Cõi Người Ta
Ăn mặc khi tới chùa
Có  câu hỏi - cũng có thể là thắc mắc chung của một số người - nên xin phép  được nêu ra đây để chúng ta cùng nhau thảo luận. Thư có đoạn như sau:
...”... gần sở tôi có một ngôi chùa của người Việt Nam.  Có những hôm bỗng nhiên nhớ mẹ, nhớ quê hương, tôi muốn ghé qua chùa,  vào thắp nén nhang, ngồi nhìn tượng Phật nhớ thời thơ ấu, có quê, có đại  gia đình, ông bà cha mẹ.
Nhưng tôi rất ngại vì có một lần tôi đã tới vào buổi chiều, sau giờ  tan sở. Hôm đó chùa cũng hơi đông, hầu hết đều mặc áo thụng mầu xám,  dường như có buổi lễ gì đó. Họ nhìn tôi với ánh  mắt hơi lạ. Rồi một cụ già đưa cho tôi một áo thụng và bảo tôi mặc rồi  hãy vào lễ Phật kẻo mặc đồ hở hang, phải tội, lễ xong trả lại vì áo đó  của chung để cho ai cần thì mượn.
Tôi rất ngạc nhiên và cảm thấy  bị xúc phạm, vì tôi mặc quần jean với áo cộc tay. Tuy tay áo cộc nhưng  tôi không nghĩ rằng như thế là hở hang.
Về nhà, tôi nói lại cho mấy người bà con nghe thì họ cười ầm lên, chế giễu:
- Không phải sợ tội đâu. Các cụ sợ cô giống câu ca dao: “Ba cô đội gạo lên chùa, Một cô yếm thắm bỏ bùa cho Sư” đó mà.
Xin chỉ dẫn giúp phải mặc đồ như thế nào khi đi chùa thì mới hợp lệ.
Nguyễn Mai Quế
Tuệ Đăng xin được góp ý như sau:
Trong giới tu pháp môn Niệm Phật  bên Nhật, có truyền tụng câu chuyện về anh chàng kia, mỗi khi tới chùa  là anh nằm lăn ra chánh điện một cách rất thoải mái. Có người trách anh  rằng nằm như thế mất trang nghiêm đi, thì anh bèn trợn mắt lên cự lại:
- Tôi về nhà cha mẹ tôi mà, vì anh không nhận ra được đây là nhà cha mẹ, nên anh mới cư xử như đến nhà  người lạ. 
Nơi kinh Lăng Nghiêm, bồ tát Đại Thế Chí bạch Phật rằng:
-  “ Mười phương Như Lai tưởng nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn  tránh thì dù nhớ cũng chẳng làm gì được; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con,  thì đời đời mẹ con chẳng xa cách. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm  Phật, thì hiện nay hay về sau nhất định thấy Phật, cách Phật không xa,  chẳng nhờ phương tiện, tâm tự khai ngộ, như người ướp hương thì thân có  mùi thơm, ấy gọi là Hương Quang Trang Nghiêm. Nhân địa căn bản của con  là dùng tâm niệm Phật, đắc vô sanh nhẫn, nay ở cõi này tiếp dẫn người  niệm Phật về cõi Tịnh Độ. Phật hỏi con về viên thông, con do Nhiếp Cả  Lục Căn, Tịnh Niệm Tương Tục vào Tam Ma Địa là hơn cả.”.
Bồ tát  Đại Thế Chí là biểu tượng của pháp môn tu Niệm Phật Tam Muội. Tam Muội  hoặc Tam Ma Địa, Tam Ma Đề, là phiên âm từ chữ Phạn Samadhi, nghĩa là  thiền định. Pháp môn tu này do nhớ Phật, niệm Phật tương tục mà Tâm khai  ngộ, đắc vô sanh pháp nhẫn, nghĩa là trực nhận được Bản Thể Tự Tánh vốn  thường hằng khắp không gian và miên viễn khắp thời gian, không sanh  không diệt, cũng chính là Phật Tánh, cũng chính là Pháp Thân Phật, cho  nên còn gọi là Như Lai.
