Cõi Người Ta
Xuân Diệu: "Ma với nhau..."
                Cuối năm 1983, Công ty cao su Dầu Tiếng tổ chức Hội nghị tổng kết cuối năm. Năm ấy phân u-re được Liên Xô cấp, mủ cao su được Liên Xô bao tiêu
            
                 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
    
        
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
        Cuối năm 1983, Công ty cao su Dầu Tiếng tổ chức Hội nghị tổng kết cuối  năm. Năm ấy phân u-re được  Liên Xô cấp, mủ cao su được Liên Xô bao  tiêu, công ty này trở thành điển hình tiên tiến toàn ngành, nên tổ chức  Hội nghị tổng kết to. Trưởng phòng thi đua - tuyên truyền Nguyễn Hữu  Bằng lên Sài Gòn mời nhà báo, miệng  bô bô: “Ngoài đánh chén, còn có một  sấp vải  Seviot  may quần, một sấp vải KT may áo, một kg bột ngọt và  một phong bì 50 đồng  nghe!”.  Món quà đó ngày ấy bằng hai tháng lương  chuyên viên một của tôi, hơn nữa  có tiền chưa chắc đã mua được vải  Seviot, KT, bột ngọt theo tiêu chuẩn phân phối .
Cánh phóng viên bàn tán lao xao trong khuôn viên Câu lạc bộ Hội nhà văn  thành phố ở đường Trần Quốc Thảo, và đến tai nhà thơ Xuân Diệu đang uống  cà phê sáng tại đó. Ông vào Sài Gòn cùng giáo sư Hoàng Như Mai tổ chức  ‘sô’ nói chuyện thơ, nhưng ế lắm. Nhà thơ Xuân Diệu vẫy Trưởng phòng  Nguyễn Hữu Bằng tới, bảo cho ông một suất dự Hội nghị tổng kết cuối năm  với công ty. Anh chàng Trưởng phòng tuyên truyền hơi lưỡng lự, nhưng rồi  mở cặp, lấy tờ  giấy mời viết, đưa cho Xuân Diệu. Mấy nhà báo chúng tôi  được vinh dự tháp tùng nhà thơ  lớn nổi tiếng, rất hãnh diện.
Một phó giám đốc thay mặt công ty đón tiếp chúng tôi, phát cho mỗi người  một  bản tổng kết thành tích dày cộp, đựng trong túi  với tờ lịch của  công ty. Nhà thơ Xuân Diệu cầm chiếc túi xăm soi,  rồi hỏi  :
- Thế quà đâu?
Anh Bằng nói:
- Qùa sẽ đưa sau ạ!
Chúng tôi nhìn nhau ngượng đỏ mặt. Không ngờ nhà thơ tình nổi tiếng lãng mạn lại hiện thực xã hội chủ nghĩa như vậy.
Hội trường trang trí rất đẹp, có hoa tươi, sân khấu, loa phóng thanh đầy  đủ. Đại diện lãnh đạo tỉnh Sông Bé, Đồng Nai, Tây Ninh, huyện Dầu Tiếng  và các ban ngảnh Tổng cục cao su cùng hàng trăm lao động tiên tiến của  công ty ngồi kín các hàng ghế. Trong khi chờ đợi khai mạc Hội nghị, anh  Bằng trân trọng giới thiệu nhà thơ Xuân Diệu lên đọc thơ. Bằng nói rất  rõ là đọc những bài thơ tình tuyệt tác!   Một tràng pháo tay rất dài, có  ngưới đứng lên để nhìn cho rõ nhà thơ Xuân Diệu nổi tiếng.
Nhà thơ Xuân Diệu mặt bộ véc cũ, không thắt Caravate, đeo kính dâm, tóc  xòa kín cổ bước lên sân khấu ngẩng mặt, nghiêng người đón tràng pháo  tay, rồi cầm Micro, nói giọng trầm, bổng:
- Dân tộc Việt Nam đã sinh ra một Nguyễn Du ,để  rồi: “Bất tri tam bách  dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân kháp Tố Như!”.  Không, hôm nay tôi không   nhỏ lệ vì cuộc đời trăm năm rách nát với văn chương ấy, mà cùng mọi  người cất tiếng hát, tiếng reo vui  giữa rừng thơ Tố Hữu...
Xuân Diệu ngả người chờ tiếng vỗ tay. Tiếng vỗ ran lên, ông mỉm cười đón  nhận. Chờ tiếng vỗ tay đứt, và mọi  mọi người yên lặng , ông cất tiếng   đọc bài thơ “Cá nước”, với chất giọng sang sảng. Tiếp theo là bài thơ “  Sáng tháng năm”
Bọn tôi cứ tưởng Xuân Diệu đọc mấy bài thơ của Tố Hữu và mấy bài thơ của  mình rồi nhường sấn khấu để khai mạc hội nghị, nào ngờ ông thao thao  bất tuyệt phân tích tính đảng, tính quần chúng, tính hiện thực xã hội  chủ nghĩa, tính nghệ thuật trong  thơ.  Cái đầu ông lắc lư, hai tay vung  vẩy, hai chân nhún nhẩy, như nhập đồng.
Chín giờ, rồi chín  giờ ba mươi, ông vẫn nói. Hai mép đùn ra hai cục bọt trắng như bọt xà phòng.
Ông Tư Nguyện, nguyên Bí thư tỉnh ủy Sông Bé thời chiến tranh, lúc đó  làm Tổng cục trưởng cao su, ngồi  trên hàng ghế đầu nhập nhổm như bị  kiến cắn! Cái trán hói bóng lưỡng  đỏ tía lên. Ông  đã không hài lòng  khi anh Bằng tự tiện làm cái việc trái khoáy mời nhà thơ bình thơ trong  Hội nghị tổng kết, giờ  thấy  nhà thơ  Xuân Diệu chiếm sân khấu nói  tràng giang đại hải, nên rất bực. Nhà báo Phạm Lân thấy bất ổn, nháy  Bằng lên mời Xuân Diệu xuống. Bằng lên nói nhỏ vào tai  Xuân Diệu: “Qúa  giờ khai mạc rồi, mời bác nghỉ thôi!”. Chẳng biết Xuân Diệu có nghe rõ  không, vẫn cầm Micro bình thơ.
Một tình huống xảy ra làm mọi người ngỡ ngàng. Ông Tư Nguyện đứng dậy,  xăm xăm bước lên sân khấu, giật phắt chiếc Micro trong tay nhà thơ Xuân  Diệu. Rồi ông tuyên bố khai mạc Hội nghị tổng kết. Nhà thơ Xuân Diệu lủi  lũi bước xuống, không có tiếng vỗ tay nào.
