Khoa Học Thực Nghiệm & Tâm Linh
40 bí quyết giúp ”đi guốc trong bụng” người khác
1. Khuôn mặt
– Khi biểu cảm ở hai bên mặt không đối xứng: biểu cảm ấy thường là giả tạo.
– Người thích để lộ răng khi chụp ảnh: có tính cách cởi mở, đơn thuần.
– Thích chớp mắt: loại người này có bụng dạ hẹp hỏi, khó khiến người ta tin tưởng. Nếu thương lượng hoặc nhờ vả kiểu người này, tốt nhất là nên đi thẳng vào vấn đề.
– Thích dùng tay che nụ cười: mồm miệng kín kẽ, là một người đáng để nhờ vả những chuyện quan trọng.
– Dùng bàn tay che lông mày: bày tỏ sự xấu hổ, day dứt.
– Người có khuôn mặt hình tròn: kiểu mặt này vĩnh viễn không lộ tuổi, có thể gọi là gương mặt trẻ con, kiểu người có gương mặt này thường lạc quan, cởi mở, nho nhã lễ độ, dễ tiếp xúc, bởi vậy mối quan hệ với mọi người vô cùng tốt.
– Người có gương mặt dài, hình dạng gương mặt và ngũ quan tương đối lớn, đường nét gương mặt nhẹ nhàng, chín chắn: kiểu người này làm việc tương đối tự tin, ít để tâm đến cảm nhận của người khác.
– Người có mặt hình vuông, hình dạng gương mặt và cơ nhai ở cằm tương đối rõ ràng: kiểu người này đi đứng một mình, không a dua theo mọi người, có trí tuệ và khả năng quan sát nhạy bén, thậm chí có giác quan thứ sáu hơn người bình thường.
– Khi chóp mũi toát mồ hôi hột: chứng tỏ đối phương đang lo lắng hoặc căng thẳng.
– Lấy tay chống cằm: có ý đồ che đậy điểm yếu.
– Cằm rung mạnh: thể hiện đối phương đang tức giận.
– Biểu cảm kinh ngạc vượt quá một giây: là giả vờ kinh ngạc.
– Hung thủ thực sự khi nhìn thấy bức ảnh của người bị hại: sẽ thể hiện ra vẻ buồn nôn, khinh thường, thậm chí là sợ hãi, nhưng tuyệt đối không kinh ngạc.
– Mắt nhìn về bên trái: là đang nhớ lại.
– Mắt nhìn về bên phải: là đang suy xét lời nói dối.
– Khi cười giả tạo: khóe mắt không có nếp nhăn.
– Bĩu môi: là biểu cảm phạm lỗi kinh điển, hành vi này tiết lộ người nói không tự tin vào lời nói của mình.
2. Ngôn ngữ
– Người mở miệng là “nói thật”: có lẽ là người không thành thật nhất.
– Hai câu nói khiến người ta xa cách: Tôi đúng, bạn sai; Tôi là muốn tốt cho bạn.
Người nói hai câu này, thông thường tư tưởng không thông qua não.
– Một người càng khoe khoang cái gì, thì càng thiếu thốn cái đó. Một người càng che đậy cái gì, thì càng tự ti về cái đó.
– “Anh đến nhà cô ấy bao giờ chưa? Chưa, tôi chưa đến nhà cô ấy bao giờ”: sự nhắc lại không tự nhiên về câu hỏi là lời nói dối điển hình.
– “Cái này”, “cái đó”, “a”, “hả”, “ừm”: người thích sử dụng những câu cửa miệng này có thể chia làm hai loại: Loại 1, phản ứng tư duy tương đối chậm, khi họ nói chuyện tư duy không rõ ràng, nên thường dùng ngữ khí ngừng ngắt. Loại 2, kiểu người này lại hoàn toàn ngược lại, làm việc thận trọng, thâm sâu khó lường.
– Người nói dối thường có các động tác nhỏ như nghịch ngón tay, sờ tai, nhún vai. Ví dụ, trong mũi của nam giới có mô xốp, khi họ muốn che giấu điều gì, mũi sẽ bắt đầu ngứa, lúc này họ sẽ sờ mũi theo bản năng.
– Người thích nói những câu cửa miệng như “bạn nên”, “bạn bắt buộc phải”: đa phần đều tương đối cố chấp.
3. Hành vi
– Thông thường người không tin vào tình yêu sét đánh sẽ không tự tin lắm về diện mạo của bản thân.
– Người thích dùng não phải để suy nghĩ: khá nghèo.
– Cách tốt nhất để người khác thích bạn không phải là bạn đi giúp đỡ người khác, mà là để người khác giúp đỡ bạn.
– Người để món ăn mình yêu thích tới cuối cùng: yêu cầu đối với bản thân khá nghiêm khắc, làm việc yêu cầu sự hoàn mỹ, thích dựa theo tiến độ.
– Khi một người đàn ông cùng lúc có thiện cảm với hai cô gái, anh ta yêu ai hơn được quyết định bởi việc ai yêu anh ta ít hơn.