Nếu quý vị từng đi chùa, tụng kinh, thì đã thấy ngay nơi phần đầu mỗi thời kinh, đều có tụng bài Tán Phật, trong đó có câu:
Thiên nhân chi đạo sư
Tứ sanh chi từ phụ...
nghĩa là:
...”...Thày dạy khắp Trời, người,
Cha lành chung bốn  loài...”...
Vì đức Phật là Thày, là cha lành của tất cả  các loài như thế, cho nên nếu có Phật tử nào coi đức Phật là Thày, là  cha mẹ, khi tới chùa cảm thấy thân thiết như về nhà cha mẹ thì thật là  điều đáng quý, quá quý, không nên để cho Phật tử cảm thấy xa cách với  nhà Phật. 
Nếu Phật tử mà xa cách với nhà Phật thì các Trưởng tử Như Lai, tức  là các vị tu sĩ cũng không thể làm tròn được ý nguyện hoằng pháp lợi  sanh, là lời nguyện khi mới bước vào đường tu. 
Thuật ngữ của đạo Phật có từ “gieo duyên”, nghĩa  là tạo cơ hội cho người ta tiếp cận với các sinh hoạt của nhà Phật, thí  dụ nghe một tiếng niệm Phật, nhìn thấy cuốn kinh, tượng ảnh Phật, nhìn  hình ảnh người tu hành thanh  tịnh, thăm viếng cảnh chùa, cũng là đã gieo vào tàng thức của người ta  những chủng tử có liên quan đến đạo Phật, sẽ trổ thành quả tu hành theo  Phật pháp trong tương lai. 
Cho nên chúng ta cũng cần quan tâm về  cách ứng xử, sao cho mọi người đều thấy thân thiết với sự về chùa, có  cảm giác thoải mái như về nhà cha mẹ, lâu không về thì nhớ, mới đúng với  bản hoài của “mười phương Như Lai”
Qua  sự học hỏi từ kinh sách, chúng ta thấy chính đức Phật đã xác nhận rằng  Ngài không phải là Thần Linh, không ban phúc giáng họa cho ai. Ngài là  Đạo Sư chỉ cho chúng sinh con đường Giải Thoát, mọi người phải tự mình  thắp đuốc lên mà đi, tự mình làm thuyền bè, làm hải đảo cho chính mình.  Nếu theo lời Ngài dạy mà tự tu tự độ thì sẽ thành đạo quả, thành người  Giác Ngộ, thành Phật như Ngài. 
Muốn biết đường tu, tất nhiên là phải cần đến các đạo sư trưởng tử  Như Lai chỉ dẫn. Chùa chiền chính là nơi những người muốn tu tập tìm về  nương tựa.
Thế nhưng bây giờ tại một vài nơi, do vô tình mà người ta đang cản trở con đường của chúng sinh  muốn về nhà Phật. Một nơi kia, bà nữ tu sĩ có trách nhiệm dạy mấy cô thiếu nữ rằng:
- Các cô phải cột chặt hai ông quần khi lên chánh điện, kẻo mà "có gì ô uế" rớt xuống thì cửa Địa Ngục mở sẵn.
Mấy cô sợ quá thì thầm với nhau “không đến chùa thì chẳng bị xuống địa ngục, đến chùa mà mặc skirt, làm sao mà cột được đây?”. Thế là từ đó họ đâm ra ngần ngại. Họ bảo nhau:
-  Mình sợ đến chùa thất thố gì lại phải tội, chẳng thà không đến thì  chẳng sao. Chỉ Tết nhất hay có đám cầu siêu cầu an mình mới đến chùa mà  thôi.
Than ôi! Một trường học dạy người con đường giác ngộ giải thoát,  khai phóng tâm linh, lại đến nỗi trở thành địa điểm mà dân chúng chỉ tới  khi có tang ma  thì đáng buồn biết bao.
Truyền thống đạo Phật là mở rộng cửa  chùa để cứu nhân độ thế. Kẻ lỡ độ đường, người đói khát đều được nhà  chùa cưu mang. Những người đó khi đến chùa hẳn là không thể ăn mặc chỉnh  tề, nhưng dù họ chỉ có mảnh quần manh tấm áo rách cũng được nhà chùa mở  lòng cứu giúp.
Có người nói rằng vì trong chùa có những tu sĩ trẻ, người khác phái tới ăn mặc hở hang có thể làm cho tâm người tu bị chao đảo. 