Chúng tôi tưởng Xuân Diệu tự ái, nhưng không, ông vẫn ở lại ăn uống thoải mái và nhận phần quà rồi mới về.
Xuân Diệu là một người như vậy. Ngoài làm thơ ông coi diễn thuyết là một  cái nghề. Nhà văn Tô Hoài đã viết trong “Cát bụi chân ai” như vầy:  “Xuân Diệu hay đi nói chuyện thơ. Xuân Diệu có kế hoạch chăm chút bảy  tám bài, nói khắp nước cũng ‘tủ’ ấy. Đã trau dồi đến thuộc làu, chỗ nào  giơ tay, chỗ nào nghiêng phải, nghiêng trái, lên giọng nhấn mạnh, chỗ  nào đợi vỗ tay, đợi cười và mình mỉn cười!”.
Trong bảy, tám bài tủ của  Xuân Diệu, ngoài ca ngợi Hồ Chí Minh, là nịnh  Tố Hữu và các quan chức lớn của đảng. Xuất thân từ phong trào thơ mới,  là thành viên trong  nhóm “Tự lực văn đoàn”, từng được Hoài Thanh ca  ngợi là “Ông hoàng của thơ tình”, Xuân Diệu đoạn tuyệt quá khứ theo cách  mạng, nên phải “lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa” như Chế  Lan Viên đã suy ngẫm. Xuân Diệu đã nâng tài nịnh hót thành nghệ thuật  ngang với nghệ thuật làm thơ tình lãng mạn của ông để lấy lòng lãnh đạo,  hưởng bổng lộc.
![]()  | 
        
| Xuân Diệu | 
Trong tư liệu về phong trào “Nhân văn - Giai phẩm”, mọt nhóm tác giả đã   nhận xét về Xuân Diệu: “Nhà thơ đã lợi dụng uy tín cá nhân của mình, và  khai thác các mối quan hệ có quyền hành trong đảng ...”. Còn nhả thơ  Nguyễn Bính thì khẳng định: “ Xuân Diệu và Huy Cận là một đôi đầy quyền  lực trong lãnh vực văn hóa văn nghệ!”.
Lợi lộc mà Xuân Diệu giành được rất nhiều, xin chỉ đơn cử vài thứ làm  bằng chứng: Tập thơ Ngôi Sao của ông theo đánh giá của nhiểu nhà phê  bình rất nhiều khiếm khuyết,  ông đã ép Nhà xuất bản Văn nghệ phải in  sớm để dự thi.  Và trong đợt xét giải thưởng văn học 1954-1955, ông  trong Ban giám khảo, đã đưa tác phẩm của mình vào, tự chấm giải cho  mình.
Trong những năm tháng phong trảo “Nhân văn - Giai phẩm” bị đàn áp, số  phân nhiều văn nghệ sỹ bị đồn vào đường cùng, như nhà văn Phùng Quán nhớ  lại: “Bao nhiêu cuộc đời bị rạn vỡ, bị ruồng bỏ, và bị lưu đày” thì   Xuân Diệu hơn  hớn  hưởng hạnh phúc.
Ông được cấp nhà cao cửa rộng, phiếu thực phẩm Vân Hồ, và hường chế độ ưu tiên cán bộ trung cao.
Ngày ngày sau giờ làm việc, Xuân Diệu đạp xe đến cuối đường Bà Triệu,  nơi có những hàng dạ lan hương thơm lừng cà một góc phố, gửi hồn vào  những vần thơ tình  cho một người con gái ông đang yêu:
“Tôi cầm mùi dạ lan hương.
Trong tay đi đến người thương cách trùng.
Dạ lan thơm nức lạ lùng.
Tưởng như đi mãi không cùng mùi hương!”
Trong tay đi đến người thương cách trùng.
Dạ lan thơm nức lạ lùng.
Tưởng như đi mãi không cùng mùi hương!”
Dù đã 40 tuổi,và mang ‘thuộc tính BĐ”, bất lực trong quan hệ nam nữ, ông  vẫn tham cái hạnh phúc trời không cho mình hưởng. Sự tham lam ấy đã  được  một quan chức cao cấp, ông  Hoàng Tùng , Tổng biên tập báo Nhân  Dân, nhiệt tình khuyến khích và giúp đỡ . Và ông đã  cưới  một cô gái  trẻ đẹp là phóng viên của báo Nhân Dân làm vợ. Để rồi làm người con gái  ấy phải qua một đời chồng chỉ trong vóng 6 tháng!
Ngày đó đi nước ngoài khó hơn lên trời. Nhưng Xuân Diệu cắp cặp đi liên  tục. Những  “Ký sự nước Hung 1959”, “Ký sự Triểu Tiên 1960” đều là kết  quả của những chuyến công du nước ngoài. Liên Xô, Trung Quốc, Tiệp khắc,  nơi náo ông cũng được đi.
Các nhà văn nhà thơ khác, lên kế hoạch ba, bốn năm chưa chắc được in  chung một tác phẩm, Xuân Diệu viêt tác phẩm nào in ngay tác phẩm đó. “Ba  thi hào dân tộc” 1959, “Riêng chung” 1960, ”Phê bình giới thiệu  thơ”1960, “Một khối hồng”...
Nhờ nịnh hót mà Xuân Diệu được chức, được quyền, được, tiền , được tình.
Nếu Xuân Diệu nịnh hót  chỉ để kiếm  chút bổng lộc như vậy, dù không hay   ho, cũng không đáng trách. Đằng này ông lại vào hùa đánh anh em bạn bè  đồng nghiệp.
Đầu năm 1955, giới cầm bút lăn lộn trong rừng vể , sôi nổi phê bình tập  thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Trong khi Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Tử Phác chê tập  Việt Bắc ít vốn sống thực tế, nghệ thuật chưa phong phú, không đột phá  vào một khía cạnh nào của tâm hồn thật sắc bén, thì Xuân Diệu khen hết  lời. Ông viết: “Mới chỉ nhìn qua , đó chỉ là một bìa sách sáng tươi,  trang nhã giữa bao nhiêu bìa sách khác,nhưng tập sách gọn gàng kia quả  là đánh dấu một việc lớn của văn chương nước Việt Nam”.
