Di Sản Hồ Chí Minh
Bàn về chính sách đối ngoại của Việt nam hiện nay
Tình hình căng thẳng trên Biển Đông trong thời gian qua, đã thúc đẩy các mối quan hệ của Việt nam với các nước lớn thay đổi nhanh chóng đến mức kinh ngạc. Truyền thông báo chí hai nhà nước Việt nam
Tình hình căng thẳng trên Biển Đông trong thời gian qua, đã thúc đẩy các
mối quan hệ của Việt nam với các nước lớn thay đổi nhanh chóng đến mức
kinh ngạc. Truyền thông báo chí hai nhà nước Việt nam - Trung quốc trong
những ngày này, đã không ngần ngại trong việc kích động tinh thần chủ
nghĩa dân tộc hơn bao giờ hết. Dư luận cho rằng, đó là hệ quả đồng thời
là biểu hiện của việc Việt nam đang dần dần thay đổi chính sách đối
ngoại của họ cho phù hợp với tình hình biến động.
Tình hình khu vực Biển Đông
Biển
Đông theo cách gọi của Việt nam, hay Biển Tây theo cách gọi của
Philippines, hoặc Biển Nam Hải theo cách gọi của Trung quốc v.v... mà
tên chung lâu nay ta thường thấy xuất hiện trên các bản đồ thế giới nói
chung là Biển Nam Trung hoa (South China Sea). Đây là một biển ven lục
địa có diện tích khoảng 3triệu 500 ngàn km², trải rộng từ Singapore tới
eo biển Đài Loan.
Vùng biển này và các đảo, quần đảo trên khu vực Biển Đông không thuộc về
chủ quyền của một quốc gia cụ thể nào đó, mà hiện nay đang là đối tượng
tranh chấp về chủ quyền giữa 07 quốc gia trong vùng như Trung quốc, Đài
loan, Philippines, Việt nam, Malayxia, Brunei và Indonexia. Vì quyền
lợi và lợi ích quốc gia của mình, nên hầu như các quốc gia kể trên đều
tự khẳng định có đầy đủ bằng chứng lịch sử để khẳng định toàn bộ, hay
phần lớn cũng như một số khu vực nhất định nào đó là chủ quyền bất khả
xâm phạm của họ.
Trong cục diện ở Biển Đông hiện nay cho thấy, Trung quốc ngày càng tỏ ra
hung hăng và hiếu chiến trong việc hoàn tất giấc mộng làm bá chủ ở Biển
Đông thông qua cái gọi là đường Lưỡi Bò chủ quyền 9 đoạn. Với giấc mộng
ấy, Trung quốc hy vọng sẽ chiếm tới 90% diện tích của Biển Đông, điều
mà họ đã từng khẳng định đó là sân sau của họ. Việc gần đây, Trung quốc
gấp rút gia tăng việc đảo hóa các bãi đá ngầm, để trở thành các đảo nhân
tạo, tạo cơ sở thiết lập vùng nhận diện phòng không (ADIZ) nhằm khống
chế không chỉ vùng biển mà kể cả vùng trời tại một phần lớn khu vực Biển
Đông. Điều đó cho thấy phía Trung quốc đã không chỉ vi pháp luật pháp
quốc tế mà sẽ gây cản trở quyền tự do hàng hải, hàng không của các quốc
gia khác.
Đó chính là lý do khiến các quốc gia như Hoa kỳ, Nhật bản, Australia...
và kể cả Liên minh Châu Âu (EU) đã lớn tiếng cảnh báo chính sách bành
trướng của Trung quốc. Không chỉ thế, các quốc gia đó cũng khẳng định
việc sẽ tăng cường sự hiện diện về mặt quân sự của họ ở vùng biển này,
để tuần tra nhằm đảm bảo an ninh hàng hải trên Biển Đông. Dư luận cho
rằng, đã đến lúc Hoa kỳ và các nước phương Tây sẽ không ngồi yên để
Trung quốc mặc sức lộng hành, nhằm bắt nạt các nước nhỏ ở khu vực và nếu
Trung quốc không thay đổi về lập trường của họ đối với việc bồi đắp các
đảo nhân tạo thì việc xung đột quân sự sẽ là điều khó có thể tránh
khỏi.