Xin thưa rằng, nói như thế là coi thường các pháp môn tu trì của nhà Phật rồi.
Thực  tế, nếu tu sĩ có hành trì thiền quán, niệm Phật, trì chú ..., vân vân,  thì sẽ tăng trưởng Định Lực, tâm hồn không đến nỗi bị chao đảo khi nhìn  thấy người khác phái đâu. Còn nếu không hành trì, để tâm buông lung bay  nhẩy, không có Định Lực, mà chỉ giữ Giới qua sự đè nén thì khi gặp cảnh  duyên, sẽ nảy sinh những tình huống bất ngờ, do sức bật của sự đè nén  tung lên.
Có câu chuyện huyền thọai trong nhà Thiền, rằng tại một tu viện  trong rừng kia, có hai thày trò. Ông thày chủ trương cách ly người đệ tử  với trần thế  để khỏi bị ô nhiễm, nên từ nhỏ đến lớn, ông không cho cậu đệ tử tới nơi  phố xá, chợ búa.
Năm đó người đệ tử được 18 tuổi, đến tuổi trưởng thành, ông mới dắt học trò ra nơi thị tứ.
Trên  đường, cậu học trò nhìn cái gì cũng thấy lạ, từ con trâu đang cày  ruộng, con bò kéo xe, con gà vừa chạy vừa kêu quác quác, đều hỏi thầy để  biết tên, ông thầy đều dạy cẩn thận. Đến khi xuống chợ, cậu ta gặp một  thiếu nữ, bèn hỏi:
- Bạch thày, đây là con gì?
Thày dạy:
- Đấy là con cọp chợ, nó dữ lắm, đừng tới gần. 
Cậu  học trò cứ lấm lét nhìn hoài. Trên đường về, cậu đệ tử lặng lẽ âm thầm  đi. Nhưng từ đó, cậu ta cứ buồn buồn. Một hôm thày hỏi:
- Sao dạo này con rầu rĩ vậy,  con muốn gì?
Cậu đệ tử rụt rè:
- Bạch thầy, con muốn gặp con cọp chợ.
Vậy câu chuyện nói lên cái gì? 
Xin  thưa rằng chỉ là một câu chuyện huyền thoại thôi, nhưng nó nói lên rằng  tu hành là phải chuyển hóa từ trong nội tâm. Nếu chỉ tìm cách tránh né  tức là một hình thức lấy đá đè cỏ. Cỏ vẫn còn sống và sẽ vươn lên rất  mạnh khi nhắc hòn đá  ra. 
Người tu hành nào mà có tu tập theo lời dạy của chư Phật và chư đạo sư thì sẽ không có “cô yếm thắm” nào có thể bỏ bùa.
Nhân đây, xin kính gửi tới quý vị một câu chuyện Thiền, trích dịch từ cuốn Collection of Stone and Sand, tác giả là thiền sư Muju ở thế kỷ 13, Paul Reps dịch sang tiếng Anh. Câu chuyện như sau:
“Vào những kỳ đả thiền thất do thiền sư Bankei chủ trì, có rất đông thiền sinh từ nhiều miền trên nước Nhật về tham dự. 
Tại  một trong những kỳ thiền thất như thế, có một đệ tử bị bắt về tội ăn  cắp. Sự việc được trình lên thiền sư Bankei với lời đề nghị kẻ phạm pháp  phải bị tống xuất. Nhưng thiền sư Bankei bỏ qua. Sau đó, người đệ tử  lại tái phạm và bị bắt,  và cũng như lần trước, thiền sư Bankei lại bỏ qua.
Sự việc này chọc giận đám đệ tử, khiến cho họ phải làm thỉnh nguyện thư, xin đuổi tên ăn cắp, nếu không cả nhóm sẽ bỏ đi.
Sau khi đọc xong thỉnh nguyện thư, thiền sư Bankei gọi tất cả học trò đến trước mặt mà bảo rằng:
- Quí vị là những sư huynh sáng suốt nên quí vị biết phân biệt đúng  và sai. Nếu muốn, quí vị có thể đi nơi khác để tham thiền học đạo. Nhưng  người sư đệ đáng thương này thì ngay đến thế nào là đúng, là sai, cũng  còn không biết. Nếu tôi không dạy hắn thì ai sẽ dạy? Cho nên tôi sẽ cho  hắn ở đây dù tất cả quí vị ra đi.
