Cà Kê Dê Ngỗng
Buổi hoàng hôn của Đảng Cộng sản Trung Quốc
hiến lược sinh tồn của ĐCSTQ sau sự kiện Thiên An Môn đang hết tác dụng và chiến lược mới dường như lại thúc đẩy nhanh hơn sự sụp đổ của nó.
Trong giai đoạn sau Chiến tranh lạnh
(Cuộc chơi giành vương quyền kiểu Châu Á)
Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân): "The Twilight of Communist Party Rule in China" American Interest, 15-12-2015, Bản dịch của Phạm Gia Minh
Chiến
lược sinh tồn của ĐCSTQ sau sự kiện Thiên An Môn đang hết tác dụng và
chiến lược mới dường như lại thúc đẩy nhanh hơn sự sụp đổ của nó.
Trong giai đoạn sau Chiến tranh lạnh chưa có chế độ chuyên chế nào trên thế giới lại thành công như ĐCSTQ.
Năm 1989 chính quyền đã có một cuộc đàn áp đẫm máu và chết chóc nhưng
được bưng bít khi hàng triệu người phản kháng biểu tình trên hầu hết các
thành phố chính trong cả nước để kêu gọi dân chủ và trút sự căm giận
của mình lên chính quyền tham nhũng. Đảng chỉ thoát chết nhờ sự trợ giúp
của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) với hàng đoàn xe tăng
nghiến nát những người biểu tình ôn hòa trên khu vực quảng trường Thiên
An Môn ở Bắc kinh ngày 4 tháng 6. Một phần tư thế kỷ kể từ thời điểm
cuộc thảm sát Thiên An Môn đã trôi qua nhưng ĐCSTQ luôn phớt lờ mọi dự
báo về hồi kết không tránh khỏi của mình. ĐCSTQ đã sống sót sau cú sốc
của Liên xô sụp đổ và còn thích ứng được với cuộc khủng hoảng tài chính
Châu Á những năm 1997-1998, khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Kể
từ sự kiện Thiên An Môn, nền kinh tế Trung Quốc đã tăng gần 10 lần theo
các điều khoản thực tế. GDP tính theo đầu người đã tăng từ 980$ lên
13.216 $ tính theo sức mua tương đương (PPP) trong cùng giai đoạn, đưa
quốc gia này lên hàng ngũ các nền kinh tế có thu nhập trên trung bình.
Một
cách dễ hiểu thành tích đó đã khiến nhiều nhà quan sát, kể cả những
người từng trải về Trung Quốc tin tưởng rằng ĐCSTQ đã trở thành một chế
độ chuyên chế dẻo dai với nhiều sức mạnh nội tại mà đa phần các chế độ
chuyên chế khác không có. Ngoài ra, ĐCSTQ được biết đã xây dựng một quy
trình hiệu quả cho việc lựa chọn đội ngũ lãnh đạo kế thừa dựa trên các
quy định, chuẩn mực để phát hiện những công chức có năng lực cho hệ
thống nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Khác với chế độ cứng nhắc kiểu Xô
viết dưới thời Leonid Bregiơnhev, ĐCSTQ đã thể hiện năng lực đáng nể
trong học hỏi và thích ứng (1).
Đáng
tiếc là đối với những người ủng hộ lý thuyết về sự “chuyên chế dẻo
dai”“ các giả định của họ, bằng chứng và những kết luận rút ra ngày càng
khó bảo vệ dưới ánh sáng của những diễn biến gần đây ở TQ. Các biểu
hiện của cuộc chiến quyền lực căng thẳng trong giới lãnh đạo cao cấp,
tham nhũng tràn lan, tính năng động kinh tế bị đánh mất và chính sách
đối ngoại hung hăng tiềm ẩn nhiều rủi ro, tất cả đều đang hiển hiện. Kết
quả là ngay một số học giả mà công trình của họ gắn liền với luận đề về
chế độ chuyên chế dẻo dai cũng đã buộc phải tự nhìn nhận lại (2). Càng
ngày càng thấy rõ rằng những diễn biến gần đây làm thay đổi nhận thức về
tính bền vững của ĐCSTQ không mang tính chu kỳ mà có tính hệ thống.
Chúng là triệu chứng cho thấy sự suy kiệt, hết tác dụng của sách lược
sinh tồn mà chế độ đã đề ra sau biến cố Thiên An Môn. Một số trụ cột của
sách lược đó như sự đoàn kết của tầng lớp lãnh đạo cao cấp, tính hợp
pháp dựa trên hiệu quả, sự tham gia của các giai tầng tinh hoa trong xã
hội và chủ trương kiềm chế chiến lược trong đối ngoại đã hoặc là đã sụp
đổ hoặc trở nên sáo rỗng buộc ĐCSTQ phải ngày càng phải dựa vào đàn áp
và kích động chủ nghĩa dân tộc để tiếp tục cầm quyền.
Bởi
lẽ đó, giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đang phải đối mặt với một sự
lựa chọn quả quyết nhất kể từ sự kiện Thiên An Môn: mô hình phát triển
tư bản thân hữu độc tài chuyên chế sau 1989 thì nay đã chết và giờ đây
họ chỉ có thể hoặc là tham khảo Đài loan và Hàn quốc để dân chủ hóa,
giành được cội nguồn bền vững cho tính hợp pháp, hoặc là sẵn sàng thực
thi chính sách đàn áp gia tăng để duy trì chế độ một đảng cầm quyền.
Việc họ sẽ lựa chọn như thế nào sẽ có ảnh hưởng không chỉ Trung Quốc mà
cả châu Á và toàn thế giới.
Bất chấp hình ảnh có tính đại chúng về các cuộc cách mạng “quyền lực nhân dân” hay “mùa Xuân Ả rập”,
cội nguồn quan trọng duy nhất của sự thay đổi trong các chế độ chuyên
chế chính là sự sụp đổ của tính đoàn kết trong giới lãnh đạo cấp cao.
Diễn biến này có nguyên nhân chủ yếu là do gia tăng mâu thuẫn và xung
đột trong giới lãnh đạo cấp cao đối với vấn đề sách lược tồn vong của
chế độ và phân chia quyền lực cũng như lãnh địa bảo trợ. Kinh nghiệm
chuyển đổi dân chủ từ giữa những năm 1970 cho thấy một khi chính quyền
chuyên chế đối mặt với những thách thức đến từ các lực lượng xã hội đòi
hỏi các đổi thay về chính trị thì vấn đề gây chia rẽ nội bộ giới lãnh
đạo cấp cao chính là hoặc đàn áp các lực lượng đó thông qua leo thang
bạo động hoặc là hòa giải với chúng thông qua quá trình tự do hóa.
Khi
lực lượng cải cách chiếm ưu thế các bước ban đầu tiến tới chuyển đổi
chế độ diễn ra tiếp theo thường là giảm nhẹ sự quản chế về chính trị và
xã hội. Nếu như lực lượng cứng rắn thắng trong cuộc đấu thì đàn áp sẽ
mạnh hơn nhưng các cuộc đụng độ xã hội và chính trị cũng sẽ leo thang và
điều này sẽ tiếp diễn cho tới khi chế độ phải đối mặt với cuộc khủng
hoảng khác buộc nó phải xem xét lại câu hỏi phải chăng đàn áp là sách
lược đúng đắn nhất (3). Một dạng chia rẽ phổ biến khác trong giới lãnh
đạo cấp cao đó là những xung đột do phân bổ quyền lực và đi cùng với nó
là ranh giới các lãnh địa của sự bảo trợ (đôi khi đó cũng là sự bảo kê
về kinh tế và chính trị - ND).Trong các chế độ chuyên chế được hình
thành vững chắc, ví như ở các quốc gia hậu toàn trị (post- totalitarian)
do đảng CS Leninit lãnh đạo thì xung đột này có xu hướng gia tăng khi
mà cuộc ganh đua giành quyền lực dẫn tới tình trạng vi phạm các quy tắc
và chuẩn mực được thiết lập từ lâu (ví dụ như làm trái Điều lệ Đảng -
ND) nhằm bảo vệ sự cân bằng tinh tế về quyền lực trong giới lãnh đạo
tinh hoa cũng như vì sự an toàn thân thể của họ. Trong nhiều trường hợp,
nếu như không phải là tất cả các trường hợp – và Trung Quốc cũng không
là ngoại lệ - khi những vi phạm đó được cam kết bởi các nhóm gia đình và
điều này thể hiện một sự cha truyền con nối trong chính trị (4).
Trong
trường hợp Trung Quốc, sự sụp đổ của tính đoàn kết trong giới lãnh đạo
cấp cao phát sinh không từ cuộc tranh cãi giữa những người theo đường
lối cứng rắn với những người cải cách mà lại bởi cuộc đấu đá nội bộ giữa
những người theo đường lối cứng rắn với nhau để giành thế thượng phong.
Dấu
hiệu khởi phát của sự mất đoàn kết trong giới chóp bu chính là việc
thanh trừng Bạc Hy Lai, một cựu lãnh đạo đang bay cao của ĐCS ở Tứ Xuyên
ngay trước Đại hội ĐCSTQ lần thứ 18 năm 2012. Sau này các sự kiện đã
cho thấy sự ra đi của họ Bạc chỉ là khúc dạo đầu cho một cuộc thanh
trừng làm sạch nội bộ ĐCS lớn nhất kể từ thời Cách mạng văn hóa. Sau
đó,Tập Cận Bình, người thắng cuộc đã chính thức đảm nhận vị trí TBT đồng
thời là Chủ tịch quân ủy PLA vào tháng 11/2012 liền triển khai một
chiến dịch chống tham nhũng hung hãn chưa từng thấy nhằm đạt được thế
thượng phong chính trị qua con đường tiêu diệt các đối thủ của mình. Cho
dù chiến dịch do họ Tập khởi xướng ngày một trở nên lan rộng nhưng
dường như sau một đêm nó đã tháo rời toàn bộ hệ thống mà giới lãnh đạo
tinh hoa của ĐCSTQ đã dày công xây nên trong thời kỳ hậu Thiên An Môn
nhằm gìn giữ tính đoàn kết, thống nhất của họ.
Có
ba trụ cột chống đỡ cho hệ thống này. Cái thứ nhất là sự cân bằng tinh
tế của quyền lực chính trị ở chóp bu được biết đến dưới cái tên sự lãnh
đạo tập thể được thiết kế ra nhằm ngăn chặn sự xuất hiện của một lãnh tụ
kiểu Mao Trạch Đông, người đã có thể áp đặt ý chí của mình cho toàn
đảng. Trong hệ thống này mọi quyết định quan trọng đã được hình thành
thông qua quá trình xây dựng sự đồng thuận và thỏa hiệp nhằm bảo đảm
quyền lợi của các lãnh đạo cấp cao cùng nhóm lợi ích của họ. Cột trụ thứ
hai là an toàn cá nhân tuyệt đối cho các lãnh tụ chóp bu, được xác định
bất kể đương chức hay đã về hưu đối với các Ủy viên thường vụ BCT cũng
đã tiêu tan cùng với sự rớt đài của Zhou Yongkang (Chu Vĩnh Khang) – một
cựu ủy viên thường vụ BCT, người đứng đầu ngành an ninh nội bộ đã lãnh
án tù chung thân vào năm 2015 sau khi bị kết tội tham nhũng. Những nỗ
lực chống tham nhũng và các biện pháp khắc khổ đi kèm theo đã chấm dứt
ít ra là tạm thời thực trạng chia chác của cướp được trong giới lãnh đạo
cấp cao, gây ra cho họ nhiều nỗi đắng cay và theo báo cáo thì điều này
đã thúc đẩy họ chống đối bằng cách ngưng trệ công việc. Trong khi còn
nghi vấn liệu cuộc chiến chống tham nhũng của họ Tập sẽ thực sự nhổ được
tận gốc vấn nạn này hay không thì nó đã rất thành công trong việc phá
nát cấu trúc khuyến khích bên trong của chế độ được hình thành sau biến
cố Thiên An Môn.
