương đã tìm cách khuyên nhóm Nhân Văn dẹp ý định làm báo đối lập, bằng cách nói riêng với từng người.
Bộ Chính Trị gặp ba người chủ chốt khuyên nên bỏ ý định ra báo
Hoàng Cầm kể trên RFI:
"Trước khi ra báo thì các anh em đã rậm rịch nói với nhau rồi, cho nên tin tức đều đến tai lãnh đạo cả. Thì lãnh đạo, tức là Bộ Chính Trị, đã bố trí cho cho ông Võ Nguyên Giáp mời Nguyễn Hữu Đang lên nói chuyện, mời riêng đấy. Còn ông Lê Đức Thọ, lúc bấy giờ cũng là Bộ Chính Trị, thì mời Lê Đạt và ông Lê Liêm lúc bấy giờ là Tổng Cục Phó Tổng Cục Chính Trị (về sau này ông ấy mới chuyển sang làm Thứ trưởng Bộ Giáo Dục), thì mời tôi. Như vậy là ba ông ủy viên bộ chính trị gặp những người chủ chốt của Nhân Văn, và nếu mà ba ông ấy thuyết phục được ba người đó đừng ra báo, thì thôi, coi như là yên ổn cả, không có chuyện gì. Ông Lê Liêm gặp tôi đến ba buổi tối trong nhà khách của quân đội, ông Giáp thì gặp anh Đang, ông Lê Đức Thọ gặp anh Lê Đạt, tất nhiên là để nói đến chuyện ra tờ báo, thì họ cũng lấy tình đồng chí, tình bạn bè, khuyên bảo, chứ không phải để ra lệnh gì. Ông Lê Liêm gặp tôi rất khiêm tốn, nói hết những cái Đảng có thể có những sai lầm này, sai lầm khác v.v... trong việc lãnh đạo văn nghệ. Tự ông ấy nói ra để cho mình hiểu và yên tâm là Đảng cũng biết đấy, để Đảng sửa dần, để cho mình muốn nói cái gì về Đảng trên tờ báo của mình thì mình rút đi, rút lui cái ý kiến trên báo ấy đi. Mục đích của những cuộc gặp đó là như thế. Khổ một nỗi là lúc bấy giờ những "thắc mắc" của anh em văn nghệ nó ồn ã lắm. Mà nó nhiều cái sâu sắc lắm, cho nên anh Đang anh ấy kiên quyết là không, cứ phải ra báo, phải ra báo thì mới nói được. Anh Đang kiên quyết ra báo. Tôi thì ra cũng được mà không ra cũng được. Thế là trong nội bộ của mấy anh em hoạt động nhất trong báo Nhân Văn là Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và tôi cùng thống nhất với nhau là cứ ra. Thế là ra được Nhân Văn số 1[10]".
Mời Phan Khôi làm chủ nhiệm; Trần Duy làm thư ký toà soạn
Việc mời Phan Khôi do Nguyễn Hữu Đang nghĩ ra. Lê Đạt kể:
"Ðang bảo: Hay là mời cụ Phan Khôi? Mà cụ Phan Khôi cũng lại không thân gì với Ðang lắm. Thế là anh Hoàng Cầm được cử đến mời cụ Phan Khôi. Phan Khôi khẳng khái nhận lời ngay"[11].
Việc mời Trần Duy có hai ý kiến khác nhau, Trần Duy, nói trên RFI:
Cũng về việc này, Hoàng Cầm viết trong bài "thú nhận", như sau:
"Chỉ có việc Nguyễn Hữu Đang mời tôi làm thư ký toà soạn là tôi không nhận, lý do chỉ vì sợ trách nhiệm, muốn đùn trách nhiệm cho người khác. Tôi đã đùn cho Trần Duy trong một buổi tình cờ gặp Trần Duy ở nhà Minh Đức. Tôi gọi nó lên gác nhà tên Đang, giới thiệu nó với tên Đang. Trần Duy nhận lời ngay[14]".
Ai quyết định nội dung bài vở báo Nhân Văn?
Trong bài "thú nhận", Lê Đạt viết:
"Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận của tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm bốn người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi[15]".
Vậy trong bốn người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và Lê Đạt, ai quyết định nội dung tờ báo?
Trần Duy trả lời trên RFI:
"Tất cả bài vở là do Đang và Đạt quyết định và bài vở tập hợp vào tôi, khi thiếu bài hoặc mise mà không có thì bảo tôi làm cái remplissage lấp lỗ trống hoặc thu dọn bài này, bài nọ, trang mấy, trang mấy có tranh, thì bảo tôi làm. Sự thật ra quyết định bài vở phần lớn là Đang, quyết định nội dung bài là Đạt. Còn thầy cò thầy kiện là ông Văn Cao. Ông Trần Dần, ông Hoàng Cầm là đứng sau lưng. Người chủ động và trực tiếp với tôi là Lê Đạt, người chủ động bài vở là ông Nguyễn Hữu Đang. Tất nhiên là tôi không quyết định được bài vở rồi, nhưng có bài nào cần thiết thì Lê Đạt bảo: Ông viết đi, vấn đề này ông viết được, ông viết hộ tôi, ví dụ như tự do sáng tác hay là gì đó thì ông cứ viết, ông lại hơi có cái giọng humour thì ông làm cho tôi... không phải chuyện cười, những chuyện thời sự ông đi góp nhặt các nơi. Thì tôi phụ trách mục đó và tôi đề TD, là Trần Duy đó. Sau khi mise những bài chính rồi thì tôi là người lấp remplissage phần còn lại của tờ báo. Sự thực ra người ta không bao giờ hỏi ông Phan Khôi về một cái gì cả[16]".
Vẫn theo lời Trần Duy, Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang thường hay cãi nhau.
Vậy sự bất đồng ý kiến đó là gì? Có phải về mục tiêu đấu tranh, hay là điều gì khác? Lê Đạt viết trong bài "thú nhận":
"Về mục tiêu đấu tranh của Nhân Văn: Một mặt, lật đổ bộ phận lãnh đạo mà tôi cho là bè phái (đồng chí Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi), một mặt nữa đấu tranh với Trung ương về tự do dân chủ, tôi tán thành nhưng vẫn muốn đấu tranh bằng hình thức văn nghệ. Lúc đó tôi có khuyên Hoàng Cầm nên đẩy mạnh mặt văn nghệ của tờ báo còn phần đấu tranh cho tự do dân chủ thì làm một phần nhẹ thôi". "Xét cho cùng lúc đầu tôi với Nguyễn Hữu Đang chỉ khác nhau về chiến thuật. Tuy không tham gia biên tập nhưng khi in số 1 thỉnh thoảng tôi cũng có đến[17]".
- Nhân Văn số 1, ra ngày 20/9/56, gồm các bài chính:
Bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, bài Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, bức tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo trên cổ, và bài Luật sư Nguyễn Mạnh Tường trả lời về vấn đề mở rộng tự do dân chủ.
- Nhân Văn số 2, ra ngày 30/9/1956, với ba bài chính: Phấn đấu cho trăm hoa đua nở của Trần Duy, Đào Duy Anh trả lời về vấn đề mở rộng tự do dân chủ và bài Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân Dân, do Nguyễn Hữu Đang viết, nhưng ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy.
- Nhân Văn số 3, ra ngày 15/10/1956, xác định rõ ràng đường lối tranh đấu cho tự do dân chủ với hai bài chính:
Nỗ lực phát triển dân chủ của Trần Đức Thảo và Đặng Văn Ngữ trả lời về mở rộng tự do dân chủ.
Sau Nhân Văn số 3, có ba sự kiện quan trọng xẩy ra:
- Phan Khôi đi Trung Quốc.
- Trường Chinh tổ chức tọa đàm.
- Trần Duy lên gặp thủ tướng Phạm Văn Đồng.
(còn tiếp) -
15-02-2016, 07:14 #9
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)Phan Khôi đi Trung Quốc
Nhân Văn số 3 đăng một thông báo ngắn của Phan Khôi:
"Tôi đi công tác Trung Quốc một thời gian chưa biết bao lâu. Về tờ báo Nhân Văn, tôi ủy quyền chủ nhiệm cho ông Trần Duy, thư ký toà soạn, ông Trần Duy sẽ chịu trách nhiệm trong những ngày tôi đi vắng. Tuy vậy, tôi cũng vẫn liên đới chịu trách nhiệm."
Phan Khôi
Theo Hoàng Cầm, sau Nhân Văn số 3[18], Trung Quốc mời đích danh Phan Khôi sang dự lễ 100 năm sinh Lỗ Tấn, bởi vì người ta biết Phan Khôi là người dịch Lỗ Tấn hay nhất ở Việt Nam. Ban lãnh đạo Việt Nam thương lượng với bên Tàu cho một người đi kèm. Phan Khôi biết thế, ông bảo: Thế nào nó cũng cử một người nữa đi kèm. Tôi (Hoàng Cầm) hỏi: Bác có đồng ý không? Ông bảo: Nó đưa ra ba, bốn người, tau không đồng ý, sau đến cậu này, tau bảo được, vì thấy nó cũng lành. - Ai vậy? - Tế Hanh. Tế Hanh tôi biết là người tốt bụng, nhưng nhút nhát không dám thân mật với anh em Nhân Văn.
Trước khi đi, ông bắt tôi phải lo cho ông hai số đầu Nhân Văn, đủ 20 bản mỗi số, và 3 cuốn Giai Phẩm, mỗi cuốn 10 bản. Báo bán hết nhẵn rồi, tôi phải hỏi anh Minh Đức, may anh ấy là chủ nhà xuất bản nên giấu lại một ít. Tối hôm trước khi ông đi, tôi đến thăm, thấy ông và bà vợ đang sửa soạn va li. Bà chuẩn bị quần áo ấm cho ông. Riêng sách báo thì ông chất vào một va li to, độ khoảng 20 tờ Nhân Văn với 30 quyển Giai Phẩm cả Mùa Xuân, Mùa Thu. Ông đường hoàng lắm, nhà ông khi có khách ông chả cần đóng cửa, ông chẳng có gì phải giữ kín, thậm chí ông chửi cán bộ cộng sản to tướng, mà ông cứ nói oang oang, tôi rất sợ, nhưng không dám can "bác nói sẽ chứ", sợ ông mắng.
Chợt anh Phan Thao đến thăm bố, hỏi: Mai đi bố đã chuẩn bị xong chưa? Ông không trả lời. Lúc anh sờ đến cái va li ông đã đóng rồi, mở ra, thấy trong toàn Nhân Văn với Giai Phẩm, anh nói: Sách báo này sao bố mang đi nhiều thế, mỗi thứ một cuốn là đủ. Thì ông nổi giận: Không việc gì đến mi, việc của tau tau làm. Phan Thao vẫn kiên nhẫn nói năng nhỏ nhẹ: Con thấy bố mang đi nặng, thêm mệt, vô ích, bố định phân phối cho người ta hay sao mà mang nhiều thế. Ông càng cáu, hét to: Việc tau tau làm, mày cút đi! Ông quát to lắm, giọng ông còn khỏe, lúc ấy ông đã 70, tôi nghĩ ông còn sống lâu lắm. Phan Thao cứ bình tĩnh xem xét hành lý, can bố đừng mang tài liệu này, kia, ông lại càng cáu, chỉ tay ra cửa: Việc tau tau làm, mày cút đi! Cái thằng cộng sản! Tôi can cũng không được, ông càng nóng thêm, ông mắng nặng lắm: Tao không bố con gì với mi, nó là quân cộng sản, là đồ chó. Tôi đành nói với anh Thao: Thôi anh về đi, ông cụ đang có gì bực mình. Anh Phan Thao đành phải ra về.
Thế rồi ông đi, đi độ hơn 20 ngày thì ông về, ông kể, chúng nó thay hết những số báo trong khi bay, chỉ có hai số Nhân Văn ông để trong túi xách tay là còn. Ông định mang sách báo sang Tàu để tặng những người nào trong hội nghị mà ông thấy chơi được. Chỉ còn hai số báo Nhân Văn, ông đành cho mượn đọc. Tôi hỏi họ nghĩ gì, thì ông bảo Trung Hoa người ta khéo lắm, không phê bình gì cả, chỉ khen báo in đẹp. Ông cay chuyện bị mất báo lắm, động nói đến là ông chửi. Sau tôi không dám hỏi nữa. Khi ông về thì chúng tôi đã sửa soạn xong Nhân Văn số 4[19].
Trần Duy lên gặp Phạm Văn Đồng
Trần Duy thuật lại trên RFI:
"Tôi gặp anh Phạm Văn Đồng, ông Đồng gọi tôi lên, khi đó là số 3 rồi. Khi đó có những tin đồn là Nhân Văn muốn ngả về những mouvement, những phong trào đòi dân chủ ở Hung hay là ở Nam Tư gì đó, thì anh Đồng có cho gọi ban biên tập và tòa soạn lên, cuối cùng anh em bảo Trần Duy lên gặp, thì tôi lên. Việc tôi lên gặp ông Đồng cũng có một số anh em tán thành, một số không tán thành, cho rằng như thế là tự mình ràng buộc với... chính quyền.
Nhưng tôi nghĩ rằng anh không thể nào vượt chính quyền được và anh không thể nào vượt khỏi tổ chức của đảng được, không thể chống lại được nó, làm cái gì cũng phải nằm trong cơ sở tổ chức của đảng thôi. Tôi lên gặp ông Đồng. Thái độ của ông Đồng rất cởi mở, gặp tôi bảo: "Tôi hiện nay rất bận (...) , tôi ủy cho anh Phan Mỹ thay tôi để giải quyết những vấn đề gì của anh em còn vướng mắc, theo tôi thì đừng nói chữ đấu tranh, các anh cần gì, yêu cầu gì, các anh cứ việc đề ra và chúng tôi giải quyết chứ đừng đấu tranh, đòi hỏi cái gì mà phải đấu tranh" (...). Ông Đồng đi thì tôi ngồi nói chuyện với anh Phan Mỹ, anh Phan Mỹ bảo: Các anh cần gì, vấn đề tài chính thì tất nhiên chính phủ làm được việc đó, các anh cần mua giấy thì chúng tôi cấp giấy cho các anh mua. Xong việc ấy tôi về gặp anh em ở một cái quán nhỏ đầu Hàng Nón, mọi người ở đấy, có Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, ... và tôi. Một lúc thì Đang đến, tôi nói chuyện tôi gặp như thế thì tất cả mọi người, trừ Lê Đạt, đều cho rằng thái độ của tôi là thái độ đầu hàng[20]".
Theo tin trong Nhân Văn số 3: Sở dĩ Nhân Văn phải bán giá cao hơn các báo khác, vì "chỉ được Cơ Quan Mậu Dịch Trung Ương cung cấp giấy đủ để in 2000 số", trong khi số 2, in 6000 và số 3, in 7000 số, vì vậy phải mua thêm giấy ngoài thị trường với giá đắt gấp đôi giá mậu dịch".
Tin trong Nhân Văn số 4:
"Kỳ này, in 12.000 số, mà vẫn chỉ được Sở Báo Chí và Mậu Dịch Trung Ương cung cấp giấy đủ in 2000 số, tuy chúng tôi đã nhiều lần xin thêm".
Hoàng Cầm cho biết: Đến số 5 thì toà soạn cho tái bản từ số 1 đến số 5, mỗi số in từ 2 vạn (20.000) đến 2 vạn rưởi (25.000) và sang số 6, định in ba vạn (30.000) số[21].
Trường Chinh tổ chức tọa đàm
Theo tin trên Nhân Văn số 4 ra ngày 5/11/56, thì ngày 20/10/56 bắt đầu cuộc tọa đàm giữa đại diện ban chấp hành Trung Ương đảng Lao Động Việt Nam và các ngành văn học nghệ thuật. Ba buổi tọa đàm này được tổ chức những ngày: 20, 21, và tối 23/10/56[22].
Võ Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn, viết:
"Ngay từ khi chúng xuất bản "Giai phẩm mùa thu" tập I và Nhân Văn số I, giới văn nghệ sĩ ta đã thấy rõ tính chất phản động của chúng, nên đã kịp thời phê phán chúng trước dư luận nhân dân. Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam muốn mở đường cho chúng hối cải, nên tuy rất bận về công tác sửa sai rất khẩn trương, cũng đã để thì giờ gặp chúng đến ba lần, để nghe chúng phát biểu thắc mắc nguyện vọng và nghe chúng phê bình sự lãnh đạo của cán bộ phụ trách văn nghệ của Đảng rồi khuyên bảo chúng những điều nên làm và những việc nên tránh[23]".
Lê Đạt viết trong bản "tự thú":
"Sau cuộc tọa đàm với Trung Ương, tôi viết bài “Hoan nghênh Trung Ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng” để gây thanh thế cho báo Nhân Văn. Một mặt khác tôi luôn luôn đả kích chuyên chính vô sản mà tôi cho là độc tài. Tôi tung ra trong anh em lập luận: “Từ khi về hoà bình mất đối tượng đế quốc và địa chủ, Đảng chĩa nhầm mũi dùi chuyên chính vào nhân dân”[24].
Trần Dần viết trong bài "tự thú":
"Khoảng Nhân Văn số 3, tôi được cử đi gặp Trung Ương Đảng. Tôi chuẩn bị kết án sự lãnh đạo văn nghệ trước, và đòi trăm hoa đua nở. Song mọi người nói cả rồi nên thôi (sau có viết bài đăng báo Nhân Văn). Trước cuộc họp tọa đàm này, Nguyễn Hữu Đang có họp tôi không dự, nội dung đâu như chuẩn bị ra một số đặc biệt, lợi dụng cuộc tọa đàm với Trung Ương đem mọi lời phát biểu phơi trần ra công khai đánh vào Đảng[25]".
Theo lời khai trên đây của Trần Dần, thì từ sau số 3, ông không còn "ở ngoài" Nhân Văn (như ông đã khai ở phần trên) mà đã "vào trong" Nhân Văn. Trần Dần đến dự buổi tọa đàm với mục đích "kết án sự lãnh đạo văn nghệ" và"đòi hỏi trăm hoa đua nở", nhưng chưa kịp nói thì "mọi người đã nói cả rồi".
Mặc dù tên Trường Chinh không được chính thức nêu ra -có lẽ vì ông đã lệnh cho báo chí không được viết về vụ tọa đàm- nhưng qua băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, thì Trung Ương Đảng ở đây chính là Trường Chinh:
"Trong thời gian từ số 3 đến số 5 Nhân Văn, ông Trường Chinh[26] mời một số nhà báo đến họp tại trụ sở Trung Ương Đảng. Địa điểm trông ra hồ Ha-Le, sau này là đại sứ quán Lào. Giấy mời ký tên Phan Mỹ, đổng lý văn phòng Phủ Thủ Tướng. Đại diện các báo có đủ cả: Thanh Niên, Trăm Hoa, Phụ Nữ... Báo Nhân Văn đi dự gồm: Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Trần Duy, Lê Đạt, Trần Dần không đi[27], Phùng Quán còn non nớt quá, chúng tôi không cử.
Thụy An cũng đi, không hiểu ví lý do gì. Thụy An không làm báo Nhân Văn nhưng rất thân với Lê Đạt và Phùng Quán, có thể là chính ông Trường Chinh mời, vì bà ở trong Hội Văn Nghệ.
Ông Trường Chinh ngồi một mình một bàn ở trên, ông tuyên bố ngắn gọn, đại ý: Hôm nay tôi mời các báo đến để xem tình hình trong nước, tình hình thế giới, vậy xin các bạn cứ phát biểu tự do, nói lên những nguyện vọng của mình.
Không có thư ký, ông ghi lấy, ai nói gì ông cũng ghi, ông ghi lia lịa. Trong khi mọi người phát biểu thì chúng tôi vẫn có thể nói chuyện thì thầm với nhau.
Tôi ngồi đối diện ông Tố Hữu. Trần Duy đối diện ông Xuân Thuỷ. Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt ngồi riêng.
Ông Tố Hữu nói với tôi bằng một giọng rất nhỏ nhẹ, đại ý: qua những số báo Nhân Văn vừa rồi, tôi thấy anh viết những điều không có lợi cho Đảng... Tôi chỉ mỉm cười không trả lời. Những người lên phát biểu chỉ trích những sai trái của lãnh đạo. Tôi lên nói về vụ Trần Dần, Tử Phác, một nhà thơ và một nhạc sĩ, chỉ vì một bài đăng trên Giai Phẩm Mùa Xuân mà bị bắt giam xuống một cái hầm đã giam những tội phạm chính trị của thực dân Pháp, chứng tỏ có một cá nhân nào đã lợi dụng quyền thế để đàn áp văn nghệ sĩ, tôi yêu cầu Đảng và nhà nước, tìm ra ai là thủ phạm, ai là người xướng xuất ra vụ bắt bớ này. Ông Trường Chinh chỉ ghi, chứ không nói gì.
Anh Nguyễn Bính lên tố cáo bị Thiết Vũ đánh. Ông Trường Chinh vẫn ghi rất nhanh vào cuốn sổ riêng. Thụy An, Nguyễn Hữu Loan cũng phát biểu, về những hiện tượng "không tốt đẹp" ở miền Bắc... thì ông Trường Chinh cũng cứ ghi, ghi rất nhanh mà không nói gì.
Lúc vãn họp, ông mới nói đại ý: Tôi yêu cầu các báo giữ kín, không được tường thuật, không đăng một tý gì.
Về, thì ông Đang bảo: Ông Trường Chinh bảo không đăng, không tường thuật, mình cứ đăng chứ sợ gì, làm ngắn thôi và viết đúng như sự thật.
Riêng Văn Cao, thì đến số mấy tôi không nhớ rõ, tôi có lấy một đoạn thơ của Văn Cao trong bài Cửa biển[28] đăng lên, Văn Cao không nói gì, tức là đồng ý.
Văn Cao không tham gia trực tiếp Nhân Văn, nhưng hôm họp với ông Trường Chinh, Văn Cao phát biểu đại ý: Tôi thấy báo Nhân Văn nói lên được tâm tư nguyện vọng của văn nghệ sĩ, Nhân Văn sống trong trái tim tôi.
Thế thì độ 3, 4 ngày sau buổi họp này, Văn Cao kể lại với tôi: ông Trường Chinh mời riêng Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, và tao lên. Ông ấy ghê lắm, đối với Nguyễn Tuân thì ông ấy nói rất dịu dàng, đại để: các nhà văn có tên tuổi thì nên giúp Đảng lãnh đạo nhân dân cho tốt, nếu thấy Đảng sai thì nên thân mật gặp tôi hoặc đồng chí nào ở Bộ Chính Trị, ý ông ấy muốn bảo là đừng viết báo nhưng không nói rõ ra. Đối với tao, ông ấy gay gắt hơn: Thế nào, đồng chí Văn Cao cũng ủng hộ Nhân Văn à? - Thế mày có trả lời gì không? Tao bảo: Vâng, tôi ủng hộ họ vì tôi nghĩ họ tốt. Còn Nguyễn Huy Tưởng thì bị ông ấy xát xà phòng:Anh Tưởng, anh là đảng viên mà anh để cho chúng nó chửi Đảng như thế mà anh ngồi yên được à? Nguyễn Huy Tưởng chỉ ngồi yên, bình tĩnh, nét mặt không thay đổi, không trả lời gì cả".[29]
Lời khai của Lê Đạt, Trần Dần và lời thuật của Hoàng Cầm chứng tỏ, nhóm NVGP và một số văn nghệ sĩ, đối diện với Trường Chinh, trong tọa đàm tháng 10/56, có vẻ không sợ hãi gì cả. Trường Chinh để họ thoải mái chống đối, chỉ lặng lẽ ghi. Ông ra lệnh không được tường thuật vụ tọa đàm, nhưng Nhân Văn làm ngược lại, viết hai bài rất mạnh trên số 4 về tọa đàm. Hai bài này đánh dấu không khí căng thẳng giữa lãnh tụ và các văn nghệ sĩ tự do và ngôn ngữ mạnh bạo trên tờ Nhân Văn. Bài Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa, ký tên Người Quan Sát, mở đầu như sau:
"Bước đầu để thực hiện quyết định của Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Tăng cường bảo đảm quyền tự do của nhân dân và trừng trị kịp thời, đúng mức những hành động vi phạm pháp luật. Chúng tôi đề nghị có những biện pháp thích đáng trừng trị Nguyễn Văn Tố tức Thiết Vũ trong việc hành hung chủ nhiệm báo Trăm hoa. Sở báo chí Trung ương phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này".
Và Người Quan Sát tường thuật vụ việc như sau:
"Theo lời ông Nguyễn Bính chính thức báo cáo trong hai buổi tọa đàm của đại diện Trung ương Đảng Lao động, thì trước khi báo Trăm Hoa mới ra số 1[30], Nguyễn Văn Tố tức Thiết Vũ, cán bộ của Sở báo chí, đến đưa cho ông 2 bài đả kích báo Nhân Văn, rồi yêu cầu đăng và đồng thời cũng mập mờ lấy danh nghiã cơ quan hứa hẹn cấp giấy rẻ cho báo Trăm Hoa thừa hai "ram"[31] để in, không hết sẽ bán theo giá thị trường (rất cao) mà tiêu dùng. Ông Nguyễn Bính không từ chối ngay việc mua đó, nhưng cũng không đăng hai bài báo kia, lấy cớ là không hay. Sau đó báo Trăm Hoa xin cấp giấy cho số 2, thì bị Sở (...) Trung ương Đảng trong buổi tọa đàm ngày 20/10[32].
Thế là chiều hôm thứ hai 21/10, Nguyễn Văn Tố đến trụ sở báo Trăm Hoa, vẫn lấy danh nghĩa Sở Báo Chí, mà chất vấn ông Bính về chuyện báo cáo hôm qua rồi dùng những lời thô bỉ, thậm tệ mà lăng mạ ông, lại toan hành hung ông nữa. Ông Bính phải chạy ra ngoài cửa hô hoán lên, hàng phố kéo đến, người qua đường dừng bước, thành một đám đông. Sau đó ông Bính nhờ người đi báo công an, các bạn đồng nghiệp, Hội Văn Nghệ và Sở Báo Chí. Thế rồi có cuộc thương lượng giữa ông Trần Minh Tước, giám đốc sở Báo chí và ông Bính. Kết quả chúng ta đã biết: Nguyễn Văn Tố viết một bức thư xin lỗi đăng trên báo Trăm Hoa số 2 và đến tự kiểm thảo trong một buổi họp nhân dân khu phố. Đến đây câu chuyện xoay chiều. Vì những lý do bí ẩn nào chúng tôi không rõ. Chúng tôi chỉ biết bức thư xin lỗi và cuộc kiểm thảo kia đưa ra những sự việc khác hẳn những sự việc mà ông Bính đã chính thức báo cáo trong hai buổi tọa đàm ngày 21/10 và tối 23/10".
Bài báo kết luận:
"Người ta biết rằng chủ nhiệm báo Trăm Hoa vì đi dự tọa đàm với đại diện Trung ương Đảng, có báo cáo chuyện mua chuộc và trả thù bỉ ổi nên trở về bị lăng mạ và suýt bị hành hung. Việc đó có một ý nghiã xúc phạm gián tiếp đến cuộc tọa đàm không còn ra thể thống gì nữa.
Người ta lại biết rằng gần đây các giới văn nghệ sĩ và trí thức thắc mắc rất nhiều về vấn đề bảo vệ nhân phẩm của văn nghệ sĩ, trí thức và quyền tự do dân chủ, giữa lúc này mà ngay sát cạnh Trung ương Đảng và Chính phủ, một cán bộ của Sở Báo Chí ngang nhiên láo xược, hung hãn đối với một văn nghệ sĩ lại là chủ nhiệm kiêm chủ bút một tờ báo, thì hãy hỏi y muốn chứng minh điều gì có lợi cho chính sách, cho chế độ?"
Tuy không nêu tên Trường Chinh, nhưng tác giả trực tiếp buộc tội "Trung Ương" dung túng sự "láo xược, hung hãn" của một cán bộ thừa hành; và ông đòi hỏi giới "thẩm quyền" phải có một "biện pháp cụ thể" không được "dung túng bọn sâu mọt", phải ngăn ngừa những "hành động côn đồ, manh động" không để "xẩy ra giữa thủ đô, chứ đừng nói gì đến tự do dân chủ vội".
Lập luận này xác định người viết là Nguyễn Hữu Đang.
Bài Hoan nghênh trung ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng của Lê Đạt mạnh mẽ trong một chiều hướng khác, ông viết:
"Ngày 20/10/56, đã bắt đầu cuộc tọa đàm giữa đại diện Ban chấp hành trung ương Đảng Lao Động và (...) đủ các ngành (...) điện ảnh. Ban (...) Nhân Văn đã đề cử ba đại biểu đến tham dự.
Từ mấy tháng nay cuộc đấu tranh sôi nổi và công khai của anh em văn nghệ sĩ chống những tệ lậu của bè phái lãnh đạo đòi thực sự mở rộng tự do dân chủ đã bị một số người hiểu lầm.
Họ gán ghép cho anh em những chiếc mũ không tốt: bất mãn, địa vị, thậm chí phản động. Cuộc tọa đàm này là một trả lời thích đáng cho những hạng người đó.
Nó chứng tỏ rằng cuộc đấu tranh của anh em căn bản là đúng, rằng anh em không phải là một nhóm người bất mãn đê tiện, mà là những người tha thiết vì dân vì Đảng muốn đóng góp phần xây dựng của mình".
Bài báo kết luận:
"Cuộc tọa đàm mới bắt đầu và còn tiếp tục nhưng chúng ta có đầy đủ cơ sở để đấu tranh và tin tưởng".
Lập luận của Lê Đạt rất khôn khéo: Chúng tôi đấu tranh đòi dân chủ, nhưng không chống Đảng. Buổi tọa đàm này "chứng tỏ bản chất của chế độ thực sự là dân chủ", mới chỉ là bước đầu, chúng tôi sẽ tiếp tục những bước kế tiếp.
Tóm lại, khi Phan Khôi đi vắng, Phạm Văn Đồng gọi Trần Duy, lúc đó thay quyền chủ nhiệm, lên gặp riêng, là có ý gì? Nếu Phan Khôi không đi Trung Quốc, liệu Phạm Văn Đồng có "dám gọi" Phan Khôi lên gặp riêng không?
Việc Trường Chinh tổ chức tọa đàm và Phạm Văn Đồng gặp riêng Trần Duy, hẳn là chính sách hợp nhất của trung ương, có gây ít nhiều chia rẽ trong nội bộ Nhân Văn. Trần Duy cho biết lúc đó ban biên tập đã định đưa Trần Công vào thay thế ông, nhưng rồi cũng thôi.
Tuy nhiên, hành động của trung ương tạo hai nghi vấn:
- Lợi dụng lúc Phan Khôi vắng mặt, Phạm Văn Đồng gọi Trần Duy lên gặp riêng và khi trả lời phỏng vấn RFI, ông tỏ vẻ chấp thuận giải pháp "không nên đấu tranh, có yêu cầu gì thì nói thẳng với trung ương", của ông Đồng. Nhưng tại sao trong buổi họp Nhân Văn số 4, chính Trần Duy lại "đưa ra chủ trương đề cập đến những vấn đề chính trị mạnh hơn nữa" như lời khai của Lê Đạt? Và bài ông viết trong Nhân Văn số 4 chống đảng rất mạnh.Vậy những gì đã thực sự xẩy ra trong buổi gặp riêng này?
- Trường Chinh tổ chức tọa đàm để chứng tỏ tính dân chủ của Đảng hay để dụ dỗ những người phản đối nói hết gan ruột mình, ông chỉ việc ghi chép, rồi sập lưới bắt trọn ổ?
Dù sao chăng nữa, sau việc Trần Duy lên gặp Phạm Văn Đồng và Trường Chinh tổ chức tọa đàm, Nhân Văn số 4 nghiêng hẳn sang đấu tranh chính trị.
Ngõ quặt chính trị của Nhân Văn số 4, số 5 và số 6
Nhân Văn số 4 ra ngày 5/11/1956. Ngoài hai bài Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa, và Hoan nghênh Trung Ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng, đã nói ở trên, Nguyễn Hữu Đang lần đầu tiên ký tên thật, trong bài xã luận Cần phải chính quy hơn nữa, đặt vần đề cần phải xây dựng một nhà nước pháp trị. Bài Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ của Trần Duy, với sự góp ý của Lê Đạt, chỉ trích đảng cố tình đàn áp Nhân Văn. Phùng Cung xuất hiện với truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh. Văn Cao đăng bài thơNhững ngày báo hiệu mùa xuân, như để trả lời sự đe nẹt của Trường Chinh.Thanh Châu viết phóng sự Mua hàng mậu dịch. Những bài chính luận và sáng tác trong Nhân Văn số 4 mang tính cách đấu tranh chính trị xã hội quyết liệt. Hoàng Cầm viết trong bản "tự thú":
"Từ sau số 3 Nhân Văn, càng ngày tôi càng thấy tờ báo bị công kích dữ, nhất là sau số 4, Nhân Văn bị thi hành kỷ luật[33], tôi bắt đầu chùn và muốn lảng ra, không phải vì tư tưởng chống Đảng đã giảm đi mà chính là vì sợ, muốn tìm chỗ yên thân, nên tôi lại cố sức đi vận động Trần Duy đóng cửa báo - muốn lảng ra không được, tên Trần Đức Thảo lại thuyết phục, tôi vẫn bị hút vào, nhưng vẫn chân trong chân ngoài chỉ chực trốn. Thời kỳ cuối Nhân Văn, cái tính chất “văn dốt, vũ rát” (nhát) của tôi biểu hiện rất rõ ràng: nghe ý kiến của Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang nêu ra những “trách nhiệm với lịch sử” để tiếp tục ra báo, tôi cũng thấy phải - Về gặp Văn Cao, Trần Dần nêu ra vấn đề “đóng cửa báo, vì tờ báo đang phiêu lưu, dễ bị đánh chết” tôi lại thấy phải[34]".
Qua lời khai của Hoàng Cầm, sau số 4, Hoàng Cầm, Văn Cao, Trần Dần muốn rút lui, đóng cửa báo; trong khi Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo và Lê Đạt nhất quyết tiếp tục ra báo trong hướng đấu tranh chính trị. Vai trò hướng dẫn tư tưởng của Trần Đức Thảo và hướng dẫn cách viết của Lê Đạt nổi bật trong Nhân Văn số 4.
Trần Dần khai:
"Tới Nhân Văn số 4 tôi nhận được giấy triệu tập đến họp về vấn đề: Báo có chuyển sang chính trị hay không? Trần Duy ký. Địa điểm ở nhà Trần Duy. Thực ra từ số 1 bọn Đang, Phan Khôi đã đòi làm chính trị và báo Nhân Văn đã đề cập đến vấn đề tự do dân chủ ở mức độ nào đó rồi. Âm mưu chính trị có từ đó, đến nay nhân thời cơ thế giới, bọn họ muốn đẩy mạnh phần chính trị lên hòng làm sôi sục tình hình Việt Nam, gây ra những sự biến chính trị, nếu có thể. Tôi ngửi thấy sự nguy hiểm đó, tuy không rõ. Đến cuộc họp tôi can họ “sang chính trị sẽ bị bóp chết ngay.” Vẫn chỉ là cái ý thức sợ phong trào bị tổn thất nặng. Song Trần Đức Thảo (tôi gặp lần đầu) hắn nói: “Văn nghệ và chính trị không thể tách được, không có tự do dân chủ, làm sao có tự do sáng tác? Báo nên sang mọi vấn đề chính trị tùy cách mà bàn thôi!” Ý kiến hắn có poids[35] cuộc họp bị hắn dắt mũi đi.
Tình hình gay gắt lắm rồi, tôi tìm Văn Cao. Văn Cao bảo “nên vận động đóng cửa báo, anh em đỡ thiệt hại, trên có đánh sẽ bị hẫng! Tôi hoàn toàn đồng ý. Đi vận động một số người đã ngả rồi, đến cuộc họp có Trường Xuân dự (bịa tin là Hồ Chủ tịch bảo con dao mổ trâu không đem giết gà) thì anh em lại bị bọn Trần Duy, Trường Xuân chúng dắt đi[36]".
Lê Đạt trong bài "thú nhận", viết: "Lúc này tôi vẫn còn ở trong Đảng, nhưng tư tưởng chống đối trong tôi đã phát triển mạnh. Tôi còn tán thành và đi nói với anh em quan điểm của Nguyễn Hữu Đang. Bản thân tôi cũng từng nói “Đảng trị” cho nên trong cuộc họp số 4, Trần Đức Thảo, Trần Duy đưa ra chủ trương đề cập đến những vấn đề chính trị mạnh hơn nữa tôi cũng đồng ý". (...) "Tôi góp ý kiến với Trần Duy trong bài “Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ” sửa chữa nhiều đoạn:
“Đấu tranh cho tự do dân chủ là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ vì nó là một cuộc tấn công quyết liệt vào những tệ lậu hủ bại của xã hội. Nó sẽ bị những phần tử tệ lậu và hủ bại hiện đương còn quyền hành và thế lực cản trở xuyên tạc phá hoại có khi bằng cả những phương pháp đen tối độc ác (chỗ này tôi ám chỉ các đồng chí lãnh tụ) đấu tranh cho tự do dân chủ không bao giờ chỉ là một công việc thuần tuý có tính chất quần chúng rộng rãi (...) Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài "Mậu dịch" và còn dự định vận động Thanh Châu viết về vấn đề nhà cửa. Tôi góp ý kiến vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch (...) Tôi lại viết "lời toà soạn" cho truyện "Con ngựa già" của Phùng Cung, đả kích và vu khống lãnh đạo văn nghệ không chú ý đến các nhà văn trẻ[37]".
Kết quả là trên Nhân Văn số 4, Nguyễn Hữu Đang công khai đòi hỏi một nhà nước pháp quyền và đến Nhân Văn số 5, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt tiến xa hơn nữa.
Nhân Văn số 5 ra ngày 20/11/1956 với hai bài xã luận chính: Hiến pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? của Nguyễn Hữu Đang, nội dung đề nghị sửa đổi Hiến pháp 1956, hoặc làm một hiến pháp mới, và Bài học Ba Lan và Hung-ga-ry ký tên Người Quan Sát, do Lê Đạt viết, ngụ ý nếu chính quyền không chịu cải tổ chính trị thì miền Bắc Việt Nam sẽ trở thành một Ba Lan, một Hung-ga-ry.
-
15-02-2016, 07:25 #10
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)Lê Đạt viết trong bài "thú nhận":
"Tôi đồng ý với Nguyễn Hữu Đang đề cập đến vấn đề Hiến Pháp để làm áp lực chuẩn bị cho việc sửa đổi Hiến Pháp sắp đem bàn ở Quốc Hội. (...) "Trên thế giới lúc đó xẩy ra hai sự kiện: Vụ Poznan và vụ Hung-ga-ri. Lúc đó tôi rất bất mãn với nhận định của Đảng về vấn đề Hung-ga-ri mà tôi cho là “đổ tất cả cho địch” đồng thời đề ra khẩu hiệu tăng cường chuyên chính. Tôi viết bài “Bài học Ba Lan, Hung-ga-ri” để làm áp lực đấu tranh với quan điểm đó (...) Quan điểm của Trần Dần trong bài “Phải để cho trăm hoa đua nở[38]" cũng là quan điểm của tôi và Trần Dần thường bàn chủ trương “Đảng không thể quyết định, quần chúng mới là trọng tài tối cao[39]".
Về Nhân Văn số 6, Trần Duy cho biết:
"Xong số 3, tôi chuẩn bị mấy số sau, cái affiche về Ba Lan thì chính tôi lên tiếp xúc với sứ quán Ba Lan, họ cho tôi tất cả tài liệu, affiche, tranh ảnh về Ba Lan và tôi đang định làm số đó. Nhưng sau vụ tôi lên gặp ông Đồng ấy, thì ông Đang ông ấy đùng đùng ông tự động thay đổi. Lê Đạt cũng bảo cái chuyện mà Đang lên nhà in tự động thay đổi nội dung rất là nguy hiểm. Thì rồi xẩy ra việc mà bên công an can thiệp, nhưng không can thiệp đến ban biên tập, không can thiệp đến người, chỉ đình số báo lại và không cho phát hành. Nếu số báo ấy ra thì chưa biết tình hình sẽ đi đến đâu. Tất cả số báo đó tôi hoàn toàn không biết[40]".