Hiện nay, tham vọng của Trung quốc đã vấp phải phản ứng dữ dội của các
nước nhỏ trong khu vực có liên quan đến chủ quyền trên Biển Đông. Trước
hết là Philippines một quốc gia đã chịu nhiều ảnh hưởng của chính sách
bành trướng trên Biển Đông của Trung quốc. Và gần đây nhất là Việt nam,
một quốc gia cùng ý thức hệ cộng sản với Trung quốc, cũng đã đến lúc cho
thấy họ đã gần mất hết kiên nhẫn với người đồng chí tốt của họ. Việt
nam đã có những biểu hiện cho thấy ngày một xích lại gần Hoa kỳ hơn, mới
nhất là chuyến thăm Việt nam của ông Ashton Carter Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ và sắp tới là chuyến thăm Hoa kỳ của TBT Nguyễn Phú Trọng, một người
trên danh nghĩa là người đứng đầu hệ thống chính quyền ở Việt nam.
Nếu chiến tranh trên Biển Đông xảy ra?
Việc nổ ra xung đột Trung -Mỹ trên Biển Đông là khó có thể xảy ra, hai
bên sẽ hết sức kiềm chế. Đặc biệt là phía Trung quốc, một khi xung đột
trên Biển Đông nếu xảy ra thì con đường vận chuyển hàng hóa quan trọng
bậc nhất của Trung quốc sẽ tê liệt thì nền kinh tế khổng lồ của Trung
quốc sẽ ngắc ngoải. Chính vì thế có thể thấy rằng, chính quyền Trung
quốc chỉ già mồm, chứ không dám đánh. Đó là chưa kể đến tiềm lực quân sự
của Trung quốc chưa thể địch lại riêng Hoa kỳ, chứ đâu cần đến các quốc
gia khác vốn là đồng minh chiến lược của Hoa kỳ trong khu vực.
Mới đây, nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn đã có bài viết "Tam anh chiến
Lữ Bố?", khi đề cập đến câu hỏi "Chiến tranh có thể xảy ra khi nào ?",
tác giả đã có bình luận và đánh giá đáng chú ý như sau:
"Chiến tranh sẽ không xảy ra giữa Mỹ và đồng minh với TQ nếu TQ chiếm
các đảo hiện do VN nắm giữ, trong trường hợp TQ cam kết bảo đảm quyền
tự do hàng hải và hàng không trên khu vực Biển Đông. Đối với VN, có thể
xảy ra vài đụng chạm, nhưng mọi việc sẽ ổn thỏa vì VN quá lệ thuộc vào
TQ, về chính trị cũng như về kinh tế. Một tình huống «Malouines», chiến
tranh giữa Anh và Argentine, về chủ quyền đảo Malouines, có thể xảy ra
tương tự. Mỹ có thể sẽ cung cấp cho VN một số vũ khí « đặc biệt » để VN
có thể hạ một số chiến hạm, tàu ngầm và máy bay của TQ, như trường hợp
Pháp cung cấp cho Argentine máy bay Mirage và hỏa tiễn Exocet. Cuộc
chiến Malouines Anh dành chiến thắng nhưng thiệt hại nặng vì các chiến
hạm của Anh bị vũ khí của Pháp bắn chìm.
Chiến tranh chắc chắn sẽ xảy ra giữa Mỹ (và đồng minh) với TQ, nếu
nước này cương quyết chiếm trọn Biển Đông và ngăn chặn việc tự do hàng
hải (và hàng không). Không phải như trường hợp khi Nga chiếm Crimé và
miền Đông Ukraine, việc này không đe dọa Tây phương. Biển Đông là đường
huyết mạch cho kinh tế của Mỹ, Nhật, Đại Hàn và nhiều nước khác. Biển
Đông vì vậy thuộc về phạm vi « không gian sinh tồn » của Mỹ, Nhật, Đại
Hàn và các nước.