Xét
về bản chất riêng của mình, sự chuyển biến từ “ lãnh đạo tập thể” sang “
nguyên tắc một cá nhân mạnh lãnh đạo” chưa chắc đã làm sáng tỏ một cách
cần thiết thứ chủ nghĩa Lê Nin mang màu sắc Trung Quốc. Tuy vậy, kết
cục ban đầu dễ thấy nhất của sự chuyển biến này cho đến nay đó là sự bốc
hơi của tính đoàn kết, thống nhất - chất keo đã gắn kết cả một hệ thống
hình thành sau biến cố Thiên An Môn. Mặc dù vậy hiện nay chưa thấy
những dấu hiệu thách thức quyền lực của Tập Cận Bình trong ĐCSTQ và có
thể đánh cuộc một cách an toàn khi cho rằng các đối thủ của họ Tập đang
đấu thầu thời gian để đợi tới thời điểm phù hợp thì sẽ đánh trả.
Nếu
như sự mất đoàn kết và thống nhất trong giới tinh hoa đang bị biến
thành cuộc đấu chính trị cuối cùng để giải quyết chanh chấp dẫn tới sự
chối bỏ hệ thống mà họ Tập đang cố gắng xây dựng thì chỉ có thể xẩy ra 2
kết cục. Một- đó là trở lại với hệ thống tham nhũng hậu Thiên An Môn.
Nhìn bề ngoài, điều này có vẻ như một giải pháp nhiều cám dỗ và hứa hẹn
nhất, tuy nhiên lại bất khả thi bởi lẽ một số điều kiện cơ sở làm nền
móng cho hệ thống hậu Thiên An Môn, cụ thể là sự tăng trưởng kinh tế do
đầu tư mang lại và sự hài lòng về chính trị của tầng lớp trung lưu được
bảo đảm bởi sự thịnh vượng gia tăng chưa từng có phần lớn đã biến mất.
Nếu như nguyên trạng như trước đây không thể phục hồi thì ĐCSTQ sẽ cần
một lối thoát khác. Trong khi mà chưa ai có thể biết ĐCS sẽ lựa chọn gì
thì cũng đáng để nhớ lại rằng,vào những thời khắc đó ĐCS sẽ cố thử lại
và tận dụng đến cùng 3 mô hình quản trị chuyên chế: đó là Maoit (Chủ
nghĩa Cộng sản cực đoan), Đặng (chủ nghĩa tư bản thân hữu) và Tập (cá
nhân mạnh lãnh đạo). Thật mỉa mai là ĐCSTQ có thể bị rơi vào tình thế
tuyệt vọng và tàn khốc như ĐCS Liên xô vào giữa những năm 1980: đó là
thiếu ý tưởng và chiến lược phục vụ việc duy trì mãi mãi hệ thống lãnh
đạo độc đảng và khi đó nó có thể đủ tuyệt vọng tới mức dám đánh cược vào
bất cứ thứ gì, kể cả cải cách dân chủ và đa nguyên chính trị như là
sách lược lâu dài để giúp ĐCS có sức sống trong một đất nước Trung Hoa
đã chuyển biến hoàn toàn bởi quá trình hiện đại hóa đời sống kinh tế- xã
hội.
Nếu
như tính đoàn kết, thống nhất là chất kết dính của hệ thống hậu Thiên
An Môn thì hiệu suất kinh tế như mọi người đều thừa nhận đó chính là cội
nguồn quan trọng cho tính hợp pháp trong quần chúng của đảng cầm quyền.
Một phần tư thế kỷ phát triển với tốc độ cao đã đem lại cho ĐCSTQ thời
kỳ tương đối ổn định xã hội cùng với những nguồn lực khổng lồ để tăng
cường năng lực đàn áp và mua chuộc những giới tinh hoa xã hội mới cùng
tầng lớp trung lưu đang nổi lên ở các vùng đô thị. Tuy nhiên, hiện nay
khi mà “ sự thần kỳ kinh tế của TQ” đã kết thúc thì cột trụ thứ 2 của hệ
thống hậu Thiên An Môn cũng đang sụp đổ theo.
Nhìn
bề ngoài, sự suy giảm mạnh của kinh tế Trung Quốc có vẻ như là một sự
giảm tốc tự nhiên sau mấy thập kỷ tăng trưởng nóng. Nhưng một cái nhìn
gần hơn vào nguyên nhân dẫn đến “ sự rớt đài vĩ đại của TQ” cho ta thấy
chính những trở ngại mang tính cơ cấu và thể chế chứ không phải các yếu
tố mang tính chu kỳ mới là chủ đạo và Trung Quốc đang bước vào một giai
đoạn phát triển kinh tế từ thấp tới khiêm tốn nên điều này sẽ rất nguy
hiểm đối với tính hợp pháp của ĐCSTQ.
Tin
tức của báo chí về những rắc rối kinh tế của Bắc Kinh gần đây phần lớn
chỉ tập trung vào các biểu hiện dễ thấy và đầy kịch tính của căn bệnh
kinh tế Trung Quốc chẳng hạn như sự sụp đổ của thị trường chứng khoán
mang tính bong bóng hay việc đồng Nhân dân tệ mất giá một cách đáng ngạc
nhiên. Tuy nhiên, sự suy giảm tăng trưởng của Trung Quốc có cội rễ sâu
xa hơn.
Về
mặt cơ cấu, sự tăng trưởng nhanh của Trung Quốc thời kỳ hậu Thiên An
Môn đã được thúc đẩy chủ yếu bởi các nhân tố và hoàn c ảnh xảy ra một
lần và không lặp lại (one- off) chứ không nhờ tính ưu việt có mục đích
của nhà nước chuyên chế. Trong số các nhân tố và hoàn cảnh đó thì nhân
tố “ cổ tức nhân khẩu học” (demographic dividend) là quan trọng nhất vì
nó đã cung ứng gần như không có giới hạn đội ngũ công nhân Trung Quốc
trẻ, khỏe lương thấp để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa. Ngoài
chuyện lương thấp, các công nhân từ nông thôn lên thành phố có thể tạo
ra một sự gia tăng nhanh chóng năng suất lao động khi kết hợp với máy
móc, thiết bị mà không cần đào tạo thêm nhiều. Kết quả là chỉ riêng việc
tái bố trí lực lượng lao động dư thừa từ nông thôn sang các nhà máy,
cửa hàng thương mại và công trường xây dựng ở thành phố nền kinh tế đã
đạt năng suất lao động cao hơn. Theo số liệu của Trung Quốc, năng suất
lao động của một công nhân ở thành thị cao gấp 4 lần một nông dân. Trong
3 thập kỷ vừa qua có khoảng 270 triệu người lao động nông thôn (không
tính gia đình của họ) đã dịch chuyển ra thành thị và hiện nay chiếm tới
70% lực lượng lao động nơi đây. Một số nhà kinh tế ước tính rằng khoảng
20% tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong những năm 80 và 90 thế kỷ trước
là do tái bố trí lực lượng lao động nông thôn tạo nên.(5). Tuy nhiên
bởi vì dân số Trung Quốc đang già đi khá nhanh nên sự dịch chuyển dân số
ào ạt từ nông thôn ra thành thị đã đạt điểm đỉnh. Nhân tố thuận lợi
mang tính cơ cấu này chỉ xảy ra có một lần mà không lặp lại.
Một
cú hích tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng của Trung Quốc thời kỳ
hậu Thiên An Môn chính là việc quốc gia này ra nhập WTO vào năm
2001.Vào những năm 1990 tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc trung bình
đạt 15.4% hàng năm nhờ có sự hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tuy
nhiên sau khi ra nhập WTO Trung Quốc đã đạt tăng trưởng xuất khẩu 21.7%
trong suốt giai đoạn 2002-08. Sự gia tăng nhờ xuất khẩu bắt đầu chậm lại
sau 2011. Giữa các năm 2012 và 2014 xuất khẩu chỉ tăng trưởng có 7.1%
tức là bằng 1/3 tăng trưởng của thập kỷ trước đó. Bảy tháng đầu năm 2015
xuất khẩu co lại khoảng 1% , sự việc diễn ra có lẽ đã khiến Bắc kinh
nhanh chóng hạ giá đồng tiền của mình.
Nhưng
có lẽ khía cạnh gây rắc rối nhất trong triển vọng phát triển kinh tế
dài hạn của Trung Quốc chính là sự suy giảm lãi xuất từ các khoản đầu tư
được hoạch định bởi chiến lược tăng trưởng của quốc gia này. Trong tư
cách là một nước đang phát triển với số vốn tương đối thấp, ở thời kỳ
ban đầu Trung Quốc đã hưởng lợi lớn từ sự tăng trưởng bền vững của các
khoản đầu tư. Trong các năm 1980 Trung Quốc đã đầu tư trung bình khoảng
35.8% GDP vào các nhà máy, hạ tầng cơ sở và nhà ở. Tỷ lệ này đã tăng lên
42.8% trung bình trong các năm 2000 và đạt 47.3% từ năm 2010. Sự gia
tăng đầu tư ào ạt này đã tạo ra hơn một nửa mức tăng trưởng GDP của
Trung Quốc và là động cơ tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế trong hai
thập kỷ rưỡi.
Tuy nhiên tăng trưởng
dựa vào đầu tư trong bối cảnh của Trung Quốc có 3 hậu quả xấu. Một là
lãi xuất từ các khoản đầu tư giảm dần bởi lẽ mỗi đơn vị gia tăng của
đầu ra đòi hỏi phải đầu tư nhiều hơn và được tính bởi tỷ lệ vốn/sản
lượng (capital output ratio – lượng đầu tư cần thiết để sản xuất ra thêm
một đồng nhân dân tệ trong GDP). Trong những năm 1990 tỷ lệ sản lượng
vốn của Trung Quốc là 3.79 ,đến những năm 2000 đã tăng lên 4.38. Xu
hướng tăng trưởng đòi hỏi phải tăng đầu tư rõ ràng không mang tính bền
vững. Trung Quốc gần đây đầu tư gần như một nửa GDP của mình, một con
số phi thường đã trở thành hiện thực nhờ sự quản lý của nhà nước trong
phát triển hạ tầng cơ sở . Mức độ dư thừa công suất và phân bổ vốn bất
hợp lý cũng là một con số phi thường.
Một tác hại nữa gây
bất lợi cho nền kinh tế đó là các khoản đầu tư đã vắt kiệt tiêu dùng của
các hộ gia đình (36% GDP năm 2013 nếu so với 60% ở Ấn độ) làm nảy sinh
tình trạng mất cân đối cơ cấu khiến sự tăng trưởng bền vững hầu như là
không thể. Sự tăng trưởng đó cần bắt đầu từ việc quay lưng lại với
phương thức lấy xuất khẩu làm chủ đạo để trở lại với tăng trưởng thị
trường trong nước, tuy nhiên điều này không thể đạt được khi mà tiêu
dùng hộ gia đình đang ở mức thấp một cách giả tạo.