Lê Đạt viết trong lời thú nhận:
"Đến số 6, Đang mượn được một số France Observateur, bàn nên ra một số đặc biệt về Ba Lan. Tôi rất tán thành cho rằng Đảng ta hay bưng bít tài liệu bây giờ đấu tranh bằng cách trình bày những tài liệu nước ngoài tác dụng rất tốt mà Đảng có muốn phê bình cũng không làm gì được. Đây cũng là một chiến thuật tốt để tấn công Đảng. Bài vở số này do Đang và Trần Duy sắp xếp. Về bài xã luận của Nguyễn Hữu Đang tôi cũng xem cũng như những bài xã luận mấy số 4, 5 trước khi Nguyễn Hữu Đang đưa in. Đọc đến chỗ “nhân dân có quyền biểu tình”, tôi hỏi. Nguyễn Hữu Đang trả lời “Báo Nhân Dân đã khoẻ chửi, đánh cho một đòn như thế là chịu”. (Chỗ này Nguyễn Hữu Đang chơi chữ: Lê Đạt hỏi nhân dân, Nguyễn Hữu Đang trả lời Nhân Dân)
Lúc đó tất cả tâm trí tôi chỉ lo đối phó với các báo của Đảng, nên đồng tình. Trong lúc đương in số 6, thì phong trào phản đối lên mạnh. Tôi muốn đóng cửa. Nhưng trong cuộc họp chủ trương tiếp tục, Trần Đức Thảo và Trường Xuân, Phan Khôi thắng thế. Nhưng kết quả báo cũng bị đóng cửa. Tôi ngại Chi Bộ thi hành kỷ luật và cũng hoang mang, ngại sự phẫn nộ của quần chúng không biết làm thế nào nên lánh mặt và không gặp anh em nữa".
"Đôi lúc tôi có nghĩ “Giá có biểu tình để Trung Ương thay đổi đường lối thì tốt”. Nhưng lại lo không muốn biểu tình xảy ra vì nếu có “một là tôi sẽ bị bắt vào Hoả Lò, hai là trong lúc hỗn quân hỗn quan sẽ bị treo cổ”.
"Giữa tôi và Nguyễn Hữu Đang lúc đầu không phải là khác nhau về lập trường chống đối mà chính chỉ khác nhau về phương pháp mà thôi[41]".
Như vậy, trong những ngày cuối cùng của Nhân Văn: Trần Đức Thảo, Phan Khôi vẫn là hai kiện tướng.
Trường Xuân chưa rõ là ai.
Ngày 09/12/1956, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh: Báo chí phải "phục vụ công nông binh", phục vụ nền "chuyên chính vô sản". Phạt tù 5 năm đến khổ sai chung thân kẻ nào vi phạm các cấm điều.
Theo Hoàng Văn Chí, những điều khoản trong sắc lệnh 15/12/56[42] đã được ban bố từ tháng 10/54, sau khi tiếp thu Hà Nội. Nhưng lúc đó báo chí phần lớn đều là của Đảng, nên những cấm điều chỉ "giao hẹn mồm" mà vẫn được áp dụng triệt để:
- Không được chống chính phủ, chống chế độ.
- Không được xúi giục nhân dân làm loạn.
- Không được nói xấu các nước bạn.
- Không được tiết lộ bí mật quân sự.
- Không được đăng bài vở có phương hại đến thuần phong mỹ tục[43].
Nhưng từ khi Nhân Văn Giai Phẩm xuất hiện, những tờ báo "đối lập" này không tuân thủ những cấm điều nữa: Nội dung bài vở chuyển tải rõ ràng ý chống Đảng, chống chế độ.
Ngày 15/12/1956, Nhân Văn số 6 đang in, bị chận lại và bị thu hồi.
Nhân Văn số 6: chủ tâm của chính quyền
Nhờ băng ghi âm Hoàng Cầm, chúng ta biết thêm một số dữ kiện về ba nhân vật đã đóng góp tích cực vào việc triệt hạ báo Nhân Văn: Diên Hồng, Trường Xuân và Lê Nguyên Chí.
Diên Hồng
Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm cho biết:
"Khi Nhân Văn ra số 1 rồi, có một người đến tìm gặp tôi, hóa ra anh Diên Hồng quen tôi từ 1947 trong kháng chiến. Anh là người đã tổ chức cho tôi và Tuyết Khanh diễn vở kịch Lên đường ở làng Dĩnh Sơn. Sau đó, tôi còn gặp lại anh trong bộ đội nhiều lần nữa, anh rất nhiệt thành và tôi rất quý anh. Anh nói riêng với tôi: Em thấy Nhân Văn số 1 nó hay quá, em muốn giúp các anh quản trị tờ báo cho có lời, em quen việc này rồi, hiện nay, em đang làm cán bộ quản lý cho một tiểu đoàn[44] thì việc tờ báo của các anh là rất dễ, em làm được. Lúc bấy giờ, anh em chúng tôi chỉ biết làm báo, viết bài, chứ có thạo quản trị đâu. Thấy anh ấy là người quen từ trước, lại tốt bụng, chịu quản lý hộ không lương, nên mọi người hoan nghênh lắm, đồng ý giao lại cho anh ấy, để yên tâm viết bài. Thế thì quả nhiên anh ta làm 4 số báo, từ số 2 đến số 5, sổ sách hết sức phân minh, đâu ra đấy, đều đưa cho tôi xem cả. Chính Diên Hồng đề nghị in lại năm số Nhân Văn, mỗi số từ hai vạn đến hai vạn rưởi, bán hết, tờ bào càng ngày càng lời, hết số 5 thì tiền lời lên đến 364 triệu, so với tiền năm 1998 này, có thể thành 1800 triệu. Chúng tôi để dành mở một nhà xuất bản. Báo và xuất bản phải đi đôi thì mới có cơ phát triển văn học nghệ thuật được.
Đến Nhân Văn số 6, anh Đang có cho tôi xem bài xã luận của anh, nội dung đòi quyền tự do biểu tình, không phải là kiểu mít-tinh nhà nước tổ chức, bắt buộc mọi người phải đi đâu, mà là quyền tự do thực sự, có trong hiến pháp 1946, như tự do cư trú, tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do biểu tình, giống như các nước dân chủ. Anh Đang viết rất hay, lý luận sắc sảo, nhưng khi đọc xong thì tôi nói: Bài này không nên đăng, vì nó có tính chất chính trị công khai, nguy hiểm lắm. Thế là ông Đang trố mắt quát tôi ngay, lúc bấy giờ ông ấy ghê lắm, chứ không như vài số đầu ông ấy còn nể tôi. Thế thì một bên là ông Đang và ông Trần Duy, một bên là ông Đạt và tôi, chỉ có bốn người tranh đấu với nhau, nhưng cuối cùng ông Đang thắng.
Nhân Văn số 6, tôi không giúp bài vở gì nữa, chỉ có ông Đang và ông Trần Duy làm. Bài vở đã xong, đem đến nhà in Xuân Thu, nhưng cứ nằm ỳ đấy chờ, vì Diên Hồng, cách đấy một tuần có nói với tôi là phải đi Hải Phòng mua giấy, vì Hà Nội hết giấy rồi. Anh mang cả số tiền để dành đi mua, dự trữ cho những số sau, rồi thuê camion chở về, tôi mừng lắm và hoàn toàn đồng ý. Không ngờ chờ một tuần, 10 ngày rồi hai tuần, không thấy Diên Hồng trở lại. Khoảng ba tuần sau khi hắn biến mất, thì có lệnh đình bản từ Phủ Thủ Tướng do ông Phan Mỹ, đổng lý văn phòng, ký.
Khi báo đã bị đình bản rồi, thì các báo khác, từ Nhân Dân đến Lao Động, Thanh Niên, Phụ Nữ, An Ninh, Văn Nghệ... nghiã là tất cả các báo lớn ở miền Bắc đều có bài ở trang nhất đánh phá Nhân Văn, nặng nhất là cái tội kêu gọi biểu tình chống Đảng, lật đổ chính quyền. Anh em chúng tôi cũng hội họp nhau bàn bạc, tôi nói: Với một chính quyền như thế này, người ta sẵn sàng bỏ tù mấy nhà báo quá khích. Lê Đạt cứ cười hinh hích: Tù thì tù sợ chó gì, nhưng cũng chẳng bỏ tù đâu! Ông Đang thì kiên quyết: Làm báo thì phải thế chứ!
Về sau, tôi nghĩ lãnh đạo đã tìm được tên Diên Hồng là kẻ có quan hệ tốt với Hoàng Cầm từ 1947, làm tay trong theo dõi. Đến số 6 là số nguy hiểm, hắn được lệnh mang cả quỹ tiền đi, lúc đó có thể ở Hà Nội vẫn còn giấy đấy, nhưng hắn lấy cớ đi Hải Phòng, mà mình thì không biết, cứ tin tưởng. Không có tiền, không có giấy, thì làm sao in được báo nữa? Đó là chuyện Diên Hồng và Nhân Văn số 6[45].
Trường Xuân
Về Trường Xuân, Hoàng Cầm kể:
Một hôm, trong buổi họp đông đủ, có một người đi với anh Trần Đức Thảo, được anh Trần Thiếu Bảo giới thiệu tên là Trường Xuân, làm cán bộ ở Phủ Thủ Tướng, rất quý anh em Nhân Văn. Anh Trường Xuân nói với chúng tôi: Sự thực thì các ông ở Bộ Chính trị không có gì phản đối các anh lắm đâu, nhất là bác Hồ, không phải bác bênh vực, nhưng bác coi chuyện này nhẹ thôi, không có gì đáng ngại cả. Vậy thì anh em cứ việc viết. Một lần có bài báo phê bình to chuyện Nhân Văn, bác Hồ bảo không nên đem con giao mổ trâu để giết một con gà, ý bác muốn nói: chuyện Nhân Văn có gì to tát mà làm ồn lên thế.
Anh Trường Xuân nói là đã được dự một buổi họp trong Bộ Chính Trị, có bác Hồ, và bác nói như thế, mà anh lại đi với ông Trần Đức Thảo, thì chúng tôi tin lắm.
Anh Trường Xuân đến họp độ hai lần, lần nào anh cũng kích động chúng tôi, bảo cứ mạnh dạn lên, cứ viết bạo đi, có ích lắm, bác Hồ cũng bênh vực cơ mà. Lúc đầu thì tôi cũng tin, vì hắn đi với Trần Đức Thảo, chẳng lẽ anh Thảo lại ngớ ngẩn đến thế, lại dẫn một tên xấu xa nào vào đây.
Nhưng sau cái vụ Diên Hồng, tôi mới liên hệ với cái tên Trường Xuân đi với ông Trần Đức Thảo: thôi chết rồi, lại vớ phải cái thằng kích động, nó xúi mình vào tròng đây. Ông Trần Đức Thảo thì ông ấy là triết gia, lúc nào cũng đi trên mây, có biết trời trăng gì đâu. Anh Đang cũng tin là thật, cho nên mới viết những bài đòi tự do, đòi quyền nọ, quyền kia, đòi biểu tính, không sợ, vì bác Hồ cũng chỉ coi là chuyện nhỏ thôi, Bộ Chính Trị phải nghe bác chứ, không việc gì phải sợ, cứ viết. Thì ra hắn cốt kích động để mình lòi ra, mình viết cho bằng hết, để nó cho vào sổ đen và cứ thế nó thịt từng người. Nhiệm vụ của tên Trường Xuân này là như thế.
Nguyên Chí
Hoàng Cầm cho biết:
Đến khi anh Đang bị bắt thì tôi suy ra cái tên Lê Nguyên Chí[46] có lẽ cũng là một thứ "chân gỗ" người ta cài vào để bắt cả bọn. Việc anh Đang bị bắt, sau khi đi tù 15 năm về, anh không hề kể gì cả, có lẽ trong tù người ta đã căn dặn kỹ không được tiết lộ bất cứ việc gì xẩy ra. Sau này anh Chính Yên, ở báo Nhân Dân -là bạn thân của tôi thời kháng chiến và là cháu ông Lê Duẩn- kể lại:
Trong khi xẩy ra lớp Thái Hà thì mấy người bàn nhau đi trốn, mà đi đường nào? Nếu đi đường rừng qua vĩ tuyến 17, thì xa xôi và nguy hiểm lắm. Nếu đi đường thủy thì chỉ cần qua vĩ tuyến 17 là vào Nam rồi, lúc đó đang còn ông Diệm. Mấy người họp nhau, thường bàn bạc ở nhà Thụy An, lúc ấy ở nhờ cái buồng nhỏ nhà anh chị Phan Tại, số 37, Trần Quốc Toản. Hàng ngày ông Đang và ông Minh Đức xuống đấy bàn chuyện trốn mà lại ngây thơ không biết rằng họ không cho đi học tập nhưng họ đã cho người theo dõi mọi cử động. Trong khi ấy thì có một anh hớt tóc rong, cắt tóc ngay bên vỉa hè nhà ông Phan Tại, hắn làm quen với ông Đang và nói giọng rất bất mãn chế độ. Không biết chuyện trò thế nào, mà nó biết là các vị cũng đang muốn vượt tuyến, thế là nó đề nghị ngay: Em cũng muốn đi lắm, nhưng một mình rất khó, không đủ tiền, em có thằng em làm nghề đánh cá ở Hải Phòng, nó đi biển thường xuyên, mình có thể nhờ nó thuê thuyền giùm, cho em đi cùng với. Thế là mấy người này tin tưởng vào nó, cũng như tôi tin vào Diên Hồng, để nó đứng ra tổ chức. Đến ngày đi, hẹn nhau ở Hải Phòng, rồi hắn đưa đến nhà người em chẳng biết là em thật hay giả. Chuẩn bị xong thì người em hắn lái thuyền cho đi, đi được 2 cây số ra biển thì bao nhiêu ca nô của quân đội, của công an từ đâu phóng ra bắt trọn bộ đưa về Hà Nội.
Nguyễn Đình Thi công bố cho toàn trường nghe đúng hôm chúng tôi phải bắt đầu viết bài tự kiểm thảo: Bọn phản động gián điệp Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Phan Tại, Trần Thiếu Bảo đã bị bắt quả tang trên đường trốn vào Nam[47].
Phải chăng ba nhân vật Diên Hồng, Trường Xuân và Lê Nguyên Chí, là những người của Đảng trà trộn vào, có nhiệm vụ đưa toàn bộ NVGP vào bẫy?
Luận điểm của Nguyễn Mạnh Tường trong tiểu thuyết Une voix dans la nuit: Đảng giăng bẫy, để bắt trọn ổ, phải chăng đã đặt cơ sở trên những nhận xét thực tiễn này?
Chúng ta vừa nhìn lại quá trình hình thành và một số sự kiện xẩy ra trong nội bộ báo Nhân Văn cho đến ngày NVGP bị cấm, Nguyễn Hữu Đang và các bạn bị bắt, với những dữ kiện xẩy ra và những âm mưu bên trong. Qua những chứng nhân của Lê Đạt trong phần thú nhận, ta biết rõ sự thực về hậu trường Nhân Văn, về sự tranh đấu cũng như óc chia rẽ, phân hoá trong mỗi con người, trước hoàn cảnh lịch sử. Chứng nhân của Hoàng Cầm, trong băng ghi âm, soi vào phần bóng tối, phần âm mưu của nhà cầm quyền và cái bẫy giăng sau lưng NVGP.
Về mặt văn bản, Nhân Văn, với những bài viết của Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt... mở mặt trận đấu tranh chính trị. Giai Phẩm với những bài của Trương Tửu, Trần Đức Thảo... mở mặt trận tư tưởng. Phan Khôi như một vị thủ lĩnh tinh thần của Nhân Văn và Giai phẩm.
Toàn bộ Nhân Văn Giai Phẩm là một kết hợp chặt chẽ giữa văn nghệ sĩ và trí thức trong cuộc đấu tranh cho tự do sáng tác và tự do dân chủ. Hai hình thái đấu tranh này đi đôi với nhau, không thể tách rời, như lời Trần Đức Thảo: "Văn nghệ và chính trị không thể tách được, không có tự do dân chủ, làm sao có tự do sáng tác?"
***
[1] Theo Lê Đạt, tiệm trà Phúc Châu bây giờ là hàng phở Thắng, phố Tạ Hiền.
[2] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[3] Những bài thú nhận của Trần Dần và Lê Đạt, được/bị trích đăng trên hai báo Văn Học số 1 (25/5/1958) và Văn Nghệ số 12 (5/58), những bài của Hoàng Cầm và Phùng Quán đăng trên Văn Nghệ số 12, bài của Văn Cao trên Văn Học số 3 (5/6/58), bài của Trần Đức Thảo trên Nhân Dân số 1532-1533 (23-24/5/58)... Tất cả đều trích in trong cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận.
[4] Lê Đạt trả lời RFI.
[5] là một người thân thuộc của nhà xuất bản Minh Đức.
[6] Hoàng Cầm, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958.
[7] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[8] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958, trg 74.
[9] Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, 5/1958, trang 61.
[10] Hoàng Cầm, RFI, 8/2/2008.
[11] Lê Đạt trả lời RFI.
[12] Trần Duy muốn nói đến buổi "hội lớn" của Hội Văn Nghệ, đánh Trần Dần với 150 người dự. Trước đó là buổi Đại Hội Tuyên Huấn, cũng vào tháng 2/1956.
[13] Trần Duy trả lời RFI, tháng 7/2008.
[14] Hoàng Cầm, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958.
[15] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 75.
[16] Trần Duy trả lời RFI.
[17] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 75.
[18] Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm nói là NV số 2.
[19] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[20] Trần Duy, trả lời RFI.
[21] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[22] Những buổi tọa đàm này không chỉ dành riêng cho Nhân Văn, tổ chức sau Nhân Văn số 3 (15/10/56).
[23] Hồng Cương, Cuộc đấu tranh giai cấp trên mật trận văn nghệ hiện nay, VNQĐ số 6, tháng 6/58, trang 36.
[24] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[25] Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, 5/1958.
[26] Trường Chinh lúc đó đã từ chức Tổng bí thư được một tháng, nhưng vẫn là Uỷ viên Bộ Chính Trị.
[27] Trần Dần có đi, nhưng có lẽ không phát biểu nên Hoàng Cầm không nhớ. Lê Đạt trên Nhân Văn số 4, ghi: Nhân Văn gửi 3 đại diện đi dự. Vậy ba người "chính thức" được cử đi là Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và Hoàng Cầm.
[28] Hoàng Cầm muốn nói đến bài thơ Những ngày báo hiệu mùa xuân, trích từ trường ca Những người trên cửa biển, đăng trên Nhân Văn số 4, bài này Văn Cao đả kích trực tiếp chế độ.
[29] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[30] Trăm Hoa bộ mới, số 1, phát hành ngày 20/10/56.
[31] Một rame giấy: 500 tờ khổ lớn.
[32] Câu này bị kiểm duyệt phần trong ngoặc, có thể hiểu là Nguyễn Bính xin cấp giấy in TH số 2, Sở Báo Chí từ chối, hoặc rút bớt giấy, Nguyễn Bính bèn tố cáo với Trường Chinh trong buổi tọa đàm ngày 20/10/56. Sau đó NB bị hành hung.
[33] Nhân Văn bị thi hành kỷ luật, lý do "chính thức" đưa ra, vì số 4 "nộp lưu chiểu chậm". Cảnh cáo lần đầu của chính quyền.
[34] Hoàng Cầm, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958.
[35] Có trọng lượng.
[36] Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, 5/1958.
[37] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[38] Tức là bài "Không có lý gì mà không tán thành trăm hoa đua nở" ký tên H.L, trên Nhân Văn số 5.
[39] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[40] Trần Duy trả lời RFI.
[41] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[42] Hoàng Văn Chí ghi ngày 15/12/1956. Các tài liệu khác ghi ngày 9/12/1956.
[43] Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, trang 31.
[44] Khoảng 6, 7 trăm quân.
[45] Trong băng nói chuyện, Hoàng Cầm kể tiếp: Sau Nhân Văn, đến cải tạo tư sản, báo và xuất bản không được tự do nữa, phải trực thuộc vào nhà nước: Báo Lao Động có nxb Tổng công đoàn, báo Thanh Niên có nxb Thanh Niên, thuộc Ban chấp hành đoàn thanh niên Trung ương, trước là đoàn thanh niên Cộng Sản, sau đổi thành đoàn thanh niên Hồ Chí Minh... Sau Đại Hội III, xã hội vào quy củ, từ anh hớt tóc rong, sửa xe đạp... cũng phải vào hợp tác xã, có chủ nhiệm lãnh đạo, kiểm soát. Xã hội trở thành hợp tác xã, để quản lý từng người dân một, từ 1960.
[46] Trong băng, Hoàng Cầm nhớ nhầm là Lê Nguyên Cát.
[47] Tóm tắt lời Hoàng Cầm trong băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè. Sau này con trai ông Lê Nguyên Chí có viết bài minh oan cho cha.
http://khaiphong.org/showthread.php?6934-V%E1%BB%81-phong-tr%C3%A0o-Nh%C3%A2n-V%C4%83n-Giai-Ph%E1%BA%A9m-Th%E1%BB%A5y-Khu%C3%AA
Bàn ra tán vào (0)
Về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm - Thụy Khuê
Dự định tìm lại dấu vết phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đã đến với tôi từ cuối thu 1984, khi trở lại lần đầu, sau ba mươi năm xa Hà Nội. 1984, lúc ấy tôi chưa cầm bút, và 1954, khi rời Hà Nội, tôi mới lên mười.
Dự định tìm lại dấu vết phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đã đến với tôi từ cuối thu 1984, khi trở lại lần đầu, sau ba mươi năm xa Hà Nội. 1984, lúc ấy tôi chưa cầm bút, và 1954, khi rời Hà Nội, tôi mới lên mười. Như phần lớn học sinh miền Nam, tôi đã thuộc lòng không chỉ những câu thơ nổi tiếng của Trần Dần:
Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà
chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ
mà còn cả những câu thơ ít nổi tiếng hơn, nhưng không kém phần đau xót:
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió.
Bắc Nam ơi! Ðứt ruột chia đôi.
Tôi cúi xuống quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ, khổ nhiều rồi!
Những tiếng thơ của một thời, thời còn yêu thương, thời vết thương chia cách hai miền chưa đỏ máu, chỉ có nhớ thương và thương nhớ bay bổng như Giấc mơ hồi hương của Vũ Thành:
"Lìa xa thành đô yêu dấu, một sớm heo may về, lệ sầu tràn mi...
... nghẹn nghào thương nhớ em, Hà Nội ơi!"
Đó cũng là thời lạc quan, thời hy vọng đất nước sẽ thống nhất trong hoà bình, Phạm Ðình Chương viết Hội Trùng Dương, Phạm Duy viết Tình Ca, Tình Hoài Hương, ... thiết tha gửi cho một quê hương toàn vẹn trong giao tình Nam Trung Bắc. Và trên đôi bờ vĩ tuyến chưa manh nha mầm mống hận thù chết chóc.
Nhưng rồi yêu thương nhạt dần, nhường chỗ cho tuyên truyền, cho hò hét chiến tranh, cho "lý tưởng thống nhất", "giải phóng dân tộc", cho một mất một còn, cho ngày mai chiến thắng bằng mọi giá bất kể ngàn tấn thịt vạn tấn xương và cũng chẳng nề hà sự lệ thuộc gần như tuyệt đối vào các cường quốc.
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm xuất hiện. Miền Bắc đàn áp Nhân Văn, quy kết Nhân Văn như một mầm mống phản động, theo địch. Miền Nam khai thác phong trào, để chứng minh điều kiện cần và đủ cho một cuộc "Bắc tiến". Đó là một trong những lý do, khiến cho học trò miền Nam thuộc lòng thơ Trần Dần. Nhưng phải công bằng mà xét, nếu không có hậu ý tuyên truyền này, thì ảnh hưởng Nhân Văn Giai Phẩm đã không bao trùm lên toàn thể hai miền Nam Bắc, như một cao trào đấu tranh cho dân chủ, lớn nhất thế kỷ XX, trong văn học Việt Nam.
Năm 1984, khi trở về Hà Nội, tôi muốn tìm lại, dù chỉ một dấu vết nhỏ, chứng minh sự hiện diện của Nhân Văn Giai Phẩm trong lòng người dân Bắc. Nhưng vô ích. Tất cả đều đã bị xóa sổ. Kín đáo dò hỏi những người thân trong gia đình sống ở Hà Nội, thuộc thế hệ "phải biết" Nhân Văn, xem có ai còn nhớ gì không? Nhưng không, tuyệt nhiên chẳng ai "nghe nói" đến những cái tên như thế bao giờ: linh hồn Nhân Văn đã bị xóa trong ký ức quần chúng, và như vậy, "nọc độc" Nhân Văn đã hoàn toàn bị tẩy sạch.
Ðó là lý do chính khiến vài năm sau, khi thực sự bước vào nghề cầm bút, tôi đã coi Nhân Văn Giai Phẩm là một trong những nghi vấn văn học hàng đầu, cần phải tìm hiểu. Bài viết đầu tiên của tôi về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đăng trên nguyệt san Văn Học, California, số 27, tháng 4 năm 1988; tiếp theo là những buổi phát thanh trên đài RFI, trong nhiều chương trình từ 1991 đến 2004, trong số đó có những buổi phỏng vấn các tác nhân chính của phong trào: Lê Đạt, Hoàng Cầm và Nguyễn Hữu Đang.
Cuốn sách này tổng kết công việc tìm kiếm và thu thập các dữ kiện xung quanh phong trào Nhân Văn Giai Phẩm trong hơn 20 năm, từ 1988 đến ngày nay.
Trong quá trình làm việc, có những ngã rẽ bất ngờ: khảo sát về Phan Khôi, tôi thấy sau khi đi Pháp về, Phan Châu Trinh giao cho Phan Khôi nhiệm vụ viết lại lịch sử đời mình, từ đó, phải tìm hiểu về những ngày Phan Châu Trinh ở Pháp, dẫn đến mối tương quan giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh, người tự nhận là lãnh tụ đầu tiên của phong trào Việt kiều Yêu Nước.
Tôi tìm đọc nguyên văn tiếng Pháp các bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc, mới thấy tác giả những bài viết này phải là người biết tiếng Pháp rất sâu và có văn tài; không thể là người mà Trần Dân Tiên mô tả trong cuốn hồi ký "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch". Vậy có một sự giả mạo lịch sử quan trọng cần phải tìm hiểu đến nguồn cội.
Đó là lý do tại sao có phần biên khảo về Vấn đề Nguyễn Ái Quốc trong cuốn sách này.
Thụy Khuê
Paris 2/2005-8/2011
Mục lục
(bổ sung tháng 11-2012 theo tư liệu mới của Hoàng Cầm)
Tựa
Chương 1 : Tìm hiểu phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
Chương 2 : Lịch trình Nhân Văn Giai Phẩm
Chương 3 : Giai Phẩm Mùa Xuân
Chương 4 : Nguyên nhân đưa đến cuộc cách mạng mùa thu của tư tưởng
Chương 5 : Nội bộ báo Nhân Văn
Chương 6 : Trí thức và dân chủ tại Việt Nam trong thế kỷ XX - Từ Phan Châu Trinh, Hoàng Đạo đến Nhân Văn Giai Phẩm
Chương 7 : Biện pháp thanh trừng
Chương 8 : Thụy An (1916-1987)
Chương 9 : Nguyễn Hữu Đang (1913-2007)
Chương 10 : Lê Đạt (1929-2008)
Chương 11 : Trần Dần (1926-1997)
Chương 12 : Hoàng Cầm (1922-2010)
Chương 13 : Văn Cao (1923-1995)
Chương 14: Phùng Cung (1928-1998)
Chương 15 : Cuộc cách mạng hiện đại đầu thế kỷ XX
Chương 16 : Nguyễn Tất Thành
Chương 17 : Hội Đồng Bào Thân Ái - Phong trào ái quốc đầu tiên tại Pháp
Chương 18 : Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản
Chương 19 : Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quấc/Quốc
Chương 20 : Vì sao Phan Châu Trinh phó thác "đại sự" cho Phan Khôi?
Chương 21 : Phan Khôi (1887-1959)
Chương 22 : Vụ án Nam Phong
Chương 23 : Nguyễn Mạnh Tường (1909-1997)
Chương 24 : Une voix dans la nuit: Cải Cách Ruộng Đất và Cải Tạo Tư Sản
Chương 25 : Une voix dans la nuit: Vấn Đề Trí Thức và Độc Tài Đảng Trị
Phụ Lục
Trò chuyện với người trong cuộc:
- Với nhà cách mạng Nguyễn Hữu Đang
- Với nhà thơ Lê Đạt
- Với nhà thơ Hoàng Cầm
- Với họa sĩ Trần Duy
Thư mục
http://nhanvangiaipham.free.fr/-
13-02-2016, 05:45 #2
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
.
Chương 1
Tìm hiểu phong trào Nhân Văn Giai Phẩm
Nhân Văn Giai Phẩm là phong trào tranh đấu cho tự do dân chủ của văn nghệ sĩ và trí thức miền Bắc có tầm vóc lớn lao, khởi xướng đầu năm 1955 và bị chính thức dập tắt tháng 6 năm 1958. Hai tư liệu sớm nhất về Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP) là Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí do Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá in ở Sài Gòn năm 1959, và Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận do nhà xuất bản Sự Thật[1] in ở Hà Nội, cùng năm.
Ngoài hai cuốn sách này còn có những tập tư liệu khác, ra đời hơn 30 năm sau.
Trước hết là cuốn Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam - Trăm hoa đua nở trong đêm Việt Nam của Georges Boudarel[2]. Thời gian ở Việt Nam, Boudarel đã gặp nhiều nhà văn nhà thơ, trong đó có các thành viên NVGP và ông đã mang về Pháp các sách báo xuất bản ở Hà Nội vào thời điểm NVGP. Cuối 1987 đầu 1988, trong bối cảnh "đổi mới", Boudarel viết loạt bài Dissidences intellectuelles au Viêt Nam L'affaire Nhan Van Giai Pham - Trí thức phản kháng tại Việt Nam, vụ Nhân Văn Giai Phẩm[3] sau tập hợp và đào sâu thành cuốn "Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam[4]".
Ngoại trừ việc Boudarel đã sai như Hoàng Văn Chí, khi cho rằng NVGP bắt nguồn từ Trăm hoa đua nở bên Trung Quốc[5], cuốn sách của ông là tập tư liệu có giá trị, nhờ đó, bi kịch NVGP đến được với người đọc tiếng Pháp.
Từ những năm 90, một loạt tài liệu mới về NVGP xuất hiện rải rác trong và ngoài nước, dưới dạng tự thuật, bút ký, sáng tác, của những thành viên đã tham gia phong trào, trong đó có hai tác phẩm viết bằng tiếng Pháp của Nguyễn Mạnh Tường: hồi ký Un Excommunié - Kẻ bị khai trừ[6]; và tiểu thuyết Une voix dans la nuit - Tiếng vọng trong đêm[7].
Sau 9 năm theo kháng chiến, Nguyễn Mạnh Tường từ chiến khu trở về trong số những trí thức được chính quyền ưu đãi. Phong trào NVGP ra đời, ông tham gia và đã chịu sự trừng phạt nặng nề. Nhờ hồi ký Un Excommunié của Nguyễn Mạnh Tường, ta có thể hình dung được các giáo sư đại học như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, đã phải trải qua những kỷ luật như thế nào, và hiểu được cuộc sống cách ly, đói khát, luôn luôn bị theo dõi của họ trong hơn ba mươi năm sa mạc.
Cuốn nhật ký Trần Dần ghi[8] chép những việc hàng ngày đặc biệt trong thời kỳ: Cải Cách Ruộng Đất và cuộc thanh trừng sau NVGP. Nếu Un Excommunié của Nguyễn Mạnh Tường là bản chúc thư[9] gửi cho thế hệ mai sau về sự đối đầu của một trí thức trước áp lực cách mạng, thì nhật ký Trần Dần ghi là những suy nghĩ và sinh hoạt hàng ngày của một nhà thơđã chịu nhận mọi tội để mong được tha thứ, muốn được trở lại sống bình thường như mọi người, nhưng vô hiệu. Tiểu thuyếtUne voix dans la nuit - Tiếng vọng trong đêm mô tả các giai đoạn chính trong thời kỳ xây dựng chế độ toàn trị ở Việt Nam.
Bộ băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ghi âm trong khoảng thời gian 1998-2008, bộc lộ nhiều sự kiện chưa từng thấy ở những tài liệu khác. Hoàng Cầm nói rất dài, rất nhiều chi tiết, ở những thời điểm khác nhau, đôi khi về cùng một sự kiện nhưng có những chi tiết thay đổi; nên chúng tôi không thể trích đoạn, chỉ tóm tắt những ý chính, viết gọn lại, giữ nguyên giọng Hoàng Cầm. Đây là một tư liệu quan trọng về bi kịch NVGP, về những gì xẩy ra trong hậu trường, về sự bắt bớ, giam giữ, tù đầy, tra khảo, hăm dọa, mà Hoàng Cầm đã trải qua năm 1982-1983 vì tập thơ Về Kinh Bắc, về trách nhiệm của giai cấp lãnh đạo dưới thời Hồ Chí Minh và sau Hồ Chí Minh.
Hoàng Văn Chí và Trăm hoa đua nở trên đất Bắc
Hoàng Văn Chí, tức Mạc Định, tác giả Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, cho biết:
"Ở Hà Nội ra đi đầu năm 1955, tôi đã hẹn với các bạn ở lại là hễ có dịp sẽ nói lên tiếng nói của họ", "Tôi làm việc một mình", "Tôi liên lạc được với một ủy viên trong Ủy ban kiểm soát đình chiến. Họ đi Hà Nội như đi chợ. Mỗi tuần họ cắp về Sài Gòn cho tôi tất cả báo chí xuất bản ở Hà Nội", "Tôi làm việc trong hai năm 56-58". "Bộ Thông Tin và nói chung, chính quyền Sài Gòn không hề giúp. Lý Trung Dung đến chào Bộ Thông Tin, yêu cầu mua cho một số, nhưng chẳng mua một cuốn nào". "Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá ở Việt Nam là một chi nhánh của một tổ chức quốc tế, tên là Congress for Cultural Freedom, trụ sở trung ương ở 104 Boulevard Haussmann, Paris. Bác sĩ Lý Trung Dung làm chủ tịch. Tội nghiệp, chỉ vì làm chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hoá mà phải đi cải tạo đến nay [1986] chưa được thả". "Trước khi đưa in, Lý Trung Dung nghe nói có người gần ông Diệm ngờ rằng tôi soạn cuốn Trăm hoa đua nở là có ý xúi dục trí thức miền Nam bắt chước trí thức miền Bắc nổi lên chống lại chế độ. Vì vậy nên Lý Trung Dung bàn với tôi nên để bút hiệu Mạc Định là soạn giả. Chỉ ký tên Hoàng Văn Chí vào bài Tựa[10]".
Nhưng tại sao Hoàng Văn Chí lại đặc biệt lưu ý đến NVGP? Ai là những người "ở lại" mà ông đã hứa sẽ nói lên tiếng nói của họ? Tìm sâu hơn về liên hệ gia đình giữa Hoàng Văn Chí và Phan Khôi, chúng ta sẽ thấy câu trả lời:
Sở Cuồng Lê Dư kết hôn với em ruột Phan Khôi, có ba người con gái: cô đầu, Hằng Phương, gả cho nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, cô thứ nhì, Hằng Huân, là vợ Hoàng Văn Chí và cô út, Hằng Phân là vợ Tướng Nguyễn Sơn. Nữ sĩ Hằng Phương, sau này viết bài đả kích mạnh mẽ NVGP, rất có thể vì thế, mà bà Hằng Huân đã là một trong những động cơ thúc đẩy Hoàng Văn Chí thu thập tài liệu và viết về NVGP.
Tác phẩm của Hoàng Văn Chí, cho đến nay vẫn là tác phẩm đầy đủ nhất về phong trào NVGP, nhưng ba người Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu và Lê Đạt bị loại, có thể ông không tin họ vì Nguyễn Hữu Đang đã từng là người tin cẩn của Hồ Chí Minh, Lê Đạt là bí thư của Trường Chinh và Trương Tửu là nhà phê bình lý luận Mác-Xít. Phần lớn những thành viên khác đều có mặt, với một tiểu sử khá đầy đủ, với những chi tiết đáng quý và những bài viết tiêu biểu của họ trong thời kỳ NVGP, đặc biệt tiểu sử Phan Khôi và Văn Cao, với các chi tiết hiếm, mà hiện nay không tìm thấy ở đâu. Sau này, ở trong nước không thiếu sách viết về Văn Cao, Phan Khôi, nhưng thường tô hồng, hoặc cắt xén, vo tròn, ít thấy sự thật.
Nhưng tác phẩm của Hoàng Văn Chí cũng có một số nhược điểm:
- Không phải là người trong cuộc, và đã rời miền Bắc từ đầu 1955, cho nên có một số chi tiết ông viết sai.
- Về mặt biên tập, Hoàng Văn Chí, đã cắt hoặc không chọn những bài, những đoạn có những câu chữ quá khích mà các tác giả trong NVGP lên án "tội ác Mỹ Diệm", hoặc ca tụng Đảng Cộng sản. Đặc biệt bài Nhất định thắng của Trần Dần, ông đã bỏ những câu, những đoạn sắt máu, có tính cách khẩu hiệu, tuyên truyền, khiến cho tác phẩm hay hơn, nhân bản hơn, được độc giả miền Nam chấp nhận, nhưng đã làm lệch ý Trần Dần ở thời điểm ấy. Bản in lại trong Trần Dần thơ[11]mới đây, là bản Hoàng Văn Chí.
Ngày nay, chúng ta đã có khoảng cách để phân tích tư tưởng của mỗi thành viên, qua các văn bản gốc mà họ để lại trên báo Nhân Văn, sách Giai Phẩm. Một mặt khác, qua nhân chứng của các thành viên, chúng ta có thể tái tạo lại diễn biến của phong trào: ai làm gì, ai giữ trách nhiệm gì.
Đối chiếu những nhân chứng này với lời buộc tội của những ngòi bút chính thống đánh họ, in trên các báo chính thức trong thời kỳ này, mà Lại Nguyên Ân đã có công sưu tầm, chúng ta có thể nhìn ra nhiều khía cạnh của sự thật hơn.
Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận
Cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận là tài liệu đầu tiên, tập hợp những trích dẫn bài viết hoặc diễn văn tố cáo, buộc tội NVGP. Phần cuối sách, có một chương nhỏ trích "những lời thú tội" của các thành viên NVGP, còn toàn thể dành cho phía công tố "phát hiện tội", với những lời lẽ vô cùng khiếm nhã, khó thể mường tượng được, từ miệng hoặc từ ngòi bút của giới được gọi là "trí thức văn nghệ sĩ" đối với các đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia NVGP.
Tập tư liệu dày 370 trang này rất hữu ích về mặt lịch sử và văn học sử, mở ra nhiều khía cạnh của vấn đề NVGP: về tầm vóc của phong trào, về không khí đàn áp thời đó, về mức độ khốc liệt của lớp đấu tranh Thái Hà mà Lê Đạt mô tả tường tận trong các bài phỏng vấn trên RFI. Đồng thời, nó cũng gián tiếp trả lời một số lập luận, cố tình hạ thấp hoặc thu gọn tầm vóc NVGP thành một cuộc "đánh đấm nội bộ", tranh giành thế lực cá nhân, không liên hệ gì đến vấn đề tự do tư tưởng.
Những bài luận tội có tính cách hạ nhục NVGP của 83 văn nghệ sĩ và các đoàn thể, báo chí, nhân dân và các vị cao quyền trong Đảng như: Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huy Tưởng, Hồng Cương, Nguyễn Văn Bổng, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Hồ Đắc Di, Vũ Đức Phúc, Quang Đạm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngụy Như Kontum, Hằng Phương, Lương Xuân Nhị v.v... phản ảnh rất rõ tư cách của người tố. Có thể nói, qua những "văn bản tố", các tác giả đã để lại tư cách của mình trong ký ức dân tộc. Sau cùng, nhờ cách sắp xếp thứ tự"những tên đầu sỏ" mà chúng ta biết được thứ tự "tội" nặng,"tội" nhẹ, của mỗi người.