Xuân Diệu ca ngợi Tố Hữu: “ Một nhà thơ con đẻ của cách mạng, lớn lên  với cách mạng, và là kết tinh của cách mạng”. Ông cho rằng Tố Hữu đã mở  lối dẫn dắt cả một thế hệ nhà văn, nhà thơ Việt Nam thoát ra khỏi vũng  lầy tăm tối: “Trong khi các nhà thơ đắm chìm trong phong trào “thơ mới”  mơ mộng, than khóc, u sầu, Tố Hữu đã đi tiên phong hát những bài ca  tranh đấu!”.
Một trong những bài thơ tranh luận gay gắt nhất là bài “Đời đời nhớ ông”.
Trong khi Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Yến cùng cho rằng Tố Hữu thương vay  khóc mướn, và bi lụy hóa tình cảm cùa nhân dân Việt Nam trước cái chết  cùa Stalin, thì Xuân Diệu viết: “Sitalin mất, những dòng nước mắt của  nhân dân ta đã chảy thành những câu thơ “Đời đời nhớ ông” của Tố Hữu”.
Xuân Diệu ca theo Hoài Việt: “Thật là vinh dự cho những kẻ cầm bút chúng  ta. Vinh dự vì đã có một Tố Hữu. Tôi đọc ký sự Ngụy Nguy, thấy chỉ  trong chế độ của chúng ta mới có những văn nghệ sỹ ưu tú như thế!”.
Bài diễn thuyết của Xuân Diệu nổi bật trong cuộc tranh luận, củng cố  niềm tin vũng chắc  vị trí giải nhất tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu , đồng  thời tố cáo những “quan điểm lệch lạc” của một số đồng nghiệp. Trần Dần,  Tử Phác bị giam ba tháng để kiểm điềm trong cuộc phê bình đó.
Trung Quốc nổ ra phong trảo: “Bách hoa vận động” (Trăm hoa đua nở), và  bầu không khí cởi mở từ Trung Quốc  đã tràn sang Việt Nam. Những văn  nghệ sỹ  trong nhóm nhân văn  như Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt,  Phùng Cung, Hoàng Cấm...phấn khởi, cho tái bản Giai phẩm mùa Xuân, rồi  cho ra đời Giai phẩm mùa Thu, Giai phẩm mùa Đông và báo Nhân Văn .
Nhà thơ Trần Dần cho đăng bài  “Nhất định thắng” với những câu thơ đa nghĩa :
 “Tôi đi giữa trời mưa đất Băc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
máu nhỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
Hoăc:
“Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
chỉ thấy mưa sa
trên nền cờ đỏ!”
Và Lê Đạt có những câu thơ nhạy cảm:
“Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một dãy bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại!”
Hay:
“Nhưng đem bục công an
đặt giữa tim người
bắt tình cảm ngược xuôi
theo luật lệ đi đường nhà nước!”
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
máu nhỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
Hoăc:
“Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
chỉ thấy mưa sa
trên nền cờ đỏ!”
Và Lê Đạt có những câu thơ nhạy cảm:
“Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một dãy bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại!”
Hay:
“Nhưng đem bục công an
đặt giữa tim người
bắt tình cảm ngược xuôi
theo luật lệ đi đường nhà nước!”
Văn nghệ sỹ cả nước mửng rỡ, cứ tưởng được cởi trói. Nhưng đó là lần  mừng hụt phải trả giá đau đớn nhất của họ. Cái gọi là “Bách hoa vận  động”, Mao Trạch Đông cho dấy lên ở Trung Quốc lả cái để lừa phe tạo  phản. Khi bọn Tào Ngu, Tề Bạch Chính lộ mặt, lập tức cái bẫy của Mao sập  xuống, dìm vào bể máu.
Tác động dây chuyền sang Việt Nam, Huy Cận, người bạn thân  nhất của  Xuân Diệu được cử sang Trung Quốc học tập kinh nghiệm về áp dụng dẹp  nhóm “Nhân văn - Giai phẩm”.
Liên tiếp các cuộc kiểm điểm, đấu tố được tổ chức ở Thái Hà ấp, rồi  những bài báo lên án “ Nhân văn - Giai phẩm” được đăng trên các tờ báo,  đài phát thanh,  những cuộc mít tinh của quần chúng phản đối “ bọn phản  động  Nhân văn - Giai phẩm” rầm rộ, và công nhân nhà in tổ chức bãi công  không in báo Nhân Văn.
Khi “Trăm hoa” đang  “đua nở” , Xuân Diệu tạm nằm yên ít lâu chờ thời,  giờ ông lại vùng dậy múa gươm chém xối xả. Trong số 30 bài báo tập trung  đánh nhóm “Nhân văn - Giai phẩm”,  tờ  Văn Nghệ của Hội nhà văn, do  Xuân Diệu làm biên tập chính, đăng liên tiếp 6 bài trong 12 số báo, cứ  hai số một bài. Những bài báo sắc lẻm như lưỡi dao chém thẳng vào những  người từng là bạn bè như  Quang Dũng, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm,  Văn Cao, Đặng Đình Hưng...
“Xuân Diệu cho đăng những bài báo theo sự chỉ đạo trực tiếp của anh Lành. Có bài anh Lãnh trực tiếp sửa tứng câu!”.
Năm 1996, nói chuyện với Nhật Hoa Khanh ở biệt thự 76 Phan Đình Phùng,  Hà Nội, nhà thơ Tố Hữu - anh Lành - khi đã hết quyền hành, tâm sự: “Tôi  đặc biệt cảm ơn nghệ sỹ Hoàng Cầm về những lời phê bình sắc sảo, chính  xác và chân thực của anh bốn mươi năm trước”. “Tôi khâm phục tài năng và  ý chí của nghệ sỹ Đặng Đình Hưng, đối với tôi cuộc đời anh Hưng là một  bài giảng cao cấp về niềm tin ở sự thật!”; “Văn Cao là một trong những  nhạc sỹ lớn nhất!”; “Quang Dũng là một trong những cánh chim đầu đàn của  nền thơ cách mạng Việt Nam thề kỷ 20, sau Quang Dũng là Hoàng Cầm, Trần  Dần, cũng là cây bút hạng nặng. Ngoài ra còn phải kể thêm Hữu Loan, Lê  Đạt, Phùng Quán là ba nhà thơ,  ba vẻ khác nhau, nhưng cũng sắc sảo,  nóng bỏng tính chiến đấu không kém phần lãng mạn. Nhà văn Phùng cung  cũng cần phải được minh oan với truyện ngắn “Con ngựa già của Chúa  Trịnh” , không có ẩn ý gì xấu như bốn mươi năm trước đã bị một số người  lầm tường”…
Người ta bảo: “Tố Hữu là kẻ muối mặt nói dối không biết ngượng”.