(xin bổ sung thêm
một ý giải thích vì sao tiêu dùng hộ gia đình nói riêng và thị trường
trong nước ở Trung Quốc luôn ở mức thấp đó là do chính sách hộ khẩu và
an sinh xã hội mang tính kỳ thị người nhập cư từ nông thôn ra thành thị
khiến họ phải gia tăng tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng để đề phòng khi ốm
đau, hết tuổi lao động thì còn có nguồn dự trữ - ND).
Chi
phí sau cùng của tăng trưởng dựa vào đầu tư đó là quá trình này được
cung cấp tài chính bởi các khoản tín dụng và sau đó đầu tư vào vào những
ngành công nghiệp đã dư thừa công suất tới mức nguy hiểm. Với tỷ suất
dư nợ / GDP vượt ngưỡng 280% GDP hiện nay (so sánh với 121% năm 2000)
rủi ro của sự bùng nổ toàn diện một cuộc khủng hoảng tài chính đã tăng
cao bởi lẽ những con nợ lớn là chính quyền địa phương, các doanh nghiệp
nhà nước và các doanh nghiệp phát triển bất động sản chỉ sở hữu năng lực
chi trả yếu kém do nền tảng các nguồn thu từ thuế khá eo hẹp (với các
chính quyền địa phương), dư thừa công suất và lợi nhuận thấp (với các
doanh nghiệp nhà nước), bong bóng bất động sản xì hơi (với các doanh
nghiệp phát triển bất động sản).
Nếu
những rắc rối trong tương lai phát triển kinh tế dài hạn của Trung Quốc
đơn thuần chỉ mang tính cơ cấu thì tương lai của đất nước chưa đến mức
tàn khốc. Những cuộc cải cách hiệu quả có thể tái phân bổ nguồn lực một
cách hữu hiệu giúp cho nền kinh tế có năng suất cao hơn. Tuy nhiên thành
công của những cải cách đó lại gắn kết chặt chẽ với bản chất của nhà
nước Trung Quốc và các thể chế chính trị của nó. Việc tạo ra của cải một
cách bền vững chỉ có thể tồn tại ở các quốc gia nơi mà quyền lực chính
trị bị giới hạn bởi luật pháp, quyền sở hữu tư nhân được bảo đảm thực sự
và có nhiều phương tiện để tiếp cận các cơ hội. Ở các quốc gia bị chi
phối bởi một nhóm nhỏ cầm quyền thì xảy ra điều ngược lại: những kẻ nắm
quyền điều hành chính trị sẽ trở thành dã thú, sử dụng những công cụ
cưỡng bách của quốc gia để bòn rút của cải từ xã hội, bảo vệ đặc quyền
của mình và làm nghèo người dân (6)
Quả
thực các chính sách kinh tế của ĐCSTQ đã thay đổi tới mức không thể
nhận ra kể từ thời Mao. Tuy nhiên, đảng và nhà nước Trung Quốc còn chưa
từ bỏ bản năng dã thú cùng các thể chế của mình. Bất chấp những lời tự
nhận hùng biện về tôn trọng thị trường và quyền sở hữu, thực tế chỉ đạo
và chính sách của các tầng lớp lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc cho thấy
họ không tôn trọng quyền sở hữu tư nhân và cũng chẳng muốn bảo vệ nó.
Bằng chứng về sự thiếu vắng mong muốn hạn chế những bản năng và thèm
muốn dã thú của nhà nước độc đảng lãnh đạo chính là việc giới lãnh đạo
chóp bu không dấu diếm sự thù hằn đối với bất kỳ ý tưởng nào về chủ
nghĩa hợp hiến mà bản chất của nó là đặt ra những giới hạn phải được
thực thi đối với chính quyền và những người nắm quyền lực. ĐCSTQ khước
từ mọi giới hạn đối với quyền lực của mình và trên thực tế đã dẫn đến
việc Trung Quốc không thể có thể chế tư pháp độc lập hoặc các tổ chức
điều hành đủ năng lực thực thi pháp luật. Bởi lẽ, các nền kinh tế thị
trường đích thực không thể hoạt động nếu thiếu những thể chế và tổ chức
như vậy, cho nên rõ ràng là một khi đảng tự đặt mình cao hơn luật pháp
thì cải cách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường là điều bất khả thi.
Nhiều
nhà quan sát lập luận rằng chế độ độc đảng này tuy thế vẫn đủ năng lực
thực hiện các cải cách mang tính thị trường với dẫn chứng là diễn biến
lịch sử của thời kỳ sau Mao. Lý lẽ này đã bỏ qua một sự thật rất quan
trọng đó là những cải cách sau Mao tuy tạo ra ấn tượng bề nổi nhưng nay
đã cạn kiệt tiềm năng bên trong. Hơn thế nữa, cần phải hiểu rằng hệ
thống Maoit kém hiệu quả tới mức dù chỉ một vài cải cách mang tính bộ
phận đã có thể giải phóng sự gia tăng mạnh mẽ năng suất lao động, đặc
biệt là trong một xã hội mà năng lượng kinh doanh của người dân còn đang
bị sự khủng bố chuyên chế đè nén trong ba thập kỷ vừa qua. Điều quan
trọng hơn là những cải cách từng phần đó còn chưa đi vào các bộ phận
quan trọng trong nền móng kinh tế do ĐCSTQ lãnh đạo: đó là khu vực sở
hữu nhà nước với những tài sản có năng suất cao nhất như ruộng đất, tài
nguyên thiên nhiên, sản xuất điện, viễn thông, ngân hàng, các dịch vụ
tài chính và công nghiệp nặng. Chắc chắn không phải khu vực kinh tế tư
nhân năng động đang kìm hãm nền kinh tế Trung Quốc mà chính là các xí
nghiệp quốc doanh kém hiệu năng vẫn tiếp tục được nhận hỗ trợ và tiêu
phí dòng vốn quý giá (7).
Cải
cách kinh tế toàn diện và đích thực nếu được chấp nhận trên thực tế sẽ
đe dọa phá vỡ nền móng đó. Khả năng nhiều nhất là nó sẽ xóa bỏ phần lớn
sự kiểm soát hiện hữu đối với nền kinh tế và khối tài sản quốc gia khổng
lồ của Trung Quốc, kết cục sẽ là sự sụp đổ về mặt tổ chức của ĐCSTQ.
Đảng này cấp kinh phí và hỗ trợ một mạng lưới tổ chức hạ tầng cơ sở rộng
khắp của mình – các đảng bộ, đảng ủy các cấp và chi bộ …thông qua số
lượng lớn các quỹ đảng nhưng chính xác là bao nhiêu thì còn là một ẩn
số. Phần lớn kinh phí cho các tổ chức và hoạt động của đảng được tài trợ
từ ngân sách không minh bạch của nhà nước TQ. Nếu như ĐCSTQ từ bỏ sự
kiểm soát nền kinh tế của mình và các khoản chi tiêu của chính phủ được
minh bạch hóa thì đảng sẽ không còn nguồn tài chính để tồn tại. Sẽ không
thể duy trì các đặc quyền và bổng lộc hậu hĩ của đảng ví như chăm sóc
sức khỏe chất lượng cao, quỹ cho các hoạt động giải trí, nhà công vụ và
còn nhiều khoản phụ cấp đối với các quan chức như là tiêu chuẩn được
hưởng khi là thành viên của câu lạc bộ tầng lớp tinh hoa.
Còn
một hậu quả thảm khốc nữa của cải cách theo hướng thị trường đó là sự
sụp đổ của hệ thống bảo trợ mà ĐCSTQ sử dụng để đảm bảo có được sự trung
thành từ những người ủng hộ mình. Nền móng của hệ thống này là các
doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan kinh tế và các tổ chức điều hành do
đảng kiểm soát. Nếu như cải cách định hướng thị trường dẫn tới tư nhân
hóa thực sự các doanh nghiệp nhà nước ( nhóm doanh nghiệp này sản xuất
ít nhất cũng vào khoảng 1/3 GDP) thì ĐCSTQ sẽ không thể ban phát cho đội
ngũ trung thành với mình bằng những hợp đồng và công việc béo bở và
điều này đe dọa sẽ lấy đi sự ủng hộ của họ. Xin cung cấp thông tin rằng
trong bản hướng dẫn chi tiết kế hoạch kinh tế của ĐCSTQ phát hành mùa
Thu năm 2013 lãnh đạo đảng đã nhắc nhở đảng sẽ không bao giờ từ bỏ các
doanh nghiệp nhà nước.
Như
vậy, sự tiếp tục của các thể chế mang tính dã thú và bòn rút, cướp đoạt
ở Trung Quốc đang ngăn chặn những cải cách thị trường triệt để, toàn
diện và thành công. Tính bất khả thi của nhiệm vụ xây dựng một nền kinh
tế thị trường đích thực được hậu thuẫn bởi nguyên tắc thượng tôn pháp
luật có thể minh họa bằng câu ngạn ngữ Trung quốc khôn ngoan yuhumoupi có
nghĩa là đừng mặc cả với hổ về bộ da của nó. Triển vọng lâu dài cho sự
tăng trưởng kinh tế Trung Quốc là đáng bi quan bởi vì khu vực tăng
trưởng nhanh nhờ có cải cách từng phần và các nhân tố cũng như hoàn cảnh
thuận lợi chỉ diễn ra một lần đang chấm dứt. Một sự tăng trưởng bền
vững cho Trung Quốc sẽ đòi hỏi phải nhìn nhận lại triệt để thể chế kinh
tế và chính trị để đạt được hiệu quả cao hơn.Nhưng bởi lẽ bước đi quan
trọng có tính quyết định này sẽ hủy hoại nền tảng lãnh đạo của ĐCSTQ cho
nên khó có thể tin được rằng đảng sẽ cam kết tự vẫn về kinh tế và do đó
cả về chính trị. Những ai còn chưa bị thuyết phục bởi lập luận này hãy
nên đếm lại có bao nhiêu nhà độc tài trong lịch sử đã tự nguyện từ bỏ
các đặc lợi cùng đặc quyền kiểm soát nền kinh tế của mình nhằm mục đích
bảo đảm cho một tương lai thịnh vượng dài lâu của quốc gia.
Lừ lừ hướng tới đàn áp và chủ nghĩa dân tộc
Nếu
như tình trạng kinh tế trì trệ trong dài hạn đã được khẳng định thì sự
ủng hộ của tầng lớp trung lưu Trung Quốc với hiện trạng sẽ bị mai một.
Sự tham gia của tầng lớp đang tăng trưởng nhanh này là một trụ cột chủ
chốt nữa trong sách lược sinh tồn của ĐCSTQ thời kỳ sau biến cố Thiên An
Môn và đã góp phần vào sự bùng nổ kinh tế trong ¼ thế kỷ vừa qua. Kinh
tế phát triển chậm lại chắc chắn sẽ giảm bớt cơ hội, kỳ vọng và hạn chế
tính năng động đi lên đối với các thành viên của nhóm xã hội quan trọng
này và sự chấp nhận vai trò lãnh đạo của ĐCSTQ từ nhóm này chỉ là ngẫu
nhiên do vừa qua đảng đã mang đến sự phát triển kinh tế liên tục và đáng
hài lòng.