Nếu chiến tranh xảy ra trong tình huống này, nếu VN đứng về phía Mỹ,
thì TQ có nhiều sác xuất thua trận. VN sẽ phụ trách cuộc chiến trên bộ,
được Mỹ trợ giúp quân sự, sẽ đánh chiếm Nam Ninh, Khâm Châu, tiến qua
phong tỏa eo biển Quỳnh Châu, cùng với Mỹ và Nhật chiếm đảo Hải Nam. Hải
quân và không quân của TQ sẽ bị tiêu diệt. Chiến tranh sẽ sớm kết thúc.
VN sẽ lấy lại HS và TS. Đây có thể gọi là thế « tam anh chiến Lữ Bố ».
Lữ Bố là TQ. Nhị anh là Nhật và Mỹ. Còn lại là VN.
Nếu VN không đứng về phía nào, (theo như lập trường hiện nay), thì
cuộc chiến sẽ hạn chế trên biển và trên không. Cuối cùng thì Mỹ và Nhật
cũng thắng. Trường hợp này, các đảo HS và TS sẽ thuộc về phe chiến thắng
(như là chiến lợi phẩm)."
Qua phân tích trên cho thấy, Việt nam cần khẩn trương chuẩn bị cho một lựa chọn phù hợp khi tình hình Biển Đông nổi sóng.
Sự lựa chọn của Việt nam
Chính sách đối ngoại của nhà nước Việt nam hiện nay, với lập trường và
quan điểm dứt khoát là, Việt nam không liên minh hay liên kết với bất kỳ
nước nào để chống lại bên thứ 3. Đó chính là lập trường "ba không" của
nhà nước Việt Nam trong công tác đối ngoại. Nội dung của chính sách "ba
không" cụ thể là, Việt Nam cam kết "không tham gia các liên minh quân
sự và không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho nước
nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam, không dựa vào nước nào để chống nước
khác". Đây là điều mà những người không ủng hộ chủ trương này cho là "chính sách ngoại giao du dây".
Những người này, là những người có xu hướng ủng hộ các giá trị tự do,
dân chủ theo kiểu Mỹ, mà ở Việt nam người ta gọi là những người có chủ
trương ủng hộ phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ, đòi hỏi cải cách
chính trị để đưa Việt nam thoát khỏi chế độ cai trị độc đảng toàn trị
theo đường lối cộng sản. Theo họ, Việt nam cần phải ngả hẳn, thậm chí là
dựa hẳn vào Mỹ và cần thiết còn phải là một đồng minh chiến lược thông
qua việc tham gia một liên minh quân sự trong đó có Mỹ để bảo vệ chủ
quyền của mình trên Biển Đông.
Tuy vậy, tác giả bài viết tin rằng đa số những người có quan điểm nói trên, chưa nghĩ tới tình huống "Nếu
như trước đây hay hiện nay Việt nam ngả hẳn hay dựa vào Hoa kỳ để chống
lại Trung quốc, khi chưa xảy ra xung đột Biển Đông thì điều gì sẽ xảy
ra?" Câu trả lời là, với một vị trí biên giới tiếp giáp với Trung
quốc, Lào và Campuchia, nhất là trong bối cảnh Trung quốc đã nắm chắc
trong tay con bài Campuchia và đang dần thôn tính Lào, thì liệu Việt nam
khi đó có đứng vững với nạn phỉ hay sự bất mã của các sắc tộc ít người ở
vùng biên giới của mình hay không? Đó là chưa kể đến các chính sách trả
đũa về kinh tế và trên nhiều lĩnh vực khác, trong lúc nền kinh tế Việt
nam phần lớn là dựa vào Trung quốc như hiện nay.
Chắc hẳn, bài học về chính sách đối đầu với Trung quốc giai đoạn lịch sử
1975-1990, trước và sau cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 xảy ra. Từ
đó dẫn tới những hậu quả về việc mất ổn định về mọi mặt kinh tế- xã hội
chúng ta chưa thể nào quên. Hay bài học xung đột giữa chính quyền
Myanmar với sắc tộc thiểu số ở biên giới Trung quốc - Myanmar gần đây,
đang có nguy cơ chuyển thành xung đột giữa quân đội hai nước. Đừng quên
Trung quốc là "vua" kích động các sắc tộc thiểu số để gây bất ổn và với
sức mạnh kinh tế có trong tay, thì họ có thể hành xử với Việt nam các
kiểu, nếu như họ muốn.