Ngày ấy, không ai khác mà chính là Trường Chinh và Tố Hữu ra tay đánh  “Nhân văn - Giai phẩm”. Chủ trương đánh rất bài bản, theo cách đánh của  Mao Trạch Đông, chứ không “lầm tưởng” như ông nói. Trường Chinh đánh vì  mục đích chung, Tố Hữu còn vì “trả thù những người chê thơ mình, và  không muốn nhà thơ nào làm thơ hay hơn mình” .  Tố Hữu đã kết tội nhóm  “Nhân văn - Giai phẩm” là: “Chúng vu khống Đảng ta là chủ nghĩa phong  kiến, là phi dân chủ, chúng muốn lật đổ chính quyền cách mạng của chúng  ta!” và  kêu gọi: “Lấy đường lối văn nghệ của Đảng lao động Việt Nam làm  vũ khí chiến đấu, giới văn nghệ chúng ta hãy tiến lên tiêu diệt tận gốc  đường lối văn nghệ phản động của nhóm ‘Nhân văn - Giai phẩm”.
Theo lệnh Tố Hữu, Xuân Diệu xông lên, lấy diễn đàn làm trận địa, Micro  làm vũ khí, trổ tài hùng biện của mình, tiêu diệt tận gốc nhóm “Nhân văn  – Giai phẩm”.
Trên diễn đàn Xuân Diệu phê phán:“Những tác phẩm mắc bệnh sơ lược”. Ông  nói: “Nhưng tác phẩm đó đã gây tác hại là làm cho người ta hiểu sai thực  tế, tưởng cách mạng toàn tô hồng, gây chủ quan và thiếu lý tưởng” . Ông  đổ  tội cho nhóm “Nhân văn - Giai phẩm” : … “ Họ cho rằng bệnh sơ lược  là do bản chất cùa nền văn học mới của chúng ta, cũng như nói tệ sùng  bái cá nhân là bản chất của chế độ Xô Viết. Họ gián tiếp muốn nói rằng,  Đảng lãnh đạo nhúng tay vào văn học nên văn học mới mắc bệnh sơ lược như  thế này, nếu cứ để văn nghệ sỹ hoàn toàn tự do thì văn nghệ đã vô cùng  phong phú!”…
Xuân Diệu cho rằng nhóm “Nhân văn- Giai phẩm” đòi hỏi sự thật là một  cách ngụy biện, đi ngược lại đường lối văn hóa văn nghệ của đảng mà Tố  Hữu đã trình bày. Nói cách khác đó là muốn bôi đen chống đảng.
Xuân Diệu lại múa may, quay cuồng, trên sân khấu Nhà hát lớn, hùng hồn  nói về “sự thật” như sau: “Chúng ta nói những sự thật là có một mục  đích, mục đích làm công tác tư tưởng bằng văn học. Nên ta không phải là  cầm cái máy ảnh tốt  rồi bất cứ cái gì cũng chụp ảnh, cũng in ra. Chúng  ta không hoàn toàn theo chủ nghĩa thành thật. Vì chủ nghĩa đó chỉ đúng  có một nửa. Nhất định những thơ văn nào chúng ta viết ra đều là tâm  huyết của ta, đều là thiết tha,  thành thật với đảng, với Bác Hồ ...” .
Xuân Diệu kịch liệt phê phán tác các tác phẩm: “Tiếng sáo tiền kiếp” của  Trần Duy, “Một trò chơi nguy hiểm” của Nguyễn Thành Long, đặc biệt lên  án “Nhất định thắng” của Trần Dần; “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” Lê  Đạt,  “Vượt Côn Đảo” của Phùng Quán, “Những đồi hoa sim” của Hữu Loan.
Một mình một diễn đàn, không ai có quyền tranh cãi với Xuân Diệu. Xuân Diệu hả hê nói, hả hê cười, hả hê  chiến thắng.
Lần lượt những trí thức, văn nghệ sỹ nổi tiếng như: Trần Đức Thảo,  Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán,   Trần Lê Văn, Hữu Loan, Trần Duy, Trương Tửu, Bùi Quang Đoài, Trần Công,  Tử Phác, Hoàng Huế, Thụy An, Nguyễn Sáng, Sỹ Ngọc, Nguyễn Viết Lãm, Tất  Vinh, Nguyễn Văn Tỵ, Văn Cao, Nguyễn Bính ...bị mất việc, cấm viết, tù  đày .
Giữa lúc bạn bè cũ bị ruồng bỏ như vậy, Xuân Diệu được bầu làm Uỷ viên  Ban thường vụ Hội liên hiệp Văn học - Nghệ thuật Việt Nan, ông cùng  Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh nổi lên như ba ngọn núi trí thức lớn đầy  quyền lực.
Xuân Diệu là một ông Hoàng thơ tình, nhưng ông Hoàng ấy đã chết từ trước  Cách mạng tháng Tám 1945. Từ đó chỉ còn lại một Xuân Diệu hồn thơ nhạt,  tứ thơ gượng ép lỏng lẻo. Thay vào chỗ khiếm khuyết của thơ, ông nổi  lên tài hùng biện nịnh bợ.
Xuân Diệu không hề biết ngượng khi bị ông Tư Nguyện giật chiếc Micro  trên sân khẩu tại Hội nghị tổng kết của công ty cao su Dầu Tiếng ngày  nào, vì sau đó ông vẫn vui vẻ nhận phần quà. Về cuối đời, Xuân Diệu có  gì như tự nhận diện, như sám hối, như thật vơi slòng mình hơn. Trong bài  Đa tình, ông viết:
 ... Trong cõi lạnh lan đi bao ấm nóng
Giữa hồn thường thắm thiết một ma thơ
Đem nhớ nhung an ủi dưới trăng mờ
Và trong gió phất phơ đi có bạn …
Kẻ đa tình không cần đủ thịt da
Khi chết rồi, thì tôi sẽ yêu ma ....
Giữa hồn thường thắm thiết một ma thơ
Đem nhớ nhung an ủi dưới trăng mờ
Và trong gió phất phơ đi có bạn …
Kẻ đa tình không cần đủ thịt da
Khi chết rồi, thì tôi sẽ yêu ma ....
Phải chăng bầu bạn ông đông, ông không hề lẻ loi, như ông viết:
 “Hồn đông lắm tôi sợ gì cô độc!
Ma với nhau thì ôm ấp cùng nhau!”
Ma với nhau thì ôm ấp cùng nhau!”
14-8-2013
Minh Diện
(Blog Bùi Văn Bồng)
            Xuân Diệu: "Ma với nhau..."