Cùng
với sự bốc hơi của (chất keo gắn) sự đoàn kết, thống nhất trong giới
lãnh đạo cấp cao, nguy cơ kinh tế trì trệ và thái độ xa lánh rất có thể
xảy ra của giới trung lưu thì mô hình hậu Thiên An Môn chỉ còn có 2 cột
trụ: đó là đàn áp và kích động chủ nghĩa dân tộc. Các chế độ chuyên chế
ngày nay vì thiếu tính hợp pháp trong công chúng (mà đáng ra phải đạt
được qua quá trình cạnh tranh chính trị) chủ yếu dùng ba phương tiện để
giữ quyền lực của mình. Một là mua chuộc quần chúng bằng các lợi ích vật
chất. Hai là đàn áp nhân dân bằng bạo lực và nỗi sợ. Ba là kêu gọi tình
cảm dân tộc của họ. Ở những chế độ chuyên chế tinh vi và thành công
những kẻ cầm quyền thường dựa vào tính hợp pháp có được nhờ thành tích
đạt được (mua chuộc) hơn là sử dụng nỗi sợ hãi và chủ nghĩa sô vanh hiếu
chiến. Nguyên nhân chính là đàn áp thì tốn kém mà chủ nghĩa dân tộc thì
có thể trở nên nguy hiểm. Trong thời kỳ hậu Thiên An Môn có thể tin
chắc rằng ĐCSTQ đã sử dụng cả 3 phương tiện, chủ yếu vẫn phụ thuộc vào
thành tích phát triển kinh tế nhưng vẫn dùng phương tiện đàn áp và chủ
nghĩa dân tộc một cách có chọn lọc như các biện pháp cầm quyền dự phòng.
Tuy
nhiên, những xu hướng kể từ khi Tập Cận Bình lên cầm quyền vào cuối năm
2012 cho thấy đàn áp và chủ nghĩa dân tộc được coi là đóng vai trò ngày
càng nổi bật trong chiến lược sinh tồn của ĐCSTQ. Lời giải thích hiển
nhiên là tăng trưởng kinh tế không chắc chắn của Trung Quốc đang gây nên
căng thẳng xã hội và bào mòn sự ủng hộ của quần chúng đối với ĐCS, và
như vậy buộc chế độ phải ngăn cản những thách thức tiềm ẩn từ xã hội
bằng sức mạnh và chuyển hướng sự chú ý của công chúng sang chủ nghĩa dân
tộc. Vậy mà nhiều nhà quan sát đã bỏ qua lời giải thích có giá trị này.
Một
chiến lược sinh tồn phụ thuộc vào việc đem lại tăng trưởng kinh tế nhằm
duy trì tính hợp pháp vốn dĩ không bền vững không chỉ bởi lẽ tăng
trưởng kinh tế là điều không thể bảo đảm chắc chắn và sự kỳ vọng của
công chúng thì bao giờ cũng gia tăng nên cũng không thể luôn luôn đáp
ứng được mà còn vì sự tăng trưởng kinh tế bền vững sẽ làm phát sinh
những thay đổi kinh tế- xã hội mang tính cơ cấu. Và chính những thay đổi
đó ắt sẽ đe dọa độ bền vững của chế độ chuyên chế như các nghiên cứu xã
hội học và lịch sử các cuộc chuyển đổi dân chủ đã cho thấy.
Các
nhà nước chuyên chế khi buộc phải chấp thuận tính hợp pháp dựa trên
thành tích phát triển (nguyên văn là Faustian bargain – giao kèo với quỷ
dữ - ND) thì mặc nhiên là chúng sẽ thua cuộc bởi lẽ những đổi thay kinh
tế- xã hội do tăng trưởng kinh tế đem lại sẽ củng cố năng lực tự trị
của các lực lượng xã hội ở thành thị, ví dụ như các nhà kinh doanh tư
nhân, trí thức, người làm nghề, các tín đồ tôn giáo, công nhân phổ thông
nhờ trình độ học vấn cao hơn, tiếp cận với thông tin dễ dàng hơn, tích
lũy được tài sản cá nhân nhiều hơn và năng lực tổ chức hoạt động tập thể
cũng được cải thiện. Nhiều công trình nghiên cứu hàn lâm đã chỉ ra sự
tương quan chặt chẽ giữa trình độ phát triển kinh tế với sự hiện diện
của dân chủ cũng như giữa thu nhập gia tăng với khả năng sụp đổ của các
chế độ chuyên chế (8). Trong thế giới ngày nay, mối tương quan tích cực
giữa tài sản (được tính bằng GDP theo đầu người) và dân chủ có thể được
thể hiện trong biểu đồ (9) và nó cho thấy tỷ lệ phần trăm các nền dân
chủ (được định nghĩa bởi tổ chức Freedom House) tăng đều đặn cùng với
mức tăng của thu nhập. Có một bộ phận các quốc gia dân chủ giảm trong
khi thu nhập tăng lên. Sự phân bố các quốc gia không dân chủ hoặc độc
tài trên biểu đồ đã hình thành nên đồ thị hình chữ U. Trong khi có nhiều
hơn các chế độ độc tài tồn tại ở những nước nghèo hơn (phần đáy của 2/5
các quốc gia có thu nhập trên đầu người ) thì sự hiện diện của chúng ở
phần trên của danh sách 2/5 các quốc gia dường như đã phản bác lại nhận
định cho rằng sự thịnh vượng có tương quan cùng chiều (nguyên văn tương
quan dương tính – ND). Tuy nhiên khi xem xét kỹ hơn số liệu sẽ thấy hầu
hết các quốc gia giàu có nhưng nằm dưới chế độ độc tài đều là những nước
sản xuất dầu mỏ, nơi mà giới tinh hoa cầm quyền có đủ năng lực tài
chính để mua chuộc người dân của mình để họ chấp thuận chế độ chuyên chế
(9).
Nguồn:
Tính toán sử dụng dữ liệu thu nhập dựa trên sức mua trên đầu người
(PPP) do Ngân hàng Thế giới cung cấp. Chỉ số tự do do Freedom House cung
cấp.
Những
nhà cầm quyền Trung Quốc nếu như nhìn qua biểu đồ sẽ cảm thấy lo lắng
cho triển vọng trong trung và dài hạn của mình. Hiện nay 87 quốc gia có
thu nhập theo đầu người (chuẩn PPP – sức mua tương đương – ND) cao hơn
Trung Quốc và 58 quốc gia trong số đó được đánh giá là có dân chủ, 11
quốc gia được Freedom House sếp hạng “ tự do một phần” và 18 quốc gia bị
coi là độc tài (nguyên văn là “ không tự do” theo Freedom House). Tuy
nhiên trong số 18 quốc gia “ không tự do” có thu nhập theo đầu người cao
hơn Trung Quốc thì có tới 16 quốc gia sản xuất dầu mỏ (Belarus được
tính trong nhóm này bởi vì được Nga trợ cấp đáng kể nhu cầu năng lượng),
Hai quốc gia không sản xuất đầu mỏ là Thái Lan (chính quyền quân sự độc
tài đã lật đổ chính quyền nửa dân chủ vào năm 2014) và Cuba (cũng là
một quốc gia Leninit độc đảng, độc tài). Trong số 11 quốc gia tự do một
phần Mexico và Malaysia là những nhà sản xuất dầu mỏ đáng kể trong khi
Cô oét và Venezuela là những nước sản xuất dầu mỏ kinh điển. Điều làm
cho các lãnh đạo của ĐCSTQ có thêm lý do để lo ngại đó là thu nhập tính
theo đầu người của Trung Quốc vào khoảng $ 13.216 (PPP) năm 2014 cũng
chỉ bằng mức của Đài Loan và Hàn Quốc vào cuối những năm 1980 khi cả hai
quốc gia này bắt đầu tiến trình dân chủ hóa (10). Nếu như kinh nghiệm
chuyển đổi thể chế ở các nước có thu nhập trên trung bình như Đài Loan
và Hàn Quốc có thể được đem ra tham khảo và áp dụng thì ĐCSTQ cần phải
tính đến nhu cầu và những sự vận động xã hội đang dâng cao để tiến hành
những thay đổi chính trị trong thập kỷ tới (một vài tín hiệu của sự vận
động này đã được ghi nhận).
Hàm
ý duy nhất có thể rút ra từ phân tích này đó là trừ khi Trung Quốc muốn
đi theo tấm gương của Cuba và duy trì một nền kinh tế đóng để đảm bảo
sự tồn vong của chế độ độc đảng, quốc gia này sẽ phải đối mặt với tình
trạng lợi thế ngày một suy giảm trong nỗ lực giữ nguyên quyền lực (miễn
là Trung Quốc một cách kỳ diệu không trở thành một nước giống như Ả rập
Saudi). Nhưng bởi lẽ Trung Quốc sẽ không bao giờ là quốc gia dầu lửa nên
ĐCSTQ vì sự tồn vong của mình trong dài hạn còn có cơ hội khai mở một
số hình thái của thể chế chính trị có cạnh tranh và trở thành một chế độ
“ tự do một phần” – và đây là một bước trọng yếu tiến về phía trước so
với chủ nghĩa Leninnit hiện nay. Một cách khác, Trung Quốc có thể chống
lại ngay cả những cải cách khiêm tốn nhất và đặt cược sự tồn vong của
mình vào việc leo thang đàn áp và nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc.
Đánh
giá những chính sách và biện pháp được ban lãnh đạo hiện nay của ĐCSTQ
thông qua thì dường như đảng này có ý định đặt cược chống lại lịch sử.
Trong 3 năm gần đây đảng đã rất nỗ lực gia tăng đàn áp. Trong số các
bước đi đáng để ý nhất: ĐCSTQ đã mạnh mẽ thắt chặt kiểm duyệt Internet,
truyền thông xã hội, báo chí, thông qua Luật về an ninh quốc gia chủ yếu
nhắm tới việc ngăn chặn các tổ chức phi chính phủ để bảo đảm an ninh
cho chế độ, phá hủy hàng trăm cây Thánh giá của nhà thờ Thiên Chúa nhằm
hạn chế tự do tín ngưỡng, tăng cường kiểm soát tư tưởng trong các ký túc
xá trường Đại học, cao đẳng và bắt bớ hàng chục luật sư nhân quyền, nhà
hoạt động vì quyền công dân trên cơ sở các bằng chứng ngụy tạo. Theo
nhiều cách nhìn nhận, mức độ đàn áp của ngày hôm nay là cao hơn bất kỳ
giai đoạn nào kể từ cuộc trấn áp Thiên An Môn.
Cũng
không kém phần đáng lo ngại và còn nguy hiểm hơn đó là những tuyên bố
dân tộc chủ nghĩa có tính leo thang của Trung Quốc. ĐCSTQ nhận thức mọi
điều nhưng lại từ bỏ chủ trương đối ngoại của Đặng Tiểu Bình là dấu mình
chờ thời và không đối đầu để ủng hộ cho một chiến lược đối ngoại khoe
cơ bắp và điều này đã làm cho Trung Quốc đi theo một tiến trình xung đột
với Hoa Kỳ. Bằng chứng về lời kêu gọi mới đây kích động chủ nghĩa dân
tộc và chính sách ngoại giao quả quyết của Bắc Kinh có thể tìm thấy
trong màn diễu binh lần đầu tiên kỷ niệm sự kiện bại trận của Nhật Bản
trong chiến tranh thế giới lần thứ II (mặc dù Trung Quốc và ĐCSTQ chỉ
đóng vai trò rất phụ trong cuộc chiến đó), đó còn là chiến dịch tuyên
truyền kỷ niệm “ giấc mơ Trung Hoa” (nội dung chủ yếu là sự phục hưng
của Trung Quốc với vị thế một siêu cường) và đòi hỏi gần như công khai
vị thế ngang hàng với Hoa Kỳ (được diễn đạt bằng ngôn từ “ quan hệ kiểu
mới giữa các siêu cường” trong tuyên bố của Bắc Kinh), những cuộc tấn
công trên mạng không ngơi nghỉ nhằm vào các cơ quan chính phủ và các cơ
sở thương mại Hoa Kỳ cùng với những cuộc khiêu khích và thủ đoạn gây hấn
đẩy tình hình tới miệng hố chiến tranh ở Biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa
(Biển Đông – ND). Cụ thể là thiết lập vùng nhận dạng hàng không ADIZ
trên vùng trời đảo Senkaku, cải tạo hàng loạt bãi chìm và xây dựng trên
các đảo thuộc vùng lãnh hải còn đang tranh chấp ở Biển Đông).