– Nếu đối phương bày tỏ sự khinh thường về lời chất vấn của bạn, thông thường lời chất vấn của bạn là sự thật.
4. Tư tưởng
– Phụ nữ thích khoác túi khoác chéo: thông thường nội nhu ngoại cương, bề ngoài tự tin, nội tâm không có cảm giác an toàn.
– Một người nói với bạn rằng “anh yêu em”, bạn cho anh ta một cái bạt tai, nếu anh ta vẫn yêu bạn, chứng tỏ tình yêu của anh ta thật lòng.
– Khi chụp ảnh, thích làm mặt quỷ: có tính cảnh giác cao độ, đôi khi rất thích thể hiện.
– Người thích nuôi mèo: tôn sùng sự độc lập tự chủ, trước giờ không ép dạ cầu toàn;
– Người thích nuôi chim: tính cách tinh tế, bụng dạ hẹp hòi.
– Nếu một người đàn ông giúp bạn xách túi, giúp bạn gọi đồ, giúp bạn kéo ghế: chứng tỏ anh ta từng có bạn gái, hơn nữa không chỉ có một cô.
– Người thích nuôi chó: tính cách ôn hòa, thân thiện, nhưng họ thường nước chảy bèo trôi, gặp sao hay vậy, luôn thuận theo ý nghĩa của người khác để làm việc; người thích nuôi cá, có lòng yêu cuộc sống, là người lạc quan, tự tin.
– Tay đặt trên đùi: khi căng thẳng, chúng ta sẽ bất giác để hai tay lên đùi, ma sát qua lại, nhằm bình ổn cảm xúc.
– Vai phải của đàn ông khẽ nhún: anh ta đang nói dối.
– Sờ cổ: khi con người ta nói dối sẽ sờ cổ, hành vi cưỡng ép điển hình, thuộc phản ứng máy móc.
– Một bên vai rung: khi không tự tin càng dễ xuất hiện tình trạng một bên vai rung (không phải tất cả những biểu hiện rung một vai là không tự tin).
– Chăm chú vào mắt của đối phương: khi con người chuẩn bị xong lời nói dối, càng dễ chăm chú đến mắt đối phương, để đối phương tin tưởng hoặc quan sát xem đối phương có tin mình hay không. (không phải cứ chăm chú vào mắt đối phương là nói dối).
Theo Daikynguyenvn
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Sinh thái học dưới góc nhìn của Tam giáo" - Gs Thái Công Tụng / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Chuyện Ukraine : Mặt trận không tiếng súng Cyberwar (Chiến tranh mạng) – Trần Lý ( TVQ chuyển )
- Tàu thăm dò Perseverance hạ cánh sao Hỏa sau '7 phút kinh hoàng'
- Các nhà nghiên cứu tìm ra công nghệ mới cho phép sạc điện thoại thông qua sóng Wi-Fi
- Các nhà nghiên cứu tìm ra công nghệ mới cho phép sạc điện thoại thông qua sóng Wi-Fi
40 bí quyết giúp ”đi guốc trong bụng” người khác
1. Khuôn mặt
– Khi biểu cảm ở hai bên mặt không đối xứng: biểu cảm ấy thường là giả tạo.
– Người thích để lộ răng khi chụp ảnh: có tính cách cởi mở, đơn thuần.
– Thích chớp mắt: loại người này có bụng dạ hẹp hỏi, khó khiến người ta tin tưởng. Nếu thương lượng hoặc nhờ vả kiểu người này, tốt nhất là nên đi thẳng vào vấn đề.
– Thích dùng tay che nụ cười: mồm miệng kín kẽ, là một người đáng để nhờ vả những chuyện quan trọng.
– Dùng bàn tay che lông mày: bày tỏ sự xấu hổ, day dứt.
– Người có khuôn mặt hình tròn: kiểu mặt này vĩnh viễn không lộ tuổi, có thể gọi là gương mặt trẻ con, kiểu người có gương mặt này thường lạc quan, cởi mở, nho nhã lễ độ, dễ tiếp xúc, bởi vậy mối quan hệ với mọi người vô cùng tốt.
– Người có gương mặt dài, hình dạng gương mặt và ngũ quan tương đối lớn, đường nét gương mặt nhẹ nhàng, chín chắn: kiểu người này làm việc tương đối tự tin, ít để tâm đến cảm nhận của người khác.
– Người có mặt hình vuông, hình dạng gương mặt và cơ nhai ở cằm tương đối rõ ràng: kiểu người này đi đứng một mình, không a dua theo mọi người, có trí tuệ và khả năng quan sát nhạy bén, thậm chí có giác quan thứ sáu hơn người bình thường.
– Khi chóp mũi toát mồ hôi hột: chứng tỏ đối phương đang lo lắng hoặc căng thẳng.
– Lấy tay chống cằm: có ý đồ che đậy điểm yếu.
– Cằm rung mạnh: thể hiện đối phương đang tức giận.
– Biểu cảm kinh ngạc vượt quá một giây: là giả vờ kinh ngạc.
– Hung thủ thực sự khi nhìn thấy bức ảnh của người bị hại: sẽ thể hiện ra vẻ buồn nôn, khinh thường, thậm chí là sợ hãi, nhưng tuyệt đối không kinh ngạc.