                Cuối năm 1983, Công ty cao su Dầu Tiếng tổ chức Hội nghị tổng kết cuối năm. Năm ấy phân u-re được Liên Xô cấp, mủ cao su được Liên Xô bao tiêu
            
            Cuối năm 1983, Công ty cao su Dầu Tiếng tổ chức Hội nghị tổng kết cuối  năm. Năm ấy phân u-re được  Liên Xô cấp, mủ cao su được Liên Xô bao  tiêu, công ty này trở thành điển hình tiên tiến toàn ngành, nên tổ chức  Hội nghị tổng kết to. Trưởng phòng thi đua - tuyên truyền Nguyễn Hữu  Bằng lên Sài Gòn mời nhà báo, miệng  bô bô: “Ngoài đánh chén, còn có một  sấp vải  Seviot  may quần, một sấp vải KT may áo, một kg bột ngọt và  một phong bì 50 đồng  nghe!”.  Món quà đó ngày ấy bằng hai tháng lương  chuyên viên một của tôi, hơn nữa  có tiền chưa chắc đã mua được vải  Seviot, KT, bột ngọt theo tiêu chuẩn phân phối .
Cánh phóng viên bàn tán lao xao trong khuôn viên Câu lạc bộ Hội nhà văn  thành phố ở đường Trần Quốc Thảo, và đến tai nhà thơ Xuân Diệu đang uống  cà phê sáng tại đó. Ông vào Sài Gòn cùng giáo sư Hoàng Như Mai tổ chức  ‘sô’ nói chuyện thơ, nhưng ế lắm. Nhà thơ Xuân Diệu vẫy Trưởng phòng  Nguyễn Hữu Bằng tới, bảo cho ông một suất dự Hội nghị tổng kết cuối năm  với công ty. Anh chàng Trưởng phòng tuyên truyền hơi lưỡng lự, nhưng rồi  mở cặp, lấy tờ  giấy mời viết, đưa cho Xuân Diệu. Mấy nhà báo chúng tôi  được vinh dự tháp tùng nhà thơ  lớn nổi tiếng, rất hãnh diện.
Một phó giám đốc thay mặt công ty đón tiếp chúng tôi, phát cho mỗi người  một  bản tổng kết thành tích dày cộp, đựng trong túi  với tờ lịch của  công ty. Nhà thơ Xuân Diệu cầm chiếc túi xăm soi,  rồi hỏi  :
- Thế quà đâu?
Anh Bằng nói:
- Qùa sẽ đưa sau ạ!
Chúng tôi nhìn nhau ngượng đỏ mặt. Không ngờ nhà thơ tình nổi tiếng lãng mạn lại hiện thực xã hội chủ nghĩa như vậy.
Hội trường trang trí rất đẹp, có hoa tươi, sân khấu, loa phóng thanh đầy  đủ. Đại diện lãnh đạo tỉnh Sông Bé, Đồng Nai, Tây Ninh, huyện Dầu Tiếng  và các ban ngảnh Tổng cục cao su cùng hàng trăm lao động tiên tiến của  công ty ngồi kín các hàng ghế. Trong khi chờ đợi khai mạc Hội nghị, anh  Bằng trân trọng giới thiệu nhà thơ Xuân Diệu lên đọc thơ. Bằng nói rất  rõ là đọc những bài thơ tình tuyệt tác!   Một tràng pháo tay rất dài, có  ngưới đứng lên để nhìn cho rõ nhà thơ Xuân Diệu nổi tiếng.
Nhà thơ Xuân Diệu mặt bộ véc cũ, không thắt Caravate, đeo kính dâm, tóc  xòa kín cổ bước lên sân khấu ngẩng mặt, nghiêng người đón tràng pháo  tay, rồi cầm Micro, nói giọng trầm, bổng:
- Dân tộc Việt Nam đã sinh ra một Nguyễn Du ,để  rồi: “Bất tri tam bách  dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân kháp Tố Như!”.  Không, hôm nay tôi không   nhỏ lệ vì cuộc đời trăm năm rách nát với văn chương ấy, mà cùng mọi  người cất tiếng hát, tiếng reo vui  giữa rừng thơ Tố Hữu...
Xuân Diệu ngả người chờ tiếng vỗ tay. Tiếng vỗ ran lên, ông mỉm cười đón  nhận. Chờ tiếng vỗ tay đứt, và mọi  mọi người yên lặng , ông cất tiếng   đọc bài thơ “Cá nước”, với chất giọng sang sảng. Tiếp theo là bài thơ “  Sáng tháng năm”
Bọn tôi cứ tưởng Xuân Diệu đọc mấy bài thơ của Tố Hữu và mấy bài thơ của  mình rồi nhường sấn khấu để khai mạc hội nghị, nào ngờ ông thao thao  bất tuyệt phân tích tính đảng, tính quần chúng, tính hiện thực xã hội  chủ nghĩa, tính nghệ thuật trong  thơ.  Cái đầu ông lắc lư, hai tay vung  vẩy, hai chân nhún nhẩy, như nhập đồng.
Chín giờ, rồi chín  giờ ba mươi, ông vẫn nói. Hai mép đùn ra hai cục bọt trắng như bọt xà phòng.
Ông Tư Nguyện, nguyên Bí thư tỉnh ủy Sông Bé thời chiến tranh, lúc đó  làm Tổng cục trưởng cao su, ngồi  trên hàng ghế đầu nhập nhổm như bị  kiến cắn! Cái trán hói bóng lưỡng  đỏ tía lên. Ông  đã không hài lòng  khi anh Bằng tự tiện làm cái việc trái khoáy mời nhà thơ bình thơ trong  Hội nghị tổng kết, giờ  thấy  nhà thơ  Xuân Diệu chiếm sân khấu nói  tràng giang đại hải, nên rất bực. Nhà báo Phạm Lân thấy bất ổn, nháy  Bằng lên mời Xuân Diệu xuống. Bằng lên nói nhỏ vào tai  Xuân Diệu: “Qúa  giờ khai mạc rồi, mời bác nghỉ thôi!”. Chẳng biết Xuân Diệu có nghe rõ  không, vẫn cầm Micro bình thơ.
Một tình huống xảy ra làm mọi người ngỡ ngàng. Ông Tư Nguyện đứng dậy,  xăm xăm bước lên sân khấu, giật phắt chiếc Micro trong tay nhà thơ Xuân  Diệu. Rồi ông tuyên bố khai mạc Hội nghị tổng kết. Nhà thơ Xuân Diệu lủi  lũi bước xuống, không có tiếng vỗ tay nào.