Trên gương mặt của người sư đệ tội lỗi, nước mắt tuôn ra như thác đổ. Lòng ham muốn trộm cắp trong khoảnh khắc  tiêu tan hoàn toàn”.
Thiền sư Bankei là một bậc thầy chân  chính, xứng đáng là đạo sư của nhà Phật. Là bậc thày cao quý, ngài đã hạ  bàn tay nhân từ xuống để cứu vớt người lầm lạc, mở lối thoát cho người  đệ tử tội lỗi có cơ hội chuyển tâm.
Kinh Hoa Nghiêm nói:
Nếu người muốn biết rõ
Tất cả Phật ba thời
Phải quán pháp giới tính
Tất cả do tâm tạo.
Ba  thời là quá khứ, hiện tại và tương lai. “Tất cả do tâm tạo”, mà tâm thì  vô thường, không cố định. Cho nên đối với nhà Phật, dù người xấu tới  đâu, hoặc ngay đến cả kẻ cướp, nếu chịu buông dao xuống mà nhất tâm tu  hành, thì cũng thành Phật.
Chỉ có tấm lòng rộng mở mới chuyển hóa được con người. Nếu cửa chùa  luôn rộng mở,  không xét nét cách ăn mặc và những chuyện lặt vặt, miễn sao tác phong  người đến chùa cũng tương đương với về nhà cha mẹ họ, thì họ nên được  hoan nghênh để mọi người cảm thấy thoải mái khi về chùa. 
Nếu  không có sự hài hòa trong giao tế thì thế hệ sau, khi các cụ không còn  nữa, con cháu không còn phải vì nể nang cha mẹ mà tới chùa, e rằng cửa  chùa sẽ vắng vẻ.
Lúc đó, nếu chúng ta nghĩ tới câu “bản hoài của mười phương Như Lai thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con”, sẽ cảm thấy chua xót biết bao.
Tuệ Đăng
Ăn mặc khi tới chùa
Có  câu hỏi - cũng có thể là thắc mắc chung của một số người - nên xin phép  được nêu ra đây để chúng ta cùng nhau thảo luận. Thư có đoạn như sau:
...”... gần sở tôi có một ngôi chùa của người Việt Nam.  Có những hôm bỗng nhiên nhớ mẹ, nhớ quê hương, tôi muốn ghé qua chùa,  vào thắp nén nhang, ngồi nhìn tượng Phật nhớ thời thơ ấu, có quê, có đại  gia đình, ông bà cha mẹ.
Nhưng tôi rất ngại vì có một lần tôi đã tới vào buổi chiều, sau giờ  tan sở. Hôm đó chùa cũng hơi đông, hầu hết đều mặc áo thụng mầu xám,  dường như có buổi lễ gì đó. Họ nhìn tôi với ánh  mắt hơi lạ. Rồi một cụ già đưa cho tôi một áo thụng và bảo tôi mặc rồi  hãy vào lễ Phật kẻo mặc đồ hở hang, phải tội, lễ xong trả lại vì áo đó  của chung để cho ai cần thì mượn.
Tôi rất ngạc nhiên và cảm thấy  bị xúc phạm, vì tôi mặc quần jean với áo cộc tay. Tuy tay áo cộc nhưng  tôi không nghĩ rằng như thế là hở hang.
Về nhà, tôi nói lại cho mấy người bà con nghe thì họ cười ầm lên, chế giễu:
- Không phải sợ tội đâu. Các cụ sợ cô giống câu ca dao: “Ba cô đội gạo lên chùa, Một cô yếm thắm bỏ bùa cho Sư” đó mà.
Xin chỉ dẫn giúp phải mặc đồ như thế nào khi đi chùa thì mới hợp lệ.
Nguyễn Mai Quế
Tuệ Đăng xin được góp ý như sau:
Trong giới tu pháp môn Niệm Phật  bên Nhật, có truyền tụng câu chuyện về anh chàng kia, mỗi khi tới chùa  là anh nằm lăn ra chánh điện một cách rất thoải mái. Có người trách anh  rằng nằm như thế mất trang nghiêm đi, thì anh bèn trợn mắt lên cự lại:
- Tôi về nhà cha mẹ tôi mà, vì anh không nhận ra được đây là nhà cha mẹ, nên anh mới cư xử như đến nhà  người lạ. 