Tuy nhiên, người ta thường nói mọi lý thuyết về chính trị, an ninh nhiều
khi cũng là màu xám và cái đó không phải là bất biến. Một khi môi
trường an ninh thay đổi thì khi đó chính sách đối ngoại của Việt nam
chắc chắn sẽ phải thay đổi, nghĩa là lúc đó chính sách "ba không" của
Việt nam sẽ không đáp ứng được đòi hỏi nếu như khi tình hình Biển Đông
xảy ra xung đột giữa các bên Trung - Nga và một bên là các nước lớn còn
lại đứng đầu là Mỹ. Lúc đó, Việt nam không có bất kể lựa chọn lừng khừng
nào khác, mà dứt khoát phải lựa chọn chỗ đứng một bên cho mình.
Tuy điều đó còn đang ở phía trước, song cái cần là sự chuẩn bị và tính
toán trước của lực lượng đấu tranh dân chủ ở Việt nam, để khi tình huống
xảy ra sẽ không phải bất ngờ và ở thế bị động. Trường hợp vào thời điểm
đó, nếu chính quyền Việt nam hiện tại cố ngả theo Trung quốc, thì đó là
hồng phúc cho dân tộc, vì chính quyền ấy sẽ không thể tồn tại và tát
yếu sẽ sụp đổ. Thay vào đó là một chính quyền thân phương Tây. Đây là lý
do giải thích vì sao những người lãnh đạo Việt nam hiện nay tự nhiên
lại tỏ ra thân thiện và nhân nhượng hơn với Hoa kỳ về một số điểm vào
thời điểm này.
Kết
Được biết, bên lề Hội nghị Shangri-La lần thứ 14 vừa kết thúc tại
Singapore, ông Ashton Carter Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ có nói với báo chí
nói rằng “Tại Châu Á, vẫn có môt số nước nghiêng về phía Trung Quốc,
một số khác thì nghiêng về phía Hoa Kỳ, nhưng hầu hết thì không muốn
phải có một sự lựa chọn dứt khoát nào, và tôi nghĩ rằng điều này cần
thiết để giữ sự đa dạng trong quan hệ ngoại giao ngay tại khu vực, trong
thời gian tới”. Đây là một phát biểu đáng chú ý. Điều này cho thấy,
tại thời điểm này chính sách ngoại giao "ba không" của Việt nam dưới
con mắt của một chính khách Hoa kỳ là phù hợp và có thể chấp nhận được.
Có ý kiến cho rằng, chính sách "ba không" này của Việt nam mang hơi
hướng của chính sách ngoại giao cây tre của Thái lan (!?), với ý nghĩa
cái đó có thể ngả ngiêng theo chiều gió, nhưng không bao giờ đổ, để giữ
gìn lợi ích quốc gia là trên hết.
Trong thế kỷ XX vừa qua, người Việt nam ở cả hai phía, Cộng hòa và cả
Cộng sản đã nhiều lần đã phải trả giá đắt cho chính sách ngoại giao dựa
vào một bên để chống một bên trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh. Đặc
biệt là những người sống dưới chế độ VNCH, đã nhiều lần chứng kiến người
Mỹ phản bội, thậm chí là bỏ rơi họ. Như trong vụ đảo chính và hạ sát
Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963 và Hiệp định Paris về lập lại
hòa bình ở Việt nam và những người cộng sản miền Bắc cũng bị Nga, Tàu
đối xử không kém.
Và có lẽ đấy là những bài học về chính sách ngoại giao mà những người
quan tâm đến chính trị cần phải ghi nhớ, chứ xin đừng suy nghĩ theo cảm
tính và ý thích của cá nhân mình.