Chúng tôi tưởng Xuân Diệu tự ái, nhưng không, ông vẫn ở lại ăn uống thoải mái và nhận phần quà rồi mới về.
Xuân Diệu là một người như vậy. Ngoài làm thơ ông coi diễn thuyết là một  cái nghề. Nhà văn Tô Hoài đã viết trong “Cát bụi chân ai” như vầy:  “Xuân Diệu hay đi nói chuyện thơ. Xuân Diệu có kế hoạch chăm chút bảy  tám bài, nói khắp nước cũng ‘tủ’ ấy. Đã trau dồi đến thuộc làu, chỗ nào  giơ tay, chỗ nào nghiêng phải, nghiêng trái, lên giọng nhấn mạnh, chỗ  nào đợi vỗ tay, đợi cười và mình mỉn cười!”.
Trong bảy, tám bài tủ của  Xuân Diệu, ngoài ca ngợi Hồ Chí Minh, là nịnh  Tố Hữu và các quan chức lớn của đảng. Xuất thân từ phong trào thơ mới,  là thành viên trong  nhóm “Tự lực văn đoàn”, từng được Hoài Thanh ca  ngợi là “Ông hoàng của thơ tình”, Xuân Diệu đoạn tuyệt quá khứ theo cách  mạng, nên phải “lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa” như Chế  Lan Viên đã suy ngẫm. Xuân Diệu đã nâng tài nịnh hót thành nghệ thuật  ngang với nghệ thuật làm thơ tình lãng mạn của ông để lấy lòng lãnh đạo,  hưởng bổng lộc.
![]()  | 
        
| Xuân Diệu | 
Trong tư liệu về phong trào “Nhân văn - Giai phẩm”, mọt nhóm tác giả đã   nhận xét về Xuân Diệu: “Nhà thơ đã lợi dụng uy tín cá nhân của mình, và  khai thác các mối quan hệ có quyền hành trong đảng ...”. Còn nhả thơ  Nguyễn Bính thì khẳng định: “ Xuân Diệu và Huy Cận là một đôi đầy quyền  lực trong lãnh vực văn hóa văn nghệ!”.
Lợi lộc mà Xuân Diệu giành được rất nhiều, xin chỉ đơn cử vài thứ làm  bằng chứng: Tập thơ Ngôi Sao của ông theo đánh giá của nhiểu nhà phê  bình rất nhiều khiếm khuyết,  ông đã ép Nhà xuất bản Văn nghệ phải in  sớm để dự thi.  Và trong đợt xét giải thưởng văn học 1954-1955, ông  trong Ban giám khảo, đã đưa tác phẩm của mình vào, tự chấm giải cho  mình.
Trong những năm tháng phong trảo “Nhân văn - Giai phẩm” bị đàn áp, số  phân nhiều văn nghệ sỹ bị đồn vào đường cùng, như nhà văn Phùng Quán nhớ  lại: “Bao nhiêu cuộc đời bị rạn vỡ, bị ruồng bỏ, và bị lưu đày” thì   Xuân Diệu hơn  hớn  hưởng hạnh phúc.
Ông được cấp nhà cao cửa rộng, phiếu thực phẩm Vân Hồ, và hường chế độ ưu tiên cán bộ trung cao.
Ngày ngày sau giờ làm việc, Xuân Diệu đạp xe đến cuối đường Bà Triệu,  nơi có những hàng dạ lan hương thơm lừng cà một góc phố, gửi hồn vào  những vần thơ tình  cho một người con gái ông đang yêu:
“Tôi cầm mùi dạ lan hương.
Trong tay đi đến người thương cách trùng.
Dạ lan thơm nức lạ lùng.
Tưởng như đi mãi không cùng mùi hương!”
Trong tay đi đến người thương cách trùng.
Dạ lan thơm nức lạ lùng.
Tưởng như đi mãi không cùng mùi hương!”
Dù đã 40 tuổi,và mang ‘thuộc tính BĐ”, bất lực trong quan hệ nam nữ, ông  vẫn tham cái hạnh phúc trời không cho mình hưởng. Sự tham lam ấy đã  được  một quan chức cao cấp, ông  Hoàng Tùng , Tổng biên tập báo Nhân  Dân, nhiệt tình khuyến khích và giúp đỡ . Và ông đã  cưới  một cô gái  trẻ đẹp là phóng viên của báo Nhân Dân làm vợ. Để rồi làm người con gái  ấy phải qua một đời chồng chỉ trong vóng 6 tháng!
Ngày đó đi nước ngoài khó hơn lên trời. Nhưng Xuân Diệu cắp cặp đi liên  tục. Những  “Ký sự nước Hung 1959”, “Ký sự Triểu Tiên 1960” đều là kết  quả của những chuyến công du nước ngoài. Liên Xô, Trung Quốc, Tiệp khắc,  nơi náo ông cũng được đi.
Các nhà văn nhà thơ khác, lên kế hoạch ba, bốn năm chưa chắc được in  chung một tác phẩm, Xuân Diệu viêt tác phẩm nào in ngay tác phẩm đó. “Ba  thi hào dân tộc” 1959, “Riêng chung” 1960, ”Phê bình giới thiệu  thơ”1960, “Một khối hồng”...
Nhờ nịnh hót mà Xuân Diệu được chức, được quyền, được, tiền , được tình.
Nếu Xuân Diệu nịnh hót  chỉ để kiếm  chút bổng lộc như vậy, dù không hay   ho, cũng không đáng trách. Đằng này ông lại vào hùa đánh anh em bạn bè  đồng nghiệp.
Đầu năm 1955, giới cầm bút lăn lộn trong rừng vể , sôi nổi phê bình tập  thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Trong khi Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Tử Phác chê tập  Việt Bắc ít vốn sống thực tế, nghệ thuật chưa phong phú, không đột phá  vào một khía cạnh nào của tâm hồn thật sắc bén, thì Xuân Diệu khen hết  lời. Ông viết: “Mới chỉ nhìn qua , đó chỉ là một bìa sách sáng tươi,  trang nhã giữa bao nhiêu bìa sách khác,nhưng tập sách gọn gàng kia quả  là đánh dấu một việc lớn của văn chương nước Việt Nam”.
Xuân Diệu ca ngợi Tố Hữu: “ Một nhà thơ con đẻ của cách mạng, lớn lên  với cách mạng, và là kết tinh của cách mạng”. Ông cho rằng Tố Hữu đã mở  lối dẫn dắt cả một thế hệ nhà văn, nhà thơ Việt Nam thoát ra khỏi vũng  lầy tăm tối: “Trong khi các nhà thơ đắm chìm trong phong trào “thơ mới”  mơ mộng, than khóc, u sầu, Tố Hữu đã đi tiên phong hát những bài ca  tranh đấu!”.