Nơi kinh Lăng Nghiêm, bồ tát Đại Thế Chí bạch Phật rằng:
-  “ Mười phương Như Lai tưởng nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con trốn  tránh thì dù nhớ cũng chẳng làm gì được; nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con,  thì đời đời mẹ con chẳng xa cách. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm  Phật, thì hiện nay hay về sau nhất định thấy Phật, cách Phật không xa,  chẳng nhờ phương tiện, tâm tự khai ngộ, như người ướp hương thì thân có  mùi thơm, ấy gọi là Hương Quang Trang Nghiêm. Nhân địa căn bản của con  là dùng tâm niệm Phật, đắc vô sanh nhẫn, nay ở cõi này tiếp dẫn người  niệm Phật về cõi Tịnh Độ. Phật hỏi con về viên thông, con do Nhiếp Cả  Lục Căn, Tịnh Niệm Tương Tục vào Tam Ma Địa là hơn cả.”.
Bồ tát  Đại Thế Chí là biểu tượng của pháp môn tu Niệm Phật Tam Muội. Tam Muội  hoặc Tam Ma Địa, Tam Ma Đề, là phiên âm từ chữ Phạn Samadhi, nghĩa là  thiền định. Pháp môn tu này do nhớ Phật, niệm Phật tương tục mà Tâm khai  ngộ, đắc vô sanh pháp nhẫn, nghĩa là trực nhận được Bản Thể Tự Tánh vốn  thường hằng khắp không gian và miên viễn khắp thời gian, không sanh  không diệt, cũng chính là Phật Tánh, cũng chính là Pháp Thân Phật, cho  nên còn gọi là Như Lai.
Nếu quý vị từng đi chùa, tụng kinh, thì đã thấy ngay nơi phần đầu mỗi thời kinh, đều có tụng bài Tán Phật, trong đó có câu:
Thiên nhân chi đạo sư
Tứ sanh chi từ phụ...
nghĩa là:
...”...Thày dạy khắp Trời, người,
Cha lành chung bốn  loài...”...
Vì đức Phật là Thày, là cha lành của tất cả  các loài như thế, cho nên nếu có Phật tử nào coi đức Phật là Thày, là  cha mẹ, khi tới chùa cảm thấy thân thiết như về nhà cha mẹ thì thật là  điều đáng quý, quá quý, không nên để cho Phật tử cảm thấy xa cách với  nhà Phật. 
Nếu Phật tử mà xa cách với nhà Phật thì các Trưởng tử Như Lai, tức  là các vị tu sĩ cũng không thể làm tròn được ý nguyện hoằng pháp lợi  sanh, là lời nguyện khi mới bước vào đường tu. 
Thuật ngữ của đạo Phật có từ “gieo duyên”, nghĩa  là tạo cơ hội cho người ta tiếp cận với các sinh hoạt của nhà Phật, thí  dụ nghe một tiếng niệm Phật, nhìn thấy cuốn kinh, tượng ảnh Phật, nhìn  hình ảnh người tu hành thanh  tịnh, thăm viếng cảnh chùa, cũng là đã gieo vào tàng thức của người ta  những chủng tử có liên quan đến đạo Phật, sẽ trổ thành quả tu hành theo  Phật pháp trong tương lai. 
Cho nên chúng ta cũng cần quan tâm về  cách ứng xử, sao cho mọi người đều thấy thân thiết với sự về chùa, có  cảm giác thoải mái như về nhà cha mẹ, lâu không về thì nhớ, mới đúng với  bản hoài của “mười phương Như Lai”
Qua  sự học hỏi từ kinh sách, chúng ta thấy chính đức Phật đã xác nhận rằng  Ngài không phải là Thần Linh, không ban phúc giáng họa cho ai. Ngài là  Đạo Sư chỉ cho chúng sinh con đường Giải Thoát, mọi người phải tự mình  thắp đuốc lên mà đi, tự mình làm thuyền bè, làm hải đảo cho chính mình.  Nếu theo lời Ngài dạy mà tự tu tự độ thì sẽ thành đạo quả, thành người  Giác Ngộ, thành Phật như Ngài. 