Nếu
như ĐCSTQ tin rằng leo thang đàn áp và chủ nghĩa dân tộc sẽ giúp cho
đảng duy trì quyền lực trong giai đoạn đang có hỗn loạn trong giới lãnh
đạo cấp cao, kinh tế suy thoái và căng thẳng xã hội dâng cao thì đảng
cũng nên nhìn nhận những rủi ro to lớn và cái giá phải trả cho chiến
lược sinh tồn mới này. Ngoài việc khiến Trung Quốc bị lạc hậu chiến lược
này tỏ ra không bền vững và nguy hiểm. Trấn áp có thể có tác dụng trong
một thời điểm nhưng các chế độ chuyên chế quá phụ thuộc vào nó sẽ phải
sẵn sàng gia tăng việc sử dụng bạo lực liên tục và áp dụng những biện
pháp hà khắc để ngăn cản các lực lượng chống đối.
Đàn
áp có thể là không tốt cho việc kinh doanh, vì khi đó nhà cầm quyền
buộc phải ngăn chặn dòng thông tin và tự do kinh tế để bảo đảm an ninh
cho chế độ (quả thực, các hãng phương Tây đang phàn nàn về những bất
tiện do tường lửa Vạn lý Trường thành gây ra). Gia tăng mức độ đàn áp
trong lúc kinh tế đang chìm đắm trong đình đốn sẽ gây căng thẳng và áp
lực lên các nguồn lực của ĐCSTQ bởi lẽ việc trấn áp đòi hỏi phải duy trì
mạng lưới tốn kém những kẻ nội gián chuyên cung cấp thông tin, công an
chìm, nhân viên kiểm duyệt và các lực lượng bán vũ trang. Đàn áp còn làm
phát sinh những chi phí khổng lồ về đạo đức và có thể nhóm lửa cho
những cuộc tranh luận bên trong chế độ.
Hãy đặt câu hỏi một cách rõ ràng: liệu Trung Quốc có thực sự sẵn sàng để trở thành một Bắc Triều Tiên khác?
Sử
dụng chủ nghĩa dân tộc và khoe cơ bắp có thể đem lại những lợi ích
chính trị nhất thời nhưng ĐCSTQ sẽ phải trả giá bằng an ninh của mình
trong dài hạn. Một trong những lựa chọn chiến lược khôn ngoan nhất của
Đặng Tiểu Bình là phát triển các mối quan hệ bạn bè với phương Tây do
Hoa Kỳ lãnh đạo nhằm thúc đẩy chương trình hiện đại hóa Trung Hoa. Trong
thời kỳ hậu Đặng Tiểu Bình hai nhân vật tiền nhiệm của họ Tập là Giang
Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào cũng đã học bài học cốt tử từ sự sụp đổ của Liên
Xô: xung đột chiến lược với Hoa Kỳ sẽ gây nguy hiểm cho chính sự tồn
vong của ĐCSTQ. Chi phí cho một cuộc chạy đua vũ trang sẽ ở mức không
chịu đựng nổi và sự thù địch công khai trong quan hệ Trung – Mỹ sẽ phá
hủy mối quan hệ kinh tế song phương.
Không
rõ ban lãnh đạo ĐCSTQ có nhận thức được những rủi ro mà chiến lược sinh
tồn mới đang hoàn thiện của họ sẽ mang lại hay không nhưng nếu các
thành viên trong ban lãnh đạo tin chắc rằng chỉ có chiến lược đó mới cứu
vãn được sự lãnh đạo của đảng và do hiện đang lo sợ bởi sự sụp đổ của
những trụ cột quan trọng trong mô hình hậu Thiên An Môn thì rất có thể
họ sẽ tiếp tục đường lối hiện nay. Và thật mỉa mai, đường lối đó, nếu
như phân tích ở trên là đúng thì chắc chắn sẽ thúc đẩy sự kết thúc của
ĐCSTQ thay vì ngăn chặn nó.
Thăng long- Hà nội 24/02/2016
Bản dịch của Phạm Gia Minh
Tài liệu tham khảo
1The
literature on China’s “resilient authoritarianism” is large.
Representative works include Andrew J. Nathan, “Authoritarian
Resilience,” Journal of Democracy (January 2003); David L. Shambaugh, China’s Communist Party: Atrophy and Adaptation (University of California Press, 2008).
2Andrew
Nathan acknowledged in 2013 that, “The consensus is stronger than at
any time since the 1989 Tiananmen crisis that the resilience of the
authoritarian regime in the People’s Republic of China (PRC) is
approaching its limits.” Nathan, “Foreseeing the Unforeseeable,” in
Andrew Nathan, Larry Diamond, and Marc Plattner, eds., Will China Democratize? (Johns Hopkins University Press, 2013); David Shambaugh published a much-noted long essay, “The Coming Chinese Crackup,” in the Wall Street Journal on March 6, 2015 arguing that the endgame for the CPC regime has begun.
3Samuel P. Huntington, The Third Wave: Democratization in the Late Twentieth Century (University of Oklahoma Press, 1993); Guillermo O’Donnell and Philippe C. Schmitter, Transitions from Authoritarian Rule: Tentative Conclusions about Uncertain Democracies (Johns Hopkins University Press, 2013).
4See Aviezer Tucker, “Why We Need Totalitarianism”, The American Interest (May/June 2015).
5Cai Fang Wang Dewen, “Impacts of Internal Migration on Economic Growth and Urban Development in China,” in Josh DeWind and Jennifer Holdaway, eds., Migration and Development Within and Across Borders (The Social Science Research Council, 2008.)
6The
literature on the predatory state and extractive institutions is vast.
The most influential works are Daron Acemoğlu and James Robinson, Why Nations Fail (Crown Publishing, 2012); Douglass North, Institutions, Institutional Change and Economic Performance (Cambridge University Press, 1990).
7The
huge inefficiency of state-owned enterprises, as compared with the
dynamism of the Chinese private sector, is detailed in Nick Lardy, Markets over Mao: The Rise of Private Business in China (Peterson Institute for International Economics, 2014)
8Seymour Martin Lipset, “Some Social Requisites of Democracy: Economic Development and Political Legitimacy,”American Political Science Review (March 1959); Adam Przeworski, Democracy and Development: Political Institutions and Well-Being in the World, 1950–1990 (Cambridge University Press, 2000).
9Academic
research has also established a strong link between oil and
dictatorship. See Michael Ross, “Does Oil Hinder Democracy?” World Politics (April 2001).
10Yu Liu and Dingding Chen, “Why China Will Democratize,” Washington Quarterly (Winter 2012).
Minxin Pei is
the Tom and Margot Pritzker ’72 Professor of Government at Claremont
McKenna College and a non-resident senior fellow of the German Marshall
Fund of the United States. His latest book, China’s Crony Capitalism: Dynamics of Regime Decay, will
be published by Harvard University Press in 2016. This article is drawn
from a larger research project on China’s likely regime transition that
has received financial support from the Smith Richardson Foundation,
the Carnegie Corporation of New York, and the John D. and Catherine T.
MacArthur Foundation.
http://www.viet-studies.info/kinhte/Pei_CCPTwilighlt_trans.htm
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Buổi hoàng hôn của Đảng Cộng sản Trung Quốc
hiến lược sinh tồn của ĐCSTQ sau sự kiện Thiên An Môn đang hết tác dụng và chiến lược mới dường như lại thúc đẩy nhanh hơn sự sụp đổ của nó.
Trong giai đoạn sau Chiến tranh lạnh
(Cuộc chơi giành vương quyền kiểu Châu Á)
Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân): "The Twilight of Communist Party Rule in China" American Interest, 15-12-2015, Bản dịch của Phạm Gia Minh
Chiến
lược sinh tồn của ĐCSTQ sau sự kiện Thiên An Môn đang hết tác dụng và
chiến lược mới dường như lại thúc đẩy nhanh hơn sự sụp đổ của nó.
Trong giai đoạn sau Chiến tranh lạnh chưa có chế độ chuyên chế nào trên thế giới lại thành công như ĐCSTQ.
Năm 1989 chính quyền đã có một cuộc đàn áp đẫm máu và chết chóc nhưng
được bưng bít khi hàng triệu người phản kháng biểu tình trên hầu hết các
thành phố chính trong cả nước để kêu gọi dân chủ và trút sự căm giận
của mình lên chính quyền tham nhũng. Đảng chỉ thoát chết nhờ sự trợ giúp
của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA) với hàng đoàn xe tăng
nghiến nát những người biểu tình ôn hòa trên khu vực quảng trường Thiên
An Môn ở Bắc kinh ngày 4 tháng 6. Một phần tư thế kỷ kể từ thời điểm
cuộc thảm sát Thiên An Môn đã trôi qua nhưng ĐCSTQ luôn phớt lờ mọi dự
báo về hồi kết không tránh khỏi của mình. ĐCSTQ đã sống sót sau cú sốc
của Liên xô sụp đổ và còn thích ứng được với cuộc khủng hoảng tài chính
Châu Á những năm 1997-1998, khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Kể
từ sự kiện Thiên An Môn, nền kinh tế Trung Quốc đã tăng gần 10 lần theo
các điều khoản thực tế. GDP tính theo đầu người đã tăng từ 980$ lên
13.216 $ tính theo sức mua tương đương (PPP) trong cùng giai đoạn, đưa
quốc gia này lên hàng ngũ các nền kinh tế có thu nhập trên trung bình.
Một
cách dễ hiểu thành tích đó đã khiến nhiều nhà quan sát, kể cả những
người từng trải về Trung Quốc tin tưởng rằng ĐCSTQ đã trở thành một chế
độ chuyên chế dẻo dai với nhiều sức mạnh nội tại mà đa phần các chế độ
chuyên chế khác không có. Ngoài ra, ĐCSTQ được biết đã xây dựng một quy
trình hiệu quả cho việc lựa chọn đội ngũ lãnh đạo kế thừa dựa trên các
quy định, chuẩn mực để phát hiện những công chức có năng lực cho hệ
thống nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Khác với chế độ cứng nhắc kiểu Xô
viết dưới thời Leonid Bregiơnhev, ĐCSTQ đã thể hiện năng lực đáng nể
trong học hỏi và thích ứng (1).
Đáng
tiếc là đối với những người ủng hộ lý thuyết về sự “chuyên chế dẻo
dai”“ các giả định của họ, bằng chứng và những kết luận rút ra ngày càng
khó bảo vệ dưới ánh sáng của những diễn biến gần đây ở TQ. Các biểu
hiện của cuộc chiến quyền lực căng thẳng trong giới lãnh đạo cao cấp,
tham nhũng tràn lan, tính năng động kinh tế bị đánh mất và chính sách
đối ngoại hung hăng tiềm ẩn nhiều rủi ro, tất cả đều đang hiển hiện. Kết
quả là ngay một số học giả mà công trình của họ gắn liền với luận đề về
chế độ chuyên chế dẻo dai cũng đã buộc phải tự nhìn nhận lại (2). Càng
ngày càng thấy rõ rằng những diễn biến gần đây làm thay đổi nhận thức về
tính bền vững của ĐCSTQ không mang tính chu kỳ mà có tính hệ thống.