Một trong những bài thơ tranh luận gay gắt nhất là bài “Đời đời nhớ ông”.
Trong khi Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Yến cùng cho rằng Tố Hữu thương vay  khóc mướn, và bi lụy hóa tình cảm cùa nhân dân Việt Nam trước cái chết  cùa Stalin, thì Xuân Diệu viết: “Sitalin mất, những dòng nước mắt của  nhân dân ta đã chảy thành những câu thơ “Đời đời nhớ ông” của Tố Hữu”.
Xuân Diệu ca theo Hoài Việt: “Thật là vinh dự cho những kẻ cầm bút chúng  ta. Vinh dự vì đã có một Tố Hữu. Tôi đọc ký sự Ngụy Nguy, thấy chỉ  trong chế độ của chúng ta mới có những văn nghệ sỹ ưu tú như thế!”.
Bài diễn thuyết của Xuân Diệu nổi bật trong cuộc tranh luận, củng cố  niềm tin vũng chắc  vị trí giải nhất tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu , đồng  thời tố cáo những “quan điểm lệch lạc” của một số đồng nghiệp. Trần Dần,  Tử Phác bị giam ba tháng để kiểm điềm trong cuộc phê bình đó.
Trung Quốc nổ ra phong trảo: “Bách hoa vận động” (Trăm hoa đua nở), và  bầu không khí cởi mở từ Trung Quốc  đã tràn sang Việt Nam. Những văn  nghệ sỹ  trong nhóm nhân văn  như Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt,  Phùng Cung, Hoàng Cấm...phấn khởi, cho tái bản Giai phẩm mùa Xuân, rồi  cho ra đời Giai phẩm mùa Thu, Giai phẩm mùa Đông và báo Nhân Văn .
Nhà thơ Trần Dần cho đăng bài  “Nhất định thắng” với những câu thơ đa nghĩa :
 “Tôi đi giữa trời mưa đất Băc
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
máu nhỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
Hoăc:
“Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
chỉ thấy mưa sa
trên nền cờ đỏ!”
Và Lê Đạt có những câu thơ nhạy cảm:
“Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một dãy bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại!”
Hay:
“Nhưng đem bục công an
đặt giữa tim người
bắt tình cảm ngược xuôi
theo luật lệ đi đường nhà nước!”
Đất hôm nay tầm tã mưa phùn
Bỗng nhói ngang lưng
máu nhỏ xuống bùn
Lưng tôi có tên nào chém trộm?
Hoăc:
“Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
chỉ thấy mưa sa
trên nền cờ đỏ!”
Và Lê Đạt có những câu thơ nhạy cảm:
“Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một dãy bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại!”
Hay:
“Nhưng đem bục công an
đặt giữa tim người
bắt tình cảm ngược xuôi
theo luật lệ đi đường nhà nước!”
Văn nghệ sỹ cả nước mửng rỡ, cứ tưởng được cởi trói. Nhưng đó là lần  mừng hụt phải trả giá đau đớn nhất của họ. Cái gọi là “Bách hoa vận  động”, Mao Trạch Đông cho dấy lên ở Trung Quốc lả cái để lừa phe tạo  phản. Khi bọn Tào Ngu, Tề Bạch Chính lộ mặt, lập tức cái bẫy của Mao sập  xuống, dìm vào bể máu.
Tác động dây chuyền sang Việt Nam, Huy Cận, người bạn thân  nhất của  Xuân Diệu được cử sang Trung Quốc học tập kinh nghiệm về áp dụng dẹp  nhóm “Nhân văn - Giai phẩm”.
Liên tiếp các cuộc kiểm điểm, đấu tố được tổ chức ở Thái Hà ấp, rồi  những bài báo lên án “ Nhân văn - Giai phẩm” được đăng trên các tờ báo,  đài phát thanh,  những cuộc mít tinh của quần chúng phản đối “ bọn phản  động  Nhân văn - Giai phẩm” rầm rộ, và công nhân nhà in tổ chức bãi công  không in báo Nhân Văn.
Khi “Trăm hoa” đang  “đua nở” , Xuân Diệu tạm nằm yên ít lâu chờ thời,  giờ ông lại vùng dậy múa gươm chém xối xả. Trong số 30 bài báo tập trung  đánh nhóm “Nhân văn - Giai phẩm”,  tờ  Văn Nghệ của Hội nhà văn, do  Xuân Diệu làm biên tập chính, đăng liên tiếp 6 bài trong 12 số báo, cứ  hai số một bài. Những bài báo sắc lẻm như lưỡi dao chém thẳng vào những  người từng là bạn bè như  Quang Dũng, Trần Dần, Phùng Quán, Hoàng Cầm,  Văn Cao, Đặng Đình Hưng...
“Xuân Diệu cho đăng những bài báo theo sự chỉ đạo trực tiếp của anh Lành. Có bài anh Lãnh trực tiếp sửa tứng câu!”.
Năm 1996, nói chuyện với Nhật Hoa Khanh ở biệt thự 76 Phan Đình Phùng,  Hà Nội, nhà thơ Tố Hữu - anh Lành - khi đã hết quyền hành, tâm sự: “Tôi  đặc biệt cảm ơn nghệ sỹ Hoàng Cầm về những lời phê bình sắc sảo, chính  xác và chân thực của anh bốn mươi năm trước”. “Tôi khâm phục tài năng và  ý chí của nghệ sỹ Đặng Đình Hưng, đối với tôi cuộc đời anh Hưng là một  bài giảng cao cấp về niềm tin ở sự thật!”; “Văn Cao là một trong những  nhạc sỹ lớn nhất!”; “Quang Dũng là một trong những cánh chim đầu đàn của  nền thơ cách mạng Việt Nam thề kỷ 20, sau Quang Dũng là Hoàng Cầm, Trần  Dần, cũng là cây bút hạng nặng. Ngoài ra còn phải kể thêm Hữu Loan, Lê  Đạt, Phùng Quán là ba nhà thơ,  ba vẻ khác nhau, nhưng cũng sắc sảo,  nóng bỏng tính chiến đấu không kém phần lãng mạn. Nhà văn Phùng cung  cũng cần phải được minh oan với truyện ngắn “Con ngựa già của Chúa  Trịnh” , không có ẩn ý gì xấu như bốn mươi năm trước đã bị một số người  lầm tường”…
Người ta bảo: “Tố Hữu là kẻ muối mặt nói dối không biết ngượng”.