– Mắt nhìn về bên trái: là đang nhớ lại.
– Mắt nhìn về bên phải: là đang suy xét lời nói dối.
– Khi cười giả tạo: khóe mắt không có nếp nhăn.
– Bĩu môi: là biểu cảm phạm lỗi kinh điển, hành vi này tiết lộ người nói không tự tin vào lời nói của mình.
2. Ngôn ngữ
– Người mở miệng là “nói thật”: có lẽ là người không thành thật nhất.
– Hai câu nói khiến người ta xa cách: Tôi đúng, bạn sai; Tôi là muốn tốt cho bạn.
Người nói hai câu này, thông thường tư tưởng không thông qua não.
– Một người càng khoe khoang cái gì, thì càng thiếu thốn cái đó. Một người càng che đậy cái gì, thì càng tự ti về cái đó.
– “Anh đến nhà cô ấy bao giờ chưa? Chưa, tôi chưa đến nhà cô ấy bao giờ”: sự nhắc lại không tự nhiên về câu hỏi là lời nói dối điển hình.
– “Cái này”, “cái đó”, “a”, “hả”, “ừm”: người thích sử dụng những câu cửa miệng này có thể chia làm hai loại: Loại 1, phản ứng tư duy tương đối chậm, khi họ nói chuyện tư duy không rõ ràng, nên thường dùng ngữ khí ngừng ngắt. Loại 2, kiểu người này lại hoàn toàn ngược lại, làm việc thận trọng, thâm sâu khó lường.
– Người nói dối thường có các động tác nhỏ như nghịch ngón tay, sờ tai, nhún vai. Ví dụ, trong mũi của nam giới có mô xốp, khi họ muốn che giấu điều gì, mũi sẽ bắt đầu ngứa, lúc này họ sẽ sờ mũi theo bản năng.
– Người thích nói những câu cửa miệng như “bạn nên”, “bạn bắt buộc phải”: đa phần đều tương đối cố chấp.
3. Hành vi
– Thông thường người không tin vào tình yêu sét đánh sẽ không tự tin lắm về diện mạo của bản thân.
– Người thích dùng não phải để suy nghĩ: khá nghèo.
– Cách tốt nhất để người khác thích bạn không phải là bạn đi giúp đỡ người khác, mà là để người khác giúp đỡ bạn.
– Người để món ăn mình yêu thích tới cuối cùng: yêu cầu đối với bản thân khá nghiêm khắc, làm việc yêu cầu sự hoàn mỹ, thích dựa theo tiến độ.
– Khi một người đàn ông cùng lúc có thiện cảm với hai cô gái, anh ta yêu ai hơn được quyết định bởi việc ai yêu anh ta ít hơn.
– Nếu đối phương bày tỏ sự khinh thường về lời chất vấn của bạn, thông thường lời chất vấn của bạn là sự thật.
4. Tư tưởng
– Phụ nữ thích khoác túi khoác chéo: thông thường nội nhu ngoại cương, bề ngoài tự tin, nội tâm không có cảm giác an toàn.
– Một người nói với bạn rằng “anh yêu em”, bạn cho anh ta một cái bạt tai, nếu anh ta vẫn yêu bạn, chứng tỏ tình yêu của anh ta thật lòng.
– Khi chụp ảnh, thích làm mặt quỷ: có tính cảnh giác cao độ, đôi khi rất thích thể hiện.
– Người thích nuôi mèo: tôn sùng sự độc lập tự chủ, trước giờ không ép dạ cầu toàn;
– Người thích nuôi chim: tính cách tinh tế, bụng dạ hẹp hòi.
– Nếu một người đàn ông giúp bạn xách túi, giúp bạn gọi đồ, giúp bạn kéo ghế: chứng tỏ anh ta từng có bạn gái, hơn nữa không chỉ có một cô.
– Người thích nuôi chó: tính cách ôn hòa, thân thiện, nhưng họ thường nước chảy bèo trôi, gặp sao hay vậy, luôn thuận theo ý nghĩa của người khác để làm việc; người thích nuôi cá, có lòng yêu cuộc sống, là người lạc quan, tự tin.
– Tay đặt trên đùi: khi căng thẳng, chúng ta sẽ bất giác để hai tay lên đùi, ma sát qua lại, nhằm bình ổn cảm xúc.
– Vai phải của đàn ông khẽ nhún: anh ta đang nói dối.
– Sờ cổ: khi con người ta nói dối sẽ sờ cổ, hành vi cưỡng ép điển hình, thuộc phản ứng máy móc.
– Một bên vai rung: khi không tự tin càng dễ xuất hiện tình trạng một bên vai rung (không phải tất cả những biểu hiện rung một vai là không tự tin).
– Chăm chú vào mắt của đối phương: khi con người chuẩn bị xong lời nói dối, càng dễ chăm chú đến mắt đối phương, để đối phương tin tưởng hoặc quan sát xem đối phương có tin mình hay không. (không phải cứ chăm chú vào mắt đối phương là nói dối).
Theo Daikynguyenvn