Chúng là triệu chứng cho thấy sự suy kiệt, hết tác dụng của sách lược
sinh tồn mà chế độ đã đề ra sau biến cố Thiên An Môn. Một số trụ cột của
sách lược đó như sự đoàn kết của tầng lớp lãnh đạo cao cấp, tính hợp
pháp dựa trên hiệu quả, sự tham gia của các giai tầng tinh hoa trong xã
hội và chủ trương kiềm chế chiến lược trong đối ngoại đã hoặc là đã sụp
đổ hoặc trở nên sáo rỗng buộc ĐCSTQ phải ngày càng phải dựa vào đàn áp
và kích động chủ nghĩa dân tộc để tiếp tục cầm quyền.
Bởi
lẽ đó, giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đang phải đối mặt với một sự
lựa chọn quả quyết nhất kể từ sự kiện Thiên An Môn: mô hình phát triển
tư bản thân hữu độc tài chuyên chế sau 1989 thì nay đã chết và giờ đây
họ chỉ có thể hoặc là tham khảo Đài loan và Hàn quốc để dân chủ hóa,
giành được cội nguồn bền vững cho tính hợp pháp, hoặc là sẵn sàng thực
thi chính sách đàn áp gia tăng để duy trì chế độ một đảng cầm quyền.
Việc họ sẽ lựa chọn như thế nào sẽ có ảnh hưởng không chỉ Trung Quốc mà
cả châu Á và toàn thế giới.
Bất chấp hình ảnh có tính đại chúng về các cuộc cách mạng “quyền lực nhân dân” hay “mùa Xuân Ả rập”,
cội nguồn quan trọng duy nhất của sự thay đổi trong các chế độ chuyên
chế chính là sự sụp đổ của tính đoàn kết trong giới lãnh đạo cấp cao.
Diễn biến này có nguyên nhân chủ yếu là do gia tăng mâu thuẫn và xung
đột trong giới lãnh đạo cấp cao đối với vấn đề sách lược tồn vong của
chế độ và phân chia quyền lực cũng như lãnh địa bảo trợ. Kinh nghiệm
chuyển đổi dân chủ từ giữa những năm 1970 cho thấy một khi chính quyền
chuyên chế đối mặt với những thách thức đến từ các lực lượng xã hội đòi
hỏi các đổi thay về chính trị thì vấn đề gây chia rẽ nội bộ giới lãnh
đạo cấp cao chính là hoặc đàn áp các lực lượng đó thông qua leo thang
bạo động hoặc là hòa giải với chúng thông qua quá trình tự do hóa.
Khi
lực lượng cải cách chiếm ưu thế các bước ban đầu tiến tới chuyển đổi
chế độ diễn ra tiếp theo thường là giảm nhẹ sự quản chế về chính trị và
xã hội. Nếu như lực lượng cứng rắn thắng trong cuộc đấu thì đàn áp sẽ
mạnh hơn nhưng các cuộc đụng độ xã hội và chính trị cũng sẽ leo thang và
điều này sẽ tiếp diễn cho tới khi chế độ phải đối mặt với cuộc khủng
hoảng khác buộc nó phải xem xét lại câu hỏi phải chăng đàn áp là sách
lược đúng đắn nhất (3). Một dạng chia rẽ phổ biến khác trong giới lãnh
đạo cấp cao đó là những xung đột do phân bổ quyền lực và đi cùng với nó
là ranh giới các lãnh địa của sự bảo trợ (đôi khi đó cũng là sự bảo kê
về kinh tế và chính trị - ND).Trong các chế độ chuyên chế được hình
thành vững chắc, ví như ở các quốc gia hậu toàn trị (post- totalitarian)
do đảng CS Leninit lãnh đạo thì xung đột này có xu hướng gia tăng khi
mà cuộc ganh đua giành quyền lực dẫn tới tình trạng vi phạm các quy tắc
và chuẩn mực được thiết lập từ lâu (ví dụ như làm trái Điều lệ Đảng -
ND) nhằm bảo vệ sự cân bằng tinh tế về quyền lực trong giới lãnh đạo
tinh hoa cũng như vì sự an toàn thân thể của họ. Trong nhiều trường hợp,
nếu như không phải là tất cả các trường hợp – và Trung Quốc cũng không
là ngoại lệ - khi những vi phạm đó được cam kết bởi các nhóm gia đình và
điều này thể hiện một sự cha truyền con nối trong chính trị (4).
Trong
trường hợp Trung Quốc, sự sụp đổ của tính đoàn kết trong giới lãnh đạo
cấp cao phát sinh không từ cuộc tranh cãi giữa những người theo đường
lối cứng rắn với những người cải cách mà lại bởi cuộc đấu đá nội bộ giữa
những người theo đường lối cứng rắn với nhau để giành thế thượng phong.
Dấu
hiệu khởi phát của sự mất đoàn kết trong giới chóp bu chính là việc
thanh trừng Bạc Hy Lai, một cựu lãnh đạo đang bay cao của ĐCS ở Tứ Xuyên
ngay trước Đại hội ĐCSTQ lần thứ 18 năm 2012. Sau này các sự kiện đã
cho thấy sự ra đi của họ Bạc chỉ là khúc dạo đầu cho một cuộc thanh
trừng làm sạch nội bộ ĐCS lớn nhất kể từ thời Cách mạng văn hóa. Sau
đó,Tập Cận Bình, người thắng cuộc đã chính thức đảm nhận vị trí TBT đồng
thời là Chủ tịch quân ủy PLA vào tháng 11/2012 liền triển khai một
chiến dịch chống tham nhũng hung hãn chưa từng thấy nhằm đạt được thế
thượng phong chính trị qua con đường tiêu diệt các đối thủ của mình. Cho
dù chiến dịch do họ Tập khởi xướng ngày một trở nên lan rộng nhưng
dường như sau một đêm nó đã tháo rời toàn bộ hệ thống mà giới lãnh đạo
tinh hoa của ĐCSTQ đã dày công xây nên trong thời kỳ hậu Thiên An Môn
nhằm gìn giữ tính đoàn kết, thống nhất của họ.
Có
ba trụ cột chống đỡ cho hệ thống này. Cái thứ nhất là sự cân bằng tinh
tế của quyền lực chính trị ở chóp bu được biết đến dưới cái tên sự lãnh
đạo tập thể được thiết kế ra nhằm ngăn chặn sự xuất hiện của một lãnh tụ
kiểu Mao Trạch Đông, người đã có thể áp đặt ý chí của mình cho toàn
đảng. Trong hệ thống này mọi quyết định quan trọng đã được hình thành
thông qua quá trình xây dựng sự đồng thuận và thỏa hiệp nhằm bảo đảm
quyền lợi của các lãnh đạo cấp cao cùng nhóm lợi ích của họ. Cột trụ thứ
hai là an toàn cá nhân tuyệt đối cho các lãnh tụ chóp bu, được xác định
bất kể đương chức hay đã về hưu đối với các Ủy viên thường vụ BCT cũng
đã tiêu tan cùng với sự rớt đài của Zhou Yongkang (Chu Vĩnh Khang) – một
cựu ủy viên thường vụ BCT, người đứng đầu ngành an ninh nội bộ đã lãnh
án tù chung thân vào năm 2015 sau khi bị kết tội tham nhũng. Những nỗ
lực chống tham nhũng và các biện pháp khắc khổ đi kèm theo đã chấm dứt
ít ra là tạm thời thực trạng chia chác của cướp được trong giới lãnh đạo
cấp cao, gây ra cho họ nhiều nỗi đắng cay và theo báo cáo thì điều này
đã thúc đẩy họ chống đối bằng cách ngưng trệ công việc. Trong khi còn
nghi vấn liệu cuộc chiến chống tham nhũng của họ Tập sẽ thực sự nhổ được
tận gốc vấn nạn này hay không thì nó đã rất thành công trong việc phá
nát cấu trúc khuyến khích bên trong của chế độ được hình thành sau biến
cố Thiên An Môn.
Xét
về bản chất riêng của mình, sự chuyển biến từ “ lãnh đạo tập thể” sang “
nguyên tắc một cá nhân mạnh lãnh đạo” chưa chắc đã làm sáng tỏ một cách
cần thiết thứ chủ nghĩa Lê Nin mang màu sắc Trung Quốc. Tuy vậy, kết
cục ban đầu dễ thấy nhất của sự chuyển biến này cho đến nay đó là sự bốc
hơi của tính đoàn kết, thống nhất - chất keo đã gắn kết cả một hệ thống
hình thành sau biến cố Thiên An Môn. Mặc dù vậy hiện nay chưa thấy
những dấu hiệu thách thức quyền lực của Tập Cận Bình trong ĐCSTQ và có
thể đánh cuộc một cách an toàn khi cho rằng các đối thủ của họ Tập đang
đấu thầu thời gian để đợi tới thời điểm phù hợp thì sẽ đánh trả.
Nếu
như sự mất đoàn kết và thống nhất trong giới tinh hoa đang bị biến
thành cuộc đấu chính trị cuối cùng để giải quyết chanh chấp dẫn tới sự
chối bỏ hệ thống mà họ Tập đang cố gắng xây dựng thì chỉ có thể xẩy ra 2
kết cục. Một- đó là trở lại với hệ thống tham nhũng hậu Thiên An Môn.
Nhìn bề ngoài, điều này có vẻ như một giải pháp nhiều cám dỗ và hứa hẹn
nhất, tuy nhiên lại bất khả thi bởi lẽ một số điều kiện cơ sở làm nền
móng cho hệ thống hậu Thiên An Môn, cụ thể là sự tăng trưởng kinh tế do
đầu tư mang lại và sự hài lòng về chính trị của tầng lớp trung lưu được
bảo đảm bởi sự thịnh vượng gia tăng chưa từng có phần lớn đã biến mất.
Nếu như nguyên trạng như trước đây không thể phục hồi thì ĐCSTQ sẽ cần
một lối thoát khác. Trong khi mà chưa ai có thể biết ĐCS sẽ lựa chọn gì
thì cũng đáng để nhớ lại rằng,vào những thời khắc đó ĐCS sẽ cố thử lại
và tận dụng đến cùng 3 mô hình quản trị chuyên chế: đó là Maoit (Chủ
nghĩa Cộng sản cực đoan), Đặng (chủ nghĩa tư bản thân hữu) và Tập (cá
nhân mạnh lãnh đạo). Thật mỉa mai là ĐCSTQ có thể bị rơi vào tình thế
tuyệt vọng và tàn khốc như ĐCS Liên xô vào giữa những năm 1980: đó là
thiếu ý tưởng và chiến lược phục vụ việc duy trì mãi mãi hệ thống lãnh
đạo độc đảng và khi đó nó có thể đủ tuyệt vọng tới mức dám đánh cược vào
bất cứ thứ gì, kể cả cải cách dân chủ và đa nguyên chính trị như là
sách lược lâu dài để giúp ĐCS có sức sống trong một đất nước Trung Hoa
đã chuyển biến hoàn toàn bởi quá trình hiện đại hóa đời sống kinh tế- xã
hội.
Nếu
như tính đoàn kết, thống nhất là chất kết dính của hệ thống hậu Thiên
An Môn thì hiệu suất kinh tế như mọi người đều thừa nhận đó chính là cội
nguồn quan trọng cho tính hợp pháp trong quần chúng của đảng cầm quyền.