Ngày ấy, không ai khác mà chính là Trường Chinh và Tố Hữu ra tay đánh  “Nhân văn - Giai phẩm”. Chủ trương đánh rất bài bản, theo cách đánh của  Mao Trạch Đông, chứ không “lầm tưởng” như ông nói. Trường Chinh đánh vì  mục đích chung, Tố Hữu còn vì “trả thù những người chê thơ mình, và  không muốn nhà thơ nào làm thơ hay hơn mình” .  Tố Hữu đã kết tội nhóm  “Nhân văn - Giai phẩm” là: “Chúng vu khống Đảng ta là chủ nghĩa phong  kiến, là phi dân chủ, chúng muốn lật đổ chính quyền cách mạng của chúng  ta!” và  kêu gọi: “Lấy đường lối văn nghệ của Đảng lao động Việt Nam làm  vũ khí chiến đấu, giới văn nghệ chúng ta hãy tiến lên tiêu diệt tận gốc  đường lối văn nghệ phản động của nhóm ‘Nhân văn - Giai phẩm”.
Theo lệnh Tố Hữu, Xuân Diệu xông lên, lấy diễn đàn làm trận địa, Micro  làm vũ khí, trổ tài hùng biện của mình, tiêu diệt tận gốc nhóm “Nhân văn  – Giai phẩm”.
Trên diễn đàn Xuân Diệu phê phán:“Những tác phẩm mắc bệnh sơ lược”. Ông  nói: “Nhưng tác phẩm đó đã gây tác hại là làm cho người ta hiểu sai thực  tế, tưởng cách mạng toàn tô hồng, gây chủ quan và thiếu lý tưởng” . Ông  đổ  tội cho nhóm “Nhân văn - Giai phẩm” : … “ Họ cho rằng bệnh sơ lược  là do bản chất cùa nền văn học mới của chúng ta, cũng như nói tệ sùng  bái cá nhân là bản chất của chế độ Xô Viết. Họ gián tiếp muốn nói rằng,  Đảng lãnh đạo nhúng tay vào văn học nên văn học mới mắc bệnh sơ lược như  thế này, nếu cứ để văn nghệ sỹ hoàn toàn tự do thì văn nghệ đã vô cùng  phong phú!”…
Xuân Diệu cho rằng nhóm “Nhân văn- Giai phẩm” đòi hỏi sự thật là một  cách ngụy biện, đi ngược lại đường lối văn hóa văn nghệ của đảng mà Tố  Hữu đã trình bày. Nói cách khác đó là muốn bôi đen chống đảng.
Xuân Diệu lại múa may, quay cuồng, trên sân khấu Nhà hát lớn, hùng hồn  nói về “sự thật” như sau: “Chúng ta nói những sự thật là có một mục  đích, mục đích làm công tác tư tưởng bằng văn học. Nên ta không phải là  cầm cái máy ảnh tốt  rồi bất cứ cái gì cũng chụp ảnh, cũng in ra. Chúng  ta không hoàn toàn theo chủ nghĩa thành thật. Vì chủ nghĩa đó chỉ đúng  có một nửa. Nhất định những thơ văn nào chúng ta viết ra đều là tâm  huyết của ta, đều là thiết tha,  thành thật với đảng, với Bác Hồ ...” .
Xuân Diệu kịch liệt phê phán tác các tác phẩm: “Tiếng sáo tiền kiếp” của  Trần Duy, “Một trò chơi nguy hiểm” của Nguyễn Thành Long, đặc biệt lên  án “Nhất định thắng” của Trần Dần; “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” Lê  Đạt,  “Vượt Côn Đảo” của Phùng Quán, “Những đồi hoa sim” của Hữu Loan.
Một mình một diễn đàn, không ai có quyền tranh cãi với Xuân Diệu. Xuân Diệu hả hê nói, hả hê cười, hả hê  chiến thắng.
Lần lượt những trí thức, văn nghệ sỹ nổi tiếng như: Trần Đức Thảo,  Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán,   Trần Lê Văn, Hữu Loan, Trần Duy, Trương Tửu, Bùi Quang Đoài, Trần Công,  Tử Phác, Hoàng Huế, Thụy An, Nguyễn Sáng, Sỹ Ngọc, Nguyễn Viết Lãm, Tất  Vinh, Nguyễn Văn Tỵ, Văn Cao, Nguyễn Bính ...bị mất việc, cấm viết, tù  đày .
Giữa lúc bạn bè cũ bị ruồng bỏ như vậy, Xuân Diệu được bầu làm Uỷ viên  Ban thường vụ Hội liên hiệp Văn học - Nghệ thuật Việt Nan, ông cùng  Nguyễn Đình Thi, Hoài Thanh nổi lên như ba ngọn núi trí thức lớn đầy  quyền lực.
Xuân Diệu là một ông Hoàng thơ tình, nhưng ông Hoàng ấy đã chết từ trước  Cách mạng tháng Tám 1945. Từ đó chỉ còn lại một Xuân Diệu hồn thơ nhạt,  tứ thơ gượng ép lỏng lẻo. Thay vào chỗ khiếm khuyết của thơ, ông nổi  lên tài hùng biện nịnh bợ.
Xuân Diệu không hề biết ngượng khi bị ông Tư Nguyện giật chiếc Micro  trên sân khẩu tại Hội nghị tổng kết của công ty cao su Dầu Tiếng ngày  nào, vì sau đó ông vẫn vui vẻ nhận phần quà. Về cuối đời, Xuân Diệu có  gì như tự nhận diện, như sám hối, như thật vơi slòng mình hơn. Trong bài  Đa tình, ông viết:
 ... Trong cõi lạnh lan đi bao ấm nóng
Giữa hồn thường thắm thiết một ma thơ
Đem nhớ nhung an ủi dưới trăng mờ
Và trong gió phất phơ đi có bạn …
Kẻ đa tình không cần đủ thịt da
Khi chết rồi, thì tôi sẽ yêu ma ....
Giữa hồn thường thắm thiết một ma thơ
Đem nhớ nhung an ủi dưới trăng mờ
Và trong gió phất phơ đi có bạn …
Kẻ đa tình không cần đủ thịt da
Khi chết rồi, thì tôi sẽ yêu ma ....
Phải chăng bầu bạn ông đông, ông không hề lẻ loi, như ông viết:
 “Hồn đông lắm tôi sợ gì cô độc!
Ma với nhau thì ôm ấp cùng nhau!”
Ma với nhau thì ôm ấp cùng nhau!”
14-8-2013
Minh Diện
(Blog Bùi Văn Bồng)
            
       

