Ngày 04 tháng 06 năm 2015
© Kami
(Blog RFA)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Hiệu ứng nói phét!" - by Văn Quang / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Phiếm luận, chuyện Nhà Nước ta!!! _ Di Tĩnh Đắc ( Nguyễn Bá Chổi chuyển )
- Đánh trống, đánh chiêng học lại lịch sử Sài Gòn - by FB Nguyễn Gia Việt & Trần Văn Giang (ghi lại)
- Việt Cộng: Kế hoạch gửi tiền Quỹ vắc-xin COVID-19 để lấy lãi gây ra tranh cãi
- Ân xá Quốc tế gửi bằng chứng, đòi Việt Cộng điều tra về tin tặc tấn công giới bất đồng
Bàn về chính sách đối ngoại của Việt nam hiện nay
Tình hình căng thẳng trên Biển Đông trong thời gian qua, đã thúc đẩy các mối quan hệ của Việt nam với các nước lớn thay đổi nhanh chóng đến mức kinh ngạc. Truyền thông báo chí hai nhà nước Việt nam
Tình hình căng thẳng trên Biển Đông trong thời gian qua, đã thúc đẩy các
mối quan hệ của Việt nam với các nước lớn thay đổi nhanh chóng đến mức
kinh ngạc. Truyền thông báo chí hai nhà nước Việt nam - Trung quốc trong
những ngày này, đã không ngần ngại trong việc kích động tinh thần chủ
nghĩa dân tộc hơn bao giờ hết. Dư luận cho rằng, đó là hệ quả đồng thời
là biểu hiện của việc Việt nam đang dần dần thay đổi chính sách đối
ngoại của họ cho phù hợp với tình hình biến động.
Tình hình khu vực Biển Đông
Biển
Đông theo cách gọi của Việt nam, hay Biển Tây theo cách gọi của
Philippines, hoặc Biển Nam Hải theo cách gọi của Trung quốc v.v... mà
tên chung lâu nay ta thường thấy xuất hiện trên các bản đồ thế giới nói
chung là Biển Nam Trung hoa (South China Sea). Đây là một biển ven lục
địa có diện tích khoảng 3triệu 500 ngàn km², trải rộng từ Singapore tới
eo biển Đài Loan.
Vùng biển này và các đảo, quần đảo trên khu vực Biển Đông không thuộc về
chủ quyền của một quốc gia cụ thể nào đó, mà hiện nay đang là đối tượng
tranh chấp về chủ quyền giữa 07 quốc gia trong vùng như Trung quốc, Đài
loan, Philippines, Việt nam, Malayxia, Brunei và Indonexia. Vì quyền
lợi và lợi ích quốc gia của mình, nên hầu như các quốc gia kể trên đều
tự khẳng định có đầy đủ bằng chứng lịch sử để khẳng định toàn bộ, hay
phần lớn cũng như một số khu vực nhất định nào đó là chủ quyền bất khả
xâm phạm của họ.
Trong cục diện ở Biển Đông hiện nay cho thấy, Trung quốc ngày càng tỏ ra
hung hăng và hiếu chiến trong việc hoàn tất giấc mộng làm bá chủ ở Biển
Đông thông qua cái gọi là đường Lưỡi Bò chủ quyền 9 đoạn. Với giấc mộng
ấy, Trung quốc hy vọng sẽ chiếm tới 90% diện tích của Biển Đông, điều
mà họ đã từng khẳng định đó là sân sau của họ. Việc gần đây, Trung quốc
gấp rút gia tăng việc đảo hóa các bãi đá ngầm, để trở thành các đảo nhân
tạo, tạo cơ sở thiết lập vùng nhận diện phòng không (ADIZ) nhằm khống
chế không chỉ vùng biển mà kể cả vùng trời tại một phần lớn khu vực Biển
Đông. Điều đó cho thấy phía Trung quốc đã không chỉ vi pháp luật pháp
quốc tế mà sẽ gây cản trở quyền tự do hàng hải, hàng không của các quốc
gia khác.
Đó chính là lý do khiến các quốc gia như Hoa kỳ, Nhật bản, Australia...
và kể cả Liên minh Châu Âu (EU) đã lớn tiếng cảnh báo chính sách bành
trướng của Trung quốc. Không chỉ thế, các quốc gia đó cũng khẳng định
việc sẽ tăng cường sự hiện diện về mặt quân sự của họ ở vùng biển này,
để tuần tra nhằm đảm bảo an ninh hàng hải trên Biển Đông. Dư luận cho
rằng, đã đến lúc Hoa kỳ và các nước phương Tây sẽ không ngồi yên để
Trung quốc mặc sức lộng hành, nhằm bắt nạt các nước nhỏ ở khu vực và nếu
Trung quốc không thay đổi về lập trường của họ đối với việc bồi đắp các
đảo nhân tạo thì việc xung đột quân sự sẽ là điều khó có thể tránh
khỏi.