Một phần tư thế kỷ phát triển với tốc độ cao đã đem lại cho ĐCSTQ thời
kỳ tương đối ổn định xã hội cùng với những nguồn lực khổng lồ để tăng
cường năng lực đàn áp và mua chuộc những giới tinh hoa xã hội mới cùng
tầng lớp trung lưu đang nổi lên ở các vùng đô thị. Tuy nhiên, hiện nay
khi mà “ sự thần kỳ kinh tế của TQ” đã kết thúc thì cột trụ thứ 2 của hệ
thống hậu Thiên An Môn cũng đang sụp đổ theo.
Nhìn
bề ngoài, sự suy giảm mạnh của kinh tế Trung Quốc có vẻ như là một sự
giảm tốc tự nhiên sau mấy thập kỷ tăng trưởng nóng. Nhưng một cái nhìn
gần hơn vào nguyên nhân dẫn đến “ sự rớt đài vĩ đại của TQ” cho ta thấy
chính những trở ngại mang tính cơ cấu và thể chế chứ không phải các yếu
tố mang tính chu kỳ mới là chủ đạo và Trung Quốc đang bước vào một giai
đoạn phát triển kinh tế từ thấp tới khiêm tốn nên điều này sẽ rất nguy
hiểm đối với tính hợp pháp của ĐCSTQ.
Tin
tức của báo chí về những rắc rối kinh tế của Bắc Kinh gần đây phần lớn
chỉ tập trung vào các biểu hiện dễ thấy và đầy kịch tính của căn bệnh
kinh tế Trung Quốc chẳng hạn như sự sụp đổ của thị trường chứng khoán
mang tính bong bóng hay việc đồng Nhân dân tệ mất giá một cách đáng ngạc
nhiên. Tuy nhiên, sự suy giảm tăng trưởng của Trung Quốc có cội rễ sâu
xa hơn.
Về
mặt cơ cấu, sự tăng trưởng nhanh của Trung Quốc thời kỳ hậu Thiên An
Môn đã được thúc đẩy chủ yếu bởi các nhân tố và hoàn c ảnh xảy ra một
lần và không lặp lại (one- off) chứ không nhờ tính ưu việt có mục đích
của nhà nước chuyên chế. Trong số các nhân tố và hoàn cảnh đó thì nhân
tố “ cổ tức nhân khẩu học” (demographic dividend) là quan trọng nhất vì
nó đã cung ứng gần như không có giới hạn đội ngũ công nhân Trung Quốc
trẻ, khỏe lương thấp để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa. Ngoài
chuyện lương thấp, các công nhân từ nông thôn lên thành phố có thể tạo
ra một sự gia tăng nhanh chóng năng suất lao động khi kết hợp với máy
móc, thiết bị mà không cần đào tạo thêm nhiều. Kết quả là chỉ riêng việc
tái bố trí lực lượng lao động dư thừa từ nông thôn sang các nhà máy,
cửa hàng thương mại và công trường xây dựng ở thành phố nền kinh tế đã
đạt năng suất lao động cao hơn. Theo số liệu của Trung Quốc, năng suất
lao động của một công nhân ở thành thị cao gấp 4 lần một nông dân. Trong
3 thập kỷ vừa qua có khoảng 270 triệu người lao động nông thôn (không
tính gia đình của họ) đã dịch chuyển ra thành thị và hiện nay chiếm tới
70% lực lượng lao động nơi đây. Một số nhà kinh tế ước tính rằng khoảng
20% tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong những năm 80 và 90 thế kỷ trước
là do tái bố trí lực lượng lao động nông thôn tạo nên.(5). Tuy nhiên
bởi vì dân số Trung Quốc đang già đi khá nhanh nên sự dịch chuyển dân số
ào ạt từ nông thôn ra thành thị đã đạt điểm đỉnh. Nhân tố thuận lợi
mang tính cơ cấu này chỉ xảy ra có một lần mà không lặp lại.
Một
cú hích tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng của Trung Quốc thời kỳ
hậu Thiên An Môn chính là việc quốc gia này ra nhập WTO vào năm
2001.Vào những năm 1990 tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc trung bình
đạt 15.4% hàng năm nhờ có sự hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tuy
nhiên sau khi ra nhập WTO Trung Quốc đã đạt tăng trưởng xuất khẩu 21.7%
trong suốt giai đoạn 2002-08. Sự gia tăng nhờ xuất khẩu bắt đầu chậm lại
sau 2011. Giữa các năm 2012 và 2014 xuất khẩu chỉ tăng trưởng có 7.1%
tức là bằng 1/3 tăng trưởng của thập kỷ trước đó. Bảy tháng đầu năm 2015
xuất khẩu co lại khoảng 1% , sự việc diễn ra có lẽ đã khiến Bắc kinh
nhanh chóng hạ giá đồng tiền của mình.
Nhưng
có lẽ khía cạnh gây rắc rối nhất trong triển vọng phát triển kinh tế
dài hạn của Trung Quốc chính là sự suy giảm lãi xuất từ các khoản đầu tư
được hoạch định bởi chiến lược tăng trưởng của quốc gia này. Trong tư
cách là một nước đang phát triển với số vốn tương đối thấp, ở thời kỳ
ban đầu Trung Quốc đã hưởng lợi lớn từ sự tăng trưởng bền vững của các
khoản đầu tư. Trong các năm 1980 Trung Quốc đã đầu tư trung bình khoảng
35.8% GDP vào các nhà máy, hạ tầng cơ sở và nhà ở. Tỷ lệ này đã tăng lên
42.8% trung bình trong các năm 2000 và đạt 47.3% từ năm 2010. Sự gia
tăng đầu tư ào ạt này đã tạo ra hơn một nửa mức tăng trưởng GDP của
Trung Quốc và là động cơ tăng trưởng chủ yếu của nền kinh tế trong hai
thập kỷ rưỡi.
Tuy nhiên tăng trưởng
dựa vào đầu tư trong bối cảnh của Trung Quốc có 3 hậu quả xấu. Một là
lãi xuất từ các khoản đầu tư giảm dần bởi lẽ mỗi đơn vị gia tăng của
đầu ra đòi hỏi phải đầu tư nhiều hơn và được tính bởi tỷ lệ vốn/sản
lượng (capital output ratio – lượng đầu tư cần thiết để sản xuất ra thêm
một đồng nhân dân tệ trong GDP). Trong những năm 1990 tỷ lệ sản lượng
vốn của Trung Quốc là 3.79 ,đến những năm 2000 đã tăng lên 4.38. Xu
hướng tăng trưởng đòi hỏi phải tăng đầu tư rõ ràng không mang tính bền
vững. Trung Quốc gần đây đầu tư gần như một nửa GDP của mình, một con
số phi thường đã trở thành hiện thực nhờ sự quản lý của nhà nước trong
phát triển hạ tầng cơ sở . Mức độ dư thừa công suất và phân bổ vốn bất
hợp lý cũng là một con số phi thường.
Một tác hại nữa gây
bất lợi cho nền kinh tế đó là các khoản đầu tư đã vắt kiệt tiêu dùng của
các hộ gia đình (36% GDP năm 2013 nếu so với 60% ở Ấn độ) làm nảy sinh
tình trạng mất cân đối cơ cấu khiến sự tăng trưởng bền vững hầu như là
không thể. Sự tăng trưởng đó cần bắt đầu từ việc quay lưng lại với
phương thức lấy xuất khẩu làm chủ đạo để trở lại với tăng trưởng thị
trường trong nước, tuy nhiên điều này không thể đạt được khi mà tiêu
dùng hộ gia đình đang ở mức thấp một cách giả tạo.
(xin bổ sung thêm
một ý giải thích vì sao tiêu dùng hộ gia đình nói riêng và thị trường
trong nước ở Trung Quốc luôn ở mức thấp đó là do chính sách hộ khẩu và
an sinh xã hội mang tính kỳ thị người nhập cư từ nông thôn ra thành thị
khiến họ phải gia tăng tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng để đề phòng khi ốm
đau, hết tuổi lao động thì còn có nguồn dự trữ - ND).
Chi
phí sau cùng của tăng trưởng dựa vào đầu tư đó là quá trình này được
cung cấp tài chính bởi các khoản tín dụng và sau đó đầu tư vào vào những
ngành công nghiệp đã dư thừa công suất tới mức nguy hiểm. Với tỷ suất
dư nợ / GDP vượt ngưỡng 280% GDP hiện nay (so sánh với 121% năm 2000)
rủi ro của sự bùng nổ toàn diện một cuộc khủng hoảng tài chính đã tăng
cao bởi lẽ những con nợ lớn là chính quyền địa phương, các doanh nghiệp
nhà nước và các doanh nghiệp phát triển bất động sản chỉ sở hữu năng lực
chi trả yếu kém do nền tảng các nguồn thu từ thuế khá eo hẹp (với các
chính quyền địa phương), dư thừa công suất và lợi nhuận thấp (với các
doanh nghiệp nhà nước), bong bóng bất động sản xì hơi (với các doanh
nghiệp phát triển bất động sản).
Nếu
những rắc rối trong tương lai phát triển kinh tế dài hạn của Trung Quốc
đơn thuần chỉ mang tính cơ cấu thì tương lai của đất nước chưa đến mức
tàn khốc. Những cuộc cải cách hiệu quả có thể tái phân bổ nguồn lực một
cách hữu hiệu giúp cho nền kinh tế có năng suất cao hơn. Tuy nhiên thành
công của những cải cách đó lại gắn kết chặt chẽ với bản chất của nhà
nước Trung Quốc và các thể chế chính trị của nó. Việc tạo ra của cải một
cách bền vững chỉ có thể tồn tại ở các quốc gia nơi mà quyền lực chính
trị bị giới hạn bởi luật pháp, quyền sở hữu tư nhân được bảo đảm thực sự
và có nhiều phương tiện để tiếp cận các cơ hội. Ở các quốc gia bị chi
phối bởi một nhóm nhỏ cầm quyền thì xảy ra điều ngược lại: những kẻ nắm
quyền điều hành chính trị sẽ trở thành dã thú, sử dụng những công cụ
cưỡng bách của quốc gia để bòn rút của cải từ xã hội, bảo vệ đặc quyền
của mình và làm nghèo người dân (6)
Quả
thực các chính sách kinh tế của ĐCSTQ đã thay đổi tới mức không thể
nhận ra kể từ thời Mao. Tuy nhiên, đảng và nhà nước Trung Quốc còn chưa
từ bỏ bản năng dã thú cùng các thể chế của mình. Bất chấp những lời tự
nhận hùng biện về tôn trọng thị trường và quyền sở hữu, thực tế chỉ đạo
và chính sách của các tầng lớp lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc cho thấy
họ không tôn trọng quyền sở hữu tư nhân và cũng chẳng muốn bảo vệ nó.
Bằng chứng về sự thiếu vắng mong muốn hạn chế những bản năng và thèm
muốn dã thú của nhà nước độc đảng lãnh đạo chính là việc giới lãnh đạo
chóp bu không dấu diếm sự thù hằn đối với bất kỳ ý tưởng nào về chủ
nghĩa hợp hiến mà bản chất của nó là đặt ra những giới hạn phải được
thực thi đối với chính quyền và những người nắm quyền lực. ĐCSTQ khước
từ mọi giới hạn đối với quyền lực của mình và trên thực tế đã dẫn đến
việc Trung Quốc không thể có thể chế tư pháp độc lập hoặc các tổ chức
điều hành đủ năng lực thực thi pháp luật. Bởi lẽ, các nền kinh tế thị
trường đích thực không thể hoạt động nếu thiếu những thể chế và tổ chức
như vậy, cho nên rõ ràng là một khi đảng tự đặt mình cao hơn luật pháp
thì cải cách kinh tế theo hướng kinh tế thị trường là điều bất khả thi.