Những buổi phỏng vấn trên RFI
Ngày 13/4/1999, trong dịp nhà thơ Lê Đạt sang Pháp lần thứ nhì, chúng tôi đề nghị ghi âm ông, mong ông soi tỏ những chỗ chưa được các tài liệu trước đề cập đến, hoặc viết sai. Buổi nói chuyện -thu thanh với chủ đích giữ lại làm tài liệu văn học sử- tuy mang tính cách cá nhân nhưng có hệ thống về NVGP. Chúng tôi đề nghị ông nói thẳng, nói thật hết và cam kết là sẽ chỉ công bố sau khi ông qua đời, bởi ông không định viết hồi ký.
Đầu năm 2004, sau khi thực hiện chương trình phát thanh kỷ niệm 50 năm trận Điện Biên Phủ (1954-2004) với Hữu Mai trên đài RFI, chúng tôi dự định làm thêm một chương trình kỷ niệm 50 năm phong trào NVGP (nếu coi 1954 là thời điểm manh nha) nên đã cố gắng liên lạc với Lê Đạt qua điện thoại Paris - Hà Nội, để làm một cuộc phỏng vấn ngắn gọn có tính cách thời sự, phù hợp với đề tài này, nhưng không thể thực hiện được, vì ông chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu.
Sau nhiều tháng phân vân, cuối cùng, với sự đồng ý của Lê Đạt, chúng tôi quyết định cho phát trên sóng RFI, toàn bộ buổi nói chuyện với ông đã thu ngày 13/4/1999 tại Paris. Do đó mà tài liệu văn học sử này đã đến với thính giả RFI và độc giả sớm hơn dự tính.
Lần đầu tiên, toàn bộ lời kể của một thành viên cột trụ trong NVGP được công bố.
Bên cạnh Lê Đạt, còn có tiếng nói của hai nhân vật chủ chốt khác trong phong trào, đó là cuộc phỏng vấn Nguyễn Hữu Đang về việc ông tổ chức ngày lễ Độc Lập, nhân dịp kỷ niệm ngày 2/9/1945. Buổi nói chuyện này thu thanh qua điện thoại nhà Lê Đạt ngày 30/8/1995 và được phát thanh trên đài RFI ngày 10/9/1995. Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, chúng tôi có thể ghi âm được Nguyễn Hữu Đang. Tất cả những cố gắng về sau đều vô hiệu: ông chỉ nói được vài câu là đường dây bị nhiễu.
Thính giả nghe các chương trình này, đều nhận thấy sự trả lời của Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm qua điện thoại Paris - Hà Nội, không đạt mức độ tự do như các cuộc nói chuyện trực tiếp với Lê Đạt ở Paris. Nhưng cả ba chứng nhân, cũng là ba người đầu tiên đã xây dựng nên phong trào NVGP cùng đồng quy ở điểm nói thẳng, nói thật. Có những câu hỏi cùng đặt cho Hoàng Cầm và Lê Đạt ở những thời điểm khác nhau, nhưng sự trả lời gần như tương tự.
Sau cùng là nhân chứng Trần Duy. Hoạ sĩ Trần Duy đã liên lạc với chúng tôi từ nhiều năm qua, ông cho biết đã nghe những chương trình trên đài RFI về phong trào NVGP, có những điều ông muốn nói, nhưng cơ hội chưa thuận tiện. Tháng 6/2008, Trần Duy quyết định lên tiếng. Chúng tôi đã ghi âm ông qua điện thoại Paris - Hà Nội, không bị trở ngại gì. Như thế, chúng ta có thêm nhân chứng của Trần Duy, cựu thư ký toà soạn báo Nhân Văn.
Nếu trong những bài viết trên báo hoặc các chương trình phát thanh, từ 1988 đến ngày nay, còn có những thiếu sót, sai lầm, thì, những chứng nhân quan trọng của Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, đã đính chính và bổ sung. Các ông thay mặt những người đã khuất, viết lại lịch sử của phong trào và lần này, không ai có thể ngăn ngừa sự thật.
Tất nhiên, mỗi người có một sự thực của riêng mình, về mỗi dữ kiện, mỗi vấn đề. Thời gian trôi qua, ký ức cũng có đôi chỗ sai biệt, nhưng những sai biệt ấy, nếu có, thường là những chi tiết không mấy quan trọng. Độc giả sẽ rút ra từ những sự thực có thể khác nhau ấy, phần tổng kết riêng của mình, về phong trào NVGP[12].
Phần phát biểu của nhà thơ Lê Đạt (ghi âm tại Paris ngày 13/4/1999) cho đến nay, vẫn là chứng từ quan trọng nhất và đầy đủ nhất về lịch sử phong trào NVGP.
Lê Đạt mất ngày 21/4/2008 tại Hà Nội.
Những năm gần đây trang điện tử Talawas do Phạm Thị Hoài chủ biên, đã cho in lại và lưu trữ trên mạng Internet toàn bộ sách báo NVGP. Lại Nguyên Ân sưu tầm những bài viết trên các báo chính thức thập niên 60, liên quan đến phong trào NVGP và đưa dần lên Internet. Những tư liệu này góp phần sáng tỏ thêm, giúp các nhà nghiên cứu sau này có thể xây dựng lại toàn diện bối cảnh phong trào NVGP.
Từ tháng 4/1988, khi chúng tôi viết những dòng đầu về Nhân Văn Giai Phẩm đến nay đã hơn hai mươi năm. Chuyên luận này tưởng như hoàn tất một chương trình tìm kiếm lâu dài, nhưng thực ra nó lại là khởi điểm cho một cuộc tìm kiếm mới về những gì đã thực sự xẩy ra, trong thời kỳ kháng chiến và hoà bình lập lại ở miền Bắc. Bởi càng đi sâu vào vấn đề, càng thấy rõ những khoảng trống chưa thể lấp được, về Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Thụy An... và bao nhiêu con người và sự kiện khác nữa, mà chúng tôi không ngờ khi mới bắt tay vào việc.
Những gì chúng ta góp nhặt được về họ, ngoài những văn bản do chính họ đã viết ra, đôi khi lượm lặt được vài ba dòng nhật ký người này, hồi ký người kia, cũng chỉ là một phần rất nhỏ của sự thật. Không kể những loại hồi ký, đã bị cắt xén hoặc được sửa lại cho đúng đường lối, hoặc những di cảo trá hình, viết để tự biện hộ, để đổi lấy bản thông hành đi vào vĩnh cửu. Cho nên người nghiên cứu phải vô cùng thận trọng khitìm và lựa thông tin, phân biệt thật giả trong tư liệu. Tìm tư liệu không khó trong thời buổi Internet này, nhưng sử dụng tư liệu để dựng lại sự thật là một việc khác hẳn.
Làm sao biết được hoạt động chính trị của Lê Đạt trước khi gia nhập Việt Minh? Lê Đạt đã ở trong hàng ngũ Quốc Dân Đảng?
Theo Văn Cao, thì Phạm Duy là người đầu tiên dẫn ông liên lạc với Việt Minh, Phạm Duy cũng là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca, là người "cướp" micro trước cửa Nhà Hát Lớn ngày 17/8/1945 để hát Tiến Quân Ca lần đầu trước công chúng. Nhưng khi viết hoặc in lại hồi ký của Văn Cao về Tiến Quân Ca, người ta đã cắt bỏ tất cả những chi tiết nói về Phạm Duy, có chỗ thay bằng Nguyễn Đình Thi.
Một mặt khác, ngay chính Lê Đạt và Phạm Duy, vì an ninh của bản thân và của gia đình, các ông đã không thể nói tất cả sự thật, càng không thể viết ra trên văn bản.
Chúng ta biết gì về hoạt động của Thụy An? Về "mối tình đầu" của Thụy An với Võ Nguyên Giáp? Về những bí mật giữa Thụy An và Đỗ Đình Đạo, một yếu nhân Quốc Dân Đảng? Tại sao Thụy An quay trở lại Bắc, trong khi gia đình bà di cư vào Nam? Những bí mật ấy, tuy chỉ là những chi tiết, có vẻ không quan trọng, nhưng ngày nay, những người muốn biết sự thực, phải có quyền được biết.
Nếu biết được những chi tiết ấy, chúng ta sẽ thấy tất cả những hoạt động đảng phái thời kháng chiến chống Pháp không đơn giản bên này yêu nước, bên kia bán nước. Mà bất cứ một cá nhân nào, dù văn nghệ sĩ trí thức hay không, cũng có thể theo hai ba đường chính trị khác nhau, trong hành trình sống của mình. Chỉ khi đảng Cộng sản quyết định độc quyền lãnh đạo, độc tôn xã hội chủ nghiã, các khuynh hướng chính trị khác mới trở thành phản động.
Vấn đề của người nghiên cứu là phải tìm hiểu những đầu mối đan cài vô cùng phức tạp giữa các khuynh hướng chính trị, văn hoá khác nhau, trong mối tương giao không xé ra được.
Những người kháng chiến ngoài Đảng hoặc chống Đảng, bị chế độ kết án chung thân, phải chối bỏ lẫn nhau và phủ nhận toàn bộ hành trình của mình, trên đường tranh đấu cho độc lập, tự do, dân chủ.
Bi kịch của họ phản ánh bi kịch chung của dân tộc dưới chế độ cộng sản.
***
Chú thích:
[1] Nay là nxb Chính Trị Quốc Gia.
[2] Georges Boudarel (1926-2003), nhà giáo, đảng viên cộng sản Pháp, sang Việt Nam năm 1947 với mục đích tranh đấu chống chính quyền thực dân. Sau hai năm dạy học tại Sài Gòn, Boudarel theo Việt Minh, đặc trách nhiệm vụ "cải tạo" tù nhân Pháp ở trại 113. Năm 1966, vì không còn đồng ý với chính quyền Hà Nội, ông trở về Pháp.
[3] In trên hai tập san: Sudestasie (số 50 tháng1/1988) và Politique Aujourd'hui en Europe (phụ bản 1/1989).
[4] Do Jacques Bertoin in năm 1991 tại Paris.
[5] Lê Đạt, Hoàng Cầm đã đính chính qua các buổi trả lời phỏng vấn RFI.
[6] Với tiểu tựa: Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectuel - Hà Nội 1954-1991: Kết án một nhà trí thức, Quê Mẹ, Paris, 1992.
[7] Chưa in, với tiểu tựa: Roman sur le Viet Nam 1950-1990 - Tiểu thuyết về Việt Nam từ 1950 đến 1990.
[8] Văn Nghệ, California, 2001.
[9] Viết năm 1991, ở tuổi 82.
[10] Phỏng vấn cụ Hoàng Văn Chí, Từ Nguyên thực hiện, Tự Do số 50, ngày 16/11/1986, phát hành tại Bỉ.
[11] Nxb Đà Nẵng, 2008.
[12] Những buổi phỏng vấn các thành viên chính của NVGP, phát thanh trên RFI, từ 1995 đến 2008: Nguyễn Hữu Đang (10/9/1995), Hoàng Cầm (21/2/1998 đến 10/1/2004, 4 kỳ), Lê Đạt (từ 24/3/2004 - 5/6/2004, 7 kỳ) và Trần Duy (26/6/2008-26/7/2008, 4 kỳ), đều được lưu trữ trên mạng http://thuykhue.free.fr -
13-02-2016, 05:47 #3
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)
Chương 2
Lịch trình Nhân Văn - Giai Phẩm
Lịch sử NVGP gắn bó với các chính sách văn hoá, chính trị của Đảng Cộng sản. Chúng ta thử nhìn lại lịch trình này:
- 27/10/1943, Trường Chinh hoàn thành Đề cương văn hoá Việt Nam, văn kiện chính thức đầu tiên của đảng Cộng sản Đông Dương về văn hóa văn nghệ. Xác định sự lãnh đạo về tư tưởng, học thuật và nghệ thuật của Đảng Cộng sản.
- 17/8/1945, biểu tình của công chức, Phạm Duy hát Tiến Quân Ca lần đầu tiên tại Nhà Hát Lớn, Hà Nội.
- 19/8/1945, Việt Minh cướp chính quyền, Tiến Quân Cađược hát lần thứ nhì tại Nhà Hát Lớn do Văn Cao điều khiển.
- 2/9/1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn Độc Lập tại Ba Đình. Lễ Độc Lập do Nguyễn Hữu Đang tổ chức. Vũ Hoàng Chương làm bài thơ Ngày Độc Lập.
- 11/11/1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố "tự giải tán", lui vào bí mật, đổi tên là Hội Nghiên Cứu Chủ Nghiã Mác ở Đông Dương. Chính phủ lâm thời lấy danh nghĩa Mặt Trận Việt Minh để tập hợp tất cả mọi thành phần dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
- 24/11/1946, Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc I, ở Hà Nội do Nguyễn Hữu Đang tổ chức, tập hợp các thành phần trí thức đủ mọi khuynh hướng trong toàn quốc.
- 19/8/1948, Đại hội Văn Hóa Toàn Quốc II, ở Việt Bắc do Trường Chinh tổ chức, đọc bài Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam, xác định con đường văn nghệ kháng chiến: Tuyên truyền, thi đua, đánh địch, hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Hữu Đang bỏ về Thanh Hoá.
- 1949-1951: Nhiều trí thức văn nghệ sĩ bỏ kháng chiến về thành.
- Tháng 1/1950, tại Đại Hội III, đảng Cộng Sản tuyên bố Việt Nam chính thức đi theo đường lối Trung Quốc, đẩy mạnh chính sách Đấu Tranh Giai Cấp trên toàn lãnh thổ.
- Tháng 7-8/1950, Đại Hội Văn Nghệ I, họp tại Yên Giã, Việt Bắc, chính thức tuyên bố thực thi đường lối văn nghệ xã hội chủ nghĩa, loại bỏ: Tuồng, Chèo, Cải Lương, Kịch thơ... Hoàng Cầm thắt cổ kịch thơ của mình.
- Từ 14- 23/11/1953, Đại Hội I của đảng Lao Động họp tại Việt Bắc chính thức tuyên bố thi hành chính sách Cải Cách Ruộng Đất, qua bản báo cáo của Trường Chinh.
- 1951-1960: Chỉnh Huấn, Giảm Tô, Cải Cách Ruộng Đất, Thanh Trừng Trí Thức (NVGP), Cải Tạo Tư Sản.
- 10/10/1954, Việt Minh tiếp thu Hà Nội.
Cùng ngày 10/10/54 Trần Dần[1] được cử đi Trung Quốc viết thuyết minh cho phim Điện Biên Phủ. Trần Dần bị Hoàng Xuân Tuỳ, cán bộ chính trị, kiểm soát gắt gao. Ngày 10/12/54, Trần Dần bỏ về Hà Nội.
- 24/12/54, Trần Dần bắt đầu tổ chức các cuộc thảo luận đòi thay đổi chính sách văn nghệ quân đội.
- Tháng 2/1955, Trần Dần, sau khi tham khảo ý kiến các bạn, viết bản Đề nghị Chính sách Văn nghệ.
Trần Dần, Tử Phác "chủ mưu", Hoàng Cầm "a dua",nhóm ủng hộ có cả Đỗ Nhuận, Thanh Tịnh...
- Tháng 3 và 4/55, Trần Dần, Tử Phác tổ chức phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu và tiểu thuyết Vượt Côn Đảo của Phùng Quán với sự cộng tác của Hoàng Cầm, Lê Đạt.
- Tháng 4/1955: Nhóm Trần Dần, Tử Phác... ký "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá", gồm 32 điểm, đòi quyền tự do sáng tác và bác bỏ chế độ chính trị viên trong văn nghệ quân đội. Trong một cuộc họp mặt nội bộ khoảng hơn 20 người, Trần Dần đọc cho tướng Nguyễn Chí Thanh nghe. Tướng Thanh đập bàn quát mắng, rồi bỏ ra về.
- 13/6/55-14/9/55: Trần Dần, Tử Phác bị bắt lần thứ nhất, phạt cấm trại 3 tháng, sau đó được đưa đi cải tạo ở Yên Viên, tham gia Cải Cách Ruộng Đất, đợt 5.
- Tháng 1/1956: Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương, với những bài chính: Nhất định thắngcủa Trần Dần, Anh có nghe thấy không của Văn Cao, Làm thơvà Mới của Lê Đạt, ...
- Tháng 2/56: Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu. Ngày 9/2 (28 Tết): Tố Hữu ra lệnh gọi Lê Đạt lên Tuyên Huấn. ngày 16/2 (mùng 5 Tết): Lê Đạt lên trình diện, bị giữ lại 15 ngày để kiểm thảo, trong khi đó Tố Hữu triệu tập Đại Hội Cán Bộ Tuyên Huấn toàn miền Bắc để phê phán Giai Phẩm Mùa Xuân: trong đại hội này, Chế Lan Viên khai ngòi việc đánh Trần Dần. Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần, Tử Phác. Trong tù, Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ. Hội Văn Nghệ tổ chức Đại hội, gồm 150 văn nghệ sĩ, ở 51 Trần Hưng Đạo để đánh Trần Dần.
Chiến dịch đánh Trần Dần trên báo bắt đầu với bài của Hoài Thanh "Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần" trên Văn Nghệ số 110, ngày 7/3/56.
- 24/2/1956: Khrouchtchev tường trình tội ác của Staline tại đại hội XX của đảng Cộng sản Liên Xô.
- 26/5/1956: Mao Trạch Đông phát động "Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng".
- 28/6/1956: Ba Lan nổi dậy.
- Tháng 7/1956: Hoàn thành Cải Cách Ruộng Đất.
- 25/8/56 đến 24/9/56 Hội nghị X Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động phát động Sửa Sai. Trường Chinh từ chức Tổng Bí Thư. Hồ Chí Minh kiêm Tổng Bí Thư lẫn Chủ Tịch. Võ Nguyên Giáp đọc Bẩy sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất.
- 8/8 đến 26/8/56: Hội Văn Nghệ -được lệnh- tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày. Nguyễn Hữu Đang tổ chức và đọc tham luận tổng kết chỉ trích gắt gao đường lối lãnh đạo văn nghệ của Trung Ương Đảng. Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bộ phận lãnh đạo văn nghệ phải "thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa". Hoài Thanh viết bài nhận lỗi đánh Trần Dần.
- 29/8/56: Giai Phẩm Mùa Thu, tập I, ra đời, với những bài chủ chốt: Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn Bính, Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, ...
- 20/9/1956: Nhân Văn số 1, với bài Phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ, bài thơNhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm và tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo ở cổ, bài Chống bè phái trong văn nghệ của Lê Đạt (ký tên Trần Công), ...
- 30/9/1956: Nhân Văn số 2, với bài Phỏng vấn Đào Duy Anh về mở rộng tự do và dân chủ, bài Trả lời Nguyễn Chương và báo Nhân Dân của Nguyễn Hữu Đang (ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy), bài Phấn đấu cho trăm hoa đua nở của Trần Duy...
- 30/9/56: Giai Phẩm Mùa Thu, tập II, với bài Bệnh sùng bái cá nhân của Trương Tửu, Ông bình vôi của Phan Khôi,Những người khổng lồ của Trần Duy, Chống tham ô lãng phícủa Phùng Quán, ...
- 8/10/1956: Giai Phẩm Mùa Xuân tái bản.
- 15/10/56: Nhân Văn số 3, số Kỷ niệm ngày Vũ Trọng Phụng tạ thế 13/10/1939, và các bài Nỗ lực phát triển tự do dân chủ của Trần Đức Thảo, Phỏng vấn bác sĩ Đặng Văn Ngữ về mở rộng tự do và dân chủ, ...
- 20/10/56: Nguyễn Bính xuất bản báo Trăm Hoa, bộ mới, lập trường bênh vực Nhân Văn.
- Trong ba ngày 20, 21 và 23/10/56, Trường Chinh tổ chức tọa đàm với văn nghệ sĩ ở trụ sở Trương Ương Đảng.
- 30/10/56: Nguyễn Mạnh Tường diễn thuyết "Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lãnh đạo" tại Mặt Trận Tổ Quốc, Hà Nội.
- 30/10/1956: Giai Phẩm Mùa Thu, tập III, với bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, Muốn phát triển học thuậtcủa Đào Duy Anh, ...
- 31/10/1956: Bài Võ Nguyên Giáp đọc tại Hội nghị X Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bẩy sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất, được in trên trên báo Nhân Dân.
- 5/11/56: Nhân Văn số 4, với bài Cần phải chính quy hơn nữa của Nguyễn Hữu Đang, Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩNguyễn Bính và báo Trăm Hoa của Người Quan Sát, Thành thật đấu tranh cho dân chủ của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung, Những ngày báo hiệu mùa xuâncủa Văn Cao, ...
- 5/11/1956: báo Sáng Tạo của nhóm điện ảnh sân khấu xuất hiện. Với Hoàng Tích Linh, Trần Công, Cao Nhị, Thanh Châu, Nắng Mai Hồng, Trúc Lâm, Phan Vũ, Phan Tại, Nguyễn Đình Phúc, Sỹ Ngọc, Phạm Kỳ Nam, Trung Sơn, Vũ Phạm Từ, Anh Tâm, Lửa Mới, Nguyễn Sáng.
- 10/11/56: Đất Mới, báo sinh viên, với bài Phê bình lãnh đạo sinh viên của Q. Ngọc và T. Hồng, Lịch sử một câu chuyện tình của Bùi Quang Đoài, ...
- 20/11/56: Nhân Văn số 5, với bài Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? của Nguyễn Hữu Đang, Bài học Ba Lan và Hung-ga-ri của Lê Đạt (ký tên Người Quan Sát), ...
- Tháng 11/56: Dân Quỳnh Lưu, Nghệ An nổi dậy.
- Tháng 12/56: Giai Phẩm Mùa Đông, tập I, với bài Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích của Trương Tửu, Nội dung xã hội và hình thức tự do của Trần Đức Thảo, ...
- 9/12/1956: Hồ Chí Minh ký sắc lệnh về báo chí. Xác định lại những cấm điều.
- 15/12/56: Nhân Văn số 6 đang in, bị đình chỉ.
- Cuối tháng 12/56: Tự Do Diễn Đàn, tập I, tạp chí chuyên về lý luận, phê bình, sáng tác, do Minh Đức phát hành cuối tháng 12, bị cấm. Tự Do Diễn Đàn có các bài: Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo của Nguyễn Mạnh Tường; truyện ngắn Chú bé làm văn của Trần Dần, Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết đến cuộc đấu tranh văn nghệ? của Nguyễn Hữu Đang, Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích chính sách của Phan Ngọc, Động Long Mạch thơ Lê Đạt, Vài ý nghĩ sau khi đọc bài thơ Động Long Mạch của Hoàng Cầm, Sinh hoạt văn hoá của Trương Tửu và Trần Đức Thảo[2].
- Tết 1957, Minh Đức còn in tập Sách Tết, giai phẩm cuối cùng, bài vở của hầu hết các tác gia trong NVGP.
- Từ 20 đến 28/2/57: Đại Hội Văn Nghệ II họp tại Hà Nội. Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát bọn NVGP".
- Cuối 1957: Mao Trạch Đông đánh phái hữu. "Trong thời gian này Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô, Mông Cổ, CHDCND Triều Tiên có ghé thăm Bắc Kinh chứng kiến và có thể học hỏi các kinh nghiệm tổ chức phong trào đánh phái hữu. Việt Nam cử Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường sang học tập kinh nghiệm, chính sách của Trung Quốc[3]".
- Tháng 2 - 3/1958: Khi họ trở về, đảng tổ chức hai lớp đấu tranh "chống bọn phản động NVGP" ở Thái Hà ấp.
- 4/6/58: Đại Hội Văn Nghệ III, họp tại Hà Nội, hoàn tất "Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP" với bài tổng kết của Tố Hữu, nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ lên án "bọn NVGP" và các Hội Văn Nghệ thi hành biện pháp kỷ luật.
Nhìn lại lịch trình trên đây, thấy nổi bật vai trò của ba Đại Hội Văn Nghệ:
- Đại Hội I, Yên Giã, Việt Bắc 1950, chính thức tuyên bố theo đường lối xã hội chủ nghiã, loại trừ tất cả các hình thức văn nghệ cổ điển.
- Đại Hội II, Hà Nội 1957, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh đập nát phong trào NVGP.
- Đại Hội III, Hà Nội 1958, Tố Hữu tuyên bố đã dẹp xong NVGP.
Ngoài ra, sự xác định trước đây của Hoàng Văn Chí trongTrăm hoa đua nở trên đất Bắc và của Boudarel trong Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam về nguyên nhân phát xuất NVGP từ Trăm hoa đua nở ở Trung Quốc, là không đúng hẳn, vì phong trào ở Việt Nam, chớm nở từ việc đòi hỏitự do sáng tác, tháng 4/55, trong quân đội, và chính thức bắt đầu với Giai Phẩm Mùa Xuân, tháng 1/56; trong khi đến tháng 5/56 Mao Trạch Đông mới phát động phong trào Trăm hoa đua nở.
Tuy nhiên, lập luận này cũng không hoàn toàn sai, bởi vì Trần Dần sang Trung quốc tháng 10/1954, để viết thuyết minh cho phim Điện Biên Phủ, cho nên ông mới biết việc Hồ Phong phản kháng rồi bị đàn áp và chính bản thân ông cũng bị cán bộ chính trị hoạnh họe đủ điều, nên khi về Hà Nội, ông mới tổ chức phong trào trào đòi tự do sáng tác trong quân đội cùng với Tử Phác. Đó là thời điểm manh nha, cuối 1954 đầu 1955.
Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời tháng 1/56, rồi bị dập tắt ngay, nhưng đến tháng 2/1956, Khrouchtchev tố cáo tội ác của Staline tại đại hội XX của đảng Cộng Sản Liên Xô, và tháng 5/1956, Mao Trạch Đông phát động phong trào Trăm hoa đua nở. Vì đảng Lao Động theo sát chính sách Mao và Liên Xô, nên mới nới rộng tự do văn nghệ, tổ chức lớp học tập dân chủ18 ngày, để Nguyễn Hữu Đang có cơ hội trở lại, giữ vai trò lãnh đạo NVGP.
Tác phẩm của Boudarel đặt trọng tâm vào Trần Dần và bi kịch Trần Dần. Theo ông, nhân chuyến đi Trung Quốc, Trần Dần chịu ảnh hưởng tư tương phản kháng của Hồ Phong. Thậm chí Boudarel còn cho rằng hai chữ Nhân Văn lấy từ một câu của Hồ Phong:
"Hiện thực xã hội theo quan niệm của tôi phải quay về với con người... về sự giải phóng con người... về tinh thần nhân văn[4]".
Về nhận xét này, Boudarel đã lầm trên các điểm:
Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang chủ trương, khi ấy Trần Dần đã mệt mỏi, lui vào mặt sau vì chuyện tù tội, vợ con. Tên Nhân Văn, là do Nguyễn Hữu Đang hay Hoàng Cầm đặt. Lê Đạt nói:
"Anh Cầm thì nói rằng tên Nhân Văn là do anh ấy nghĩ ra. Còn anh Ðang cũng nói Nhân Văn do anh ấy nghĩ ra, thực tình tôi cũng không hiểu như thế nào".
Và Hoàng Cầm, trả lời phỏng vấn RFI 2007, bảo chính ông đã nghĩ ra tên Nhân Văn; nhưng trong lời "thú nhận", năm 1958, Hoàng Cầm viết:
"Có Nguyễn Bính, Đang, Tước[5] bàn về tên tờ báo và mời Nguyễn Bính làm thư ký toà soạn, thì tôi nghĩ là "tên báo gì gì cũng được" miễn là có báo ra được"[6].
Vậy tên báo chắc là do Nguyễn Hữu Đang nghĩ ra. Dù Trần Dần có "thú nhận" rằng sự chống đối của mình "có màu sắc tư tưởng Hồ Phong", thì cũng chỉ là một cách gián tiếp, bởi những thành viên chính của NVGP hầu hết đều chịu ảnh hưởng văn hoá Pháp, không mấy người biết Hán văn để đọc Hồ Phong.
Ta có thể xác định nguyên nhân phát xuất NVGP: mọi sự bắt nguồn từ quân đội, hai người đầu xướng là Trần Dần và Tử Phác, với việc phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu và bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá".
Vụ phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Tháng 3/1955, Trần Dần, Tử Phác cùng Hoàng Cầm, Lê Đạt tổ chức phê bình tập Việt Bắc của Tố Hữu, với những bài của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt.
Tháng 4/1955 Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm... ký bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá".
Hai sự kiện này đi đôi và gắn bó với nhau.
Trước kháng chiến, Trần Dần đã cùng Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch - em ruột Vũ Hoàng Chương- ra tạp chí Dạ Đài ngày 16/11/1946, công bố bản Tuyên ngôn tượng trưng. Trong kháng chiến, 1950, Trần Dần gặp Lê Đạt, cùng chí hướng đổi mới thi ca, cùng muốn "chôn đàn anh", nói theo ngôn ngữ Nguyên Sa, Mai Thảo. Ngoài Bắc, trong số những người "đáng chôn", Tố Hữu là tiêu biểu. Nhân dịp Việt Bắcvừa phát hành tháng 12/54, đã có bài ca tụng của Xuân Trường trên báo Nhân Dân, 24/1/55 và một bài ủng hộ của Xuân Diệu trải dài trên hai số Văn Nghệ 64 và 65, tháng 2/55[7]. Ngày 4/3/55, Trần Dần và Tử Phác đứng ra tổ chức một buổi phê bình thơ Tố Hữu trong khôn khổ văn nghệ quân đội, với sự hiện diện của tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị.
Lê Đạt kể lại:
"Lúc đến, tôi đã thấy ông Nguyễn Chí Thanh ngồi đấy rồi. Hoàng Yến lên nói về thơ Tố Hữu và bảo rằng thơ Tố Hữu bây giờ "nhỏ" hơn thơ Tố Hữu thời trước, thì đó cũng là một cách nói thôi. Sau đó, khi anh Thanh lên diễn đàn thì tôi thấy không khí im lặng cả, không ai nói gì nữa. Trần Dần đá chân tôi bảo: "Thôi, thế cậu lên đi." Tôi lên nói một bài về thơ Tố Hữu và tôi có nhắc đến sự sùng bái chủ tịch Hồ Chí Minh của Tố Hữu. Cuộc trao đổi ấy rất vui vẻ rồi ông Thanh cũng không nói gì nữa. Căn cứ trên cuộc thảo luận ấy thì anh em thấy là có thể có đủ bài để viết trên tạp chí Văn Nghệ mà lúc đó tôi là thường trực. Sau đó tôi có lên trình bày với anh Tố Hữu về tờ báo Văn Nghệ"[8].
Buổi thảo luận chỉ là nói miệng, nhưng Lê Đạt muốn đưa lên Văn Nghệ[9] mới lên gặp Tố Hữu để bàn, không ngờ Tố Hữu lại "gợi ý" Lê Đạt nên viết bài phê bình tập thơ Việt Bắc,chắc ông chờ đợi một bài tâng bốc của đàn em. Đã có sẵn bài của Hoàng Yến trong túi, Lê Đạt bèn tập hợp thêm một số bài khác làm số báo đặc biệt về Việt Bắc. Tố Hữu không ngờ vụ việc xẩy ra trái hẳn ý mình, bởi vì, theo Lê Đạt:
"Ở nước Việt Nam người ta chưa quen chê anh Tố Hữu bao giờ"[10].
Vụ phê bình Việt Bắc mở rộng và chuyển sang các báo khác, kéo dài nhiều tháng[11]. Nhưng Tố Hữu cũng không vừa, ông ra lệnh cho Hội Văn Nghệ tổ chức thêm hai buổi tọa đàm khác, có các vị chức sắc tham dự. Phía ca tụng Việt Bắcchủ chốt có các bài của Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông. Phía chê có: Hoàng Yến, Hoàng Cầm và Lê Đạt. Trần Độ trung dung: vừa khen, vừa chê.
Hoàng Yến muốn chê thơ Tố Hữu bịa nhưng lịch sự nói rằng Tố Hữu chưa nắm vững hiện thực:
"Ta thấy thơ Tố Hữu ngày nay còn bé hơn thơ Tố Hữu trước kia. Bé vì Tố Hữu chưa thổi được vào thơ ngọn lửa hừng hực chiến đấu của thời đại để đốt cháy lòng người đọc. Bé vì chất sống chưa thật sâu sắc nên ý thơ nhiều đoạn còn giả tạo công thức"[12].
Hoàng Cầm chê thơ Tố Hữu "thiếu chất sống thực tế","nhạt nhẽo", "hời hợt", chỉ "lởn vởn ở bên ngoài chứ không đột phá vào một khía cạnh nào của tâm hồn", "những câu văn đèm đẹp" "rủ rỉ một lát rồi thôi", "chỉ thấy những hình ảnh chung chung, gặp bất cứ ở chỗ nào", khi ca tụng lãnh đạo thì"đao to búa lớn", " bài "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên giống như một vại nước to, tràn đầy, pha loãng một màu sữa. Loãng quá" ...
Lê Đạt, trong bài lý luận, cho rằng Tố Hữu "cố gắng đi tới công nông" nhưng trong thơ còn rơi rớt tính chất "ngậm ngùi, buồn buồn... nó là cơ sở điệu tâm hồn của Tố Hữu"... và tổng kết ý kiến của mình và các bạn:
"Tính chất tiểu tư sản và xa thực tế là hai khuyết điểm căn bản, nó cản trở khả năng hiện thực của Tố Hữu. Nó là nguyên nhân của cái buồn, cái công thức, cái hời hợt rải rác trong tập thơ"[13].
Trần Dần không có bài trên báo, nhưng viết trong nhật ký"Tố Hữu nhìn sự vật nó chính trị quá, công thức quá, lười tìm tòi quá. Chỗ nào hay thì lại là lập lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao... Tố Hữu chưa đem tới một cách nhìn mới mẻ gì"[14].Và trong buổi toạ đàm ngày 4/3/55, theo Vũ Tú Nam mách lại, Trần Dần bảo thơ Tố Hữu là "tí ti la haine, tí ti l'amour - tí ti căm thù, tí ti tình yêu "[15]. Tất nhiên Tố Hữu không thể"bỏ qua" vụ này. Tháng sau, Trần Dần, Tử Phác tung ra Bản dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá.
Bản dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá
Tháng 4/1955, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm... ký bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá", nội dung gồm 32 hay 36 điều[16] yêu cầu cải cách chính sách văn nghệ trong quân đội, chủ yếu đòi quyền tự do sáng tác.
Hoàng Cầm viết:
"Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ý tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị". Nhưng: "Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:
“Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!
Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang"[17].
Trong bài viết này, Hoàng Cầm không thể nói rõ những người ủng hộ là ai, người "thẩm quyền bác bỏ" là ai. Nhưng ông thuật lại bối cảnh buổi họp đó trong băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè như sau: Nhân buổi họp mặt khoảng trên 20 văn nghệ sĩ, trong nội thành ở Cửa Đông với tướng Nguyễn Chí Thanh. Đây là một trong những buổi họp mặt thường xuyên, được tổ chức theo lời ông Thanh, để chúng tôi giảng cho ông về văn nghệ. Trần Dần lợi dụng dịp này để đọc bản điều trần cho ông nghe, nhưng mới đọc được độ non nửa bài, thì ông Thanh đập bàn quát:
"Tôi không ngờ các đồng chí đã ăn phải viên đạn bọc đường của giai cấp tư sản... tôi thấy sặc cái mùi tư sản, nào là tự do sáng tác, tự do đi lại... thôi tôi không nghe nữa", rồi ông đứng dậy đi về.
Trong bài đánh Trần Dần trên VNQĐ, Vũ Tú Nam kể lại: Hôm đó, Trần Dần nêu lên ba đòi hỏi chính:
1- Trả lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ.
2- Thành lập trong quân đội một chi hội văn nghệ trực thuộc Hội Văn Nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính Trị.
3- Bỏ mọi "chế độ quân sự hiện hành" trong văn nghệ quân đội...
Nghe xong đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ, còn ấm ức, cho là cấp trên không thông cảm. Trần Dần và vài người khác thì lồng lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản, muốn giải ngũ". Vẫn theo Vũ Tú Nam, Trần Dần viết:
"Biểu hiệu cao nhất của trách nhiệm người viết là thái độ tôn trọng, trung thành với sự thực. Đó là tiêu chuẩn cao nhất đánh giá tác giả và tác phẩm... tôn trọng, trung thành với sự thực vừa là trách nhiệm, vừa là lập trường, vừa là phương pháp làm việc của người viết".
"Sự thực lớn gấp triệu triệu lần bất cứ chỉ thị, lý luận nào... Nếu như sự thực ngược lại chính sách chỉ thị, thì phải viết sự thực chứ không phải là bóp gò sự thực vào chính sách"[18].
Bản dự thảo do chính tay Trần Dần viết trong tháng 2/55, dài 12 trang đánh máy bị Tuyên Huấn bác bỏ.
Vai trò của các tướng Nguyễn Chí Thanh, Lê Liêm, Lê Quang Đạo, Võ Hồng Cương, Trần Độ
Trong quân đội, thời ấy, đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tổng Tư Lệnh, đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, quyền lực ngang ngửa nhau. Tướng Lê Liêm, phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị; Lê Quang Đạo, cục trưởng Cục Tuyên Huấn và Võ Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn.
Theo Hoàng Cầm, tướng Nguyễn Chí Thanh đã có lần bênh vực ông trong buổi văn nghệ mừng chiến thắng Điện Biên Phủ, do ông tổ chức theo yêu cầu của tướng Giáp. Trong buổi trình diễn, Hoàng Cầm đưa ra màn hát màn quan họ, có câu: "Yêu nhau cởi áo cho nhau", bị một người đứng lên hô hào cử tọa đả đảo đồi trụy, nhưng tướng Thanh lên sân khấu bênh vực, dẹp tiếng đả đảo, để nghệ sĩ tiếp tục trình diễn. Khi tướng Thanh về làm chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, cai quản khoảng một trăm văn nghệ sĩ, ông đề nghị Hoàng Cầm phân phối người đến dậy ông về nghệ thuật, như Mai Văn Hiến về hội họa, Nguyễn Đức Toàn về âm nhạc, Văn Chung về múa, Thanh Tịnh về viết...[19]
Tướng Nguyễn Chí Thanh cũng để cho Trần Dần và các bạn hội họp bàn về tự do sáng tác, nhưng sự phẫn nộ của ông khi nghe Trần Dần đọc bản dự thảo, chứng tỏ ông là người bảo thủ. Hoàng Cầm cho rằng, ở thời điểm 1954-1955, ông bị ảnh hưởng nặng nề chính sách của Mao Trạch Đông. Nhưng khi Trần Dần bị bắt lần thứ nhì, dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện, dù tự ý hay do chỉ thị của Phạm Văn Đồng, ông cũng đã can thiệp cứu Trần Dần. Nhưng rồi cũng chính tướng Nguyễn Chí Thanh đã trao cho người bà con Vũ Tú Nam toàn bộ tư liệu về Trần Dần, kể cả 2 lá thư Trần Dần viết để xin ra khỏi đảng năm 55, để họ Vũ có đủ tư liệu viết bài đánh Trần Dần[20]. Phải chăng ông muốn Vũ Tú Nam, ghi lại cho hậu thế những điều Trần Dần đòi hỏi dân chủ trong bản dự thảo?
Về Nhân Văn, Nguyễn Chí Thanh không viết bài đả kích,nếu ai hỏi về Nhân Văn, ông chỉ nói:
"Ôi giời! mấy cậu văn nghệ sĩ nó cứ hay tự do chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa ấy mà!"[21]
Trường hợp Nguyễn Chí Thanh vẫn còn là một nghi vấn: Ông bênh vực dân chủ hay ông là người cộng sản giáo điều?
Ngoài Nguyễn Chí Thanh, bản dự thảo còn được ai ủng hộ, khiến nó "sắp được thông qua" như lời Hoàng Cầm?