Hiện nay, tham vọng của Trung quốc đã vấp phải phản ứng dữ dội của các
nước nhỏ trong khu vực có liên quan đến chủ quyền trên Biển Đông. Trước
hết là Philippines một quốc gia đã chịu nhiều ảnh hưởng của chính sách
bành trướng trên Biển Đông của Trung quốc. Và gần đây nhất là Việt nam,
một quốc gia cùng ý thức hệ cộng sản với Trung quốc, cũng đã đến lúc cho
thấy họ đã gần mất hết kiên nhẫn với người đồng chí tốt của họ. Việt
nam đã có những biểu hiện cho thấy ngày một xích lại gần Hoa kỳ hơn, mới
nhất là chuyến thăm Việt nam của ông Ashton Carter Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ và sắp tới là chuyến thăm Hoa kỳ của TBT Nguyễn Phú Trọng, một người
trên danh nghĩa là người đứng đầu hệ thống chính quyền ở Việt nam.
Nếu chiến tranh trên Biển Đông xảy ra?
Việc nổ ra xung đột Trung -Mỹ trên Biển Đông là khó có thể xảy ra, hai
bên sẽ hết sức kiềm chế. Đặc biệt là phía Trung quốc, một khi xung đột
trên Biển Đông nếu xảy ra thì con đường vận chuyển hàng hóa quan trọng
bậc nhất của Trung quốc sẽ tê liệt thì nền kinh tế khổng lồ của Trung
quốc sẽ ngắc ngoải. Chính vì thế có thể thấy rằng, chính quyền Trung
quốc chỉ già mồm, chứ không dám đánh. Đó là chưa kể đến tiềm lực quân sự
của Trung quốc chưa thể địch lại riêng Hoa kỳ, chứ đâu cần đến các quốc
gia khác vốn là đồng minh chiến lược của Hoa kỳ trong khu vực.
Mới đây, nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn đã có bài viết "Tam anh chiến
Lữ Bố?", khi đề cập đến câu hỏi "Chiến tranh có thể xảy ra khi nào ?",
tác giả đã có bình luận và đánh giá đáng chú ý như sau:
"Chiến tranh sẽ không xảy ra giữa Mỹ và đồng minh với TQ nếu TQ chiếm
các đảo hiện do VN nắm giữ, trong trường hợp TQ cam kết bảo đảm quyền
tự do hàng hải và hàng không trên khu vực Biển Đông. Đối với VN, có thể
xảy ra vài đụng chạm, nhưng mọi việc sẽ ổn thỏa vì VN quá lệ thuộc vào
TQ, về chính trị cũng như về kinh tế. Một tình huống «Malouines», chiến
tranh giữa Anh và Argentine, về chủ quyền đảo Malouines, có thể xảy ra
tương tự. Mỹ có thể sẽ cung cấp cho VN một số vũ khí « đặc biệt » để VN
có thể hạ một số chiến hạm, tàu ngầm và máy bay của TQ, như trường hợp
Pháp cung cấp cho Argentine máy bay Mirage và hỏa tiễn Exocet. Cuộc
chiến Malouines Anh dành chiến thắng nhưng thiệt hại nặng vì các chiến
hạm của Anh bị vũ khí của Pháp bắn chìm.
Chiến tranh chắc chắn sẽ xảy ra giữa Mỹ (và đồng minh) với TQ, nếu
nước này cương quyết chiếm trọn Biển Đông và ngăn chặn việc tự do hàng
hải (và hàng không). Không phải như trường hợp khi Nga chiếm Crimé và
miền Đông Ukraine, việc này không đe dọa Tây phương. Biển Đông là đường
huyết mạch cho kinh tế của Mỹ, Nhật, Đại Hàn và nhiều nước khác. Biển
Đông vì vậy thuộc về phạm vi « không gian sinh tồn » của Mỹ, Nhật, Đại
Hàn và các nước.