Muốn biết đường tu, tất nhiên là phải cần đến các đạo sư trưởng tử  Như Lai chỉ dẫn. Chùa chiền chính là nơi những người muốn tu tập tìm về  nương tựa.
Thế nhưng bây giờ tại một vài nơi, do vô tình mà người ta đang cản trở con đường của chúng sinh  muốn về nhà Phật. Một nơi kia, bà nữ tu sĩ có trách nhiệm dạy mấy cô thiếu nữ rằng:
- Các cô phải cột chặt hai ông quần khi lên chánh điện, kẻo mà "có gì ô uế" rớt xuống thì cửa Địa Ngục mở sẵn.
Mấy cô sợ quá thì thầm với nhau “không đến chùa thì chẳng bị xuống địa ngục, đến chùa mà mặc skirt, làm sao mà cột được đây?”. Thế là từ đó họ đâm ra ngần ngại. Họ bảo nhau:
-  Mình sợ đến chùa thất thố gì lại phải tội, chẳng thà không đến thì  chẳng sao. Chỉ Tết nhất hay có đám cầu siêu cầu an mình mới đến chùa mà  thôi.
Than ôi! Một trường học dạy người con đường giác ngộ giải thoát,  khai phóng tâm linh, lại đến nỗi trở thành địa điểm mà dân chúng chỉ tới  khi có tang ma  thì đáng buồn biết bao.
Truyền thống đạo Phật là mở rộng cửa  chùa để cứu nhân độ thế. Kẻ lỡ độ đường, người đói khát đều được nhà  chùa cưu mang. Những người đó khi đến chùa hẳn là không thể ăn mặc chỉnh  tề, nhưng dù họ chỉ có mảnh quần manh tấm áo rách cũng được nhà chùa mở  lòng cứu giúp.
Có người nói rằng vì trong chùa có những tu sĩ trẻ, người khác phái tới ăn mặc hở hang có thể làm cho tâm người tu bị chao đảo. 
Xin thưa rằng, nói như thế là coi thường các pháp môn tu trì của nhà Phật rồi.
Thực  tế, nếu tu sĩ có hành trì thiền quán, niệm Phật, trì chú ..., vân vân,  thì sẽ tăng trưởng Định Lực, tâm hồn không đến nỗi bị chao đảo khi nhìn  thấy người khác phái đâu. Còn nếu không hành trì, để tâm buông lung bay  nhẩy, không có Định Lực, mà chỉ giữ Giới qua sự đè nén thì khi gặp cảnh  duyên, sẽ nảy sinh những tình huống bất ngờ, do sức bật của sự đè nén  tung lên.
Có câu chuyện huyền thọai trong nhà Thiền, rằng tại một tu viện  trong rừng kia, có hai thày trò. Ông thày chủ trương cách ly người đệ tử  với trần thế  để khỏi bị ô nhiễm, nên từ nhỏ đến lớn, ông không cho cậu đệ tử tới nơi  phố xá, chợ búa.
Năm đó người đệ tử được 18 tuổi, đến tuổi trưởng thành, ông mới dắt học trò ra nơi thị tứ.
Trên  đường, cậu học trò nhìn cái gì cũng thấy lạ, từ con trâu đang cày  ruộng, con bò kéo xe, con gà vừa chạy vừa kêu quác quác, đều hỏi thầy để  biết tên, ông thầy đều dạy cẩn thận. Đến khi xuống chợ, cậu ta gặp một  thiếu nữ, bèn hỏi:
- Bạch thày, đây là con gì?
Thày dạy:
- Đấy là con cọp chợ, nó dữ lắm, đừng tới gần. 
Cậu  học trò cứ lấm lét nhìn hoài. Trên đường về, cậu đệ tử lặng lẽ âm thầm  đi. Nhưng từ đó, cậu ta cứ buồn buồn. Một hôm thày hỏi:
- Sao dạo này con rầu rĩ vậy,  con muốn gì?
Cậu đệ tử rụt rè:
- Bạch thầy, con muốn gặp con cọp chợ.