Theo phân tích của Boudarel, thì bản dự thảo này được sự ủng hộ của ba tướng tá cao cấp trong Tổng Cục Chính Trị: Lê Quang Đạo, Trần Độ, và nhất là Lê Liêm:
"Ở những buổi thảo luận nội bộ năm 1955 trong quân đội, có những cán bộ cao cấp ủng hộ nhóm văn nghệ sĩ đòi hỏi quyền tự do sáng tác, nhưng không ai chỉ rõ tên họ ra, rất có thể bởi vì muốn tránh cho họ rơi vào hoàn cảnh khó xử trước những đồng nghiệp quyết liệt. Duy có hai người, hai tướng chính uỷ Trần Độ và Lê Liêm là dễ nhận ra, nhưng cũng không chỉ có hai người đó. Một văn bản chứng minh rằng vào mùa thu năm 1956, tướng Lê Quang Đạo cũng can thiệp khi vụ việc xẩy ra. Nhưng trong chiều hướng nào? Lúc đó ông là cục trưởng cục Tuyên Huấn[22]".
Boudarel phác họa chân dung Lê Quang Đạo, Lê Liêm và Trần Độ, ba tướng lãnh trong Tổng Cục Chính Trị ủng hộ những nhà văn trẻ. Ông phân tích những khúc mắc trong hành động của họ, khi ủng hộ tự do sáng tác và mở rộng dân chủ, lúc phải lùi bước trở lại vị trí chính thống. Điều đặc biệt đáng chú ý là trong suốt thời kỳ NVGP, Boudarel không tìm thấy văn bản nào của các tướng lãnh trong Tổng Cục Chính Trị lên án phong trào.
Cuốn Bọn Nhân văn Giai phẩm trước toà án dư luận tập hợp những bài viết của hơn 80 văn nghệ sĩ và trí thức "dân sự". Trong các bài mà chúng tôi thu thập được trên báo quân đội, có bài Một vài ý kiến góp với bạn đọc[23] của tướng Lê Liêm, lời lẽ nhẹ nhàng, chẳng có ý khiển trách mà còn như bênh vực NVGP.
Theo lời Hoàng Cầm và Trần Duy, Võ Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn, là người hiền hoà, rất gần gũi với anh em. Sau vụ Thái Hà ấp, ông là người được chỉ định viết bài tổng kết đánh NVGP, với bài Cuộc đấu tranh giai cấp trên mặt trận văn nghệ hiện nay ký tên Hồng Cương[24], giọng tuy sắt đá, nhưng thâm tâm hình như có ý hỗ trợ: ông chỉ trình bày những đòi hỏi tự do dân chủ của nhóm NVGP cho hậu thế biết, mà không buộc tội họ một cách độc ác như các ngòi bút "dân sự".
Tướng Lê Liêm, phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị, một trong những tướng tài ở Điện Biên Phủ, hết sức ủng hộ văn nghệ sĩ. Trong cuộc thanh trừng NVGP, ông giữ một sự im lặng đầy ý nghĩa. Năm 1958, trở thành thứ trưởng Văn Hoá, tuy thăng chức, nhưng không có quyền, bắt đầu sự thất sủng. Phản đối việc thân Tàu, chống Nga. Năm 1965, ông làm thứ trưởng Giáo Dục, năm 1968, trong một bài diễn văn về việc cải tạo giáo dục, Lê Liêm trở lại quan điểm chính thống. Năm 1974, người ta đồn ông bị khai trừ khỏi đảng cùng với Ưng Văn Khiêm, tướng Nguyễn Văn Vịnh và Bùi Công Trừng, vì tội thân Nga. Lê Liêm là một khuôn mặt cởi mở, chấp nhận đối thoại.
Tướng Lê Quang Đạo, cục trưởng Cục Tuyên Huấn, theo lời Hoàng Cầm, "giáo điều", "máy móc", và xa cách hơn, có lúc ông đã kiểm duyệt một vở kịch của Hoàng Cầm, nhưng theo Boudarel, chắc ông cũng đã tác dụng vào những cuộc tranh luận văn học nội bộ trong thời kỳ này, và sau vụ NVGP, ông vẫn tiếp tục con đường cởi mở đến thập niên 80. Năm 1982, ở đại hội V, khuynh hướng bảo thủ thắng thế. Đến 1987, làm chủ tịch quốc hội, ông tiếp tục cổ động cho công cuộc đổi mới.
Trần Độ kiên trì trong quan điểm dân chủ hoá đất nước. Sau Nhân Văn, ông trở lại chiến trường. Dường như ông chỉ tạm thời lùi bước năm 1956 để tiến mạnh hơn, ba mươi năm sau. Năm 1982, trực diện với sự bảo thủ của Hà Xuân Trường trong đại hội V, Trần Độ thua cuộc, nhưng đến năm 1986, khi làm trưởng ban Văn Hoá Tư Tưởng Trung Ương, dưới sự cởi mở của Nguyễn Văn Linh, Trần Độ trở lại vai trò chủ đạo cho công cuộc đổi mới văn học.
Vậy có thể xác định: Trong vụ thanh trừng NVGP, quân đội đứng ngoài. Quân đội sạch tay hơn dân sự.
Nói như Boudarel:
"Tất cả những vấn đề cơ bản đều quy về những năm 1955-1956".
Như vậy, NVGP mở đầu cho tinh thần đấu tranh tự do tư tưởng, cho việc đổi mới văn học, tinh thần này không chấm dứt khi phong trào bị dập tắt, chỉ ngủ yên trong ba mươi năm rồi lại bùng lên những năm 1987- 88.
(còn tiếp) -
13-02-2016, 05:48 #4
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)Trần Dần, Tử Phác bị bắt
Vì hai sự kiện: phê bình thơ Tố Hữu và đề nghị cải cách chính sách văn nghệ quân đội, mà Trần Dần và Tử Phác bị kỷ luật, bị giam từ 13/6/55 đến 14/9/55.
Nhưng về mặt "chính thức", Trần Dần bị kỷ luật vì lẽ khác: về chuyện tình cảm, yêu một người con gái có đạo - Cô Khuê, vợ Trần Dần sau này - cha mẹ đã đi Nam, không được đảng cho phép cưới, tự ý bỏ trại, về với người yêu ở phố Sinh Từ và không chịu lên trình diện. Tử Phác cũng không chịu lên trình diện.
Về việc này, Boudarel có những phân tích thỏa đáng:
"Đối với Trần Dần, trận bút chiến trong ba tháng đầu năm 1955 đi đôi với sự tranh đấu không cân bằng trong Cục Chính Ủy quân đội về vấn đề lý thuyết chính trị và nhân sự, cả hai đan cài khó gỡ. Việc bản dự thảo bị hủy bỏ đối với Trần Dần là một thất bại, nhưng cũng không đau đớn bằng việc bị các bạn đồng hành bỏ rơi, chạy sang phe bên kia. Vì lý do sức khỏe, Trần Dần xin nghỉ một thời gian để thoát khỏi trại binh. Mãi không thấy cấp trên trả lời, anh tự ý bỏ trại về nhà người bạn gái ở phố Sinh Từ. Hai lần cấp trên gọi về chờ lệnh, anh đều từ chối. Bị kiểm thảo vắng mặt, và có lẽ bị trừng phạt nữa, bởi vì trong lần gọi thứ ba, anh đòi hủy bỏ những quyết định chống lại anh. Những phê phán Trần Dần phạm quân kỷ đi đôi với việc trật tự trở lại trong văn nghệ quân đội. Mãi không thấy gì mới, đến giữa tháng 5/1955, Trần Dần viết hai lá đơn xin ra khỏi đảng và ra khỏi quân đội (một cho đảng và một cho quân đội) trong đó anh trình bày những lý lẽ của mình với một sự thẳng thắn, đến độ ngây thơ lạ lùng[25]".
Đây là lần thứ nhất Trần Dần, Tử Phác bị giam, thật ra bị cấm trại, không phải tù. Trong thời gian này, Trần Dần viết bài thơ dài "Nhất định thắng" trao bản thảo cho Lê Đạt giữ[26]. Hết cấm trại, Trần Dần và Tử Phác được về nhà, và hơn tháng sau, cả hai bị gửi đi tham gia Cải Cách Ruộng Đất tại Yên Viên, Bắc Ninh, từ 2/11/1955 đến giữa tháng 2/1956. Trong khi ấy Hoàng Cầm và Lê Đạt ra Giai Phẩm Mùa Xuân.
Tháng 1/1956, Giai Phẩm Mùa Xuân xuất hiện, đăng bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần. Sách vừa phát hành, Lê Đạt bị gọi lên Tuyên Huấn để kiểm thảo. Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu.
Lê Đạt kể lại trên RFI:
"In ra được một tuần thì thấy ảnh hưởng của nó ghê gớm quá, tôi với anh Trần Dần cũng không ngờ. (...) Nhưng mà đồng thời dông bão cũng đã bắt đầu thấy xuất hiện ở trên vòm trời rồi. Hôm tôi đến Hội, tôi gặp cụ Phan Khôi. Cụ Phan Khôi bảo: "Này, gay go đấy nhé!" Tôi bảo: "Cái gì mà gay go hở cụ?" Hôm nọ Tố Hữu đến đây phê phán Giai Phẩm Mùa Xuân nặng lắm và nói rằng: "Lũ này là lũ phản động", thì tôi (Khan Khôi) có nói rằng: "Phản động hay không phản động chưa biết, cứ biết rằng người ta nói mình không bằng lòng thì mình viết, rồi để cho người ta trả lời", thì Tố Hữu nói ngay rằng: "Thừa giấy cho chúng nó viết à?" Phan Khôi bảo tôi: "Cẩn thận!"
Rồi chúng tôi chia tay nhau. Lúc đó đi đâu cũng thấy người ta nói đến Giai Phẩm Mùa Xuân. Bấy giờ là gần Tết rồi và hôm ấy, vào khoảng độ 28 Tết (9/2/1956) trên đường đi tôi gặp một người liên lạc của tôi, đang đi tìm tôi, bảo rằng:
"Anh Tố Hữu có điện đi tìm anh và nói rằng mời anh lên Tuyên Huấn để kiểm thảo".(... ) Tôi bảo với cậu liên lạc: "Bây giờ em về, em cứ nói với cơ quan là không tìm thấy anh, rồi sau Tết anh sẽ lên". Tôi nghỉ ăn Tết xong, mùng 5 Tết (16/2/1956) tôi lên gặp Tố Hữu. Lên, thì lúc ấy Tố Hữu ở trên gác, một anh chánh văn phòng xuống gặp tôi, nói rằng: "Anh đợi một lúc, anh Tố Hữu sẽ xuống!" (...) Trong lúc ngồi ghế đợi, tôi thấy quyển Giai Phẩm Mùa Xuân để trên bàn, bài Nhất định thắng của Trần Dần với rất nhiều câu hỏi của anh Lành (Tố Hữu) đánh bằng bút bi đỏ, ở chung quanh. Nói ghê lắm. Còn bài Mới của tôi, thì bên cạnh câu: Bay cho cao, bay cho xa, anh Tố Hữu có đề câu hỏi: Bay đi đâu? Có phải bay vào miền Nam không? (...) Lúc đó, anh Tố Hữu đi trên gác xuống (...) Câu đầu tiên anh nói với tôi rất lạnh lùng: "Các anh muốn gì?". Tôi hơi bực mình, tôi trả lời: "Chúng tôi chẳng muốn gì cả, chúng tôi chỉ muốn làm văn nghệ. Anh Tố Hữu này, chúng ta vẫn còn là đồng chí với nhau, cho nên anh không thể xử sự với tôi như người ngoài được. Có gì anh cứ nói một cách bình tĩnh." Lúc ấy anh Tố Hữu nghĩ thế nào, mới rút một điếu thuốc lá mời tôi và chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Câu đầu tiên mà anh Tố Hữu nói là: "Tôi rất lo cho tương lai chính trị của anh. Anh thì còn là người ở trong nội bộ, còn Trần Dần hỏng rồi. Chúng tôi đã có tài liệu rằng Trần Dần là có bàn tay của địch dúng vào. Vì anh còn là người của nội bộ cho nên chúng tôi mời anh đến đây kiểm điểm. Anh phải ở lại đây 15 ngày để kiểm điểm và để anh thấy rõ bộ mặt phản động của Trần Dần."
Thế là tôi ở lại đấy ăn cái Tết kiểm thảo 15 hôm[27] (...)
Trong 15 ngày thì có một cuộc Hội Nghị rất lớn, hầu hết các nhân vật sừng sỏ nhất của Tuyên Huấn, nào là anh Kỉnh này, Kỉnh là Trung ương Ủy viên và là phó ban Tuyên Huấn, Nguyễn Chương này. Nguyễn Chương, anh em quen gọi là Xứ Chương, là một cán bộ kỳ cựu sừng sỏ về lý luận (sau này cuộc tranh luận giữa Xứ Chương và Nguyễn Hữu Đang trên báo được rất nhiều độc giả lưu ý). Cả thiếu tướng Lê Chưởng... nhiều, nhiều lắm. Cuộc họp rất to, mà ở bên này chỉ có tôi thôi (cười). Một người thì không thể nào cãi lại được tất cả mọi người. Nhưng tôi cãi được một điểm duy nhất mà tôi có thể cãi lại, và tôi cho là đúng, đó là:" Tôi không thể nào căn cứ vào một văn bản mà kết luận một người (tức Trần Dần) là phản động được". (...)
Tóm lại, cuộc đấu tranh rất căng thẳng. Sau đó, tôi được thả về vì đến đấy coi như đã xong và anh Dần cũng đã bị bắt rồi. Tức là cùng lúc tôi bị gọi lên kiểm điểm ở Tuyên Huấn thì anh Dần bị bắt ở chỗ cải cách ruộng đất. Trần Dần bị bắt cùng với Tử Phác, (...) Ba hôm sau, anh Dần cứa cổ tự tử"[28].
Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho biết:
"Ít ngày sau khi tịch thu Giai Phẩm Mùa Xuân, Tố Hữu triệu tập đại hội toàn thể các cán bộ Tuyên Huấn miền Bắc để phê bình Giai Phẩm Mùa Xuân, họp từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Trong hội nghị này, vai trò của Chế Lan Viên nổi bật. Trần Đĩnh[29] làm việc trong báo Nhân Dân, đi dự hội nghị kể lại với tôi: Tố Hữu khai mạc, Chế Lan Viên "nổ phát súng đầu tiên" lên án -không phải lên án tập sách mà lên án một bài thơ của Trần Dần thôi- rằng nó đã bôi ra một bức tranh u ám của miền Bắc. Trong khi chúng ta đang phấn khởi, tưng bừng đón chế độ mới, mà lại nói "mưa sa trên mầu cờ đỏ" là thế nào? Rõ là mầu cờ cách mạng. Đem quệt một cái màu hết sức u tối lên trên cờ Đảng, là bôi nhọ thành tích của Đảng, của nhân dân. Rõ ràng là một câu thơ hết sức phản động... Tiếp theo Chế Lan Viên, mọi người ào ào lên phát biểu đả kích Trần Dần..., không ai bênh vực.
Vẫn theo lời Hoàng Cầm kể lại lời Trần Đĩnh, đến 5 giờ chiều, tan họp, chỉ còn lại độ 5,7 người, Tố Hữu mới hỏi Văn Phác: "Thế bây giờ chúng nó đâu?" Văn Phác trả lời: "Báo cáo anh, hai anh ấy[30] đang đi cải cách ruộng đất ở bên kia huyện Gia Lâm". Trần Đĩnh cũng chỉ nghe đúng sáu tiếng:"Gọi nó về, giam nó lại![31].
Với thông tin của Lê Đạt và Hoàng Cầm, chúng tôi xin tạm dựng lại bối cảnh:
Trong hạ tuần tháng 2/1956 có hai đại hội quan trọng: Đại Hội Tuyên Huấn, họp từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều, trong nội bộ tuyên huấn, và Đại Hội Văn Nghệ, do Hội Văn Nghệ tổ chức, 150 người dự, từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng, ở 51 Trần Hưng Đạo. Số phận Trần Dần đã được trung ương quyết định từ trước hai đại hội. Tố Hữu, Chế Lan Viên, gọi đó là "tội phản động", còn Lê Đạt "tội" nhẹ hơn, vì là người của Tuyên Huấn. Lê Đạt bị gọi lên Tuyên Huấn từ 9/2/56, nhưng đến 16/2/56 mới lên trình diện Tố Hữu và bị giữ lại kiểm thảo 15 ngày. Trong thời gian này, Tố Hữu triệu tập Đại Hội Tuyên Huấn. Đại hội này xẩy ra sau ngày 16/2, Chế Lan Viên khai ngòi tuyên cáo tội trạng Trần Dần. Nếu Hoàng Cầm kể đúng lời Trần Đĩnh, thì Trần Dần, Tử Phác bị bắt sau Đại Hội Tuyên Huấn, tức là vào hạ tuần tháng hai.
Đại Hội Văn Nghệ họp ở 51 Trần Hưng Đạo lập lại kịch bản đánh Trần Dần đã tập dượt trong Đại Hội Tuyên Huấn. Phan Khôi tham dự Đại Hội Văn Nghệ và trong bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, ông cảnh cáo các lãnh đạo văn nghệ như sau:
"Hội Văn Nghệ khai hội từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng để phê bình bài thơ Trần Dần, mà kỳ thực là hỏi tội Trần Dần, một mầm non văn nghệ. Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa lũ người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công".
Trần Dần và Tử Phác bị bắt. Bị giam dưới hầm, Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện. Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh ngày 21/2/56 và được tha ngày 5/5/56[32].
Hoàng Cầm viết trong bài Con người Trần Dần trên Nhân Văn số 1 như sau:
"Giai Phẩm Mùa Xuân bị kết tội, bài thơ "Nhất định thắng" bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù:
Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam".
"Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội"[33].
Nguyễn Chí Thanh đọc bài Con người Trần Dần, cử Lê Quang Đạo triệu Hoàng Cầm lên để giải thích. Theo lời "thú nhận" của Hoàng Cầm, sau khi nghe Lê Quang Đạo, ông đã viết bài đính chính rằng có nhìn thấy công lao của quân đội đối với Trần Dần, nhưng ông vẫn thêm vào đoạn cuối: "Việc bỏ tù Trần Dần là quá đáng, đến nỗi Trần Dần phải tự tử, và tôi vẫn viết một câu đại ý: Đồng chí Tố Hữu là người phụ trách toàn bộ công tác lãnh đạo văn nghệ, phải chịu trách nhiệm về việc này"[34]. Bài đính chính của Hoàng Cầm không đăng trên Nhân Văn.
Và đây là lời buộc tội của Tố Hữu:
"Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái "điệu tâm hồn" ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đọa.(...)
Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là "những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra". Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên "tiếng trống tương lai" chửi cán bộ chính trị là "người bệnh", "người ròi" [dòi], "người ụ". Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh "buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu" của họ.
Họ đòi thực hiện những gì? "Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội Văn Nghệ trực thuộc Hội Văn Nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính trị". Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ"[35].
Như vậy, có thể nói, Tố Hữu đánh theo chỉ thị, nhưng tư thù là một trong những động lực chính.
Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần
Về việc Trần Dần cứa cổ, chỉ có Hoàng Cầm kể lại, trong bài cải chính -không in- mà Hoàng Cầm nhắc đến ở trên. Trong buổi nói chuyện với RFI, ông thuật lại ít nhiều chi tiết. Đặc biệt trong hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, đoạn ghi lời của Hoàng Cầm về việc Trần Dần, rõ hơn:
"Hồi Hoàng Cầm cho in tập Giai Phẩm Mùa Xuân, có đăng bài của Trần Dần, Tử Phác. Tố Hữu triệu tập mấy người đến họp: Hoàng Cầm, Văn Phác (phụ trách tổ chức Bộ Văn Hoá), Chế Lan Viên ... Tố Hữu cầm cuốn Giai Phẩm Mùa Xuân, hỏi mọi người: "Các anh thấy tập sách này thế nào?" Không ai dám trả lời, vì không đoán được ý Tố Hữu. Chế Lan Viên nhanh trí, đoán trúng ý thủ trưởng. Anh nói: "Cuốn sách đại phản động!"
Tố Hữu hỏi Văn Phác: "Hiện nay chúng nó đang ở đâu?" Văn Phác: "Thưa, các anh ấy đang đi thực tế ở Yên Viên".
Tố Hữu ra lệnh - Hoàng Cầm nhớ đúng sáu tiếng: "Gọi nó về, bắt lấy nó!"
Thế là Văn Phác làm giấy tờ để bắt Trần Dần, Tử Phác.
Và đây là lời kể của Trần Dần, Hoàng Cầm thuật lại: Chiều hôm ấy, có một cái xe ô tô nhà binh đến Yên Viên. Họ gọi Trần Dần, Tử Phác ra và lập tức bịt mắt. Trần Dần kịp thấy trên xe có lính mang súng, lưỡi lê tuốt trần.
Hoàng Cầm nói, Trần Dần là tay thần kinh rất vững. Anh ta bình tĩnh lắng nghe để đoán xem xe đi đâu. Qua một cái cầu dài. Thế là vào Hà Nội. Nhưng xe lại chạy tiếp khá lâu. Thế là đi quá Hà Nội. Đến một chỗ nào đấy, xe đỗ lại. Người ta dắt Trần Dần, Tử Phác, đi xuống một địa điểm ở sâu dưới đất - vì cứ thấy xuống nhiều bậc, xuống mãi. Đến một độ sâu nào đấy, họ dừng lại và đẩy Trần Dần vào một căn hầm, đóng cửa lại. Trần Dần nghĩ bụng, chắc bị thủ tiêu. Thủ tiêu ở đây thì ai biết được? Coi như mất tích. Anh nghĩ phải tìm cách lên được mặt đất.
Sáng ra, thấy đây là một cái hầm đào sâu dưới đất. Ánh sáng lọt xuống từ nóc hầm qua một ô cửa có chấn song, ở trên thoáng thấy có bóng một anh lính gác.
Trần Dần thấy trong hầm có một cái phản gỗ và một bình nước. Anh kéo cái phản ra chỗ ánh sáng từ trên nóc hầm rọi xuống, cởi áo ngoài, để phơi áo sơ mi trắng bên trong ra, lấy một cái mince lame trong túi, nằm ngửa lên phản, dùng lưỡi dao cứa vào cổ cho máu phun ra ngực áo, rồi giẫy đạp ầm ĩ, cốt cho anh lính gác nghe thấy. Anh lính gác nhìn xuống thấy thế hoảng quá: Nó tự tử, phải đưa cấp cứu ngay! Một lát sau, cửa hầm mở, người ta đưa Trần Dần đi cấp cứu ở một bệnh viện gần đó. Té ra là bệnh viện Hà Đông. Ở đây, Trần Dần may vớ được một người quen bèn viết mẩu giấy nhờ đưa đến Tổng Cục Chính Trị nơi anh công tác. Nguyễn Chí Thanh lập tức đến bệnh viện và ra lệnh tha ngay cả Trần Dần và Tử Phác.
Hoàng Cầm rất phục Trần Dần. Thằng cha thần kinh rất vững. Hoàng Cầm cũng từng bị bắt giam. (Ông nghe Hoàng Hưng, định đưa tập thơ Về Kinh Bắc sang Pháp in). Ông nói: "Tôi nhát lắm, mọi tội tôi xin nhận hết" (Hết hạn tù, người ta cho ra, còn xin ở lại viết kiểm thảo. Tô Hoài cho tôi biết thế). Sợ nhất là trong tù cứ thấy tiếng phát ra đều đều không biết từ đâu: Khai thật đi! Khai thật đi! Khai thật rồi về với vợ con!
Chuyện nghe khá sợ. Một hình thức khủng bố về tâm lý. Chẳng biết Hoàng Cầm có thêm thắt gì vào sự thật không. Nhưng quả là đáng sợ. Hoàng Cầm cũng hay tưởng tượng thêu dệt thêm ra nữa[36]".
Hoàng Cầm kể lại việc bắt Trần Dần
Trong băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ông kể rõ nhiều chi tiết hơn:
Việc này Trần Dần kể lại với tôi và Lê Đạt như sau: Khi ấy tao đang đi cải cách ruộng đất, tao và Tử Phác mỗi người ở một nhà. Một đêm ra ngoài Tết, vào khoảng 12 giờ khuya, tao đang ghi chép, thì thấy đèn pin lấp loá ngoài sân, rồi có tiếng quát: Trần Dần đâu? Có người sập cửa liếp, tao ra mở thì có người hỏi: Anh là Trần Dần phải không? Rồi đọc lệnh bắt, ký tên Ngô Minh Loan, cục trưởng Cục Quân Pháp. Họ bảo tao sắp hết đồ đạc vào ba lô, rồi ra sân. Ra sân thì họ bịt mắt rồi đẩy lên thùng xe, tao nghe tiếng vũ khí tuốt trần chạm nhau. Xe đi độ một lúc, thì qua cái cầu, tao đoán là cầu Yên Viên, sông Đuống. Đi lúc lâu nữa thì đến một con đường phẳng phiu, tao đoán là quốc lộ số 1, rồi qua một cái cầu rất dài, chắc là cầu Long Biên. Đi khoảng một tiếng nữa thì xe dừng, họ nhấc tao xuống, dẫn đi độ dăm phút thì bắt đầu đi xuống, chân chạm các bậc đá, khá cao, tao đếm đúng 37 bậc, vai vẫn đeo ba lô. Xuống đến nơi thì nghe họ mở xích sắt, rồi họ đẩy tao vào. Đến lúc họ tháo băng ra thì mình vẫn thấy tối mù, hai người lính đi lên, lại khoá xích lách cách. Tao nhìn tít lên cao thấy một khoảng sáng mờ độ bằng bàn tay, thỉnh thoảng có ánh đèn pin chiếu xuống, nhờ đó mà tao thấy cái hầm nhốt mình rộng độ hai mét vuông, có cái phản làm bằng hai tấm ván kê trên hai mễ gỗ, một bình nước và cái bô vệ sinh. Tao thấy mệt, nằm xuống ngũ đã. Tỉnh dậy trời đã sáng, qua cái lỗ bé tý trên đỉnh, vẫn thấy đèn pin thỉnh thoảng chiếu xuống. Tao nghĩ mãi không biết mình bị bắt vì tội gì, thằng nào bắt, mà nó giam kiểu này thì tội nặng lắm. Bấy giờ ở Phòng Văn Nghệ quân đội cũng nhiều đứa ghét mình, như loại Vũ Tú Nam, Vũ Cao... Thôi, cứ nghỉ một ngày cho thoải mái đã, tao nằm một lúc thì thấy trên lỗ ném xuống một gói, mở ra thấy hai nắm cơm, kèm gói muối. Tao thấy đói, ăn ngon lắm, lại nằm, lại nghĩ, cứ bình tĩnh, cố giữ tâm hồn thanh thản... Qua hai đêm sau, tao điểm tên những người có thể ra lệnh bắt, trong quân đội thì chỉ có thể là ông Nguyễn Chí Thanh, không thì ông Lê Quang Đạo, hay ông Lê Chưởng. Có thằng Văn Phác, là chính ủy trung đoàn lên làm trưởng Phòng Văn Nghệ nó cũng ghét tao lắm. Ngô Minh Loan chỉ là cục trưởng Quân Pháp thì ký lệnh thôi, chủ trương bắt đến từ người khác.
Chắc tại mình bướng làm bản kiến nghị 36 điều, tại thế chăng? Bây giờ phải làm sao thoát được chỗ này, phải lên được mặt đất, chứ nằm dưới hầm, mỗi ngày nó ném cho hai lần, hai nắm cơm, không ai hỏi han gì, không ai biết ở đâu, chắc vài tháng thì chết. Đây là âm phủ rồi. Phải làm sao lên được trần gian. Nghĩ ngợi tính toán, nằm thêm một đêm nữa, sáng hôm thứ ba tao nghĩ ra: nó bắt giam thế này là tội to, mà tội to thì còn phải hỏi cung, nó không thể để cho mình chết. Nó bảo cô Khuê vợ mình là gián điệp cài lại, thì chắc nó cho mình đã đi theo địch, hay ở trong tổ chức nào của địch gài lại chăng? Vậy nó phải để cho mình sống để moi móc tài liệu. Tao mới nghĩ cách lên mặt đất bằng giả chết, bắt buộc nó phải cho lên mặt đất, giữ mình sống để còn điều tra. May trong ba lô của tao còn hộp dao cạo, có hai mince lame, một còn mới, vậy tao phải đổ máu tại đây. Tao lấy trong ba lô cái chemise trắng mặc vào, nằm thẳng trên ván, kéo hết sức da cổ ra, cắt đứt, cho máu tứa ra cái áo chemise trắng, rồi tao đập chân đập tay vào ván, thế thì trên nó quét ngay đèn pin xuống, thấy máu trên nền chemise trắng, nó nghĩ ngay tên tù này định tự tử. Quả nhiên chỉ một phút sau là cửa xích sắt mở và 2, 3 thằng xuống khiêng tao lên. Tao giả vờ chết đến nơi, xỉu đi, thế là chúng nó đưa ngay vào bệnh viện cấp cứu, Viện 103, là một trong những quân y viện lớn nhất của quân đội, cách thị xã Hà Đông 3, 4 cây số.
Tên đại đội trưởng ra lệnh cho bác sĩ cấp cứu ngay:
"Đây là một tên tội phạm tội to lắm, trên giao cho chúng tôi bảo vệ nó, mà để nó tự tử thì chúng tôi bị kỷ luật". Tao được ưu đãi lắm, trưa hôm ấy họ cho ăn cháo gà. Nghĩ lại mình quá may, nếu không có mince lame thì làm sao lên được mặt đất. Đến chiều thì người bác sĩ trực mới lân la hỏi chuyện: "Anh là Trần Dần chứ gì, tôi đã gặp anh ở Sơn La, anh không nhớ à?" Lại hỏi: "Sao anh xử sự thế này, ai bắt anh?" Tao chỉ trả lời vắn tắt: "Chuyện nó dài lắm, lúc khác anh em mình nói chuyện".
Anh bác sĩ kể, lúc họ đưa anh vào đây, tôi có điện thoại cho anh Phạm Văn Đồng, tôi nói:
"Thưa thủ tướng, tại sao anh Trần Dần đi chiến dịch Điên Biên, viết Người người lớp lớp mới đây, mà lại bị bắt, lại tự tử?"
Tôi nghe đầu kia ông Đồng hét lên: "Cái gì? Làm sao? Ai bắt?" Rồi tôi nghe trong máy có giọng ông Nguyễn Chí Thanh, ông Thanh hơi gắt: "Sao thế nhỉ? Sao chuyện ấy tôi lại không biết? Thôi được rồi, anh cứ để tôi giải quyết ngay lập tức". Thế là ông Thanh điện thoại lại Quân Y Viện, căn dặn chúng tôi là tên tội phạm to thì phải chữa cho thật khỏe lên, sáng mai 9 giờ tôi sẽ xuống bệnh viện. Hôm sau ông Thanh xuống, mang theo một nải chuối và hai cân cam, ông nói với tao: "Anh Dần buồn cười nhỉ, tại sao lại phải tự tử? Anh là đảng viên, có gì thì phải viết thư cho tôi, phải ở trong tổ chức, nếu tôi không giải quyết được thì đề đạt lên Bộ Chính Trị, mà trên nữa còn Hồ Chủ Tịch". Tao trả lời: "Nếu tôi không tự tử thì làm sao gặp được anh hôm nay?" - "Thế anh giả vờ chứ gì?" - "Vâng, tôi giả vờ, nhưng nếu không làm thế thì tôi chết ở đâu anh cũng không biết". Ông Thanh dịu giọng: "Thôi nằm tĩnh dưỡng đi rồi còn về làm việc"[37].
Thoại của Hoàng Cầm, theo ông, là do Trần Dần kể lại, chắc gần sự thực hơn cả nhưng không thấy ông nói đến việc Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh. Vậy có thể hiểu: Khi tướng Nguyễn Chí Thanh xuống bệnh viện thăm, có thể chính ông Thanh đã căn dặn Trần Dần phải viết lá thư trần tình để ông dễ bề can thiệp. Lá thư này đã được Boudarel nhắc đến và Vũ Tú Nam sử dụng.
Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu, Lê Đạt bị kiểm thảo. Trần Dần bị kết tội phản động. Trần Dần, Tử Phác bị bắt. Sự khủng bố trở nên công khai nhưng cũng mở màn cho một phong trào đấu tranh cho dân chủ rộng lớn hơn, nửa năm sau. Vậy nội dung Giai Phẩm Mùa Xuân chứa đựng những gì?
***
Chú thích:
[1] Vừa viết xong tác phẩm Người người lớp lớp về Điện Biên Phủ.
[2] Dẫn theo Boudarel, bài Le tort de parler trop tôt - Sai lầm vì nói quá sớm, viết về Nguyễn Mạnh Tường, Revue Sud Est Asie, số 52.
[3] Lê Hoài Nguyên, Vụ Nhân Văn - Giai Phẩm từ góc nhìn một trào lưu dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành, website nguyentrongtao.com 06/08/2010.
[4] Boudarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, trang 59.
[5] Một người thân thuộc trong nhà xuất bản Minh Đức.
[6] Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[7] In lại trong cuốn "Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc", do Lại Nguyên Ân soạn, nxb Văn Hoá Thông Tin, 2005.
[8] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[9] Do Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt biên tập.
[10] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[11] Xem "Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc" của Lại Nguyên Ân.
[12] Lại Nguyên Ân, sđd, trang 69.
[13] Lại Nguyên Ân, sđd.
[14] Trần Dần ghi trang 143.
[15] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân Đội, tháng 4/58.
[16] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[17] Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1.
[18] Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ QĐ, số 4, tháng 4/58.
[19] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[20] Boudarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, trang 100 và 126.
[21] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[22] Boudarel, Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam, trích dịch trang 101.
[23] Quân Đội Nhân Dân số 301, ngày 27/11/1956.
[24] Văn Nghệ Quân Đội số 6, tháng 6/1958.
[25] Boudarel, sđd, trang 125-126.
[26] Theo Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1.
[27] Tức là từ 16/2/1956 đến 2/3/1956.
[28] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[29] Trần Đĩnh là một trí thức bạn thân của Hoàng Cầm, Lê Đạt.
[30] Trần Dần và Tử Phác
[31] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[32] Theo Boudarel, sđd, trang 46. Chúng tôi dùng thoại của Boudarel, vì tin rằng Boudarel đã thấy hoặc có tài liệu về bức thư viết ngày 21/2/56. Xin xem thêm thoại của Hoàng Cầm ở phần dưới: Tại bệnh viện, bác sĩ điện thoại cho thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông Đồng trao cho tướng Thanh giải quyết. Có thể cả hai thoại đều đúng: Tướng Thanh sau khi gặp Trần Dần ở bệnh viện đã dặn Trần Dần phải viết thư khiếu nại cho ông, để ông có thể can thiệp hữu hiệu hơn.
[33] Hoàng Cầm, Con người Trần Dần, Nhân Văn số 1.
[34] Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[35] Tố Hữu, Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm "Nhân Văn-Giai Phẩm", BNVGPTTADL, nxb Sự Thật, Hà Nội 1959, trang 22-24.
[36] Trích Hồi Ký Nguyễn Đăng Mạnh, chưa in..
[37] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.(còn tiếp) -
13-02-2016, 05:50 #5
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)Chương 3
Giai Phẩm Mùa Xuân
Giai Phẩm Mùa Xuân do Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương. Hoàng Cầm trong bài Con người Trần Dần[1], và sau này, trả lời phỏng vấn RFI, đều xác nhận Trần Dần không biết gì về việc in bài thơ Nhất định thắng vì lúc đó đang tham gia Cải Cách Ruộng Đất ở xa. Có lẽ là để gỡ tội cho Trần Dần. Sự thực Trần Dần có tham gia Giai Phẩm Mùa Xuân: Sau khi bị bắt lần thứ nhất, bị cấm trại 3 tháng, Trần Dần và Tử Phác bị gửi đi tham gia Cải Cách Ruộng Đất. Trong lời "thú tội", Trần Dần viết: "Sau thời gian đó, trên có cho tôi đi tham quan cải cách ruộng đất để tự cải tạo. Song, tôi lại dựa vào cái thế tham quan, cứ đi lại Hà Nội, tiếp tục quan hệ với một người vợ chưa được phép. Hơn nữa lại quan hệ với Hoàng Cầm, Lê Đạt, ra Giai Phẩm Mùa Xuân. Tuy là họ đề ra, song sau khi thống nhất trước với nhau là: “Tự do lấy bài tôi đưa vào”, thì tôi hoàn toàn đồng tình. Mỗi lần gặp lại thúc đẩy, dục dã, ra cho nhanh. Việc tập hợp bài vở, tôi không rõ chi tiết. Bài Lão Rồng là do tôi viết. Tôi ví đồng chí Văn Phác như tên lý trưởng đã chà đạp Lão Rồng[2]".
Lê Đạt cũng xác định việc chủ trương và tổ chức Giai Phẩm Mùa Xuân như sau: "Trần Dần ra rồi, chúng tôi mới nghĩ đến chuyện này: bây giờ làm sao mà in được một tập thơ, trái với nguyên tắc lúc bấy giờ - nguyên tắc bấy giờ là tất cả các bài đều bị kiểm duyệt. Tôi chủ trương tập này phải là một tập tự do sáng tác hoàn toàn, tức là mỗi cá nhân đều chịu trách nhiệm về bài của mình và không có kiểm duyệt gì cả. Tôi có bàn với Dần, Cầm, với Văn Cao, Tử Phác và mấy anh hội họa nữa là Sỹ Ngọc và Nguyễn Sáng. Lúc đó thì chưa tìm được chữ gì hay lắm. Tôi cũng không thích chữ Giai Phẩm tại chữ Giai Phẩm có vẻ Tự Lực Văn Ðoàn, nghe chữ ấy nó sang trọng quá tôi không thích. Nhưng lúc đó anh Minh Ðức và anh Ðang đều thích chữ ấy. Trước tôi định cái tít là "Thơ năm người", nhưng mọi người bảo thế là "gây sự" quá, thì sau cũng đành lấy chữ Giai Phẩm[3]".
Căn cứ vào các sáng tác trong Giai Phẩm Mùa Xuân, ta có thể xác định: Giai Phẩm Mùa Xuân là giai phẩm đầu tiên ở Bắc, sau cách mạng tháng Tám, đáp ứng hai đòi hỏi: tự do sáng tác và đổi mới văn học do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương, với sự cộng tác của Trần Dần, Văn Cao, Tử Phác...
Giai Phẩm Mùa Xuân chuyên về thơ. Tất cả có 9 bài thơ - Lê Đạt ba, Hoàng Cầm hai, Văn Cao, Nguyễn Sáng, Phùng Quán, mỗi người một và Nhất định thắng của Trần Dần. Ngoài ra, có truyện ngắn Sổ tay của Sỹ Ngọc và truyện phiếm Lão Rồng của Trần Dần.
Về hình thức, thơ trong Giai Phẩm Mùa Xuân khác với Thơ Mới: câu dài, ngắn, không đồng đều; nhịp điệu phóng khoáng; có thể nói đây là giai phẩm thơ đầu tiên thể hiện thơ hiện đại không vần ở miền Bắc.
Sáng tác trong Giai Phẩm Mùa Xuân có ba hướng:
- Khuynh hướng tuyên truyền cách mạng: Cổ động cho chính sách Cải Cách Ruộng Đất: Chống địa chủ, cường hào ác bá, đề cao cách mạng (Mùa xuân đến rồi đây của Hoàng Cầm); thơ chiêu hồi gửi miền Nam (Thơ qua đài phát thanh, Hoàng Cầm); thơ đề cao chiến thắng và công lao của Đảng (Hoa đào vẫn nở, Nguyễn Sáng); thơ kiến thiết đất nước, xây dựng xã hội mới (Mỗi ngày mỗi lớn - Gửi kế hoạch nhà nước 1956, Lê Đạt); thơ ca tụng công nhân quét đường (Thi sĩ và công nhân, Phùng Quán); văn tả cảnh đói khổ của người lao động, sự bóc lột của địa chủ, nhưng nhờ ánh sáng của Đảng, từ nay, trời sẽ "trong sáng vĩnh viễn" (Sổ tay, Sỹ Ngọc).