Nếu chiến tranh xảy ra trong tình huống này, nếu VN đứng về phía Mỹ,
thì TQ có nhiều sác xuất thua trận. VN sẽ phụ trách cuộc chiến trên bộ,
được Mỹ trợ giúp quân sự, sẽ đánh chiếm Nam Ninh, Khâm Châu, tiến qua
phong tỏa eo biển Quỳnh Châu, cùng với Mỹ và Nhật chiếm đảo Hải Nam. Hải
quân và không quân của TQ sẽ bị tiêu diệt. Chiến tranh sẽ sớm kết thúc.
VN sẽ lấy lại HS và TS. Đây có thể gọi là thế « tam anh chiến Lữ Bố ».
Lữ Bố là TQ. Nhị anh là Nhật và Mỹ. Còn lại là VN.
Nếu VN không đứng về phía nào, (theo như lập trường hiện nay), thì
cuộc chiến sẽ hạn chế trên biển và trên không. Cuối cùng thì Mỹ và Nhật
cũng thắng. Trường hợp này, các đảo HS và TS sẽ thuộc về phe chiến thắng
(như là chiến lợi phẩm)."
Qua phân tích trên cho thấy, Việt nam cần khẩn trương chuẩn bị cho một lựa chọn phù hợp khi tình hình Biển Đông nổi sóng.
Sự lựa chọn của Việt nam
Chính sách đối ngoại của nhà nước Việt nam hiện nay, với lập trường và
quan điểm dứt khoát là, Việt nam không liên minh hay liên kết với bất kỳ
nước nào để chống lại bên thứ 3. Đó chính là lập trường "ba không" của
nhà nước Việt Nam trong công tác đối ngoại. Nội dung của chính sách "ba
không" cụ thể là, Việt Nam cam kết "không tham gia các liên minh quân
sự và không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho nước
nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam, không dựa vào nước nào để chống nước
khác". Đây là điều mà những người không ủng hộ chủ trương này cho là "chính sách ngoại giao du dây".
Những người này, là những người có xu hướng ủng hộ các giá trị tự do,
dân chủ theo kiểu Mỹ, mà ở Việt nam người ta gọi là những người có chủ
trương ủng hộ phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ, đòi hỏi cải cách
chính trị để đưa Việt nam thoát khỏi chế độ cai trị độc đảng toàn trị
theo đường lối cộng sản. Theo họ, Việt nam cần phải ngả hẳn, thậm chí là
dựa hẳn vào Mỹ và cần thiết còn phải là một đồng minh chiến lược thông
qua việc tham gia một liên minh quân sự trong đó có Mỹ để bảo vệ chủ
quyền của mình trên Biển Đông.
Tuy vậy, tác giả bài viết tin rằng đa số những người có quan điểm nói trên, chưa nghĩ tới tình huống "Nếu
như trước đây hay hiện nay Việt nam ngả hẳn hay dựa vào Hoa kỳ để chống
lại Trung quốc, khi chưa xảy ra xung đột Biển Đông thì điều gì sẽ xảy
ra?" Câu trả lời là, với một vị trí biên giới tiếp giáp với Trung
quốc, Lào và Campuchia, nhất là trong bối cảnh Trung quốc đã nắm chắc
trong tay con bài Campuchia và đang dần thôn tính Lào, thì liệu Việt nam
khi đó có đứng vững với nạn phỉ hay sự bất mã của các sắc tộc ít người ở
vùng biên giới của mình hay không? Đó là chưa kể đến các chính sách trả
đũa về kinh tế và trên nhiều lĩnh vực khác, trong lúc nền kinh tế Việt
nam phần lớn là dựa vào Trung quốc như hiện nay.