Vậy câu chuyện nói lên cái gì? 
Xin  thưa rằng chỉ là một câu chuyện huyền thoại thôi, nhưng nó nói lên rằng  tu hành là phải chuyển hóa từ trong nội tâm. Nếu chỉ tìm cách tránh né  tức là một hình thức lấy đá đè cỏ. Cỏ vẫn còn sống và sẽ vươn lên rất  mạnh khi nhắc hòn đá  ra. 
Người tu hành nào mà có tu tập theo lời dạy của chư Phật và chư đạo sư thì sẽ không có “cô yếm thắm” nào có thể bỏ bùa.
Nhân đây, xin kính gửi tới quý vị một câu chuyện Thiền, trích dịch từ cuốn Collection of Stone and Sand, tác giả là thiền sư Muju ở thế kỷ 13, Paul Reps dịch sang tiếng Anh. Câu chuyện như sau:
“Vào những kỳ đả thiền thất do thiền sư Bankei chủ trì, có rất đông thiền sinh từ nhiều miền trên nước Nhật về tham dự. 
Tại  một trong những kỳ thiền thất như thế, có một đệ tử bị bắt về tội ăn  cắp. Sự việc được trình lên thiền sư Bankei với lời đề nghị kẻ phạm pháp  phải bị tống xuất. Nhưng thiền sư Bankei bỏ qua. Sau đó, người đệ tử  lại tái phạm và bị bắt,  và cũng như lần trước, thiền sư Bankei lại bỏ qua.
Sự việc này chọc giận đám đệ tử, khiến cho họ phải làm thỉnh nguyện thư, xin đuổi tên ăn cắp, nếu không cả nhóm sẽ bỏ đi.
Sau khi đọc xong thỉnh nguyện thư, thiền sư Bankei gọi tất cả học trò đến trước mặt mà bảo rằng:
- Quí vị là những sư huynh sáng suốt nên quí vị biết phân biệt đúng  và sai. Nếu muốn, quí vị có thể đi nơi khác để tham thiền học đạo. Nhưng  người sư đệ đáng thương này thì ngay đến thế nào là đúng, là sai, cũng  còn không biết. Nếu tôi không dạy hắn thì ai sẽ dạy? Cho nên tôi sẽ cho  hắn ở đây dù tất cả quí vị ra đi.
Trên gương mặt của người sư đệ tội lỗi, nước mắt tuôn ra như thác đổ. Lòng ham muốn trộm cắp trong khoảnh khắc  tiêu tan hoàn toàn”.
Thiền sư Bankei là một bậc thầy chân  chính, xứng đáng là đạo sư của nhà Phật. Là bậc thày cao quý, ngài đã hạ  bàn tay nhân từ xuống để cứu vớt người lầm lạc, mở lối thoát cho người  đệ tử tội lỗi có cơ hội chuyển tâm.
Kinh Hoa Nghiêm nói:
Nếu người muốn biết rõ
Tất cả Phật ba thời
Phải quán pháp giới tính
Tất cả do tâm tạo.
Ba  thời là quá khứ, hiện tại và tương lai. “Tất cả do tâm tạo”, mà tâm thì  vô thường, không cố định. Cho nên đối với nhà Phật, dù người xấu tới  đâu, hoặc ngay đến cả kẻ cướp, nếu chịu buông dao xuống mà nhất tâm tu  hành, thì cũng thành Phật.
Chỉ có tấm lòng rộng mở mới chuyển hóa được con người. Nếu cửa chùa  luôn rộng mở,  không xét nét cách ăn mặc và những chuyện lặt vặt, miễn sao tác phong  người đến chùa cũng tương đương với về nhà cha mẹ họ, thì họ nên được  hoan nghênh để mọi người cảm thấy thoải mái khi về chùa. 
Nếu  không có sự hài hòa trong giao tế thì thế hệ sau, khi các cụ không còn  nữa, con cháu không còn phải vì nể nang cha mẹ mà tới chùa, e rằng cửa  chùa sẽ vắng vẻ.
Lúc đó, nếu chúng ta nghĩ tới câu “bản hoài của mười phương Như Lai thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con”, sẽ cảm thấy chua xót biết bao.
Tuệ Đăng
       
