- Khuynh hướng vừa chống vừa theo: Trần Dần (Nhất định thắng).
- Khuynh hướng chống đối và đòi tự do sáng tác: Văn Cao (Anh có nghe thấy không) và Lê Đạt (Làm thơ và Mới).
Thơ Hoàng Cầm
Tiểu biểu cho khuynh hướng đầu tiên là thơ Hoàng Cầm. Là một trong những người xây dựng nên phong trào, nhưng khác với Trần Dần và Lê Đạt, hai nhà thơ trẻ, Hoàng Cầm thuộc lớp đàn anh, đã có vị trí vững vàng trên nhiều địa hạt văn nghệ. Trái với Tố Hữu, được coi là chủ soái dòng thơ cách mạng, ca tụng Bác và Đảng, Hoàng Cầm là nhà thơ dân tộc. Từ Bắc chí Nam, trước và sau 1954, thơ Hoàng Cầm được mọi người yêu mến. Hoàng Cầm cũng làm thơ tuyên truyền, nhưng tuyên truyền cho lòng yêu nước, rất ít những câu ca tụng đảng, ca tụng lãnh tụ. Ông giữ được ngòi bút độc lập, có uy tín đối với quần chúng.
Vì vậy, không phải tình cờ mà Nguyễn Hữu Đang, khi ra Nhân Văn số 1, đã hết sức vận động Hoàng Cầm và nhờ Hoàng Cầm viết bài bênh vực Trần Dần: Bởi trong nền thi ca cách mạng, chỉ Hoàng Cầm mới có đủ tư thế văn học để đương đầu với Tố Hữu lúc bấy giờ.
Hoàng Cầm cùng với Lê Đạt tổ chức Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng thơ ông trong Giai Phẩm Mùa Xuân, còn rất hiền lành, nếu không muốn nói là vẫn theo đường chính thống, không có tính cách quyết liệt như thơ Văn Cao, không tố giác như thơ Trần Dần và cũng không đòi đổi mới thi ca như thơ Lê Đạt.
Bài Mùa xuân đến rồi đây theo đúng chính sách Cải Cách Ruộng Đất lúc bấy giờ, nói lên nỗi khổ của người dân trong bảy mươi năm nô lệ, đói khổ, dưới sự thống trị của bọn "địa chủ cường hào ác bá", nhưng rồi cách mạng thành công đem lại ấm no, công bằng, hạnh phúc:
Bẩy mươi mùa xuân không xuân
Bảy mươi năm cùng tháng tận
Dòng sông Nhị ơi! Con cò lận đận
Bãi ngô dài cát trắng
Lòng sông cuốn nặng
Phù sa
Nước mắt mẹ con ta
Chảy ra ngoài biển rộng
Réo lên đầu sóng
Đùn đùn mây đen
Mưa lọt mái nhà rách thủng.
Mưa thốc xuống tàu chuối khô
Ướt đẫm manh tải
Mẹ con nằm trong đêm mưa
Nằm trong nước mắt đỏ như máu
Nằm trong nước sông đầy bùn nhơ
Dòng sông Nhị ơi! Lúa mượt hai bờ
Địa chủ đứng trên đê
Mắt ngầu hổ dữ ...
Sau khi duyệt lại những năm tháng tối tăm cùng khốn đói khổ, bị đàn áp, Hoàng Cầm ca tụng mùa xuân trở về -cách mạng thành công- mang lại ấm no, công bằng:
Dòng sông Nhị ơi! Mùa xuân đến rồi đây
Mẹ con được chia: hai gánh thóc đầy[4]
"Thơ qua đài phát thanh" là bài thơ gửi "người em" bên kia vĩ tuyến, người yêu hiện đang ngâm thơ trên đài Sài Gòn, trong khi Hoàng Cầm ngâm thơ trên đài Hà Nội, bài thơ có những câu rất lãng mạng:
Tôi tìm Em trên sóng điện bao la
Thơ đã đứng lên, vút đi, cao lớn
Ống nói như môi em chờ đón
Trầm ngâm, ấp một nụ cười
Tôi sung sướng truyền thơ tôi
Cho những Người yêu khắp nước
Tóm lại, trong Giai Phẩm Mùa Xuân Hoàng Cầm mới chỉ thử nghiệm mấy câu thơ không vần, tinh thần cách mạng, chưa đả động đến những vấn đề gai góc như tự do tư tưởng, tự do sáng tác, chưa có câu thơ nào "bôi đen" chế độ.
Trần Dần
Trần Dần đưa ra một nhân vật kỳ quái trong truyện ngắn Lão Rồng, một bần nông say rượu bét nhè, nhưng là một "nhà sáng tác", chuyên làm những bài vè phạm thượng, chế giễu, từ bọn sư mô đến lũ tai to mặt lớn trong làng. Lão Rồng vừa "sáng tác" xong một bài vè là đã có bọn con nít lập tức "xuất bản và phát hành". Cuối cùng lão bị người ta lập mưu đánh chết.
Truyện ngắn Lão Rồng mở đầu phong cách đổi mới tư tưởng trong văn xuôi miền Bắc. Ngòi bút sắc sảo của Trần Dần đã chọc thủng những cấm kỵ, để lộ sự khao khát tự do của con người cùng khốn.
Bài thơ Nhất định thắng là tác phẩm chính của ông trong thời kỳ NVGP, giọng anh hùng ca, phản ánh tính mâu thuẫn trong tư tưởng tác giả. Trần Dần lồng bi kịch cá nhân -yêu người con gái ở phố Sinh Từ- trong bối cảnh chung của đất nước sau hiệp định Genève:
Miền Bắc nghèo đói, thất nghiệp "Anh bước đi không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ". Miền Nam dưới gót dày của "giặc": "Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô, tài của hắn là Khuyển Ưng của Mỹ". Nhưng chúng ta "Nhất định thắng", đất nước sẽ thống nhất: "hàng triệu tâm hồn, đã bỏ miền Nam ra Bắc", và "kẻ thù" -nghèo đói, Ngô, Mỹ- sẽ phải thua: "bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi". Rồi trời lại xanh: "Anh bước đi đã thấy phố đã thấy nhà, không thấy mưa sa, chỉ thấy nắng lên, trên màu cờ đỏ".
* Nhất định thắng, như một bài thơ tuyên truyền. Đây là đoạn mở đầu:
Tôi ở phố Sinh Từ:
Hai người
Một gian nhà chật.
Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui?
Tổ Quốc hôm nay
tuy gọi sống hoà bình
Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất
Chúng ta còn muôn việc rối tinh...
Chúng ta
Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc
Vợ con đau thì rối ruột thuốc men
Khi mảng vui - khi chợt nhớ - chợt quên
Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt,
Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt.
Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù
Chúng còn đương bày kế hại đời ta?
Người ta nói thằng Ngô con đĩ
Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô
Tài của hắn là: Khuyển Ưng của Mỹ
Bửu bối gớm ghê là: một lưỡi đao cùn
Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc.
Tác giả trình bày cảnh đói khổ của miền Bắc, nhưng thầm ngụ ý Mỹ Diệm mới là nguồn cơn của mọi đớn đau: "Em ơi, Em có biết đâu, Ta khổ thế này, Vì sao? Em biết đâu, Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì?". Khi chửi Ngô Đình Diệm, Trần Dần có những câu sắt máu: "Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm", "Đất trời sâu / đương vẩy máu / đuổi theo chân hắn. Hắn run sợ - Quỳ xin đã muộn! / Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu / Máu vẫn đỏ / trúng đầu trúng mặt / Tên tội nhân kia! / Lịch sử vang tên mày!"
Bài thơ kết thúc có hậu: "Em có thấy bay trên trời xanh / Hàng triệu tâm hồn / Họ đã bỏ miền Nam ra Bắc! / Chúng đem súng mà ngăn / Đem dây mà trói! / Giữ thân người không giữ được nhân tâm / Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả / Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi / Đổ lên chúng nó / Mây đen / lửa loạn / bão thù".
Và khi "ta" đã toàn thắng: "Anh bước đi / đã thấy phố thấy nhà / Không thấy mưa sa / Chỉ thấy nắng lên / trên màu cờ đỏ". Người dân phố Sinh Từ đóng cửa xuống đường đi mít tinh: "Vung cờ đỏ hát hò vỡ phổi".
Đó là một bài anh hùng ca theo lối cách mạng, có nhiều câu tuyên truyền rập thông tin nhà nước. Thực ra, tháng 4/1955, khi Trần Dần viết Nhất định thắng, Mỹ chưa vào miền Nam. Ngô Đình Diệm mới về, chỉ là thủ tướng, đang lo dẹp Bình Xuyên, Hoà Hảo, chưa thật sự nắm quyền và chưa có chính sách chống Cộng triệt để như sau này. Ngày 23/10/1955, ông mới tổ chức cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại. Vì vậy, bài Nhất định thắng, trong bối cảnh lúc bấy giờ, là một bài thơ "hai hàng".
Cho nên, khi Chế Lan Viên buộc tội Trần Dần phản động, chống Đảng, ông chứng tỏ mình là tay sai đắc lực của Tố Hữu.
Và khi Hoài Thanh viết:
"Toàn bài của Trần Dần toát ra một sự hằn học sâu sắc đối với chế độ tươi sáng ở miền Bắc, đối với sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, thống nhất của nhân dân ta. Tôi không kết luận về người. Tôi chỉ căn cứ vào bài văn. Tự nó, bài “Nhất định thắng” trong lời và chữ của nó, chứa đựng những tư tưởng phản động, đứng về phía địch chống lại nhân dân ta, chống lại cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Trong nền văn nghệ chúng ta đầy tin tưởng ở hiện tại và tương lai của chế độ, của dân tộc, bài "Nhất định thắng" của Trần Dần thật đúng như lời đồng chí Nguyễn Tuân nói, là một thứ mụn lở trên một cơ thể lành mạnh[5]".
Viết như vậy, Hoài Thanh không còn đứng ở cương vị một nhà phê bình, dựa trên văn bản để xét, mà ông đã xuyên tạc, nói ngược lại ý nghiã của bài thơ.
Thế nhưng chính Trần Dần cũng lại viết trong bài "tự thú" như sau:
"Bài Nhất định thắng sinh ra trong cái nôi những tư tưởng chống đối như thế. Dưới chiêu bài “phát hiện mâu thuẫn xã hội”, "chống công thức, tìm cái mới”, bài Nhất định thắng bôi đen miền Bắc. Thất nghiệp hàng ế, đi Nam, hai năm không thống nhất được v.v… và cái điệp khúc “mưa sa trên màu cờ đỏ” nó nhấn mạnh: “Đảng là nguyên nhân của cái xã hội thê thảm này.” Những sự quy kết khác ép cho địch, thực chất chỉ là chiêu bài. Có những câu đả kích cán bộ chính trị “nhà chính trị lắm mưu trong bụng” về sau in xoá đi. Bài Nhất định thắng là một cuộc đánh thẳng vào tư tưởng của Đảng, trắng trợn và hung hăng[6]".
"Thú nhận" như thế tức là đã hoàn toàn chấp nhận luận điệu của các ông Chế Lan Viên, Hoài Thanh, hoàn toàn nhận lỗi chống chế độ về mình. Mà thực tế văn bản đâu phải thế? Tại sao? Vậy có thể hiểu trong bối cảnh trù dập của lớp học Thái Hà, Trần Dần đã phải thú nhận tất cả mọi "tội", kể cả những tội không phải của mình, ví dụ như "chống công thức, tìm cái mới" là "tội" của Lê Đạt. Nhất định thắng không thể "là một cuộc đánh thẳng vào tư tưởng của Đảng, trắng trợn và hung hăng" như Trần Dần đã tự xác nhận.
Tóm lại xung quanh bài Nhất định thắng có ba vấn đề:
- Tính mâu thuẫn trong tư tưởng Trần Dần
- Việc bắt buộc phải nhận tội dưới áp lực của Đảng.
- Bi kịch Trần Dần.
* Nhất định thắng, như một tác phẩm văn học
Nhất định thắng trước hết là một bài thơ tuyên truyền, nhiều câu khẩu hiệu, có lẽ vì thế mà cả Hoàng Cầm lẫn Phan Khôi, hai người cực lực bênh vực Trần Dần, đều không cho Nhất định thắng là một bài thơ hay.
Nhưng nếu cắt những đoạn tuyên truyền máu mê thô thiển đi, như Hoàng Văn Chí đã làm thì Nhất định thắng trở thành một tác phẩm văn học giá trị. Bởi khi đem bi kịch riêng lồng vào lịch sử, Trần Dần đã có những câu thơ thật xúc động:
Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ!
họ vẫn bảo chờ...
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
ba tháng rồi
em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã...
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi
Khi nói đến tình trạng thất nghiệp ở miền Bắc, Trần Dần có những hình ảnh thơ mộng và nhức nhối:
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ,
họ vẫn bảo chờ...
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư?
Trời mưa, trời mưa
ba tháng rồi
em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã...
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi.
Khi nói đến nghịch cảnh chia đôi đất nước, Trần Dần có những lời thiết tha, đòi đoạn:
Tôi đã sống rã rời cân não
Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam
Những cơn mưa rơi mãi tối sầm
Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng
...
Tôi nức nở giữa trời mưa bão.
Họ vẫn ra đi.
- Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
Họ có gì thất vọng?
Đất níu chân đi
gió cản áo bay về
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống
...
Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió
Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi
Tôi cúi xuống
quỳ xin mưa bão
Chớ đổ thêm lên đầu họ
Khổ nhiều rồi!"
Chính những câu thơ hay này đã khiến Nhất định thắng sống mãi trong lòng người dân miền Nam. Toàn bài phản ánh tâm sự mâu thuẫn của Trần Dần về tình hình đất nước, vừa nói lên cái khổ của người dân Bắc dưới chế độ cộng sản: tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà... nhưng lại mong miền Bắc thắng trong việc thống nhất đất nước. Hoặc khi nói về màu cờ: Trần Dần vừa thấy "mưa sa trên màu cờ đỏ", nhưng lại cũng thấy "nắng lên đỏ phố đỏ cờ", "cờ bay đỏ phố đỏ nhà", và có lúc ông còn "cầm cờ đỏ hét hò vỡ ngực".
Phần dở là những câu, những đoạn gợi căm thù: "Hôm nay hàng triệu mối thù sâu / Tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng / Vung đao cùn chém phải quãng trời không".
Phần hay là những đoạn nhân bản, nói lên những đau đớn của người dân đói khổ, thất nghiệp, ở Bắc; của người dân lìa bỏ quê cha đất tổ, đi Nam, và mong một ngày sẽ có hiệp thương, thống nhất, để hai miền cùng đọc tác phẩm và như thế độc giả sẽ tăng lên gấp bội.
Hoàng Văn Chí khi in Nhất định thắng trong Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, đã cắt những câu, đoạn, những lời sắt máu, oán thù, khiến bài thơ hay hơn, nhân bản hơn. Nhưng việc cắt xén này làm thay đổi ý nghĩa của bài thơ và lập trường chính trị của Trần Dần năm 1956, làm cho Nhất định thắng trở thành một tác phẩm chống cộng, được chính quyền miền Nam trưng dụng như một biểu tượng "tố cộng". Và chính quyền miền Bắc dựa vào đó để buộc tội Trần Dần.
Bi kịch của nhà thơ là tác phẩm của ông, đã bị/được, bên này, bên kia gán cho những ý nghĩa không có trong văn bản, sử dụng để tung hô hay buộc tội. Độc giả miền Bắc, năm 1956, theo lời Lê Đạt, khi đọc Nhất định thắng, cũng chỉ giữ lại những câu hay nhất: "Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ". Bởi nó đã nói lên được tâm sự của con người sống dưới chế độ cộng sản. Hậu thế sẽ nhớ đến Trần Dần qua hai câu thơ kiệt tác đó.
Thơ Văn Cao
Hai tác giả đích thực "có vấn đề" trong Giai Phẩm Mùa Xuân phải là Văn Cao và Lê Đạt, bởi họ đã nói đến thực chất của chế độ, đòi quyền tự do tư tưởng, tự do sáng tác, và chủ trương đổi mới văn học. Với bài Anh có nghe thấy không Văn Cao nói đến sự bế quan toả cảng tinh thần trong chế độ cộng sản, đến khát vọng tự do của con người:
Cửa đóng lại từ chín giờ
Không một cuốn sách chờ đợi (...)
Tất cả hướng về biển
Bọt cứ tan trên bãi cát xa
Mà cửa bể vẫn im lìm chưa mở
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả
Những con người không phải của chúng ta
Vẫn ngày ngày ngang nhiên sống
Chúng nó còn ở lại
Trong những áo dài đen nham hiểm
Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người
Chúng nó còn ở lại
Trong những tủ sách gia đình
Ở điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm (...)
Chung quanh còn những người khôn ngoan
Không có mồm
Mắt không bao giờ nhìn thẳng (...)
Anh có nghe thấy không
Chỗ nào cũng có tiếng
Chưa nói lên
Những người của chúng ta
Đang mờ mờ xuất hiện
Le lói hy vọng
Trên những cánh đồng lầy
Nghìn năm cũ phủ mất nhiều giá trị
Đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời
Vào một cuộc đấu tranh mới
Với những người không phải của chúng ta
Anh có nghe thấy không
Vào một cuộc đấu tranh mới
Để mở tung các cánh cửa sổ
Mở tung các cửa bể
Và tung ra hàng loạt hàng loạt
Những con người thật của chúng ta
Giọng Văn Cao nhẹ nhàng, nhưng ý thơ quyết liệt: đòi tự do, lên án sự bưng bít của chế độ và kêu gọi mọi người đứng dậy tranh đấu đến cùng. Những lời đầu, mở vào không gian kín mít, không gian nghẹt thở sau khi cách mạng thành công:
Cửa đóng lại từ chín giờ
Không một cuốn sách chờ đợi
Dù những ngôi sao đang nở trên trời
Dù đêm mùa xuân bắt đầu trở lại
Đó là thứ không khí thiết quân luật. Cửa đóng. Không có sách hay không còn sách. Mặc dù sao -vàng- lấp lánh trên trời. Mặc dù mùa xuân đã đến. Mọi con mắt đều hướng ra biển -về phía tự do- nhưng cửa biển vẫn im ỉm đóng:
Tất cả hướng về biển
Bọt cứ tan trên bãi cát xa
Mà cửa bể vẫn im lìm chưa mở
Giọng ôn hoà nhưng không kém phần khắc hạch, Văn Cao trỏ thẳng bọn gian thần, bọn dốt nát, bọn kìm kẹp văn hoá tư tưởng, mắng và đuổi, khi nào "chúng nó" còn đây thì:
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả
Chúng nó là ai? Nhà thơ trả lời: "Chúng là:
Những con người không phải của chúng ta
Vẫn ngày ngày ngang nhiên sống
Chúng nó còn ở lại
Trong những áo dài đen nham hiểm
Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người".
"Chúng nó", bọn áo thụng, len lỏi khắp nơi, từ trong tủ sách gia đình đến điếu thuốc trên môi đứa bé mười lăm, quẩn trong bước chân người con gái. "Chúng nó" nấp trong mọi lứa tuổi, mọi từng lớp xã hội, "chúng nó" trà trộn vào đời sống hàng ngày, làm ô uế không gian, lũng đoạn thời gian. Sách cũ, sách mới đem bán cân giấy lộn, đến cả những bài thơ mới nhất của Anh. Những kẻ "khôn ngoan" thì ngậm miệng "mắt không bao giờ nhìn thẳng".
Nhưng Anh, người nghệ sĩ tự do, Anh có nghe thấy không?
Bọn chúng đã "đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời".
Còn Anh, anh phải bước vào cuộc đấu tranh mới: mở tung các cửa bể, và anh phải tung ra những con người thật của chúng ta, để thay thế "chúng nó", những con người giả.
Thơ Văn Cao là nộ khí trầm lặng của một nghệ sĩ bị giam hãm tư tưởng, của một kẻ sĩ can trường hạch tội gian thần. Giọng nhẹ nhàng nhưng tha thiết kêu gọi mọi người đứng lên đấu tranh cho tự do tư tưởng. Văn Cao là một nghệ sĩ và cũng là một kẻ sĩ.
Nhưng lạ lùng là cả triều đình và bọn nịnh thần không ai dám động đến Văn Cao. Chẳng lẽ họ không hiểu? Kể cả những người lắm chữ như Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi?
Dĩ nhiên là họ hiểu. Nhưng bởi Văn Cao là một tài năng lớn, trên tất cả "chúng nó". Văn Cao là tác giả quốc ca. Chính bài quốc ca đã đỡ đòn cho Văn Cao trong toàn bộ hành trình Nhân Văn Giai Phẩm.
Thơ Lê Đạt
Lê Đạt là nhà thơ trẻ chưa có tên tuổi gì khi chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân, nhưng đường lối tranh đấu của Lê Đạt đã rõ ràng qua hai bài: Làm thơ và Mới.
Bài Làm thơ nói lên tâm trạng và hoài bão của một nhà thơ trẻ, trước tình thế đất nước:
Đêm khuya
Bóng đầu anh
Hằn lên trang sách nhỏ
Như bóng hàng cây
quặn gió
Lắng xuống mặt đường
Giông bão mênh mông
Anh nhìn Tổ quốc
Đất nước đêm nay trĩu đầu ngòi bút
Hàng vạn vần thơ mang nặng tình người
Anh nghe tiếng đất trời
Xao động lùm cây ngọn cỏ
Như hiệu thính viên
Đêm không ngủ
Ghi những lời cuộc sống
điện về
Những tiếng nặng nề
Những tiếng cục cằn uất ức
Những tiếng căm thù chua xót
Những tiếng yêu thương
Lê Đạt tự coi mình như một hiệu thính viên lắng nghe tất cả những tiếng đau thương do người đồng loại điện về và thầm kín nói lên tham vọng "Anh nghe tiếng đất trời" như một lãnh tụ. Năm 1956, với những câu thơ như:
Ghi những lời cuộc sống
điện về,
hoặc:
Óc anh là một công trường,
mỗi dòng thơ là một cây số mới,
hoặc:
Một tiếng súng tương lai
nổ vào đầu dĩ vãng
Lê Đạt là người đầu tiên làm thơ hiện đại ở miền Bắc, đã thực sự đưa ra cách suy nghĩ, cách tạo hình và kiến trúc tư tưởng rất mới. Trước đó có Nguyễn Đình Thi với bài Đất nước, nhưng ý thơ Nguyễn Đình Thi còn nằm trong không gian lãng mạn.
Lê Đạt còn là người đầu tiên đặt vấn đề nhà văn dấn thân - écrivain engagé: nhà văn không thể làm ngơ trước những khó khăn của dân tộc, của con người và của cuộc sống. Sự dấn thân này là tự thân Lê Đạt, không do ảnh hưởng của JP Sartre, vì năm 1956, ông chưa đọc Sartre và cả sau này ông cũng không mấy chú ý đến tư tưởng của Sartre.
Tóm lại, Lê Đạt là người có hoài bão chính trị cho dân tộc ngay từ những bước thơ đầu, khác hẳn với Trần Dần là nhà thơ "nổi loạn" chống lại mọi áp bức bó buộc bản thân, nhưng không có mục đích tranh đấu chính trị cho quốc gia dân tộc. Lê Đạt xác định một lần nữa, bản chất và nhiệm vụ của một nhà thơ dấn thân, phải đi vào cuộc sống, phải tìm cách thay đổi xã hội, xây dựng lại con người:
Người làm thơ nắng mưa thiêu đốt
ăn nằm với cuộc đời
Thai nghén đất trời
sinh ra sự sống (...)
Như người thợ
chui xuống lòng hầm mỏ
Moi than moi lửa
đốt sáng cuộc đời
Anh muốn Đảng gọi anh đến nơi
hội ý về cuộc sống
Điều động anh vào
bộ Tâm Hồn quần chúng
Giúp Trung Ương
xây dựng
những con người
Từng từng giọt mồ hôi
đẫm bản đồ chính sách
Anh mở lối giữa cuộc đời ngóc ngách
Óc anh là một công trường
Mỗi dòng thơ là một cây số mới
Trên con đường đi tới
xã hội
ngày mai
Một tiếng súng tương lai
nổ vào đầu dĩ vãng
Anh vác bút đi theo Đảng
xông lên hàng đầu
Năm 1956, khi chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân, Lê Đạt vẫn còn làm việc ở Tuyên Huấn, cạnh những cột trụ Trường Chinh, Tố Hữu. Lê Đạt chưa thể tách rời khỏi Đảng. Đoạn kết bài Làm thơ có những câu tỏ ý ông vẫn tin tưởng vào Đảng, một Đảng sẽ lành mạnh hơn, biết đặt văn nghệ sĩ vào những vị trí xứng đáng để họ có thể nhả tơ xây dựng lại đời sống con người. Đó là chiến lược của chính trị gia Lê Đạt, hay niềm tin của nhà thơ Lê Đạt? Khó biết.
Tố Hữu nhìn thấy những "nguy cơ" trong bài thơ thứ nhì của Lê Đạt, bài Mới, như một lời tố cáo, mạnh mẽ và quyết liệt của lớp đảng viên trẻ, muốn đổi mới văn học, muốn "đập cánh bay lên", muốn chống lại "bao nhiêu gồng xiềng tập quán / cột lấy bước chân", muốn chống lại những thành phần kỳ cựu đã sống quá lâu, trở thành những ông bình vôi, khép kín trong công thức, bị xỏ dây vào mũi:
Tôi mới hai mươi lăm tuổi
Chung quanh tôi bao cuộc đời mệt mỏi
Thất bại cúi đầu
Công thức xỏ giây vào mũi
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Ỳ như một chiếc bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Tôi đã sống rất nhiều ngày thảm bại
Khôn ngoan không dám làm người
Bao nhiêu lần tôi không thực là tôi
Lê Đạt nhìn quanh: một xã hội "công thức giả tạo", với những ông bình vôi hủ lậu kéo dài cuộc sống và nhìn lại chính mình, còn trẻ, nhưng đã tự đánh mất mình, vì "khôn ngoan", nên không dám làm người! Cuối cùng nhà thơ mạnh dạn đứng lên hô hào đổi mới toàn diện thi ca, xã hội và con người:
Mới Mới!
Luôn luôn Mới
Bay cho cao
Bay cho xa
Trên những vết già nua cũ kỹ
Trên lề đường han rỉ
Vượt ngày hôm nay
Vượt ngày mai, ngày kia,
Vượt mãi
Tố Hữu khó chịu nhất những câu thơ này, có thể coi là bản tuyên ngôn, là lời kêu gọi của Lê Đạt cho một đường hướng sáng tác mới vượt trên lối mòn cũ của các bậc đàn anh Xuân Diệu, Tố Hữu. Thấy sự nghiệp thi ca cách mạng của mình có thể bị chao đảo, sẵn quyền uy trong tay, Tố Hữu đã thẳng tay triệt hạ mầm mống nổi loạn đòi thay đổi cục diện văn nghệ, đòi "chôn đàn anh" của nhà thơ trẻ.
Phục xuống mà sáng tác
Theo Hoàng Cầm, sau khi Giai Phẩm Mùa Xuân bị phê phán, Trần Dần, Tử Phác được về rồi, chúng tôi vẫn họp nhau ở phòng trà Phúc Châu: Văn Cao, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng. Một hôm, bàn nhau: mình mới ra được Giai Phẩm Mùa Xuân, chỉ mới hoe hoe lên gọi là đổi mới một chút, mà nó đã đánh như vậy, liệu mình có chịu được không? Đéo thằng nào chịu được chuyện phê phán như thế, tức là chính quyền nó không cho mình ra một tờ báo nào hết. Thế thì Văn Cao mới nói một câu có thể ghi vào văn học sử: Nhưng quyền sáng tác là ở mình, vậy mình phải phục xuống mà sáng tác. Những chữ ấy chính là của Văn Cao: Phải phục xuống mà sáng tác.
Sau này khi phê phán Nhân Văn, họ cứ vin vào câu ấy mà đánh: Cái âm mưu của bọn NVGP nó kiên trì lắm: nằm phục xuống, tức là chúng nó nằm im, giấu mình một chỗ, để mà sáng tác chống Đảng. Họ phê phán Nhân Văn ghê gớm hơn phê phán Giai Phẩm nhiều, các ông văn nghệ sĩ chính cống như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi... rồi những nhân vật như Lê Đình Kỵ, Vũ Tú Nam, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ... nhất là Vũ Đức Phúc, lúc bấy giờ đã ở Viện Văn Học rồi, nhân vật này nó đánh Nhân Văn ghê gớm nhất. Bọn phê bình chỉ đánh theo khẩu hiệu, còn bọn văn nghệ sĩ nó đánh mới ác, đánh sâu sắc chứ không như bọn phê bình đâu, nó đánh ác mà trúng: Đại khái nó bảo bọn NVGP chúng nó không yêu gì Đảng cả, chúng nói yêu Đảng chỉ là nói giáo đầu, nói để đỡ đòn, chứ sự thực thì chúng chẳng yêu gì Đảng cả. Mà nó đánh như vậy là đánh trúng, đánh vào tâm mình, sự thực thì cũng không sai đâu.
Cho nên Văn Cao nói : Phục xuống mà sáng tác, thì tất cả chúng tôi đều tán thành, nó không cho mình ra báo thì mình phục xuống mà sáng tác: Trần Dần bắt đầu viết Cổng Tỉnh, Lê Đạt bắt đầu viết những bài thơ về quê hương, tôi viết trường ca Tiếng hát quan họ... Vậy, ngay từ năm 1956, sau Giai Phẩm Mùa Xuân, chúng tôi đã "phục xuống mà sáng tác" như lời Văn Cao[7].
Giai Phẩm Mùa Xuân là tác phẩm đầu tiên ở miền Bắc chủ trương đổi mới thi ca, tự do sáng tác, với những khuynh hướng khác nhau: tuyên truyền theo đường lối cách mạng của Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Phùng Quán; nói lên tình hình nghèo khổ thất nghiệp ở Bắc và tố cáo tội ác Mỹ Diệm trong Nam của Trần Dần; đòi tự do tư tưởng và chửi bọn nịnh thần của Văn Cao; xây dựng một xã hội mới, một nền thơ mới của Lê Đạt.
Bài thơ quyết liệt nhất là của Văn Cao. Nhưng không ai dám đánh Văn Cao. Chế Lan Viên khai ngòi đánh Trần Dần, nhưng không dám đụng đến Văn Cao. Tất cả mũi dùi đổ vào Trần Dần, Lê Đạt, hai nhà thơ trẻ chưa nổi tiếng. Chính vì vụ đánh Trần Dần và Lê Đạt mà trí thức nhập cuộc. Lúc đầu trí thức chưa tham gia, nhưng việc đánh hội đồng Trần Dần, Lê Đạt khiến Phan Khôi trở lại vai "ngự sử văn đàn" với bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ.
Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang đọc trước lớp học 18 ngày và bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi là hai yếu tố chủ chốt, đã thuyết phục Trương Tửu và những trí thức khác tham gia, tạo nên một phong trào rộng lớn: Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
Chú thích:
[1] In trên Nhân Văn số 1, 8/1956.
[2] Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ, số 12, tháng 5/58, trg 60.
[3] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[4] Mùa xuân đến rồi đây
[5] Hoài Thanh, Vạch trần chất phản động của bài Nhất định thắng của Trần Dần, Báo Văn nghệ, Hà Nội, số 110 (1.3.1956), Lại Nguyên Ân sưu tầm.
[6] Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ, số 12, tháng 5/58, tr. 60.
[7] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
(còn tiếp) -
15-02-2016, 07:11 #6
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)Chương 4
Nguyên nhân đưa đến
cuộc Cách Mạng Mùa Thu Của Tư Tưởng
Hiện nay, thời điểm chính thức xác định chính sách Đấu Tranh Giai Cấptheo đường lối Trung Quốc là tháng 1/1950, tại Đại Hội III của Đảng Cộng Sản, sau khi Hồ Chí Minh bí mật đi Liên Xô và Trung Quốc về.
Thời điểm quyết định và giải thích chính sách Cải Cách Ruộng Đất là bài diễn văn Hồ Chí Minh đọc tại Hội Nghị Nông Vận Và Dân Vận Toàn Quốc ngày 5/2/1953.
Thời điểm chính thức áp dụng chính sách Cải Cách Ruộng Đất là tại Đại Hội I của đảng Lao Động, họp tại Việt Bắc từ 14 đến 23/11/1953, với bản báo cáo của Trường Chinh.
Đấu Tranh Giai Cấp -phát sinh Cải Cách Ruộng Đất- là nguyên nhân sâu xa đưa đến chia rẽ, hận thù.
Heinz Schütte, trong bài Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua đua nở ở Việt Nam 1954-1960, tóm tắt khá rõ tình hình miền Bắc thập niên 1950 như sau:
"Tháng 1/1950, Đại Hội III Đảng Cộng sản, tuyên bố Việt Nam chính thức đi theo đường lối Trung Quốc và đẩy mạnh chủ trương đấu tranh giai cấp trong cả nước. Điều này dẫn tới việc thủ tiêu những người bị cho là những "phần tử phản cách mạng". Sách vở Trung Quốc, đặc biệt những tác phẩm của Mao được dịch ra tiếng Việt -vài tác phẩm do chính Hồ Chí Minh dịch- để truyền bá những phương pháp của Trung Quốc trong việc vận dụng chủ nghiã Mác-Lê-Mao, trong việc tiến hành cách mạng và cải tạo tư tưởng ở Việt Nam. Tại chiến khu Việt Bắc, từ những năm 1951 đã có các khoá Chỉnh huấn tư tưởng dành cho trí thức[1]".
Đấu Tranh Giai Cấp phát sinh Chỉnh Huấn, chuẩn bị cho chiến dịch Giảm Tô, rồi Cải Cách Ruộng Đất[2]... kéo dài từ 1950 đến 1956, đã gây những tội ác làm đảo lộn xã hội Việt Nam. Sự phát động Đấu Tranh Giai Cấp là yếu tố chính trị có tính cách quyết định đối với những người không theo cộng sản. Nhưng sự bất mãn của trí thức bắt đầu từ trước.
Trường hợp Nguyễn Hữu Đang, sự bất mãn có thể đã bắt đầu ngay từ 1930, với bản Luận Cương Chính Trị của Đảng do Trần Phú soạn, nội dung ngụ ý: "Tất cả giai cấp tư sản đều là phản động", nhưng chỉ thực sự thành hình khi Trường Chinh, lý thuyết gia Đảng Cộng sản, hoàn thành bản "Đề Cương Văn Hoá Việt Nam", năm 1943, nội dung thu gọn trong công thức: Đảng lãnh đạo tư tưởng, học thuật và nghệ thuật, mà không một người làm văn hoá chân chính nào có thể chấp nhận được.
Tuy nhiên, bản Đề Cương chỉ lưu hành trong đảng Cộng Sản, và đảng này đến năm 1945, theo Nguyễn Hữu Đang, chỉ có khoảng 5000 người. Vì vậy, đến tháng 12/1946, khi hầu hết trí thức văn nghệ sĩ đi theo tiếng gọi toàn quốc kháng chiến của Việt Minh, phần lớn chưa biết có một chính sách văn hoá như vậy. Tạ Tỵ, Hoàng Cầm, Trần Duy... đều nói lúc đó không biết Cộng Sản là gì và Hồ Chí Minh là ai.
Nhưng ngày 19/7/1948, khi Trường Chinh đọc bài Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam tại Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc II, ở Việt Bắc, xác định đường lối văn nghệ kháng chiến: Văn nghệ thi đua, văn nghệ tuyên truyền, phục vụ công nông binh, văn nghệ phân biệt ta-địch, văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì sự đổ vỡ bắt đầu: Nguyễn Hữu Đang bỏ về Thanh Hoá.
1948 chắc chắn là năm bản lề: kết thúc sự hợp tác chặt chẽ trong kháng chiến giữa hai thành phần dân tộc: cộng sản và không cộng sản. Từ 1949 trở đi, nhiều văn nghệ sĩ bỏ kháng chiến về thành, hoặc vào Khu Bốn với tướng Nguyễn Sơn.
Nguyễn Sơn và vùng văn nghệ tự do Khu Bốn, từ 1948 đến 1951
Đối với những văn nghệ sĩ sống gần tướng Nguyễn Sơn (1908-1956) ở Khu Bốn, như Phạm Duy thì Nguyễn Sơn là một khuôn mặt huyền thoại[3]. Làm Tư lệnh Quân Khu Bốn[4] Nguyễn Sơn đã để họ tự do sáng tác. Nguyễn Tiến Lãng[5], sau khi ra tù, được phái làm thư ký riêng cho Nguyễn Sơn, mô tả[6] vị tướng này như một người hiếu học, lãng mạn, yêu văn chương, cô đơn và bí mật. Nhưng đối với những người sống ở Việt Bắc, gần Trung Ương như Lê Đạt, thì Nguyễn Sơn chẳng có tài cán gì. Vậy sự thực Nguyễn Sơn là ai?
Đáng tin cậy nhất có lẽ là chân dung do Hoàng Văn Chí, anh rể Nguyễn Sơn viết, ở chương XI, cuốn Từ thực dân đến cộng sản, xin lược trích sau đây:
"Nguyễn Sơn tên thật là Vũ Văn Bác, sinh tại làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh; bên Tầu ông lấy tên là Hồng Thủy. Con một nhà nho tham gia Đông Kinh Nghiã Thục. 1925, đang học trường Sư phạm Hà Nội, vì theo phong trào sinh viên bãi khoá, nên bị truy nã, phải trốn sang Tàu và được vào học trường quân sự Hoàng Phố. Là người Việt Nam duy nhất tham gia Quảng Châu Công Xã, trở thành đảng viên đảng Cộng Sản Trung Hoa. Nổi tiếng về tài lãnh đạo quân sự trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh (1934-1936), được bổ làm tùy tướng cho Bành Hoài Đức, chỉ huy trưởng Đệ Bát Lộ Quân. Nguyễn Sơn là một trong bẩy tướng còn sống sót của Quảng Châu Công Xã và một trong 18 tướng sống sót sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Vì vậy, năm 1949, sau khi Mao Trạch Đông toàn thắng, Nguyễn Sơn được tuyên dương là "Anh Hùng Dân Tộc" của Trung Quốc.
Cuối 1945, Nguyễn Sơn đang ở Diên An, gặp một ký giả Canada vừa từ Hà Nội qua, báo tin Việt Nam đã tuyên bố độc lập, nhưng Pháp vẫn tấn công, mưu chiếm lại. Nhà báo này nói đã gặp vị chủ tịch chính phủ lâm thời, một ông già biết nói tiếng Anh tên là Hồ Chí Minh. Đoán chắc Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Sơn bèn xin lãnh đạo Trung Quốc cho phép hồi hương chống Pháp. Mao Trạch Đông giữ lại, nhưng Nguyễn Sơn cứ nằng nặc đòi về, nên Mao cũng thuận cho về, làm giấy tờ chứng nhận Nguyễn Sơn và Nguyễn Khánh Toàn là nhân viên phái đoàn Trung Cộng từ Diên An xuống Trùng Khánh để điều đình với chính phủ Trung Hoa dân quốc, rồi nhân dịp đó trốn xuống Hoa Nam, về Việt Nam.
Vì quyết tâm về nước kháng chiến, nên ngay khi về, Nguyễn Sơn đã bị Trung Cộng phê bình là nặng tinh thần quốc gia, nhẹ tinh thần quốc tế. Có lẽ ông Hồ Chí Minh cũng phê bình Nguyễn Sơn như vậy, nên đầu năm 1946, khi Sơn về tới Hà Nội, ông Hồ không thèm tiếp và các lãnh tụ cộng sản khác cũng lạnh nhạt. Nhưng vì Pháp tấn công mỗi ngày một mạnh ở miền Nam và cộng sản Quảng Ngãi bất chấp lệnh, giết bừa bãi, nên ông Hồ phái Sơn vào Khu Năm (miền nam Trung Việt) với nhiệm vụ đình chỉ chém giết và điều khiển công việc chống Pháp. Sau đó Sơn được đổi ra Khu Bốn (miền bắc Trung Việt) làm "Khu phó" phụ trách huấn luyện quân đội. Chẳng bao lâu, khu trưởng là Thiết Hùng bị mất chức vì liên can đến một vụ buôn thuốc phiện lậu, nên Sơn được cử lên thay thế. Nhờ hai mươi năm kinh nghiệm hành quân, nên Nguyễn Sơn được quân đội Khu Bốn rất mến phục. Lại có tâm hồn nghệ sĩ và tận tâm giúp đỡ văn nghệ sĩ, nên Nguyễn Sơn cũng được giới văn nghệ sĩ hết sức hâm mộ.