Chắc hẳn, bài học về chính sách đối đầu với Trung quốc giai đoạn lịch sử
1975-1990, trước và sau cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 xảy ra. Từ
đó dẫn tới những hậu quả về việc mất ổn định về mọi mặt kinh tế- xã hội
chúng ta chưa thể nào quên. Hay bài học xung đột giữa chính quyền
Myanmar với sắc tộc thiểu số ở biên giới Trung quốc - Myanmar gần đây,
đang có nguy cơ chuyển thành xung đột giữa quân đội hai nước. Đừng quên
Trung quốc là "vua" kích động các sắc tộc thiểu số để gây bất ổn và với
sức mạnh kinh tế có trong tay, thì họ có thể hành xử với Việt nam các
kiểu, nếu như họ muốn.
Tuy nhiên, người ta thường nói mọi lý thuyết về chính trị, an ninh nhiều
khi cũng là màu xám và cái đó không phải là bất biến. Một khi môi
trường an ninh thay đổi thì khi đó chính sách đối ngoại của Việt nam
chắc chắn sẽ phải thay đổi, nghĩa là lúc đó chính sách "ba không" của
Việt nam sẽ không đáp ứng được đòi hỏi nếu như khi tình hình Biển Đông
xảy ra xung đột giữa các bên Trung - Nga và một bên là các nước lớn còn
lại đứng đầu là Mỹ. Lúc đó, Việt nam không có bất kể lựa chọn lừng khừng
nào khác, mà dứt khoát phải lựa chọn chỗ đứng một bên cho mình.
Tuy điều đó còn đang ở phía trước, song cái cần là sự chuẩn bị và tính
toán trước của lực lượng đấu tranh dân chủ ở Việt nam, để khi tình huống
xảy ra sẽ không phải bất ngờ và ở thế bị động. Trường hợp vào thời điểm
đó, nếu chính quyền Việt nam hiện tại cố ngả theo Trung quốc, thì đó là
hồng phúc cho dân tộc, vì chính quyền ấy sẽ không thể tồn tại và tát
yếu sẽ sụp đổ. Thay vào đó là một chính quyền thân phương Tây. Đây là lý
do giải thích vì sao những người lãnh đạo Việt nam hiện nay tự nhiên
lại tỏ ra thân thiện và nhân nhượng hơn với Hoa kỳ về một số điểm vào
thời điểm này.
Kết
Được biết, bên lề Hội nghị Shangri-La lần thứ 14 vừa kết thúc tại
Singapore, ông Ashton Carter Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ có nói với báo chí
nói rằng “Tại Châu Á, vẫn có môt số nước nghiêng về phía Trung Quốc,
một số khác thì nghiêng về phía Hoa Kỳ, nhưng hầu hết thì không muốn
phải có một sự lựa chọn dứt khoát nào, và tôi nghĩ rằng điều này cần
thiết để giữ sự đa dạng trong quan hệ ngoại giao ngay tại khu vực, trong
thời gian tới”. Đây là một phát biểu đáng chú ý. Điều này cho thấy,
tại thời điểm này chính sách ngoại giao "ba không" của Việt nam dưới
con mắt của một chính khách Hoa kỳ là phù hợp và có thể chấp nhận được.
Có ý kiến cho rằng, chính sách "ba không" này của Việt nam mang hơi
hướng của chính sách ngoại giao cây tre của Thái lan (!?), với ý nghĩa
cái đó có thể ngả ngiêng theo chiều gió, nhưng không bao giờ đổ, để giữ
gìn lợi ích quốc gia là trên hết.
Trong thế kỷ XX vừa qua, người Việt nam ở cả hai phía, Cộng hòa và cả
Cộng sản đã nhiều lần đã phải trả giá đắt cho chính sách ngoại giao dựa
vào một bên để chống một bên trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh. Đặc
biệt là những người sống dưới chế độ VNCH, đã nhiều lần chứng kiến người
Mỹ phản bội, thậm chí là bỏ rơi họ. Như trong vụ đảo chính và hạ sát
Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11/1963 và Hiệp định Paris về lập lại
hòa bình ở Việt nam và những người cộng sản miền Bắc cũng bị Nga, Tàu
đối xử không kém.
Và có lẽ đấy là những bài học về chính sách ngoại giao mà những người
quan tâm đến chính trị cần phải ghi nhớ, chứ xin đừng suy nghĩ theo cảm
tính và ý thích của cá nhân mình.
Ngày 04 tháng 06 năm 2015
© Kami
(Blog RFA)