Năm 1948, ông Hồ phong Võ Nguyên Giáp làm đại tướng và Nguyễn Sơn làm thiếu tướng, khiến Sơn khó chịu vì Sơn chê Giáp "i-tờ" về quân sự. Sự thực thì Giáp chỉ là sinh viên trường Luật, được huấn luyện qua loa về du kích chiến trong một khóa do quân đội Mỹ mở ở Tinh Tây, hồi thế chiến thứ hai.
Tuy nhiên, mối bất hoà lớn giữa Nguyễn Sơn và các lãnh đạo, không phải vì kèn cựa địa vị mà vì Sơn phản đối việc xin viện trợ Trung Quốc, vì Sơn cho rằng hễ nhận viện trợ của Trung Quốc thì sẽ mất hết chủ quyền. Theo Sơn, hồi chiến tranh chống Nhật, Mao không thèm xin viện trợ Nga, cứ để Nga tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch. Nên tự lực kháng chiến, đánh Pháp bằng vũ khí thu được của Pháp, tuy gian lao nhưng không bị lệ thuộc bất cứ ngoại bang nào. Sau một cuộc thảo luận to tiếng với ông Hồ, Sơn bực mình, nhắm hướng bắc, đi thẳng sang Trung Quốc[7]. Vì đã được tôn là "Anh Hùng Dân Tộc", nên từ Lạng Sơn đến Bắc Kinh, qua các tỉnh, Sơn đều được tiếp đón trọng thể. Nhưng ông Hồ đã điện sang Bắc Kinh, bá cáo với ông Mao là Sơn vô kỷ luật, và Võ Nguyên Giáp cũng bắt quân đội Việt Minh học tập một tài liệu đặc biệt, tả Sơn là một cán bộ "điển hình xấu".
Vì bị ông Hồ bá cáo trước, nên khi tới Bắc Kinh, Sơn phải đi chỉnh huấn ngay. Sau chỉnh huấn, Sơn tình nguyện đi học Đại Học Quân Sự ở Nam Kinh, do chuyên viên Nga dạy về chiến thuật quân sự hiện đại. Năm 1956, Sơn bị ung thư dạ dầy và khi biết mình sắp chết, xin phép mang vợ con về Việt Nam. Hai ngày sau khi về tới Hà Nội, Sơn chết và Võ Nguyên Giáp phải đi đưa đám. Những người quen biết Nguyễn Sơn đều công nhận ông có tinh thần quốc gia mặc dầu suốt đời tranh đấu trong hàng ngũ cộng sản[8]".
Heinz Schütte, trong bài đã dẫn, cho rằng: Trung Quốc chỉ cho "mượn" Nguyễn Sơn và chính Nguyễn Sơn cũng miễn cưỡng về Việt Nam, việc ông trở lại Trung Quốc đã được thoả thuận ngay từ đầu. Nhưng thông tin của Hoàng Văn Chí có lẽ đúng hơn, vì Hoàng là anh rể Nguyễn Sơn, nên biết rõ những uẩn khúc chỉ trong gia đình mới biết: Nguyễn Sơn xin về Việt Nam vì tin Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, như hầu hết mọi người Việt[9]. Nguyễn Sơn chống lại việc nhận viện trợ của của Tàu, sự kiện này một số người biết nhưng không dám nói ra. Sau cùng, vì sự hiềm khích với Võ Nguyên Giáp, nên sau khi Nguyễn Sơn bỏ đi, Giáp cho quân đội học tập Sơn là điển hình xấu, để xoá huyền thoại về Nguyễn Sơn,việc này giải thích tại sao những người ở gần trung ương, như Lê Đạt, có định kiến không tốt về Nguyễn Sơn.
Tuy Nguyễn Sơn không ảnh hưởng đến phong trào NVGP nhưng ông cũng tạo cho văn nghệ sĩ một khoảng trời tự do sáng tác, ít nhất từ 1948 đến 1951, trước khi ông trở lại Trung Quốc.
Trong thời gian này, những trí thức và văn nghệ sĩ tên tuổi như Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu... đã lên tiếng phản đối chính sách lãnh đạo tư tưởng của Trường Chinh. Nhưng bản thân Nguyễn Sơn là một mâu thuẫn: ông chủ trương tự do sáng tác, nhưng ông cũng là người đầu tiên đem phương pháp chỉnh huấn của Mao vào Việt Nam.
Sự đối lập giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang
Khảo sát bị kịch Nhân Văn, ta thấy rõ sự đối lập giữa hai nhân vật: Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh, cả hai đều được Hồ Chí Minh tin dùng. Trường Chinh là Tổng Bí Thư từ 1941 đến 1956, còn Nguyễn Hữu Đang là ai?
Vì bất đồng ý kiến với Trường Chinh, năm 1948, Nguyễn Hữu Đang đã bỏ Đảng. Nhưng sau 1954, ông lại được Đảng gọi về và đến tháng 8/56, ông được cử ra tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày và trở thành nhà lãnh đạo phong trào NVGP.
NVGP chống lại toàn bộ chính sách văn hoá văn nghệ của đảng Cộng Sản. Vì vậy, chúng ta cần tìm hiểu chính sách văn hoá văn nghệ ấy như thế nào? Nói đến đường lối văn hoá văn nghệ của đảng Cộng Sản là phải nói đến Trường Chinh, lý thuyết gia của Đảng, người soạn thảo những văn bản chính thức theo chỉ thị của Hồ Chí Minh.
Trường Chinh
Trường Chinh Đặng Xuân Khu (1907-1988), nhà chính trị nhưng cũng là nhà báo, có viết văn, làm thơ dưới bút hiệu Sóng Hồng. Năm 1927, gia nhập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội - tiền thân của đảng Cộng Sản. 1940, làm chủ bút báo Cờ Giải Phóng, cơ quan của Xứ Ủy Bắc Kỳ. Sau đó làm chủ bút tờSự Thật, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng Sản. Từ tháng 5/1941 đến tháng 9/1956, làm Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đảng Cộng Sản thành lập tháng 2/1930.
Từ tháng 9/1930 đến tháng 11/1945, lấy tên là Đảng Cộng Sản Đông Dương. Tháng 11/1945 Đảng "tự giải thể", rút vào bí mật. 1951, Đảng công khai trở lại với tên Lao Động và đến năm 1976, mới chính thức lấy tên là đảng Cộng Sản Việt Nam. Đảng này trải qua hai biến cố quan trọng:
Ngày 2/9/1945: Tuyên ngôn độc lập. Hơn hai tháng sau, ngày 11/11/1945, Đảng tuyên bố "tự giải tán", đổi tên thành Hội Nghiên Cứu Chủ Nghiã Mác ở Đông Dương. Chính phủ lâm thời tạm giấu cái gốc quốc tế cộng sản, lấy danh nghĩa Mặt Trận Việt Minh, để tập hợp mọi thành phần dân tộc cả quốc gia lẫn cộng sản trong công cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hà Xuân Trường kể lại: "Đảng lúc bấy giờ, sau khi tuyên bố "tự giải tán", để chuyển thành Hội nghiên cứu chủ nghiã Mác ở Đông Dương (ngày 11/11/1945). Anh Trường Chinh lúc bấy giờ là Tổng bí thư Đảng, trưởng tiểu ban tuyên truyền của Trung ương, kiêm chủ bút (tức Tổng biên tập) tờ Sự Thật"(ra số 1, ngày 5/12/1945 ở Hà Nội)[10]".
Nguyễn Hữu Đang cho biết: "Vai trò của Hồ chủ tịch rất quan trọng. Cụ có thành lập Mặt Trận Việt Minh thì mới có Cách Mạng Tháng Tám. Nếu đảng Cộng Sản đứng ra vận động cuộc Cách Mạng Tháng Tám, tôi tin là không được kết quả như là Mặt Trận Việt Minh. Đó là một mặt trận gồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp tham gia cho nên phát triển mạnh, được nhân dân ta hưởng ứng hơn chứ còn nếu đảng Cộng Sản đứng ra thì vẫn bị hạn chế đấy". "Đảng Cộng Sản lúc bấy giờ có 5000 người chứ ăn thua gì đâu[11]".
Trường Chinh, được Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ viết đề cương, chỉ đạo đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng Cộng Sản bằng hai văn bản: "Đề Cương Văn Hoá Việt Nam" (1943) và Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam đọc tại Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc II, ở Việt Bắc, ngày 19/7/1948, văn bản này là nguồn gốc đoạn tuyệt giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang.
Giá trị và ảnh hưởng của hai văn bản này đối với chế độ Cộng Sản, được Hà Xuân Trường so sánh với lập thuyết của Mao: "Chúng ta chỉ cần nghiên cứu Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943, báo cáo Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam năm 1948 của đồng chí Trường Chinh, và so sánh những văn kiện đó với phần "Văn hóa dân chủ mới" và "Tọa đàm văn nghệ ở Diên An" của Mao Trạch Đông thì rõ ràng khác nhau lắm, khác từ gốc, khác từ mục tiêu đến phương pháp nhận thức (...) Công tác văn hoá - văn nghệ lúc bấy giờ nằm trong sự chỉ đạo của Tiểu ban tuyên truyền do anh Trường Chinh đứng đầu. Anh Tố Hữu lúc này được Trung Ương giao trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác văn nghệ"[12]. Vậy Trường Chinh là người chỉ đạo chính sách văn hoá văn nghệ kháng chiến. Tố Hữu, giữ nhiệm vụ tổ chức.
Đề cương văn hoá Việt Nam
Bản Đề Cương Văn Hoá Việt Nam có 5 phần chính:
1- Cách đặt vấn đề.
2- Phân đoạn văn hoá VN.
3- Nguy cơ văn hoá dưới ách phát-xít Nhật, Pháp.
4- Xác định văn hoá cách mạng VN.
5- Nhiệm vụ của các nhà văn hoá mác-xít VN[13].
Văn bản chính quy này xác định sự lãnh đạo văn hoá của Đảng: "đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hoá tiên phong". Và định nghiã văn hoá theo quan niệm của Đảng: "Văn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật". Tóm lại, Đảng lãnh đạo: tư tưởng, học thuật và nghệ thuật.
Ở phần hai, Trường Chinh chia văn hóa Việt Nam làm ba giai đoạn một cách rất bất kỳ: Trước Quang Trung -tại sao lại Quang Trung?- là "phong kiến, nô lệ, phụ thuộc Tàu". Từ Quang Trung đến Pháp thuộc là "phong kiến, tiểu tư sản"; và từ Pháp thuộc đến 1943, là "phong kiến, tư bản, thuộc địa". Tóm lại, có thể thayvăn hóa bằng bất cứ một danh từ nào khác như: chính trị, kinh tế, giáo dục, pháp luật... cũng được.
Phần ba, Trường Chinh buộc tội: "những thủ đoạn phát-xít trói buộc văn hoá và giết chết văn hoá Việt Nam", để đi đến phần bốn, xác định: cách mạng văn hoá phải do Đảng lãnh đạo, và nền văn hóa được Đảng chọn là văn hoá xã hội chủ nghiã.
Phần năm, kê khai những nhiệm vụ cần kíp mà các nhà văn hoá mác-xít phải làm ngay:
Đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở ta: triết học Khổng, Mạnh, Đê-các-tơ (Descartes), Béc-son (Bergson), Căng (Kant), Nít-sờ (Nietzsche) v.v... Làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng. Chống chủ nghiã cổ điển, chủ nghiã lãng mạn, chủ nghiã tự nhiên, chủ nghiã tượng trưng v.v... Làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghiã thắng.
Bản Đề Cương Văn Hoá Việt Nam chính là nguyên nhân sâu xa của tình trạng suy đồi của văn hoá văn nghệ Việt Nam: bắt buộc sáng tác và phê bình phải theo con đường duy nhất phục vụ sự lãnh đạo độc tôn của đảng Cộng Sản. Triệt hạ những đường hướng tư tưởng khác. Triệt hạ tài năng cá nhân và tiêu diệt tự do sáng tác.
Nguyễn Hữu Đang
Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) theo cách mạng từ buổi đầu, có óc tổ chức và tài hùng biện, Nguyễn Hữu Đang từng được coi là "cánh tay phải" của Hồ Chí Minh.
Năm 1929, Nguyễn Hữu Đang gia nhập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Hoạt động đắc lực trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ từ 1938.
1937- 39, làm báo cùng Trường Chinh Đặng Xuân Khu và Trần Huy Liệu. 1943: Tham gia đảng Cộng Cản Đông Dương, liên lạc mật thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và Thành ủy Hà Nội, nhưng chưa được kết nạp.
1943-46: Cùng Trường Chinh sáng lập và lãnh đạo Hội Văn Hóa Cứu Quốc. Được Hồ Chí Minh giao trách nhiệm tổ chức ngày tuyên ngôn độc lập 2/9/1945. Tham gia Chính phủ lâm thời, làm thứ trưởng Bộ Truyên Truyền, rồi Bộ Thanh Niên, Chủ tịch Uỷ Ban Vận Động Mặt Trận Văn Hoá. Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất tại Hà Nội, "Khai mạc Đại hội văn hoá toàn quốc lần thứ nhất vào chiều 24/11/1946 có Bác Hồ đến nói chuyện[14]".
Nhưng mãi đến năm 1947, Nguyễn Hữu Đang mới được chính thức kết nạp vào Đảng. Và năm sau, 1948, ông rời mọi sinh hoạt của Đảng, lui về Thanh Hoá.
Từ vị trí được xem như "cánh tay phải của cụ Hồ", "trên cả Ủy Ban Kháng Chiến", tại sao năm 1948, Nguyễn Hữu Đang lui về Thanh Hoá?
Hoàng Cầm kể: "Vào khoảng tháng 7 năm 48, có Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc do ông Trường Chinh đề xướng và làm chủ tịch (...) đề ra Văn Nghệ Kháng Chiến (...) Trong hội nghị có mặt anh Nguyễn Hữu Đang. Sau hội nghị đó, không hiểu vì lý do gì thì anh Đang không làm công tác kháng chiến nữa, anh về Thanh Hóa, ở nhà người bạn là anh Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất bản Minh Đức(...) hình như trong Hội Nghị Văn Hóa Toàn Quốc, anh Đang có mâu thuẫn về đường lối văn nghệ, văn hóa với ông Trường Chinh. Do mâu thuẫn không giải quyết được, cho nên anh Đang không làm việc nữa, anh nghỉ. Anh về Thanh Hóa[15]".
Vũ Tường phân tích:
"Trong thời kỳ ban đầu Trường Chinh không thể chi phối được mọi hoạt động của Văn Hoá Cứu Quốc do đa số những người thực hiện là các trí thức có ảnh hưởng tư tưởng Dân Chủ Tư Sản. Do điều kiện kháng chiến, Việt Minh không thể thành lập bộ máy văn hóa riêng để áp đặt đường lối của mình. Mâu thuẫn đã bộc lộ ra giữa Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh ngay từ lúc tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Cứu Quốc toàn quốc tháng 10 năm 1946 và có thể nói kết thúc bằng Hội Nghị Văn Hóa toàn quốc lần thứ II xóa bỏ Văn Hoá Cứu Quốc thành lập Hội Văn Nghệ Việt Nam hoàn toàn theo quỹ đạo của đường lối văn nghệ Maois vào thời điểm tháng 7- 1948[16]".
Vũ Tường có lý, bởi sự bất đồng ý kiến giữa Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh lộ rõ trong những bài Nguyễn Hữu Đang viết trên Tiên Phong năm 1945. Cách tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc I của Nguyễn Hữu Đang cũng bất chấp đường lối độc tôn của Đảng Cộng Sản (Xem chương 9, về Nguyễn Hữu Đang).
Tháng 7/1948 tại Việt Bắc có hai hội nghị:
Hội Nghị Văn hoá Toàn Quốc II (15/7/48) do Trường Chinh chủ trì, đọc bàiChủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam, quyết định bỏ Hội Văn Hoá Cứu Quốc, lập Hội Văn Nghệ, Nguyễn Hữu Đang có tham dự.
Hội Nghị Văn Nghệ Toàn Quốc I, từ 23 đến 25/7/48, chính thức ra mắt Hội Văn Nghệ, Nguyễn Hữu Đang không tham dự. Sự đoạn tuyệt này có nhiều lý do, nhưng lý do chính đến từ nội dung bài Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam của Trường Chinh.
Vậy nội dung bản báo cáo này ra sao?
Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam
Bản báo cáo Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam được nhà xuất bản Sự Thật in thành sách - Chúng tôi không có văn bản này. Phần VII, được in trên báo Văn Nghệ số 6 tháng 11/48, dưới tiêu đề "Mấy vấn đề thắc mắc trong văn học nghệ thuật[17]".
Bài "Mấy vấn đề thắc mắc trong văn học nghệ thuật" đặt trọng tâm trả lời những thắc mắc của người làm văn học nghệ thuật, đồng thời đưa ra những chủ đích:
1- Đồng hoá nghệ thuật với tuyên truyền và xác định: "Tuyên truyền của phe xâm lược, phản động là tuyên truyền phản chân lý. Tuyên truyền của phe cách mạng là tuyên truyền chân thật, phù hợp với chân lý rõ ràng".
2- Khẳng định khuynh hướng sáng tác: Hiện thực xã hội chủ nghĩa.
3- Chỉ ra đường lối "phê bình đúng nguyên tắc", "chú trọng đả kích tư tưởng, văn học, nghệ thuật phản động của địch".
4- Cho rằng "Quần chúng là nhà phê bình nghệ thuật sành hơn ai hết, chính vì quần chúng gồm nhiều tai, mắt, óc khôn và có cảm giác chung đấu lại. Không một nhà phê bình nào sánh được với quần chúng về mặt đó".
5- Chỉ 4 điều cho nhà văn noi theo, để "làm sao cho sáng tác văn nghệ được tốt".
6- Xác định sáng tác thi đua: "Đối tượng sáng tác văn nghệ của ta là nhân dân". "Sáng tác văn nghệ có cả một nguồn cổ vũ mạnh mẽ là phong trào thi đua".
Tóm lại, con đường văn học nghệ thuật của Đảng do Trường Chinh vạch ra năm 1948, gồm những yếu tố: Văn nghệ tuyên truyền. Văn nghệ thi đua. Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đả kích tư tưởng phản động của địch. Sáng tác cho nhân dân. Nhân dân làm chủ phê bình.
Là người làm văn hoá, dĩ nhiên Nguyễn Hữu Đang từ chối con đường văn nghệ này. Và trong kháng chiến, không chỉ có một Nguyễn Hữu Đang chống lại đường lối văn hoá văn nghệ của đảng, còn nhiều tiếng nói khác, Hoàng Trung Thông kể về Nguyễn Mạnh Tường và Trương Tửu:
"Cuộc tranh đấu tư tưởng duy nhất ở Liên Khu Bốn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là cuộc đấu tranh với một số quan điểm của Nguyễn Mạnh Tường. Trong một cuộc nói chuyện Nguyễn Mạnh Tường cho rằng văn nghệ ta như một cái chuồng nhốt các văn nghệ sĩ trong đó".
"Đồng chí Nguyễn Chí Thanh - bấy giờ là bí thư Đảng bộ Liên Khu Bốn, đã có ý kiến về những luận điểm tơ-rốt-kít của Trương Tửu trong buổi lễ kỷ niệm ngày thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong cuộc đấu tranh chính trị năm 1952, Trương Tửu bị đưa ra phê phán gay gắt[18]".
Hà Xuân Trường kể về Tô Ngọc Vân:
"Anh Tô Ngọc Vân tỏ ý không đồng tình về sự phân tích của đồng chí Trường Chinh về chủ nghiã "quy-bít". Nhưng anh Trường Chinh không trực tiếp trả lời, và tờ Sự Thật không lên tiếng, để tránh gây các mặc cảm không cần thiết đối với anh chị em văn nghệ đang đến với Đảng, và tự giác chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng. Bài viết của tôi thảo luận với anh Tô Ngọc Vân, ký tên Lê Trọng Lâm, lại đăng trên tạp chí Văn Nghệ".
Thái độ của Trường Chinh đối với những người chống đối rất khôn khéo: ông không ra mặt trả lời, chỉ khuyên cấp dưới "cần phải đấu tranh tư tưởng nhưng đừng nặng lời quá; vì lúc bấy giờ chúng ta đang cần phải đoàn kết để kháng chiến chống Pháp, mặc dầu đoàn kết không có nghiã là thủ tiêu đấu tranh[19]".
Tóm lại, đã có những người làm văn hoá văn nghệ bắt đầu thắc mắc về đường lối văn hoá văn nghệ của đảng Cộng Sản và lên tiếng phản đối ngay từ 1948. Những thắc mắc này càng lớn mạnh sau 1954, kết hợp thành sự phản kháng toàn diện trong phong trào NVGP.
Nguyễn Hữu Đang, bỏ về Thanh Hoá, cộng tác với nhà xuất bản Minh Đức từ 1948. Nhưng tại sao năm 1954, ông trở lại hoạt động? Mọi việc trong chế độ cộng sản không thể tình cờ, ngoài ra Trường Chinh mâu thuẫn với Nguyễn Hữu Đang, chưa chắc đã muốn Đang về. Vậy việc gọi ông trở lại phải do lệnh của Hồ Chí Minh. Hoàng Cầm kể: "Đến khi hòa bình lập lại, năm 1954, tôi cũng chỉ được nghe kể lại chứ không được chứng kiến, là như sau: Ông Trường Chinh có hỏi ông Tố Hữu: Anh Đang anh ấy đã không làm việc gì từ lâu rồi, từ mấy năm nay, thì bây giờ hòa bình thắng lợi rồi, ta phải mời anh ấy ra làm việc chứ. Thế là anh Tố Hữu cũng nghe theo và mời anh Đang ở Thanh Hóa ra[20]".
Nguyễn Huy Tưởng, là người được cử vào Thanh Hoá mời Nguyễn Hữu Đang. Và theo Hoàng Cầm, khi Nguyễn Hữu Đang ra, Tố Hữu đề nghị chức giám đốc Sở Văn Hóa Thông Tin Hà Nội, nhưng Nguyễn Hữu Đang từ chối, ngỏ ý muốn làm báo Văn Nghệ, Tố Hữu đành phải bằng lòng.
(còn tiếp)
-
15-02-2016, 07:12 #7
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)Những thắc mắc
Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI:
"Anh Đang về báo Văn Nghệ, nhưng anh Đang là người đặc biệt có tài tổ chức: trong kháng chiến anh ấy đã tổ chức Thanh Niên Xung Phong, tổ chức Mặt Trận Bình Dân Học Vụ, sau đó lại là tổ chức Hội Nghị Văn Hóa Toàn Quốc. (...) Vì anh ấy có tài tổ chức cho nên anh ấy tổ chức ngay hai cuộc phê bình trong văn học:
Thứ nhất là cuộc phê bình tác phẩm Vượt Côn Đảo của Phùng Quán (...) Và tổ chức một lớp học tập chính trị, đầu đề tài liệu học tập là "Những tài liệu của Mác, Lê-nin, Staline nói về vấn đề văn nghệ".
Về không khí của lớp học này, Hoàng Cầm kể:
"Buổi sáng học, buổi chiều làm việc cơ quan. Tôi nhớ học 18 ngày. Nhưng từ hôm mở lớp đến độ ngày thứ năm thì có cái mục gọi là liên hệ thực tế. Tất cả các văn nghệ sĩ ở các tỉnh hoặc đi tập kết về Hà Nội, thì họ đều nêu lên những thắc mắc, mà phải nói là những thắc mắc ghê gớm về vấn đề văn nghệ và lãnh đạo văn nghệ. Nó gần như là một cuộc tố khổ: các văn nghệ sĩ đều nói ra những thắc mắc về việc lãnh đạo địa phương, cả lãnh đạo trung ương nữa, đối với văn nghệ (...) Toàn là những thắc mắc mà anh em lôi ra từ thực tế trong kháng chiến và thực tế trong hòa bình lập lại".
Trong băng ghi âm Hoàng Cầm cho biết: Đến năm 1956, chúng tôi, tức là một số văn nghệ sĩ trí thức tự nhận thấy những trái ngược trong xã hội, những lý tưởng mà mình mang đi kháng chiến chống Pháp đều sụp đổ hết. Những nhà trí thức như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, cũng đều thấy chán nản, hụt hẫng, thấy bị rơi vào cái bẫy.
Georges Boudarel, trong Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam đặt trọng tâm trên hai chữ thắc mắc mà Hoàng Cầm dùng, theo ông đây là một thứ mây mù của ý thức, một kỹ xảo nói mà như không nói, một nghệ thuật không gọi sự vật theo tên của nó.
Hai chữ thắc mắc theo Boudarel, không thể dịch sang tiếng Pháp, là trung tâm của vấn đề:
Trong một nước mà cuộc đấu tranh chống thực dân, giành độc lập, bảo vệ truyền thống dân tộc, được phất lên dưới ngọn cờ của chủ nghiã Mác-Lê-Mao như một nghịch lý, thì thắc mắc là đứa con lai lạ lùng, sinh ra từ cuộc tình vừa nóng bỏng vừa tương phản vừa không thể thú nhận được giữa quốc tế vô sản và lòng ái quốc cực đoan.
Chủ nghiã cộng sản mà người ta du nhập vào đã thủ tiêu nhanh chóng mọi hình thức tự do phát biểu của xã hội dân sự kể cả những người ủng hộ nhiệt thành. Năm 1950, khi chủ nghiã Mao ào ạt tràn vào, với những đợt chỉnh huấn, phát hiện, tố giác, kiểm thảo, tự kiểm thảo... mang lại những hậu quả tai hại.
Nếu năm 1946, hầu hết mọi thành phần dân tộc đều đi theo kháng chiến chống Pháp, thì tới 1950, nhiều trí thức văn nghệ sĩ nổi tiếng trong đó có Phạm Duy, Vũ Hoàng Chương... đã không thể chịu được, họ phải quay "về thành".
Sự phản kháng của họ mang tính chất bi đát, bởi họ phải chọn lựa giữa hai con đường: hoặc tiếp tục chống thực dân Pháp thì phải theo chủ nghiã cộng sản Mao; hoặc chống cộng sản Mao thì phải vào vùng Pháp đóng. Bị xâu xé giữa, một bên là lòng yêu nước thúc đẩy họ phải chấp nhận tất cả để chiếm lại tổ quốc đã mất và một bên là cái vốn văn hoá Tây phương thúc đẩy họ đòi hỏi một thứ tự do không thể có được với đảng Cộng Sản. Người trí thức, những năm tháng ấy, vừa như sống một bản hùng ca, lại vừa chịu một bi kịch gậm nhấm từ bên trong.
Đại đa số thành phần dân tộc, trong đó có người trí thức, tìm cách hoà mình với đời sống mới, từ đó nẩy sinh những thắc mắc: Nền dân chủ cộng hoà, do Hồ Chí Minh tạo dựng, có mang lại độc lập thật sự cho nước Việt không? Những người có thắc mắc trong lòng muốn tin vào lãnh đạo của họ nhưng trong thâm tâm vẫn không thể nào tin được. Chỉ biết là mình có những thắc mắc không thể nói ra. Cái hình thức đối lập bị dồn nén, sự phản kháng bị chôn vùi, chỉ được nói thầm, nói một nửa, đọc giữa hai hàng chữ, đoán ngầm những ngụ ý... trở thành một phần của đời sống Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Và những vấn đề mở ra từ năm 1956, với NVGP, vẫn còn đúng với hôm nay[21].
Những thắc mắc tạm ngủ yên trong chiến tranh, nhưng bùng lên sau 1954, và trong lớp học 18 ngày, Nguyễn Hữu Đang đã bắt mạch được tình thế, mạnh bạo đứng lên, đặt với lãnh đạo những câu hỏi cần thiết.
Đáp lời ông, văn nghệ sĩ trí thức cùng đứng lên xây dựng phong trào NVGP.
Trong tiểu thuyết Une voix dans la nuit - Tiếng vọng trong đêm, viết 37 năm sau, luật sư Nguyễn Mạnh Tường cho rằng Đảng giăng ra một chính sách quỷ quyệt đưa những trí thức dân chủ vào bẫy để bắt trọn ổ.
Từ xuân 1956 sang thu 1956
Có thể chia NVGP làm hai giai đoạn:
Giai đoạn I gắn bó với Giai Phẩm Mùa Xuân và giai đoạn II gồm toàn bộ những tờ báo phát hành từ tháng 8/1956 đến tháng 12/56.
Giai đoạn I: Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời cuối tháng 1/1956. Hơn một tuần sau, nhiều sự kiện quan trọng xẩy ra:
9/2/56, Tố Hữu sai người gọi Lê Đạt lên Tuyên Huấn.
16/2/56: Lê Đạt lên trình diện, bị giữ lại kiểm thảo 15 ngày. Hạ tuần tháng 2/56 có hai "đại hội":
- Đại Hội Tuyên Huấn luận tội Giai Phẩm Mùa Xuân. Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần, Tử Phác. Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ, được đưa đến bệnh viện. Ngày 21/2/56 Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh. Trần Dần, Tử Phác được tha ngày 5/5/56.
- Đại Hội Văn Nghệ, ở 51 Trần Hưng Đạo, khoảng 150 văn nghệ sĩ, chủ yếu đánh Trần Dần.
Chiến dịch đánh Trần Dần trên báo bắt đầu ngày 7/3/1956 với bài viết của Hoài Thanh trên báo Văn Nghệ số 110. Giai phẩm bị dập tắt lần thứ nhất.
Giai đoạn II, khởi sự sau biến cố lớn ở các nước cộng sản và trong đảng Cộng Sản VN:
Ngày 24/2/1956, tại đại hội XX của đảng Cộng sản Liên Xô: Khrouchtchev đọc bản phúc trình mật về tội ác của Staline.
Ngày 26/5/1956, Mao Trạch Đông phát động phong trào "Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng".
Ngày 28/6/1956, Ba Lan nổi dậy. Những biến cố này ảnh hưởng trực tiếp đến chính quyền miền Bắc, luôn hành động rập theo đường lối Liên Xô - Trung Quốc:
Đảng Lao Động mở rộng chính sách học tập tự do dân chủ - Lớp học 18 ngày trong tháng 8/1956. Đảng phát động chính sách Sửa Sai, sau cuộc Cải Cách Ruộng Đất 1953 -1956. Tại Hội Nghị Thứ X của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, từ 25/8/56 đến 24/9/56, Trường Chinh bị "nghiêm khắc kiểm điểm sai lầm"trong công tác Cải Cách Ruộng Đất, phải tự kiểm thảo và xin từ chức. Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương bị loại khỏi Bộ Chính Trị. Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng. Hồ Chí Minh kiêm nhiệm hai chức Chủ tịch Đảng và Tổng bí thư từ 9/1956 đến 9/1960[22].
Võ Nguyên Giáp thay mặt Đảng, đọc bản "thú nhận" bẩy sai lầm, đại ý:
1/ Phủ nhận thành tích của những người chống Pháp.
2/ Coi phú nông như địa chủ.
3/ Đả kích tràn lan, không phân biệt những người có công với cách mạng.
4/ Dùng những biện pháp trấn áp, đánh địch, tràn lan phổ biến.
5/ Làm sai phạm chính sách tự do tôn giáo.
6/ Không coi trọng phong tục tập quán địa phương (các vùng thiểu số).
7/ Không dùng giáo dục mà truy bức (tra tấn) để chính đốn[23].
Từ cuối tháng 8 đến cuối tháng 11 năm 1956: không những Giai Phẩm Mùa Xuân được in lại mà còn ra tiếp 4 số nữa, tổng cộng là 5 số Giai Phẩm và 5 số Nhân Văn. Ngoài ra, còn có 1 số Đất Mới của sinh viên và 11 số Trăm Hoa của Nguyễn Bính, ra từ tháng 10/56 đến tháng 1/57; thêm báo Nói Thật của Hoàng Công Khanh và Tập San Phê Bình, xuất hiện tới cuối năm 1957.
Cuối tháng 11/56, trên các báo Nhân Văn và Giai Phẩm, nhà xuất bản Minh Đức còn quảng cáo mời độc giả tìm đọc Tự Do Diễn Đàn và Sáng Tạo (chuyên về điện ảnh kịch trường). Rút cục Tự Do Diễn Đàn in xong bị cấm. Nhưng Văn, báo chính thức của Hội Nhà Văn, sang năm 57 vẫn còn in bài của những người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, đến số 36, ra ngày 10/1/58, Văn mới bị đình bản vì đăng bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi.
Cuộc Cách Mạng Mùa Thu Của Tư Tưởng đã xẩy ra.
Nhân Văn Giai Phẩm được phát triển trở lại cùng thời với vụ Sửa Sai Cải Cách Ruộng Đất và bị dập tắt bốn tháng sau, dưới thời Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng kiêm Tổng bí thư. Vậy ai là người trách nhiệm chính?
Ai trách nhiệm vụ Nhân Văn Giai Phẩm?
Trả lời câu hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh có trách nhiệm như thế nào về vụ NVGP, Nguyễn Hữu Đang tuyên bố:
"Cái việc mà người ta cứ nói là việc nọ việc kia là người dưới làm chứ cụ Hồ không biết, cụ Hồ không thực tiễn làm, đó là một cách nói không đúng sự thật. Người ta thấy việc gì mà có dư luận kêu ca, thắc mắc thì không muốn để cái kêu ca thắc mắc đó hướng vào vị lãnh tụ mà người ta suy tôn tuyệt đối. Có thể nói là người ta thần thánh hóa cụ Hồ. Vì cái lý do nó là như thế. Thực chất thì cụ Hồ không phải là người bị vô hiệu hóa trong bộ máy lãnh đạo của đảng và của dân tộc. Cụ Hồ lúc nào cũng là người có đầy đủ quyền hành, lúc nào cụ cũng sáng suốt, linh lợi, lúc nào cụ cũng có uy tín với dân và cũng có quyền đối với các đồng chí trong đảng, đối với những người lãnh đạo khác. Chắc bà cũng biết rằng những vị lãnh đạo khác của đảng, đối với cụ Hồ là học trò chứ không phải như ở các đảng Cộng Sản khác đâu. Cho nên uy tín của cụ Hồ, quyền hành của cụ Hồ bao giờ cũng rất vững, cụ Hồ biết hết cả, và việc đó cụ Hồ cũng đồng tình làm.
Có thể nói tóm một câu là cho đến mấy năm sau cùng, vì cụ yếu cụ ít chăm nom công việc, cụ khoán cho Bộ Chính Trị, cụ ít can thiệp trực tiếp, chứ còn trước đó thì bất cứ việc gì cũng là trong phạm vi chỉ đạo của cụ cả. Hay cũng ở cụ, dở cũng ở cụ. Cụ phải gánh trách nhiệm, điều đó rõ ràng.
Có khi nào một lãnh tụ tối cao đối với dân tộc, lãnh tụ tối cao của Đảng mà lại không có trách nhiệm về việc nọ, việc kia. Điều đó không đúng. Chế độ gọi là "báo cáo thỉnh thị" rất chặt chẽ trong nội bộ đảng Cộng Sản và trong bộ máy chuyên chính của nhà nước cũng thế, nghiêm ngặt lắm[24]".
Nhận định trên đây của Nguyễn Hữu Đang phù hợp với một số nhận định khác của những người trong Đảng về vai trò của Hồ Chí Minh trong đời sống văn hóa văn nghệ. Hà Xuân Trường viết về vai trò của Đảng trong "Mặt trận văn hoá văn nghệ" và địa vị chỉ đạo của Hồ Chí Minh như sau:
"Sự đầu tư công sức và tâm huyết của Đảng vào mặt trận này [tức "Mặt trận văn hoá văn nghệ"] là đáng kể: từ Bác, đến các anh Trường Chinh, Tố Hữu. Cần nhắc thêm vai trò của Bác và các ý kiến của Bác căn dặn giới báo chí và văn hoá - văn nghệ ngay từ buổi đầu này. Bác thường gửi bài cho báo Đảng, trên Sự Thật lúc ấy, cũng như trên tờ Nhân Dân sau này[25] dưới các bút danh ta đã quen thuộc: C.B[26], X.Y.Z[27], A.G (chúng tôi thường gọi Anh Già)... Điều đặc biệt là Bác viết rất ngắn và mỗi lần gửi bài cho báo, Bác thường viết luôn một loạt có đánh số thứ tự. Bác dặn anh em chúng tôi là đánh số như thế để cho bạn đọc và cả Bác dễ nhớ, bao giờ gần hết bài thì Bác chỉ cần xem trên báo là Bác biết để Bác kịp viết tiếp, "các chú không cần phải nhắc[28]".
Và ông xác định vai trò của từng người trong giai cấp lãnh đạo:
"Công tác văn hoá - văn nghệ lúc bấy giờ nằm trong sự chỉ đạo của Tiểu ban tuyên truyền do anh Trường Chinh đứng đầu. Anh Tố Hữu lúc này được Trung Ương giao trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác văn nghệ. Tôi là người của Tiểu ban tuyên truyền, làm tờ Sự Thật, do vậy mà có trách nhiệm liên lạc giữa Trung ương và bộ phận văn hoá - văn nghệ, giữa anh Trường Chinh và anh Tố Hữu. Trách nhiệm chính là làm sao giúp Trung ương nắm tình hình văn nghệ, và từ góc độ báo Đảng, mà góp phần gợi giúp cho người văn nghệ mạnh dạn đi vào quần chúng, dần dần nắm hiểu đời sống, tham gia công tác cách mạng, và khắc phục từng bước các ảnh hưởng của cách nhìn và thói quen cảm xúc tiểu tư sản (...) Anh (Trường Chinh) còn cho biết thêm là bản báo cáo (Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam)tuy là do anh trực tiếp soạn thảo, nhưng đã được ban thường vụ Trung ương thông qua và Bác đã xem và góp ý kiến[29]".
Hoàng Trung Thông cũng cho biết:
"Sau này tôi mới biết cuốn truyện về chiến sĩ thi đua đầu tiên là do Bác Hồ viết để làm mẫu cho những người khác viết theo[30]".
Tháng giêng năm 1956, Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời, thể hiện tự do sáng tác, bị dập tắt ngay. Vậy có thể hiểu là Trường Chinh đã giao cho Tố Hữu, người có tư thù với Hoàng Cầm, Trần Dần và Lê Đạt trong việc phê bình tập thơ Việt Bắc, xử lý vụ Giai Phẩm Mùa Xuân, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh.
Trong tháng 8 và 9 năm 1956, có hai sự kiện trùng hợp đáng kể: Đảng phát động Sửa Sai trong đại hội X và phong trào NVGP phát triển trở lại.
Vậy quyết định cho phép Hội Văn Nghệ tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày, theo đường lối Liên Xô, trong tháng 8/1956, đến từ ai, nếu không là Hồ Chí Minh?
Lớp học này do Nguyễn Hữu Đang phụ trách. Chọn Nguyễn Hữu Đang cũng là do Hồ Chí Minh bởi Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang là kình địch về mặt chính trị văn hoá.
Vai trò của Nguyễn Hữu Đang sẽ nổi bật trong lớp học này và bài tham luận ông đọc ngày 26/8/56 tổng kết lớp học sẽ là cái mốc quan trọng đẩy mạnh tiến trình đòi hỏi tự do dân chủ, việc thành lập báo Nhân Văn và tục bản Giai Phẩm, tạo nên cuộc Cách Mạng Mùa Thu của Tư Tưởng.
Tháng 10/56 Hungary nổi dậy. Tháng 11/56 xe tăng Xô Viết tiến vào Budapest.
Ngày 9/12/1956, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh bãi bỏ quyền tự do báo chí. Đóng cửa báo Nhân Văn. Nhân Văn và Giai Phẩm bị dập tắt, lần thứ nhì, tháng12/56.
Tháng 2/57 trong Đại Hội Văn Nghệ Toàn Quốc II, họp từ 20 đến 28/2 tại Hà Nội, Trường Chinh kêu gọi đấu tranh "đập nát âm mưu phản động" của nhóm NVGP.
Năm 1957, Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô và Mông Cổ, ghé Bắc Kinh để học tập chính sách của Mao Trạch Đông đánh phái hữu[31]. Huy Cận và Hà Xuân Trường cũng được cử đi học tập chính sách của Trung Quốc. Khi họ trở về, tháng 2/58 việc thanh trừng NVGP được tổ chức quy mô và toàn diện trong hai lớp đấu tranh Thái Hà.
***
[1] Trích bản dịch từ tiếng Đức của Talawas.
[2] Vấn đề Cải Cách Ruộng Đất sẽ được trình bầy trong chương 24.
[3] Phạm Duy, Hồi ký II, Thời cách mạng kháng chiến, Phạm Duy Cường, California, 1989.
[4] Quân Khu Bốn: từ Thanh Hoá đến Thừa Thiên.
[5] Con rể Phạm Quỳnh, bị bắt cùng với Phạm Quỳnh năm 1945.
[6] Nguyễn Tiến Lãng, Les chemins de la révolte - Những nẻo đường nổi dậy, Amiot-Dumont, Paris, 1953; Ý Việt, Paris, 1989.
[7] Theo Heinz Schutte, Nguyễn Sơn trở lại Trung Quốc năm 1951.
[8] Lược trích Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Chân trời mới, Paris 1962, trang 173-177.
[9] Sự thực Hồ Chí Minh không phải là người viết những văn bản ký tên Nguyễn Ái Quốc, xin xem phần "Phân tích văn bản Nguyễn Ái Quốc", ở chương 18, 19.
[10] Hà Xuân Trường, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, trg 31.
[11] Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI.
[12] Hà Xuân Trường, bđd, trang 46 và 41.
[13] Tiên Phong số 1, 10/11/45, Sưu tập trọn bộ Tiên Phong 1945-1946 của Lại Nguyên Ân, Hội Nhà Văn, 1996.
[14] Hà Xuân Trường, bđd, trang 40.
[15] Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI.
[16] Lê Hoài Nguyên, bđd, trích Vũ Tường, Ngày nay cách mạng Đông Dương phải hiện nguyên hình: Bước ngoặt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp và nội chiến Việt Nam vào năm 1948. Journal of Southeast Asian Studies, 40, 3/10/ 2009), 519- 542. Bản dịch tiếng Việt của Talawas số Mùa Thu chuyên đề Bao nhiêu chủ nghĩa dân tộc là đủ?
[17] In lại trong cuốn Cách Mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, đổi tên thành "Mấy vấn đề cụ thể trong văn học và nghệ thuật".
[18] Trích bài Trên địa bàn văn nghệ khu Bốn và Việt Bắc, Hoàng Trung Thông kể, Tôn Phương Lan ghi, in trong Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập I, Tác Phẩm Mới, 1985, trg 181-187.
[19] Hà Xuân Trường, bđd, trang 42-43.
[20] Hoàng Cầm trả lời phỏng vấn RFI.
[21] Tóm lược phân tích của Boudarel trong Cent fleurs écloses dans la nuit du Vietnam từ trang 9 đến 20.
[22] Sau đó là thời kỳ Lê Duẩn làm Tổng bí thư, từ 9/1960 đến 7/1986, thời kỳ này xẩy ra vụ Xét Lại Chống Đảng.
[23] Toàn văn in trên Nhân Dân số 970, ngày 31/10/1956, in lại trong Từ thực dân đến cộng sản của Hoàng Văn Chí, Chân Trời Mới, Paris 1962, trang 281-282. Sách có bản điện tử trên Talawas.
[24] Nguyễn Hữu Đang, trả lời phỏng vấn RFI, ngày 3/9/1995.
[25] Sau Sự Thật là Nhân Dân, số 1, ra ngày 11/3/1951.
[26] Theo Bùi Tín, CB là viết tắt hai chữ Của Bác.
[27] X.Y.Z chỉ thành phần Cố Nông, trong Cải Cách Ruộng Đất.
[28] Hà Xuân Trường, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập II, Tác Phẩm Mới, 1987, trang 44-45.
[29] Hà Xuân Trường, bđd, trang 41- 42.
[30] Hoàng Trung Thông, Cách mạng kháng chiến và đời sống văn học, tập I, Tác Phẩm Mới, 1985, trang 191.
[31] Lê Hoài Nguyên, bđd.
(còn tiếp) -
15-02-2016, 07:13 #8
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)
Chương 5
Nội bộ báo Nhân Văn
Nhân Văn Giai Phẩm do hai nhóm bạn cùng chí hướng hợp tác điều hành.
Theo Hoàng Cầm, ngay từ đầu năm 1955, Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Đạt, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, thường họp nhau, khoảng 5 giờ chiều, ở quán trà Phúc Châu của người Tầu ở phố Hàng Giầy[1] để bàn chuyện văn nghệ. Chính tại quán này, họ đã bàn nhau ra một số báo Tết và đó sẽ là Giai Phẩm Mùa Xuân. Báo Nhân Văn không có trụ sở, "toà soạn" là căn nhà của Trần Thiếu Bảo thuê, rất lớn, có nhiều buồng để làm nhà xuất bản, ở 25 Phan Bội Châu, Nguyễn Hữu Đang ở gần đấy; tầng trệt để mấy máy in nhỏ, chỉ in lặt vặt, những tờ báo to như Nhân Văn, kể cả các tập Giai Phẩm cũng không in được, phải in ở nhà Xuân Thu của Đỗ Huân[2].
Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương Giai Phẩm Mùa Xuân. Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang đề xướng, với Hoàng Cầm. Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo chủ trươngcác tập Giai Phẩm.
Đó là những viên gạch nền móng, từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1956, đã quy tụ được một số đông văn nghệ sĩ trí thức, họp thành phong trào NVGP.
Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt trách nhiệm bài vở. Giai Phẩm là một tập sách định kỳ, do Trương Tửu trông nom. Nhân Văn hướng về đấu tranh chính trị. Giai Phẩm đi vào chiều sâu của tư tưởng. Giai Phẩm xuất hiện trước, với Giai Phẩm Mùa Thu, tập I, ra ngày 29/8/56, nhưng Nhân Văn vẫn được coi là "đầu não" của phong trào. Hiện nay, chưa biết rõ nội tình Giai Phẩm vì Trương Tửu và Trần Thiếu Bảo cho đến lúc mất, đều không phát biểu gì. Về nội bộ Nhân Văn, một phần sự thật được thuật lại, nhờ tiếng nói của những thành viên chính. Những người viết cho Nhân Văn cũng đều có mặt trên Giai Phẩm và ngược lại.
Ngày 20/9/1956, Nhân Văn số 1 ra đời. Về mặt chính thức, tờ báo do Phan Khôi làm chủ nhiệm và Trần Duy, thư ký toà soạn. Nhưng thực sự, nội bộ báo Nhân Văn đã được cấu trúc như thế nào? Để dựng lại sự việc đã xẩy ra, chúng tôi dùng hai loại chứng:
- Loại thứ nhất: Gồm những lời tuyên bố của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Duy, trên RFI; những bản "thú nhận" của các thành viên chính, viết trong đợt đấu tranh chống NVGP ở Thái Hà ấp, giữa tháng 3 và 4 năm 1958; và loạt băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ghi âm trong khoảng 1998-2008. Những lời"thú nhận" ưu tiên, vì đã được viết trong thời gian bi kịch xẩy ra, tại chỗ, trong khi những lời viết, tuyên bố, ghi âm sau này, qua nửa thế kỷ, có thể trí nhớ không trung thành.
- Loại thứ hai: Các bài đánh NVGP, phản ảnh chính sách đàn áp, bôi nhọ và các ngõ ngách bên trong của chế độ.
Đôi lời về những bài "thú nhận"
Về những lời "thú nhận" cũng nên đặt câu hỏi: đã viết trong điều kiện như thế nào?
1- Viết trong đợt đấu tranh thứ nhì chống NVGP tại Thái Hà ấp, tháng 3 và 4/58, có 304 người dự (bối cảnh cả hai lớp Thái Hà sẽ đề cập đến trong chương 6).
2- Theo Lê Đạt, ở hội trường, mọi người đứng lên "phát hiện tội Nhân Văn".Và "Sau khi tất cả mọi người phát hiện các tội của Nhân Văn xong rồi, thì mới đến lượt Nhân Văn, từng người một, nhận tội". Rồi sau đó, các "Nhân Văn" về tổ của mình làm "bài khai". "Bài khai phải được tổ thông qua, và lại phải đưa ra hội trường thông qua nữa, thì anh mới được xong". Tức là mới được về.
3- Như thế, những "bài khai" được viết dưới áp lực của "đấu trường" kéo dài trong một tháng, và cũng là bài "tổng kết tội trạng" mà mỗi người phải tự mình viết ra. Trong khi viết, họ không được trao đổi với nhau, sau đó phải đọc trong tổ, tổ thông qua, rồi mới đọc cho hội trường nghe và duyệt. Vì những lẽ đó, họ khó có thể "khai man" (vì sợ bị so sánh tại chỗ với những lời khai của người khác).
4- Vì vậy, chúng tôi coi những bài thú nhận là những văn bản sớm nhất (viết từ tháng 3/58) về những việc thực sự đã xẩy ra trong thời kỳ NVGP[3]. Chính Hoàng Cầm trong băng ghi âm, cũng coi bài khai khoảng 100 trang giấy học sinh của mình là cuốn "hồi ký" tự tố rất đúng về những gì xẩy ra trong thời kỳ này.
5- Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Duy, "không được" dự lớp Thái Hà vì thuộc diện những "phần tử xấu". Vì vậy, không có bản "thú nhận" của họ. Lê Đạt cho biết:
"Không phải là chị Thụy An, anh Trần Duy và ông Phan Khôi không chịu đi học. Ở đấy người ta chia ra: Những người nào hoạt động chính trị mà người ta cho là có tính chất phản động, là những phần tử xấu thì người ta "không cho" đi học lớp ấy: Phan Khôi, Thụy An, Trần Duy "không được" học. Chỉ có những văn nghệ sĩ mà người ta cho là những người vì quan điểm lầm lạc, được Ðảng chiếu cố cải tạo giúp đỡ, thì mới được đi học lớp ấy thôi. Cho nên đi học lớp ấy, gay go thế cũng là một "ưu tiên"[4]".
6- Văn bản "thú tội" phản ảnh tâm thức người viết: Qua những bài khai, Lê Đạt và Trần Đức Thảo giữ được phong độ của người trí thức: Chịu trách nhiệm việc mình làm. Không đổ lỗi cho người khác. Không gọi bạn đồng hành là tên, là nó, là bọn, tuy đó là cách phải gọi những người NVGP trong các lớp học tập. Văn bản "thú tội" phản ảnh không khí trù dập, đàn áp, xuống cấp và thù nghịch ở ấp Thái Hà và sức chịu đựng của từng người: Trong ba người bạn thân: Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, thì Lê Đạt có bản lãnh hơn cả.
7- Văn bản đánh NVGP cũng cho rất nhiều thông tin: nó phản ảnh không khí trù dập, đàn áp, vu khống, bức hại và tư cách của người viết: có người không thể từ chối, miễn cưỡng viết cho qua, có người ác tâm vụ lợi, đánh để tiến thân, lên chức.
Ý định ra báo Nhân Văn
Ý định ra báo là của Nguyễn Hữu Đang. Nguyễn Hữu Đang thuyết phục Hoàng Cầm. Hoàng Cầm bàn với 5 người bạn trong Giai Phẩm Mùa Xuân: Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Văn Cao và Đặng Đình Hưng. Phần đông đều e ngại, không muốn cộng tác vì nghi ngờ Nguyễn Hữu Đang là người làm chính trị. Một mặt khác, sau vụ đàn áp Giai Phẩm Mùa Xuân, Trần Dần, Lê Đạt đều muốn nghỉ - chuyện gia đình, mới lấy vợ, có con. Hoàng Cầm nhận phụ trách phần văn nghệ, nhưng đến Nhân Văn số 2, Lê Đạt phải vào.
Hoàng Cầm kể trên RFI, 8/2/2008: "...thì lúc bấy giờ (xong lớp 18 ngày) anh Đang anh ấy mới nẩy ra một ý: Đang lúc văn nghệ sĩ có nhiều "thắc mắc" như thế này thì chúng mình nên ra một tờ báo. Tôi bảo: Ra báo thì phải có tiền, chứ tự nhiên ra thế nào được. Anh Đang bảo: Tiền thì tôi sẽ nhờ người bạn đi vay và chắc chắn chỉ vài số báo là đã có thể trả được... Đầu tiên tôi không nhận lời, vì lúc ấy tôi đang làm ở nhà xuất bản của Hội Văn Nghệ, nhiều công việc bận lắm. Nhưng mà anh ấy vẫn không tha. Anh ấy cứ bám riết lấy. (...) giữ riệt lấy tôi và thúc đẩy tôi. Thế rồi cuối cùng tôi cũng phải nhận lời. Bởi tôi cũng dễ tính và hay nể bạn".
Trong bài "thú nhận", tháng 3/1958, Hoàng Cầm viết:
"Bàn về tiền ra báo, tôi tán thành tên Tước[5] do Nguyễn Hữu Đang giới thiệu, bỏ tiền ra làm vốn. Tôi đã đi họp hai lần ở nhà tên Tước, lần đầu với Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Tước bàn về thể tài tờ báo. Tư tưởng tôi lúc đó phản đối mọi đường lối, chính sách của Đảng nên tôi nghĩ: Báo văn nghệ hay văn hoá xã hội cũng được, miễn là ra được, nhưng chỗ tôi biết hơn cả là mặt văn nghệ, thì tôi tự nhận phần văn nghệ, còn ngoài ra ai muốn viết về vấn đề gì, tôi cũng tán thành. Một lần nữa, có Nguyễn Bính, Đang, Tước bàn về tên tờ báo và mời Nguyễn Bính làm thư ký toà soạn, thì tôi nghĩ là “tên báo gì gì cũng được” miễn là có báo ra được"[6].
Như vậy, Nguyễn Bính đã có mặt trong những buổi họp trước khi ra báo Nhân Văn. Nhưng rút cục Nguyễn Bính không vào Nhân Văn mà làm tờ Trăm Hoa, bộ mới.
Lê Đạt, kể lại trên RFI như sau:
"Trong buổi học tập văn nghệ đó (lớp 18 ngày), anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: "Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm (...) Ðến lúc ra báo Nhân Văn, cũng lại có nhiều khó khăn. Anh Dần muốn trực tiếp lo chuyện gia đình vì anh ấy gặp nhiều khó khăn quá: bị bắt, rồi lại phải lo cho con cái. Còn tôi lúc đó, tôi cũng muốn nghỉ. Anh Ðang lại không thuộc nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân, anh Ðang là một cán bộ chính trị cũ, anh ấy chỉ biết tôi thôi, thế còn quan hệ với anh em Giai Phẩm Mùa Xuân, anh Đang lại không có. Mà các anh ở Giai Phẩm Mùa Xuân cũng không thích anh Ðang. Chúng tôi mới quyết định thế này: Anh Cầm đang rỗi rãi, bèn giao cho anh Cầm; tách anh Cầm ra làm việc chung với anh Ðang[7]".
Trong bài "thú nhận", tháng 3/1958, Lê Đạt viết:
"Sau thời gian lớp học 18 ngày, Nguyễn Hữu Đang cùng với Hoàng Cầm ra báo. Hoàng Cầm đặt vấn đề với nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân. Văn Cao, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm và tôi bàn ở tiệm trà Phúc Châu. Đa số đồng ý là không tham gia biên tập vì cho Nguyễn Hữu Đang không phải là người văn nghệ, có thể nhiều động cơ cá nhân không tốt, hai là tập họp anh em đông quá trong số đó có nhiều phần tử chạy theo, cơ hội không nắm chặt được, sợ manh động (viết lách ẩu, quá khích bị lãnh đạo đánh)"[8].
Trần Dần trong bài "thú nhận", viết:
"… Đến lớp học mười tám ngày, Nguyễn Hữu Đang từ lâu nằm phục xuống, nhờ cơ hội này đứng dậy phất cờ. Nếu không có Đang sẽ không có tham luận với những đề nghị: Gặp Trung ương, ra báo v.v… mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn.
Tư tưởng chống đối trong tôi cũng ngóc dậy. Tuy đồng tình với Nguyễn Hữu Đang, song không đồng tình về phương pháp (...) Nguyễn Hữu Đang định kéo nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân làm vốn cho hắn ra báo, đấu tranh với Đảng, vì từ lâu hắn đã ngửi thấy ở đó có vấn đề có thể kiếm chác được. Vấp phải sự rùng rằng (dùng dằng) không muốn tham gia của nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân (vì nhiều lẽ), hắn kéo lẻ từng người. Đầu tiên là Hoàng Cầm (...) Đến khi Nhân Văn thông qua bài số 1, tôi đến, thấy hỗn độn táp nham quá, mình dự đây là dại, nên nửa chừng bỏ về. Lúc đó tôi đã nghi Nguyễn Hữu Đang, cho là thằng quá tả, vấn đề gì cũng định đưa ra công khai, tôi cho rằng hắn sẽ làm hỏng phong trào của lớp học mười tám ngày thôi. Sẽ lại thất bại như hồi bộ đội. Nên tôi tự đặt nhiệm vụ dùng Hoàng Cầm, Lê Đạt mà ghìm hắn lại[9]".
Trần Dần vì nghi kỵ Nguyễn Hữu Đang, không muốn tham dự, nhưng cũng không bỏ hẳn. Trong nội bộ Nhân Văn, từ đầu, đã có những bất đồng: Nguyễn Hữu Đang muốn mở rộng cuộc tranh đấu sang chính trị: đòi hỏi tự do dân chủ. Hoàng Cầm thế nào cũng được. Trần Dần chỉ muốn đòi tự do sáng tác. Lê Đạt giữ vị trí trung gian: Đồng ý với Nguyễn Hữu Đang về đấu tranh tự do dân chủ nhưng chỉ muốn thực hiện bằng con đường sáng tác.
Đó là những "khó khăn" mà Lê Đạt nói đến khi lập tờ Nhân Văn, nhưng không chỉ có những "khó khăn" nội bộ, mà còn cả những khó khăn do áp lực bên ngoài. Một chủ trương "rầm rộ" như vậy, lãnh đạo không thể không biết. Và Trung Ương đã tìm cách khuyên nhóm Nhân Văn dẹp ý định làm báo đối lập, bằng cách nói riêng với từng người.
Bộ Chính Trị gặp ba người chủ chốt khuyên nên bỏ ý định ra báo
Hoàng Cầm kể trên RFI:
"Trước khi ra báo thì các anh em đã rậm rịch nói với nhau rồi, cho nên tin tức đều đến tai lãnh đạo cả. Thì lãnh đạo, tức là Bộ Chính Trị, đã bố trí cho cho ông Võ Nguyên Giáp mời Nguyễn Hữu Đang lên nói chuyện, mời riêng đấy. Còn ông Lê Đức Thọ, lúc bấy giờ cũng là Bộ Chính Trị, thì mời Lê Đạt và ông Lê Liêm lúc bấy giờ là Tổng Cục Phó Tổng Cục Chính Trị (về sau này ông ấy mới chuyển sang làm Thứ trưởng Bộ Giáo Dục), thì mời tôi. Như vậy là ba ông ủy viên bộ chính trị gặp những người chủ chốt của Nhân Văn, và nếu mà ba ông ấy thuyết phục được ba người đó đừng ra báo, thì thôi, coi như là yên ổn cả, không có chuyện gì. Ông Lê Liêm gặp tôi đến ba buổi tối trong nhà khách của quân đội, ông Giáp thì gặp anh Đang, ông Lê Đức Thọ gặp anh Lê Đạt, tất nhiên là để nói đến chuyện ra tờ báo, thì họ cũng lấy tình đồng chí, tình bạn bè, khuyên bảo, chứ không phải để ra lệnh gì. Ông Lê Liêm gặp tôi rất khiêm tốn, nói hết những cái Đảng có thể có những sai lầm này, sai lầm khác v.v... trong việc lãnh đạo văn nghệ. Tự ông ấy nói ra để cho mình hiểu và yên tâm là Đảng cũng biết đấy, để Đảng sửa dần, để cho mình muốn nói cái gì về Đảng trên tờ báo của mình thì mình rút đi, rút lui cái ý kiến trên báo ấy đi. Mục đích của những cuộc gặp đó là như thế. Khổ một nỗi là lúc bấy giờ những "thắc mắc" của anh em văn nghệ nó ồn ã lắm. Mà nó nhiều cái sâu sắc lắm, cho nên anh Đang anh ấy kiên quyết là không, cứ phải ra báo, phải ra báo thì mới nói được. Anh Đang kiên quyết ra báo. Tôi thì ra cũng được mà không ra cũng được. Thế là trong nội bộ của mấy anh em hoạt động nhất trong báo Nhân Văn là Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và tôi cùng thống nhất với nhau là cứ ra. Thế là ra được Nhân Văn số 1[10]".
Mời Phan Khôi làm chủ nhiệm; Trần Duy làm thư ký toà soạn
Việc mời Phan Khôi do Nguyễn Hữu Đang nghĩ ra. Lê Đạt kể:
"Ðang bảo: Hay là mời cụ Phan Khôi? Mà cụ Phan Khôi cũng lại không thân gì với Ðang lắm. Thế là anh Hoàng Cầm được cử đến mời cụ Phan Khôi. Phan Khôi khẳng khái nhận lời ngay"[11].
Việc mời Trần Duy có hai ý kiến khác nhau, Trần Duy, nói trên RFI:
Cũng về việc này, Hoàng Cầm viết trong bài "thú nhận", như sau:
"Chỉ có việc Nguyễn Hữu Đang mời tôi làm thư ký toà soạn là tôi không nhận, lý do chỉ vì sợ trách nhiệm, muốn đùn trách nhiệm cho người khác. Tôi đã đùn cho Trần Duy trong một buổi tình cờ gặp Trần Duy ở nhà Minh Đức. Tôi gọi nó lên gác nhà tên Đang, giới thiệu nó với tên Đang. Trần Duy nhận lời ngay[14]".
Ai quyết định nội dung bài vở báo Nhân Văn?
Trong bài "thú nhận", Lê Đạt viết:
"Tôi tham gia Nhân Văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận của tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm bốn người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi[15]".
Vậy trong bốn người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và Lê Đạt, ai quyết định nội dung tờ báo?
Trần Duy trả lời trên RFI:
"Tất cả bài vở là do Đang và Đạt quyết định và bài vở tập hợp vào tôi, khi thiếu bài hoặc mise mà không có thì bảo tôi làm cái remplissage lấp lỗ trống hoặc thu dọn bài này, bài nọ, trang mấy, trang mấy có tranh, thì bảo tôi làm. Sự thật ra quyết định bài vở phần lớn là Đang, quyết định nội dung bài là Đạt. Còn thầy cò thầy kiện là ông Văn Cao. Ông Trần Dần, ông Hoàng Cầm là đứng sau lưng. Người chủ động và trực tiếp với tôi là Lê Đạt, người chủ động bài vở là ông Nguyễn Hữu Đang. Tất nhiên là tôi không quyết định được bài vở rồi, nhưng có bài nào cần thiết thì Lê Đạt bảo: Ông viết đi, vấn đề này ông viết được, ông viết hộ tôi, ví dụ như tự do sáng tác hay là gì đó thì ông cứ viết, ông lại hơi có cái giọng humour thì ông làm cho tôi... không phải chuyện cười, những chuyện thời sự ông đi góp nhặt các nơi. Thì tôi phụ trách mục đó và tôi đề TD, là Trần Duy đó. Sau khi mise những bài chính rồi thì tôi là người lấp remplissage phần còn lại của tờ báo. Sự thực ra người ta không bao giờ hỏi ông Phan Khôi về một cái gì cả[16]".
Vẫn theo lời Trần Duy, Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang thường hay cãi nhau.
Vậy sự bất đồng ý kiến đó là gì? Có phải về mục tiêu đấu tranh, hay là điều gì khác? Lê Đạt viết trong bài "thú nhận":
"Về mục tiêu đấu tranh của Nhân Văn: Một mặt, lật đổ bộ phận lãnh đạo mà tôi cho là bè phái (đồng chí Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi), một mặt nữa đấu tranh với Trung ương về tự do dân chủ, tôi tán thành nhưng vẫn muốn đấu tranh bằng hình thức văn nghệ. Lúc đó tôi có khuyên Hoàng Cầm nên đẩy mạnh mặt văn nghệ của tờ báo còn phần đấu tranh cho tự do dân chủ thì làm một phần nhẹ thôi". "Xét cho cùng lúc đầu tôi với Nguyễn Hữu Đang chỉ khác nhau về chiến thuật. Tuy không tham gia biên tập nhưng khi in số 1 thỉnh thoảng tôi cũng có đến[17]".
- Nhân Văn số 1, ra ngày 20/9/56, gồm các bài chính:
Bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, bài Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, bức tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo trên cổ, và bài Luật sư Nguyễn Mạnh Tường trả lời về vấn đề mở rộng tự do dân chủ.
- Nhân Văn số 2, ra ngày 30/9/1956, với ba bài chính: Phấn đấu cho trăm hoa đua nở của Trần Duy, Đào Duy Anh trả lời về vấn đề mở rộng tự do dân chủ và bài Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân Dân, do Nguyễn Hữu Đang viết, nhưng ký tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy.
- Nhân Văn số 3, ra ngày 15/10/1956, xác định rõ ràng đường lối tranh đấu cho tự do dân chủ với hai bài chính:
Nỗ lực phát triển dân chủ của Trần Đức Thảo và Đặng Văn Ngữ trả lời về mở rộng tự do dân chủ.
Sau Nhân Văn số 3, có ba sự kiện quan trọng xẩy ra:
- Phan Khôi đi Trung Quốc.
- Trường Chinh tổ chức tọa đàm.
- Trần Duy lên gặp thủ tướng Phạm Văn Đồng.
(còn tiếp) -
15-02-2016, 07:14 #9
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)Phan Khôi đi Trung Quốc
Nhân Văn số 3 đăng một thông báo ngắn của Phan Khôi:
"Tôi đi công tác Trung Quốc một thời gian chưa biết bao lâu. Về tờ báo Nhân Văn, tôi ủy quyền chủ nhiệm cho ông Trần Duy, thư ký toà soạn, ông Trần Duy sẽ chịu trách nhiệm trong những ngày tôi đi vắng. Tuy vậy, tôi cũng vẫn liên đới chịu trách nhiệm."
Phan Khôi
Theo Hoàng Cầm, sau Nhân Văn số 3[18], Trung Quốc mời đích danh Phan Khôi sang dự lễ 100 năm sinh Lỗ Tấn, bởi vì người ta biết Phan Khôi là người dịch Lỗ Tấn hay nhất ở Việt Nam. Ban lãnh đạo Việt Nam thương lượng với bên Tàu cho một người đi kèm. Phan Khôi biết thế, ông bảo: Thế nào nó cũng cử một người nữa đi kèm. Tôi (Hoàng Cầm) hỏi: Bác có đồng ý không? Ông bảo: Nó đưa ra ba, bốn người, tau không đồng ý, sau đến cậu này, tau bảo được, vì thấy nó cũng lành. - Ai vậy? - Tế Hanh. Tế Hanh tôi biết là người tốt bụng, nhưng nhút nhát không dám thân mật với anh em Nhân Văn.
Trước khi đi, ông bắt tôi phải lo cho ông hai số đầu Nhân Văn, đủ 20 bản mỗi số, và 3 cuốn Giai Phẩm, mỗi cuốn 10 bản. Báo bán hết nhẵn rồi, tôi phải hỏi anh Minh Đức, may anh ấy là chủ nhà xuất bản nên giấu lại một ít. Tối hôm trước khi ông đi, tôi đến thăm, thấy ông và bà vợ đang sửa soạn va li. Bà chuẩn bị quần áo ấm cho ông. Riêng sách báo thì ông chất vào một va li to, độ khoảng 20 tờ Nhân Văn với 30 quyển Giai Phẩm cả Mùa Xuân, Mùa Thu. Ông đường hoàng lắm, nhà ông khi có khách ông chả cần đóng cửa, ông chẳng có gì phải giữ kín, thậm chí ông chửi cán bộ cộng sản to tướng, mà ông cứ nói oang oang, tôi rất sợ, nhưng không dám can "bác nói sẽ chứ", sợ ông mắng.
Chợt anh Phan Thao đến thăm bố, hỏi: Mai đi bố đã chuẩn bị xong chưa? Ông không trả lời. Lúc anh sờ đến cái va li ông đã đóng rồi, mở ra, thấy trong toàn Nhân Văn với Giai Phẩm, anh nói: Sách báo này sao bố mang đi nhiều thế, mỗi thứ một cuốn là đủ. Thì ông nổi giận: Không việc gì đến mi, việc của tau tau làm. Phan Thao vẫn kiên nhẫn nói năng nhỏ nhẹ: Con thấy bố mang đi nặng, thêm mệt, vô ích, bố định phân phối cho người ta hay sao mà mang nhiều thế. Ông càng cáu, hét to: Việc tau tau làm, mày cút đi! Ông quát to lắm, giọng ông còn khỏe, lúc ấy ông đã 70, tôi nghĩ ông còn sống lâu lắm. Phan Thao cứ bình tĩnh xem xét hành lý, can bố đừng mang tài liệu này, kia, ông lại càng cáu, chỉ tay ra cửa: Việc tau tau làm, mày cút đi! Cái thằng cộng sản! Tôi can cũng không được, ông càng nóng thêm, ông mắng nặng lắm: Tao không bố con gì với mi, nó là quân cộng sản, là đồ chó. Tôi đành nói với anh Thao: Thôi anh về đi, ông cụ đang có gì bực mình. Anh Phan Thao đành phải ra về.
Thế rồi ông đi, đi độ hơn 20 ngày thì ông về, ông kể, chúng nó thay hết những số báo trong khi bay, chỉ có hai số Nhân Văn ông để trong túi xách tay là còn. Ông định mang sách báo sang Tàu để tặng những người nào trong hội nghị mà ông thấy chơi được. Chỉ còn hai số báo Nhân Văn, ông đành cho mượn đọc. Tôi hỏi họ nghĩ gì, thì ông bảo Trung Hoa người ta khéo lắm, không phê bình gì cả, chỉ khen báo in đẹp. Ông cay chuyện bị mất báo lắm, động nói đến là ông chửi. Sau tôi không dám hỏi nữa. Khi ông về thì chúng tôi đã sửa soạn xong Nhân Văn số 4[19].
Trần Duy lên gặp Phạm Văn Đồng
Trần Duy thuật lại trên RFI:
"Tôi gặp anh Phạm Văn Đồng, ông Đồng gọi tôi lên, khi đó là số 3 rồi. Khi đó có những tin đồn là Nhân Văn muốn ngả về những mouvement, những phong trào đòi dân chủ ở Hung hay là ở Nam Tư gì đó, thì anh Đồng có cho gọi ban biên tập và tòa soạn lên, cuối cùng anh em bảo Trần Duy lên gặp, thì tôi lên. Việc tôi lên gặp ông Đồng cũng có một số anh em tán thành, một số không tán thành, cho rằng như thế là tự mình ràng buộc với... chính quyền.
Nhưng tôi nghĩ rằng anh không thể nào vượt chính quyền được và anh không thể nào vượt khỏi tổ chức của đảng được, không thể chống lại được nó, làm cái gì cũng phải nằm trong cơ sở tổ chức của đảng thôi. Tôi lên gặp ông Đồng. Thái độ của ông Đồng rất cởi mở, gặp tôi bảo: "Tôi hiện nay rất bận (...) , tôi ủy cho anh Phan Mỹ thay tôi để giải quyết những vấn đề gì của anh em còn vướng mắc, theo tôi thì đừng nói chữ đấu tranh, các anh cần gì, yêu cầu gì, các anh cứ việc đề ra và chúng tôi giải quyết chứ đừng đấu tranh, đòi hỏi cái gì mà phải đấu tranh" (...). Ông Đồng đi thì tôi ngồi nói chuyện với anh Phan Mỹ, anh Phan Mỹ bảo: Các anh cần gì, vấn đề tài chính thì tất nhiên chính phủ làm được việc đó, các anh cần mua giấy thì chúng tôi cấp giấy cho các anh mua. Xong việc ấy tôi về gặp anh em ở một cái quán nhỏ đầu Hàng Nón, mọi người ở đấy, có Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, ... và tôi. Một lúc thì Đang đến, tôi nói chuyện tôi gặp như thế thì tất cả mọi người, trừ Lê Đạt, đều cho rằng thái độ của tôi là thái độ đầu hàng[20]".
Theo tin trong Nhân Văn số 3: Sở dĩ Nhân Văn phải bán giá cao hơn các báo khác, vì "chỉ được Cơ Quan Mậu Dịch Trung Ương cung cấp giấy đủ để in 2000 số", trong khi số 2, in 6000 và số 3, in 7000 số, vì vậy phải mua thêm giấy ngoài thị trường với giá đắt gấp đôi giá mậu dịch".
Tin trong Nhân Văn số 4:
"Kỳ này, in 12.000 số, mà vẫn chỉ được Sở Báo Chí và Mậu Dịch Trung Ương cung cấp giấy đủ in 2000 số, tuy chúng tôi đã nhiều lần xin thêm".
Hoàng Cầm cho biết: Đến số 5 thì toà soạn cho tái bản từ số 1 đến số 5, mỗi số in từ 2 vạn (20.000) đến 2 vạn rưởi (25.000) và sang số 6, định in ba vạn (30.000) số[21].
Trường Chinh tổ chức tọa đàm
Theo tin trên Nhân Văn số 4 ra ngày 5/11/56, thì ngày 20/10/56 bắt đầu cuộc tọa đàm giữa đại diện ban chấp hành Trung Ương đảng Lao Động Việt Nam và các ngành văn học nghệ thuật. Ba buổi tọa đàm này được tổ chức những ngày: 20, 21, và tối 23/10/56[22].
Võ Hồng Cương, cục phó Cục Tuyên Huấn, viết:
"Ngay từ khi chúng xuất bản "Giai phẩm mùa thu" tập I và Nhân Văn số I, giới văn nghệ sĩ ta đã thấy rõ tính chất phản động của chúng, nên đã kịp thời phê phán chúng trước dư luận nhân dân. Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam muốn mở đường cho chúng hối cải, nên tuy rất bận về công tác sửa sai rất khẩn trương, cũng đã để thì giờ gặp chúng đến ba lần, để nghe chúng phát biểu thắc mắc nguyện vọng và nghe chúng phê bình sự lãnh đạo của cán bộ phụ trách văn nghệ của Đảng rồi khuyên bảo chúng những điều nên làm và những việc nên tránh[23]".
Lê Đạt viết trong bản "tự thú":
"Sau cuộc tọa đàm với Trung Ương, tôi viết bài “Hoan nghênh Trung Ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng” để gây thanh thế cho báo Nhân Văn. Một mặt khác tôi luôn luôn đả kích chuyên chính vô sản mà tôi cho là độc tài. Tôi tung ra trong anh em lập luận: “Từ khi về hoà bình mất đối tượng đế quốc và địa chủ, Đảng chĩa nhầm mũi dùi chuyên chính vào nhân dân”[24].
Trần Dần viết trong bài "tự thú":
"Khoảng Nhân Văn số 3, tôi được cử đi gặp Trung Ương Đảng. Tôi chuẩn bị kết án sự lãnh đạo văn nghệ trước, và đòi trăm hoa đua nở. Song mọi người nói cả rồi nên thôi (sau có viết bài đăng báo Nhân Văn). Trước cuộc họp tọa đàm này, Nguyễn Hữu Đang có họp tôi không dự, nội dung đâu như chuẩn bị ra một số đặc biệt, lợi dụng cuộc tọa đàm với Trung Ương đem mọi lời phát biểu phơi trần ra công khai đánh vào Đảng[25]".
Theo lời khai trên đây của Trần Dần, thì từ sau số 3, ông không còn "ở ngoài" Nhân Văn (như ông đã khai ở phần trên) mà đã "vào trong" Nhân Văn. Trần Dần đến dự buổi tọa đàm với mục đích "kết án sự lãnh đạo văn nghệ" và"đòi hỏi trăm hoa đua nở", nhưng chưa kịp nói thì "mọi người đã nói cả rồi".
Mặc dù tên Trường Chinh không được chính thức nêu ra -có lẽ vì ông đã lệnh cho báo chí không được viết về vụ tọa đàm- nhưng qua băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, thì Trung Ương Đảng ở đây chính là Trường Chinh:
"Trong thời gian từ số 3 đến số 5 Nhân Văn, ông Trường Chinh[26] mời một số nhà báo đến họp tại trụ sở Trung Ương Đảng. Địa điểm trông ra hồ Ha-Le, sau này là đại sứ quán Lào. Giấy mời ký tên Phan Mỹ, đổng lý văn phòng Phủ Thủ Tướng. Đại diện các báo có đủ cả: Thanh Niên, Trăm Hoa, Phụ Nữ... Báo Nhân Văn đi dự gồm: Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Trần Duy, Lê Đạt, Trần Dần không đi[27], Phùng Quán còn non nớt quá, chúng tôi không cử.
Thụy An cũng đi, không hiểu ví lý do gì. Thụy An không làm báo Nhân Văn nhưng rất thân với Lê Đạt và Phùng Quán, có thể là chính ông Trường Chinh mời, vì bà ở trong Hội Văn Nghệ.
Ông Trường Chinh ngồi một mình một bàn ở trên, ông tuyên bố ngắn gọn, đại ý: Hôm nay tôi mời các báo đến để xem tình hình trong nước, tình hình thế giới, vậy xin các bạn cứ phát biểu tự do, nói lên những nguyện vọng của mình.
Không có thư ký, ông ghi lấy, ai nói gì ông cũng ghi, ông ghi lia lịa. Trong khi mọi người phát biểu thì chúng tôi vẫn có thể nói chuyện thì thầm với nhau.
Tôi ngồi đối diện ông Tố Hữu. Trần Duy đối diện ông Xuân Thuỷ. Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt ngồi riêng.
Ông Tố Hữu nói với tôi bằng một giọng rất nhỏ nhẹ, đại ý: qua những số báo Nhân Văn vừa rồi, tôi thấy anh viết những điều không có lợi cho Đảng... Tôi chỉ mỉm cười không trả lời. Những người lên phát biểu chỉ trích những sai trái của lãnh đạo. Tôi lên nói về vụ Trần Dần, Tử Phác, một nhà thơ và một nhạc sĩ, chỉ vì một bài đăng trên Giai Phẩm Mùa Xuân mà bị bắt giam xuống một cái hầm đã giam những tội phạm chính trị của thực dân Pháp, chứng tỏ có một cá nhân nào đã lợi dụng quyền thế để đàn áp văn nghệ sĩ, tôi yêu cầu Đảng và nhà nước, tìm ra ai là thủ phạm, ai là người xướng xuất ra vụ bắt bớ này. Ông Trường Chinh chỉ ghi, chứ không nói gì.
Anh Nguyễn Bính lên tố cáo bị Thiết Vũ đánh. Ông Trường Chinh vẫn ghi rất nhanh vào cuốn sổ riêng. Thụy An, Nguyễn Hữu Loan cũng phát biểu, về những hiện tượng "không tốt đẹp" ở miền Bắc... thì ông Trường Chinh cũng cứ ghi, ghi rất nhanh mà không nói gì.
Lúc vãn họp, ông mới nói đại ý: Tôi yêu cầu các báo giữ kín, không được tường thuật, không đăng một tý gì.
Về, thì ông Đang bảo: Ông Trường Chinh bảo không đăng, không tường thuật, mình cứ đăng chứ sợ gì, làm ngắn thôi và viết đúng như sự thật.
Riêng Văn Cao, thì đến số mấy tôi không nhớ rõ, tôi có lấy một đoạn thơ của Văn Cao trong bài Cửa biển[28] đăng lên, Văn Cao không nói gì, tức là đồng ý.
Văn Cao không tham gia trực tiếp Nhân Văn, nhưng hôm họp với ông Trường Chinh, Văn Cao phát biểu đại ý: Tôi thấy báo Nhân Văn nói lên được tâm tư nguyện vọng của văn nghệ sĩ, Nhân Văn sống trong trái tim tôi.
Thế thì độ 3, 4 ngày sau buổi họp này, Văn Cao kể lại với tôi: ông Trường Chinh mời riêng Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, và tao lên. Ông ấy ghê lắm, đối với Nguyễn Tuân thì ông ấy nói rất dịu dàng, đại để: các nhà văn có tên tuổi thì nên giúp Đảng lãnh đạo nhân dân cho tốt, nếu thấy Đảng sai thì nên thân mật gặp tôi hoặc đồng chí nào ở Bộ Chính Trị, ý ông ấy muốn bảo là đừng viết báo nhưng không nói rõ ra. Đối với tao, ông ấy gay gắt hơn: Thế nào, đồng chí Văn Cao cũng ủng hộ Nhân Văn à? - Thế mày có trả lời gì không? Tao bảo: Vâng, tôi ủng hộ họ vì tôi nghĩ họ tốt. Còn Nguyễn Huy Tưởng thì bị ông ấy xát xà phòng:Anh Tưởng, anh là đảng viên mà anh để cho chúng nó chửi Đảng như thế mà anh ngồi yên được à? Nguyễn Huy Tưởng chỉ ngồi yên, bình tĩnh, nét mặt không thay đổi, không trả lời gì cả".[29]
Lời khai của Lê Đạt, Trần Dần và lời thuật của Hoàng Cầm chứng tỏ, nhóm NVGP và một số văn nghệ sĩ, đối diện với Trường Chinh, trong tọa đàm tháng 10/56, có vẻ không sợ hãi gì cả. Trường Chinh để họ thoải mái chống đối, chỉ lặng lẽ ghi. Ông ra lệnh không được tường thuật vụ tọa đàm, nhưng Nhân Văn làm ngược lại, viết hai bài rất mạnh trên số 4 về tọa đàm. Hai bài này đánh dấu không khí căng thẳng giữa lãnh tụ và các văn nghệ sĩ tự do và ngôn ngữ mạnh bạo trên tờ Nhân Văn. Bài Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa, ký tên Người Quan Sát, mở đầu như sau:
"Bước đầu để thực hiện quyết định của Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Tăng cường bảo đảm quyền tự do của nhân dân và trừng trị kịp thời, đúng mức những hành động vi phạm pháp luật. Chúng tôi đề nghị có những biện pháp thích đáng trừng trị Nguyễn Văn Tố tức Thiết Vũ trong việc hành hung chủ nhiệm báo Trăm hoa. Sở báo chí Trung ương phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này".
Và Người Quan Sát tường thuật vụ việc như sau:
"Theo lời ông Nguyễn Bính chính thức báo cáo trong hai buổi tọa đàm của đại diện Trung ương Đảng Lao động, thì trước khi báo Trăm Hoa mới ra số 1[30], Nguyễn Văn Tố tức Thiết Vũ, cán bộ của Sở báo chí, đến đưa cho ông 2 bài đả kích báo Nhân Văn, rồi yêu cầu đăng và đồng thời cũng mập mờ lấy danh nghiã cơ quan hứa hẹn cấp giấy rẻ cho báo Trăm Hoa thừa hai "ram"[31] để in, không hết sẽ bán theo giá thị trường (rất cao) mà tiêu dùng. Ông Nguyễn Bính không từ chối ngay việc mua đó, nhưng cũng không đăng hai bài báo kia, lấy cớ là không hay. Sau đó báo Trăm Hoa xin cấp giấy cho số 2, thì bị Sở (...) Trung ương Đảng trong buổi tọa đàm ngày 20/10[32].
Thế là chiều hôm thứ hai 21/10, Nguyễn Văn Tố đến trụ sở báo Trăm Hoa, vẫn lấy danh nghĩa Sở Báo Chí, mà chất vấn ông Bính về chuyện báo cáo hôm qua rồi dùng những lời thô bỉ, thậm tệ mà lăng mạ ông, lại toan hành hung ông nữa. Ông Bính phải chạy ra ngoài cửa hô hoán lên, hàng phố kéo đến, người qua đường dừng bước, thành một đám đông. Sau đó ông Bính nhờ người đi báo công an, các bạn đồng nghiệp, Hội Văn Nghệ và Sở Báo Chí. Thế rồi có cuộc thương lượng giữa ông Trần Minh Tước, giám đốc sở Báo chí và ông Bính. Kết quả chúng ta đã biết: Nguyễn Văn Tố viết một bức thư xin lỗi đăng trên báo Trăm Hoa số 2 và đến tự kiểm thảo trong một buổi họp nhân dân khu phố. Đến đây câu chuyện xoay chiều. Vì những lý do bí ẩn nào chúng tôi không rõ. Chúng tôi chỉ biết bức thư xin lỗi và cuộc kiểm thảo kia đưa ra những sự việc khác hẳn những sự việc mà ông Bính đã chính thức báo cáo trong hai buổi tọa đàm ngày 21/10 và tối 23/10".
Bài báo kết luận:
"Người ta biết rằng chủ nhiệm báo Trăm Hoa vì đi dự tọa đàm với đại diện Trung ương Đảng, có báo cáo chuyện mua chuộc và trả thù bỉ ổi nên trở về bị lăng mạ và suýt bị hành hung. Việc đó có một ý nghiã xúc phạm gián tiếp đến cuộc tọa đàm không còn ra thể thống gì nữa.
Người ta lại biết rằng gần đây các giới văn nghệ sĩ và trí thức thắc mắc rất nhiều về vấn đề bảo vệ nhân phẩm của văn nghệ sĩ, trí thức và quyền tự do dân chủ, giữa lúc này mà ngay sát cạnh Trung ương Đảng và Chính phủ, một cán bộ của Sở Báo Chí ngang nhiên láo xược, hung hãn đối với một văn nghệ sĩ lại là chủ nhiệm kiêm chủ bút một tờ báo, thì hãy hỏi y muốn chứng minh điều gì có lợi cho chính sách, cho chế độ?"
Tuy không nêu tên Trường Chinh, nhưng tác giả trực tiếp buộc tội "Trung Ương" dung túng sự "láo xược, hung hãn" của một cán bộ thừa hành; và ông đòi hỏi giới "thẩm quyền" phải có một "biện pháp cụ thể" không được "dung túng bọn sâu mọt", phải ngăn ngừa những "hành động côn đồ, manh động" không để "xẩy ra giữa thủ đô, chứ đừng nói gì đến tự do dân chủ vội".
Lập luận này xác định người viết là Nguyễn Hữu Đang.
Bài Hoan nghênh trung ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng của Lê Đạt mạnh mẽ trong một chiều hướng khác, ông viết:
"Ngày 20/10/56, đã bắt đầu cuộc tọa đàm giữa đại diện Ban chấp hành trung ương Đảng Lao Động và (...) đủ các ngành (...) điện ảnh. Ban (...) Nhân Văn đã đề cử ba đại biểu đến tham dự.
Từ mấy tháng nay cuộc đấu tranh sôi nổi và công khai của anh em văn nghệ sĩ chống những tệ lậu của bè phái lãnh đạo đòi thực sự mở rộng tự do dân chủ đã bị một số người hiểu lầm.
Họ gán ghép cho anh em những chiếc mũ không tốt: bất mãn, địa vị, thậm chí phản động. Cuộc tọa đàm này là một trả lời thích đáng cho những hạng người đó.
Nó chứng tỏ rằng cuộc đấu tranh của anh em căn bản là đúng, rằng anh em không phải là một nhóm người bất mãn đê tiện, mà là những người tha thiết vì dân vì Đảng muốn đóng góp phần xây dựng của mình".
Bài báo kết luận:
"Cuộc tọa đàm mới bắt đầu và còn tiếp tục nhưng chúng ta có đầy đủ cơ sở để đấu tranh và tin tưởng".
Lập luận của Lê Đạt rất khôn khéo: Chúng tôi đấu tranh đòi dân chủ, nhưng không chống Đảng. Buổi tọa đàm này "chứng tỏ bản chất của chế độ thực sự là dân chủ", mới chỉ là bước đầu, chúng tôi sẽ tiếp tục những bước kế tiếp.
Tóm lại, khi Phan Khôi đi vắng, Phạm Văn Đồng gọi Trần Duy, lúc đó thay quyền chủ nhiệm, lên gặp riêng, là có ý gì? Nếu Phan Khôi không đi Trung Quốc, liệu Phạm Văn Đồng có "dám gọi" Phan Khôi lên gặp riêng không?
Việc Trường Chinh tổ chức tọa đàm và Phạm Văn Đồng gặp riêng Trần Duy, hẳn là chính sách hợp nhất của trung ương, có gây ít nhiều chia rẽ trong nội bộ Nhân Văn. Trần Duy cho biết lúc đó ban biên tập đã định đưa Trần Công vào thay thế ông, nhưng rồi cũng thôi.
Tuy nhiên, hành động của trung ương tạo hai nghi vấn:
- Lợi dụng lúc Phan Khôi vắng mặt, Phạm Văn Đồng gọi Trần Duy lên gặp riêng và khi trả lời phỏng vấn RFI, ông tỏ vẻ chấp thuận giải pháp "không nên đấu tranh, có yêu cầu gì thì nói thẳng với trung ương", của ông Đồng. Nhưng tại sao trong buổi họp Nhân Văn số 4, chính Trần Duy lại "đưa ra chủ trương đề cập đến những vấn đề chính trị mạnh hơn nữa" như lời khai của Lê Đạt? Và bài ông viết trong Nhân Văn số 4 chống đảng rất mạnh.Vậy những gì đã thực sự xẩy ra trong buổi gặp riêng này?
- Trường Chinh tổ chức tọa đàm để chứng tỏ tính dân chủ của Đảng hay để dụ dỗ những người phản đối nói hết gan ruột mình, ông chỉ việc ghi chép, rồi sập lưới bắt trọn ổ?
Dù sao chăng nữa, sau việc Trần Duy lên gặp Phạm Văn Đồng và Trường Chinh tổ chức tọa đàm, Nhân Văn số 4 nghiêng hẳn sang đấu tranh chính trị.
Ngõ quặt chính trị của Nhân Văn số 4, số 5 và số 6
Nhân Văn số 4 ra ngày 5/11/1956. Ngoài hai bài Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa, và Hoan nghênh Trung Ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng, đã nói ở trên, Nguyễn Hữu Đang lần đầu tiên ký tên thật, trong bài xã luận Cần phải chính quy hơn nữa, đặt vần đề cần phải xây dựng một nhà nước pháp trị. Bài Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ của Trần Duy, với sự góp ý của Lê Đạt, chỉ trích đảng cố tình đàn áp Nhân Văn. Phùng Cung xuất hiện với truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh. Văn Cao đăng bài thơNhững ngày báo hiệu mùa xuân, như để trả lời sự đe nẹt của Trường Chinh.Thanh Châu viết phóng sự Mua hàng mậu dịch. Những bài chính luận và sáng tác trong Nhân Văn số 4 mang tính cách đấu tranh chính trị xã hội quyết liệt. Hoàng Cầm viết trong bản "tự thú":
"Từ sau số 3 Nhân Văn, càng ngày tôi càng thấy tờ báo bị công kích dữ, nhất là sau số 4, Nhân Văn bị thi hành kỷ luật[33], tôi bắt đầu chùn và muốn lảng ra, không phải vì tư tưởng chống Đảng đã giảm đi mà chính là vì sợ, muốn tìm chỗ yên thân, nên tôi lại cố sức đi vận động Trần Duy đóng cửa báo - muốn lảng ra không được, tên Trần Đức Thảo lại thuyết phục, tôi vẫn bị hút vào, nhưng vẫn chân trong chân ngoài chỉ chực trốn. Thời kỳ cuối Nhân Văn, cái tính chất “văn dốt, vũ rát” (nhát) của tôi biểu hiện rất rõ ràng: nghe ý kiến của Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang nêu ra những “trách nhiệm với lịch sử” để tiếp tục ra báo, tôi cũng thấy phải - Về gặp Văn Cao, Trần Dần nêu ra vấn đề “đóng cửa báo, vì tờ báo đang phiêu lưu, dễ bị đánh chết” tôi lại thấy phải[34]".
Qua lời khai của Hoàng Cầm, sau số 4, Hoàng Cầm, Văn Cao, Trần Dần muốn rút lui, đóng cửa báo; trong khi Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo và Lê Đạt nhất quyết tiếp tục ra báo trong hướng đấu tranh chính trị. Vai trò hướng dẫn tư tưởng của Trần Đức Thảo và hướng dẫn cách viết của Lê Đạt nổi bật trong Nhân Văn số 4.
Trần Dần khai:
"Tới Nhân Văn số 4 tôi nhận được giấy triệu tập đến họp về vấn đề: Báo có chuyển sang chính trị hay không? Trần Duy ký. Địa điểm ở nhà Trần Duy. Thực ra từ số 1 bọn Đang, Phan Khôi đã đòi làm chính trị và báo Nhân Văn đã đề cập đến vấn đề tự do dân chủ ở mức độ nào đó rồi. Âm mưu chính trị có từ đó, đến nay nhân thời cơ thế giới, bọn họ muốn đẩy mạnh phần chính trị lên hòng làm sôi sục tình hình Việt Nam, gây ra những sự biến chính trị, nếu có thể. Tôi ngửi thấy sự nguy hiểm đó, tuy không rõ. Đến cuộc họp tôi can họ “sang chính trị sẽ bị bóp chết ngay.” Vẫn chỉ là cái ý thức sợ phong trào bị tổn thất nặng. Song Trần Đức Thảo (tôi gặp lần đầu) hắn nói: “Văn nghệ và chính trị không thể tách được, không có tự do dân chủ, làm sao có tự do sáng tác? Báo nên sang mọi vấn đề chính trị tùy cách mà bàn thôi!” Ý kiến hắn có poids[35] cuộc họp bị hắn dắt mũi đi.
Tình hình gay gắt lắm rồi, tôi tìm Văn Cao. Văn Cao bảo “nên vận động đóng cửa báo, anh em đỡ thiệt hại, trên có đánh sẽ bị hẫng! Tôi hoàn toàn đồng ý. Đi vận động một số người đã ngả rồi, đến cuộc họp có Trường Xuân dự (bịa tin là Hồ Chủ tịch bảo con dao mổ trâu không đem giết gà) thì anh em lại bị bọn Trần Duy, Trường Xuân chúng dắt đi[36]".
Lê Đạt trong bài "thú nhận", viết: "Lúc này tôi vẫn còn ở trong Đảng, nhưng tư tưởng chống đối trong tôi đã phát triển mạnh. Tôi còn tán thành và đi nói với anh em quan điểm của Nguyễn Hữu Đang. Bản thân tôi cũng từng nói “Đảng trị” cho nên trong cuộc họp số 4, Trần Đức Thảo, Trần Duy đưa ra chủ trương đề cập đến những vấn đề chính trị mạnh hơn nữa tôi cũng đồng ý". (...) "Tôi góp ý kiến với Trần Duy trong bài “Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ” sửa chữa nhiều đoạn:
“Đấu tranh cho tự do dân chủ là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ vì nó là một cuộc tấn công quyết liệt vào những tệ lậu hủ bại của xã hội. Nó sẽ bị những phần tử tệ lậu và hủ bại hiện đương còn quyền hành và thế lực cản trở xuyên tạc phá hoại có khi bằng cả những phương pháp đen tối độc ác (chỗ này tôi ám chỉ các đồng chí lãnh tụ) đấu tranh cho tự do dân chủ không bao giờ chỉ là một công việc thuần tuý có tính chất quần chúng rộng rãi (...) Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài "Mậu dịch" và còn dự định vận động Thanh Châu viết về vấn đề nhà cửa. Tôi góp ý kiến vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch (...) Tôi lại viết "lời toà soạn" cho truyện "Con ngựa già" của Phùng Cung, đả kích và vu khống lãnh đạo văn nghệ không chú ý đến các nhà văn trẻ[37]".
Kết quả là trên Nhân Văn số 4, Nguyễn Hữu Đang công khai đòi hỏi một nhà nước pháp quyền và đến Nhân Văn số 5, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt tiến xa hơn nữa.
Nhân Văn số 5 ra ngày 20/11/1956 với hai bài xã luận chính: Hiến pháp Việt Nam 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? của Nguyễn Hữu Đang, nội dung đề nghị sửa đổi Hiến pháp 1956, hoặc làm một hiến pháp mới, và Bài học Ba Lan và Hung-ga-ry ký tên Người Quan Sát, do Lê Đạt viết, ngụ ý nếu chính quyền không chịu cải tổ chính trị thì miền Bắc Việt Nam sẽ trở thành một Ba Lan, một Hung-ga-ry.
-
15-02-2016, 07:25 #10
- Join Date
- Jul 2015
- Posts
- 2,992
(tiếp theo)Lê Đạt viết trong bài "thú nhận":
"Tôi đồng ý với Nguyễn Hữu Đang đề cập đến vấn đề Hiến Pháp để làm áp lực chuẩn bị cho việc sửa đổi Hiến Pháp sắp đem bàn ở Quốc Hội. (...) "Trên thế giới lúc đó xẩy ra hai sự kiện: Vụ Poznan và vụ Hung-ga-ri. Lúc đó tôi rất bất mãn với nhận định của Đảng về vấn đề Hung-ga-ri mà tôi cho là “đổ tất cả cho địch” đồng thời đề ra khẩu hiệu tăng cường chuyên chính. Tôi viết bài “Bài học Ba Lan, Hung-ga-ri” để làm áp lực đấu tranh với quan điểm đó (...) Quan điểm của Trần Dần trong bài “Phải để cho trăm hoa đua nở[38]" cũng là quan điểm của tôi và Trần Dần thường bàn chủ trương “Đảng không thể quyết định, quần chúng mới là trọng tài tối cao[39]".
Về Nhân Văn số 6, Trần Duy cho biết:
"Xong số 3, tôi chuẩn bị mấy số sau, cái affiche về Ba Lan thì chính tôi lên tiếp xúc với sứ quán Ba Lan, họ cho tôi tất cả tài liệu, affiche, tranh ảnh về Ba Lan và tôi đang định làm số đó. Nhưng sau vụ tôi lên gặp ông Đồng ấy, thì ông Đang ông ấy đùng đùng ông tự động thay đổi. Lê Đạt cũng bảo cái chuyện mà Đang lên nhà in tự động thay đổi nội dung rất là nguy hiểm. Thì rồi xẩy ra việc mà bên công an can thiệp, nhưng không can thiệp đến ban biên tập, không can thiệp đến người, chỉ đình số báo lại và không cho phát hành. Nếu số báo ấy ra thì chưa biết tình hình sẽ đi đến đâu. Tất cả số báo đó tôi hoàn toàn không biết[40]".
Lê Đạt viết trong lời thú nhận:
"Đến số 6, Đang mượn được một số France Observateur, bàn nên ra một số đặc biệt về Ba Lan. Tôi rất tán thành cho rằng Đảng ta hay bưng bít tài liệu bây giờ đấu tranh bằng cách trình bày những tài liệu nước ngoài tác dụng rất tốt mà Đảng có muốn phê bình cũng không làm gì được. Đây cũng là một chiến thuật tốt để tấn công Đảng. Bài vở số này do Đang và Trần Duy sắp xếp. Về bài xã luận của Nguyễn Hữu Đang tôi cũng xem cũng như những bài xã luận mấy số 4, 5 trước khi Nguyễn Hữu Đang đưa in. Đọc đến chỗ “nhân dân có quyền biểu tình”, tôi hỏi. Nguyễn Hữu Đang trả lời “Báo Nhân Dân đã khoẻ chửi, đánh cho một đòn như thế là chịu”. (Chỗ này Nguyễn Hữu Đang chơi chữ: Lê Đạt hỏi nhân dân, Nguyễn Hữu Đang trả lời Nhân Dân)
Lúc đó tất cả tâm trí tôi chỉ lo đối phó với các báo của Đảng, nên đồng tình. Trong lúc đương in số 6, thì phong trào phản đối lên mạnh. Tôi muốn đóng cửa. Nhưng trong cuộc họp chủ trương tiếp tục, Trần Đức Thảo và Trường Xuân, Phan Khôi thắng thế. Nhưng kết quả báo cũng bị đóng cửa. Tôi ngại Chi Bộ thi hành kỷ luật và cũng hoang mang, ngại sự phẫn nộ của quần chúng không biết làm thế nào nên lánh mặt và không gặp anh em nữa".
"Đôi lúc tôi có nghĩ “Giá có biểu tình để Trung Ương thay đổi đường lối thì tốt”. Nhưng lại lo không muốn biểu tình xảy ra vì nếu có “một là tôi sẽ bị bắt vào Hoả Lò, hai là trong lúc hỗn quân hỗn quan sẽ bị treo cổ”.
"Giữa tôi và Nguyễn Hữu Đang lúc đầu không phải là khác nhau về lập trường chống đối mà chính chỉ khác nhau về phương pháp mà thôi[41]".
Như vậy, trong những ngày cuối cùng của Nhân Văn: Trần Đức Thảo, Phan Khôi vẫn là hai kiện tướng.
Trường Xuân chưa rõ là ai.
Ngày 09/12/1956, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh: Báo chí phải "phục vụ công nông binh", phục vụ nền "chuyên chính vô sản". Phạt tù 5 năm đến khổ sai chung thân kẻ nào vi phạm các cấm điều.
Theo Hoàng Văn Chí, những điều khoản trong sắc lệnh 15/12/56[42] đã được ban bố từ tháng 10/54, sau khi tiếp thu Hà Nội. Nhưng lúc đó báo chí phần lớn đều là của Đảng, nên những cấm điều chỉ "giao hẹn mồm" mà vẫn được áp dụng triệt để:
- Không được chống chính phủ, chống chế độ.
- Không được xúi giục nhân dân làm loạn.
- Không được nói xấu các nước bạn.
- Không được tiết lộ bí mật quân sự.
- Không được đăng bài vở có phương hại đến thuần phong mỹ tục[43].
Nhưng từ khi Nhân Văn Giai Phẩm xuất hiện, những tờ báo "đối lập" này không tuân thủ những cấm điều nữa: Nội dung bài vở chuyển tải rõ ràng ý chống Đảng, chống chế độ.
Ngày 15/12/1956, Nhân Văn số 6 đang in, bị chận lại và bị thu hồi.
Nhân Văn số 6: chủ tâm của chính quyền
Nhờ băng ghi âm Hoàng Cầm, chúng ta biết thêm một số dữ kiện về ba nhân vật đã đóng góp tích cực vào việc triệt hạ báo Nhân Văn: Diên Hồng, Trường Xuân và Lê Nguyên Chí.
Diên Hồng
Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm cho biết:
"Khi Nhân Văn ra số 1 rồi, có một người đến tìm gặp tôi, hóa ra anh Diên Hồng quen tôi từ 1947 trong kháng chiến. Anh là người đã tổ chức cho tôi và Tuyết Khanh diễn vở kịch Lên đường ở làng Dĩnh Sơn. Sau đó, tôi còn gặp lại anh trong bộ đội nhiều lần nữa, anh rất nhiệt thành và tôi rất quý anh. Anh nói riêng với tôi: Em thấy Nhân Văn số 1 nó hay quá, em muốn giúp các anh quản trị tờ báo cho có lời, em quen việc này rồi, hiện nay, em đang làm cán bộ quản lý cho một tiểu đoàn[44] thì việc tờ báo của các anh là rất dễ, em làm được. Lúc bấy giờ, anh em chúng tôi chỉ biết làm báo, viết bài, chứ có thạo quản trị đâu. Thấy anh ấy là người quen từ trước, lại tốt bụng, chịu quản lý hộ không lương, nên mọi người hoan nghênh lắm, đồng ý giao lại cho anh ấy, để yên tâm viết bài. Thế thì quả nhiên anh ta làm 4 số báo, từ số 2 đến số 5, sổ sách hết sức phân minh, đâu ra đấy, đều đưa cho tôi xem cả. Chính Diên Hồng đề nghị in lại năm số Nhân Văn, mỗi số từ hai vạn đến hai vạn rưởi, bán hết, tờ bào càng ngày càng lời, hết số 5 thì tiền lời lên đến 364 triệu, so với tiền năm 1998 này, có thể thành 1800 triệu. Chúng tôi để dành mở một nhà xuất bản. Báo và xuất bản phải đi đôi thì mới có cơ phát triển văn học nghệ thuật được.
Đến Nhân Văn số 6, anh Đang có cho tôi xem bài xã luận của anh, nội dung đòi quyền tự do biểu tình, không phải là kiểu mít-tinh nhà nước tổ chức, bắt buộc mọi người phải đi đâu, mà là quyền tự do thực sự, có trong hiến pháp 1946, như tự do cư trú, tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do biểu tình, giống như các nước dân chủ. Anh Đang viết rất hay, lý luận sắc sảo, nhưng khi đọc xong thì tôi nói: Bài này không nên đăng, vì nó có tính chất chính trị công khai, nguy hiểm lắm. Thế là ông Đang trố mắt quát tôi ngay, lúc bấy giờ ông ấy ghê lắm, chứ không như vài số đầu ông ấy còn nể tôi. Thế thì một bên là ông Đang và ông Trần Duy, một bên là ông Đạt và tôi, chỉ có bốn người tranh đấu với nhau, nhưng cuối cùng ông Đang thắng.
Nhân Văn số 6, tôi không giúp bài vở gì nữa, chỉ có ông Đang và ông Trần Duy làm. Bài vở đã xong, đem đến nhà in Xuân Thu, nhưng cứ nằm ỳ đấy chờ, vì Diên Hồng, cách đấy một tuần có nói với tôi là phải đi Hải Phòng mua giấy, vì Hà Nội hết giấy rồi. Anh mang cả số tiền để dành đi mua, dự trữ cho những số sau, rồi thuê camion chở về, tôi mừng lắm và hoàn toàn đồng ý. Không ngờ chờ một tuần, 10 ngày rồi hai tuần, không thấy Diên Hồng trở lại. Khoảng ba tuần sau khi hắn biến mất, thì có lệnh đình bản từ Phủ Thủ Tướng do ông Phan Mỹ, đổng lý văn phòng, ký.
Khi báo đã bị đình bản rồi, thì các báo khác, từ Nhân Dân đến Lao Động, Thanh Niên, Phụ Nữ, An Ninh, Văn Nghệ... nghiã là tất cả các báo lớn ở miền Bắc đều có bài ở trang nhất đánh phá Nhân Văn, nặng nhất là cái tội kêu gọi biểu tình chống Đảng, lật đổ chính quyền. Anh em chúng tôi cũng hội họp nhau bàn bạc, tôi nói: Với một chính quyền như thế này, người ta sẵn sàng bỏ tù mấy nhà báo quá khích. Lê Đạt cứ cười hinh hích: Tù thì tù sợ chó gì, nhưng cũng chẳng bỏ tù đâu! Ông Đang thì kiên quyết: Làm báo thì phải thế chứ!
Về sau, tôi nghĩ lãnh đạo đã tìm được tên Diên Hồng là kẻ có quan hệ tốt với Hoàng Cầm từ 1947, làm tay trong theo dõi. Đến số 6 là số nguy hiểm, hắn được lệnh mang cả quỹ tiền đi, lúc đó có thể ở Hà Nội vẫn còn giấy đấy, nhưng hắn lấy cớ đi Hải Phòng, mà mình thì không biết, cứ tin tưởng. Không có tiền, không có giấy, thì làm sao in được báo nữa? Đó là chuyện Diên Hồng và Nhân Văn số 6[45].
Trường Xuân
Về Trường Xuân, Hoàng Cầm kể:
Một hôm, trong buổi họp đông đủ, có một người đi với anh Trần Đức Thảo, được anh Trần Thiếu Bảo giới thiệu tên là Trường Xuân, làm cán bộ ở Phủ Thủ Tướng, rất quý anh em Nhân Văn. Anh Trường Xuân nói với chúng tôi: Sự thực thì các ông ở Bộ Chính trị không có gì phản đối các anh lắm đâu, nhất là bác Hồ, không phải bác bênh vực, nhưng bác coi chuyện này nhẹ thôi, không có gì đáng ngại cả. Vậy thì anh em cứ việc viết. Một lần có bài báo phê bình to chuyện Nhân Văn, bác Hồ bảo không nên đem con giao mổ trâu để giết một con gà, ý bác muốn nói: chuyện Nhân Văn có gì to tát mà làm ồn lên thế.
Anh Trường Xuân nói là đã được dự một buổi họp trong Bộ Chính Trị, có bác Hồ, và bác nói như thế, mà anh lại đi với ông Trần Đức Thảo, thì chúng tôi tin lắm.
Anh Trường Xuân đến họp độ hai lần, lần nào anh cũng kích động chúng tôi, bảo cứ mạnh dạn lên, cứ viết bạo đi, có ích lắm, bác Hồ cũng bênh vực cơ mà. Lúc đầu thì tôi cũng tin, vì hắn đi với Trần Đức Thảo, chẳng lẽ anh Thảo lại ngớ ngẩn đến thế, lại dẫn một tên xấu xa nào vào đây.
Nhưng sau cái vụ Diên Hồng, tôi mới liên hệ với cái tên Trường Xuân đi với ông Trần Đức Thảo: thôi chết rồi, lại vớ phải cái thằng kích động, nó xúi mình vào tròng đây. Ông Trần Đức Thảo thì ông ấy là triết gia, lúc nào cũng đi trên mây, có biết trời trăng gì đâu. Anh Đang cũng tin là thật, cho nên mới viết những bài đòi tự do, đòi quyền nọ, quyền kia, đòi biểu tính, không sợ, vì bác Hồ cũng chỉ coi là chuyện nhỏ thôi, Bộ Chính Trị phải nghe bác chứ, không việc gì phải sợ, cứ viết. Thì ra hắn cốt kích động để mình lòi ra, mình viết cho bằng hết, để nó cho vào sổ đen và cứ thế nó thịt từng người. Nhiệm vụ của tên Trường Xuân này là như thế.
Nguyên Chí
Hoàng Cầm cho biết:
Đến khi anh Đang bị bắt thì tôi suy ra cái tên Lê Nguyên Chí[46] có lẽ cũng là một thứ "chân gỗ" người ta cài vào để bắt cả bọn. Việc anh Đang bị bắt, sau khi đi tù 15 năm về, anh không hề kể gì cả, có lẽ trong tù người ta đã căn dặn kỹ không được tiết lộ bất cứ việc gì xẩy ra. Sau này anh Chính Yên, ở báo Nhân Dân -là bạn thân của tôi thời kháng chiến và là cháu ông Lê Duẩn- kể lại:
Trong khi xẩy ra lớp Thái Hà thì mấy người bàn nhau đi trốn, mà đi đường nào? Nếu đi đường rừng qua vĩ tuyến 17, thì xa xôi và nguy hiểm lắm. Nếu đi đường thủy thì chỉ cần qua vĩ tuyến 17 là vào Nam rồi, lúc đó đang còn ông Diệm. Mấy người họp nhau, thường bàn bạc ở nhà Thụy An, lúc ấy ở nhờ cái buồng nhỏ nhà anh chị Phan Tại, số 37, Trần Quốc Toản. Hàng ngày ông Đang và ông Minh Đức xuống đấy bàn chuyện trốn mà lại ngây thơ không biết rằng họ không cho đi học tập nhưng họ đã cho người theo dõi mọi cử động. Trong khi ấy thì có một anh hớt tóc rong, cắt tóc ngay bên vỉa hè nhà ông Phan Tại, hắn làm quen với ông Đang và nói giọng rất bất mãn chế độ. Không biết chuyện trò thế nào, mà nó biết là các vị cũng đang muốn vượt tuyến, thế là nó đề nghị ngay: Em cũng muốn đi lắm, nhưng một mình rất khó, không đủ tiền, em có thằng em làm nghề đánh cá ở Hải Phòng, nó đi biển thường xuyên, mình có thể nhờ nó thuê thuyền giùm, cho em đi cùng với. Thế là mấy người này tin tưởng vào nó, cũng như tôi tin vào Diên Hồng, để nó đứng ra tổ chức. Đến ngày đi, hẹn nhau ở Hải Phòng, rồi hắn đưa đến nhà người em chẳng biết là em thật hay giả. Chuẩn bị xong thì người em hắn lái thuyền cho đi, đi được 2 cây số ra biển thì bao nhiêu ca nô của quân đội, của công an từ đâu phóng ra bắt trọn bộ đưa về Hà Nội.
Nguyễn Đình Thi công bố cho toàn trường nghe đúng hôm chúng tôi phải bắt đầu viết bài tự kiểm thảo: Bọn phản động gián điệp Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Phan Tại, Trần Thiếu Bảo đã bị bắt quả tang trên đường trốn vào Nam[47].
Phải chăng ba nhân vật Diên Hồng, Trường Xuân và Lê Nguyên Chí, là những người của Đảng trà trộn vào, có nhiệm vụ đưa toàn bộ NVGP vào bẫy?
Luận điểm của Nguyễn Mạnh Tường trong tiểu thuyết Une voix dans la nuit: Đảng giăng bẫy, để bắt trọn ổ, phải chăng đã đặt cơ sở trên những nhận xét thực tiễn này?
Chúng ta vừa nhìn lại quá trình hình thành và một số sự kiện xẩy ra trong nội bộ báo Nhân Văn cho đến ngày NVGP bị cấm, Nguyễn Hữu Đang và các bạn bị bắt, với những dữ kiện xẩy ra và những âm mưu bên trong. Qua những chứng nhân của Lê Đạt trong phần thú nhận, ta biết rõ sự thực về hậu trường Nhân Văn, về sự tranh đấu cũng như óc chia rẽ, phân hoá trong mỗi con người, trước hoàn cảnh lịch sử. Chứng nhân của Hoàng Cầm, trong băng ghi âm, soi vào phần bóng tối, phần âm mưu của nhà cầm quyền và cái bẫy giăng sau lưng NVGP.
Về mặt văn bản, Nhân Văn, với những bài viết của Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt... mở mặt trận đấu tranh chính trị. Giai Phẩm với những bài của Trương Tửu, Trần Đức Thảo... mở mặt trận tư tưởng. Phan Khôi như một vị thủ lĩnh tinh thần của Nhân Văn và Giai phẩm.
Toàn bộ Nhân Văn Giai Phẩm là một kết hợp chặt chẽ giữa văn nghệ sĩ và trí thức trong cuộc đấu tranh cho tự do sáng tác và tự do dân chủ. Hai hình thái đấu tranh này đi đôi với nhau, không thể tách rời, như lời Trần Đức Thảo: "Văn nghệ và chính trị không thể tách được, không có tự do dân chủ, làm sao có tự do sáng tác?"
***
[1] Theo Lê Đạt, tiệm trà Phúc Châu bây giờ là hàng phở Thắng, phố Tạ Hiền.
[2] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[3] Những bài thú nhận của Trần Dần và Lê Đạt, được/bị trích đăng trên hai báo Văn Học số 1 (25/5/1958) và Văn Nghệ số 12 (5/58), những bài của Hoàng Cầm và Phùng Quán đăng trên Văn Nghệ số 12, bài của Văn Cao trên Văn Học số 3 (5/6/58), bài của Trần Đức Thảo trên Nhân Dân số 1532-1533 (23-24/5/58)... Tất cả đều trích in trong cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận.
[4] Lê Đạt trả lời RFI.
[5] là một người thân thuộc của nhà xuất bản Minh Đức.
[6] Hoàng Cầm, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958.
[7] Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI.
[8] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958, trg 74.
[9] Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, 5/1958, trang 61.
[10] Hoàng Cầm, RFI, 8/2/2008.
[11] Lê Đạt trả lời RFI.
[12] Trần Duy muốn nói đến buổi "hội lớn" của Hội Văn Nghệ, đánh Trần Dần với 150 người dự. Trước đó là buổi Đại Hội Tuyên Huấn, cũng vào tháng 2/1956.
[13] Trần Duy trả lời RFI, tháng 7/2008.
[14] Hoàng Cầm, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958.
[15] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 75.
[16] Trần Duy trả lời RFI.
[17] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 75.
[18] Trong băng ghi âm, Hoàng Cầm nói là NV số 2.
[19] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[20] Trần Duy, trả lời RFI.
[21] Theo băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[22] Những buổi tọa đàm này không chỉ dành riêng cho Nhân Văn, tổ chức sau Nhân Văn số 3 (15/10/56).
[23] Hồng Cương, Cuộc đấu tranh giai cấp trên mật trận văn nghệ hiện nay, VNQĐ số 6, tháng 6/58, trang 36.
[24] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[25] Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, 5/1958.
[26] Trường Chinh lúc đó đã từ chức Tổng bí thư được một tháng, nhưng vẫn là Uỷ viên Bộ Chính Trị.
[27] Trần Dần có đi, nhưng có lẽ không phát biểu nên Hoàng Cầm không nhớ. Lê Đạt trên Nhân Văn số 4, ghi: Nhân Văn gửi 3 đại diện đi dự. Vậy ba người "chính thức" được cử đi là Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và Hoàng Cầm.
[28] Hoàng Cầm muốn nói đến bài thơ Những ngày báo hiệu mùa xuân, trích từ trường ca Những người trên cửa biển, đăng trên Nhân Văn số 4, bài này Văn Cao đả kích trực tiếp chế độ.
[29] Theo băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè.
[30] Trăm Hoa bộ mới, số 1, phát hành ngày 20/10/56.
[31] Một rame giấy: 500 tờ khổ lớn.
[32] Câu này bị kiểm duyệt phần trong ngoặc, có thể hiểu là Nguyễn Bính xin cấp giấy in TH số 2, Sở Báo Chí từ chối, hoặc rút bớt giấy, Nguyễn Bính bèn tố cáo với Trường Chinh trong buổi tọa đàm ngày 20/10/56. Sau đó NB bị hành hung.
[33] Nhân Văn bị thi hành kỷ luật, lý do "chính thức" đưa ra, vì số 4 "nộp lưu chiểu chậm". Cảnh cáo lần đầu của chính quyền.
[34] Hoàng Cầm, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958.
[35] Có trọng lượng.
[36] Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, 5/1958.
[37] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[38] Tức là bài "Không có lý gì mà không tán thành trăm hoa đua nở" ký tên H.L, trên Nhân Văn số 5.
[39] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[40] Trần Duy trả lời RFI.
[41] Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58.
[42] Hoàng Văn Chí ghi ngày 15/12/1956. Các tài liệu khác ghi ngày 9/12/1956.
[43] Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, trang 31.
[44] Khoảng 6, 7 trăm quân.
[45] Trong băng nói chuyện, Hoàng Cầm kể tiếp: Sau Nhân Văn, đến cải tạo tư sản, báo và xuất bản không được tự do nữa, phải trực thuộc vào nhà nước: Báo Lao Động có nxb Tổng công đoàn, báo Thanh Niên có nxb Thanh Niên, thuộc Ban chấp hành đoàn thanh niên Trung ương, trước là đoàn thanh niên Cộng Sản, sau đổi thành đoàn thanh niên Hồ Chí Minh... Sau Đại Hội III, xã hội vào quy củ, từ anh hớt tóc rong, sửa xe đạp... cũng phải vào hợp tác xã, có chủ nhiệm lãnh đạo, kiểm soát. Xã hội trở thành hợp tác xã, để quản lý từng người dân một, từ 1960.
[46] Trong băng, Hoàng Cầm nhớ nhầm là Lê Nguyên Cát.
[47] Tóm tắt lời Hoàng Cầm trong băng Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè. Sau này con trai ông Lê Nguyên Chí có viết bài minh oan cho cha.
http://khaiphong.org/showthread.php?6934-V%E1%BB%81-phong-tr%C3%A0o-Nh%C3%A2n-V%C4%83n-Giai-Ph%E1%BA%A9m-Th%E1%BB%A5y-Khu%C3%AA