Nhiều
nhà quan sát lập luận rằng chế độ độc đảng này tuy thế vẫn đủ năng lực
thực hiện các cải cách mang tính thị trường với dẫn chứng là diễn biến
lịch sử của thời kỳ sau Mao. Lý lẽ này đã bỏ qua một sự thật rất quan
trọng đó là những cải cách sau Mao tuy tạo ra ấn tượng bề nổi nhưng nay
đã cạn kiệt tiềm năng bên trong. Hơn thế nữa, cần phải hiểu rằng hệ
thống Maoit kém hiệu quả tới mức dù chỉ một vài cải cách mang tính bộ
phận đã có thể giải phóng sự gia tăng mạnh mẽ năng suất lao động, đặc
biệt là trong một xã hội mà năng lượng kinh doanh của người dân còn đang
bị sự khủng bố chuyên chế đè nén trong ba thập kỷ vừa qua. Điều quan
trọng hơn là những cải cách từng phần đó còn chưa đi vào các bộ phận
quan trọng trong nền móng kinh tế do ĐCSTQ lãnh đạo: đó là khu vực sở
hữu nhà nước với những tài sản có năng suất cao nhất như ruộng đất, tài
nguyên thiên nhiên, sản xuất điện, viễn thông, ngân hàng, các dịch vụ
tài chính và công nghiệp nặng. Chắc chắn không phải khu vực kinh tế tư
nhân năng động đang kìm hãm nền kinh tế Trung Quốc mà chính là các xí
nghiệp quốc doanh kém hiệu năng vẫn tiếp tục được nhận hỗ trợ và tiêu
phí dòng vốn quý giá (7).
Cải
cách kinh tế toàn diện và đích thực nếu được chấp nhận trên thực tế sẽ
đe dọa phá vỡ nền móng đó. Khả năng nhiều nhất là nó sẽ xóa bỏ phần lớn
sự kiểm soát hiện hữu đối với nền kinh tế và khối tài sản quốc gia khổng
lồ của Trung Quốc, kết cục sẽ là sự sụp đổ về mặt tổ chức của ĐCSTQ.
Đảng này cấp kinh phí và hỗ trợ một mạng lưới tổ chức hạ tầng cơ sở rộng
khắp của mình – các đảng bộ, đảng ủy các cấp và chi bộ …thông qua số
lượng lớn các quỹ đảng nhưng chính xác là bao nhiêu thì còn là một ẩn
số. Phần lớn kinh phí cho các tổ chức và hoạt động của đảng được tài trợ
từ ngân sách không minh bạch của nhà nước TQ. Nếu như ĐCSTQ từ bỏ sự
kiểm soát nền kinh tế của mình và các khoản chi tiêu của chính phủ được
minh bạch hóa thì đảng sẽ không còn nguồn tài chính để tồn tại. Sẽ không
thể duy trì các đặc quyền và bổng lộc hậu hĩ của đảng ví như chăm sóc
sức khỏe chất lượng cao, quỹ cho các hoạt động giải trí, nhà công vụ và
còn nhiều khoản phụ cấp đối với các quan chức như là tiêu chuẩn được
hưởng khi là thành viên của câu lạc bộ tầng lớp tinh hoa.
Còn
một hậu quả thảm khốc nữa của cải cách theo hướng thị trường đó là sự
sụp đổ của hệ thống bảo trợ mà ĐCSTQ sử dụng để đảm bảo có được sự trung
thành từ những người ủng hộ mình. Nền móng của hệ thống này là các
doanh nghiệp nhà nước, các cơ quan kinh tế và các tổ chức điều hành do
đảng kiểm soát. Nếu như cải cách định hướng thị trường dẫn tới tư nhân
hóa thực sự các doanh nghiệp nhà nước ( nhóm doanh nghiệp này sản xuất
ít nhất cũng vào khoảng 1/3 GDP) thì ĐCSTQ sẽ không thể ban phát cho đội
ngũ trung thành với mình bằng những hợp đồng và công việc béo bở và
điều này đe dọa sẽ lấy đi sự ủng hộ của họ. Xin cung cấp thông tin rằng
trong bản hướng dẫn chi tiết kế hoạch kinh tế của ĐCSTQ phát hành mùa
Thu năm 2013 lãnh đạo đảng đã nhắc nhở đảng sẽ không bao giờ từ bỏ các
doanh nghiệp nhà nước.
Như
vậy, sự tiếp tục của các thể chế mang tính dã thú và bòn rút, cướp đoạt
ở Trung Quốc đang ngăn chặn những cải cách thị trường triệt để, toàn
diện và thành công. Tính bất khả thi của nhiệm vụ xây dựng một nền kinh
tế thị trường đích thực được hậu thuẫn bởi nguyên tắc thượng tôn pháp
luật có thể minh họa bằng câu ngạn ngữ Trung quốc khôn ngoan yuhumoupi có
nghĩa là đừng mặc cả với hổ về bộ da của nó. Triển vọng lâu dài cho sự
tăng trưởng kinh tế Trung Quốc là đáng bi quan bởi vì khu vực tăng
trưởng nhanh nhờ có cải cách từng phần và các nhân tố cũng như hoàn cảnh
thuận lợi chỉ diễn ra một lần đang chấm dứt. Một sự tăng trưởng bền
vững cho Trung Quốc sẽ đòi hỏi phải nhìn nhận lại triệt để thể chế kinh
tế và chính trị để đạt được hiệu quả cao hơn.Nhưng bởi lẽ bước đi quan
trọng có tính quyết định này sẽ hủy hoại nền tảng lãnh đạo của ĐCSTQ cho
nên khó có thể tin được rằng đảng sẽ cam kết tự vẫn về kinh tế và do đó
cả về chính trị. Những ai còn chưa bị thuyết phục bởi lập luận này hãy
nên đếm lại có bao nhiêu nhà độc tài trong lịch sử đã tự nguyện từ bỏ
các đặc lợi cùng đặc quyền kiểm soát nền kinh tế của mình nhằm mục đích
bảo đảm cho một tương lai thịnh vượng dài lâu của quốc gia.
Lừ lừ hướng tới đàn áp và chủ nghĩa dân tộc
Nếu
như tình trạng kinh tế trì trệ trong dài hạn đã được khẳng định thì sự
ủng hộ của tầng lớp trung lưu Trung Quốc với hiện trạng sẽ bị mai một.
Sự tham gia của tầng lớp đang tăng trưởng nhanh này là một trụ cột chủ
chốt nữa trong sách lược sinh tồn của ĐCSTQ thời kỳ sau biến cố Thiên An
Môn và đã góp phần vào sự bùng nổ kinh tế trong ¼ thế kỷ vừa qua. Kinh
tế phát triển chậm lại chắc chắn sẽ giảm bớt cơ hội, kỳ vọng và hạn chế
tính năng động đi lên đối với các thành viên của nhóm xã hội quan trọng
này và sự chấp nhận vai trò lãnh đạo của ĐCSTQ từ nhóm này chỉ là ngẫu
nhiên do vừa qua đảng đã mang đến sự phát triển kinh tế liên tục và đáng
hài lòng.
Cùng
với sự bốc hơi của (chất keo gắn) sự đoàn kết, thống nhất trong giới
lãnh đạo cấp cao, nguy cơ kinh tế trì trệ và thái độ xa lánh rất có thể
xảy ra của giới trung lưu thì mô hình hậu Thiên An Môn chỉ còn có 2 cột
trụ: đó là đàn áp và kích động chủ nghĩa dân tộc. Các chế độ chuyên chế
ngày nay vì thiếu tính hợp pháp trong công chúng (mà đáng ra phải đạt
được qua quá trình cạnh tranh chính trị) chủ yếu dùng ba phương tiện để
giữ quyền lực của mình. Một là mua chuộc quần chúng bằng các lợi ích vật
chất. Hai là đàn áp nhân dân bằng bạo lực và nỗi sợ. Ba là kêu gọi tình
cảm dân tộc của họ. Ở những chế độ chuyên chế tinh vi và thành công
những kẻ cầm quyền thường dựa vào tính hợp pháp có được nhờ thành tích
đạt được (mua chuộc) hơn là sử dụng nỗi sợ hãi và chủ nghĩa sô vanh hiếu
chiến. Nguyên nhân chính là đàn áp thì tốn kém mà chủ nghĩa dân tộc thì
có thể trở nên nguy hiểm. Trong thời kỳ hậu Thiên An Môn có thể tin
chắc rằng ĐCSTQ đã sử dụng cả 3 phương tiện, chủ yếu vẫn phụ thuộc vào
thành tích phát triển kinh tế nhưng vẫn dùng phương tiện đàn áp và chủ
nghĩa dân tộc một cách có chọn lọc như các biện pháp cầm quyền dự phòng.
Tuy
nhiên, những xu hướng kể từ khi Tập Cận Bình lên cầm quyền vào cuối năm
2012 cho thấy đàn áp và chủ nghĩa dân tộc được coi là đóng vai trò ngày
càng nổi bật trong chiến lược sinh tồn của ĐCSTQ. Lời giải thích hiển
nhiên là tăng trưởng kinh tế không chắc chắn của Trung Quốc đang gây nên
căng thẳng xã hội và bào mòn sự ủng hộ của quần chúng đối với ĐCS, và
như vậy buộc chế độ phải ngăn cản những thách thức tiềm ẩn từ xã hội
bằng sức mạnh và chuyển hướng sự chú ý của công chúng sang chủ nghĩa dân
tộc. Vậy mà nhiều nhà quan sát đã bỏ qua lời giải thích có giá trị này.
Một
chiến lược sinh tồn phụ thuộc vào việc đem lại tăng trưởng kinh tế nhằm
duy trì tính hợp pháp vốn dĩ không bền vững không chỉ bởi lẽ tăng
trưởng kinh tế là điều không thể bảo đảm chắc chắn và sự kỳ vọng của
công chúng thì bao giờ cũng gia tăng nên cũng không thể luôn luôn đáp
ứng được mà còn vì sự tăng trưởng kinh tế bền vững sẽ làm phát sinh
những thay đổi kinh tế- xã hội mang tính cơ cấu. Và chính những thay đổi
đó ắt sẽ đe dọa độ bền vững của chế độ chuyên chế như các nghiên cứu xã
hội học và lịch sử các cuộc chuyển đổi dân chủ đã cho thấy.
Các
nhà nước chuyên chế khi buộc phải chấp thuận tính hợp pháp dựa trên
thành tích phát triển (nguyên văn là Faustian bargain – giao kèo với quỷ
dữ - ND) thì mặc nhiên là chúng sẽ thua cuộc bởi lẽ những đổi thay kinh
tế- xã hội do tăng trưởng kinh tế đem lại sẽ củng cố năng lực tự trị
của các lực lượng xã hội ở thành thị, ví dụ như các nhà kinh doanh tư
nhân, trí thức, người làm nghề, các tín đồ tôn giáo, công nhân phổ thông
nhờ trình độ học vấn cao hơn, tiếp cận với thông tin dễ dàng hơn, tích
lũy được tài sản cá nhân nhiều hơn và năng lực tổ chức hoạt động tập thể
cũng được cải thiện. Nhiều công trình nghiên cứu hàn lâm đã chỉ ra sự
tương quan chặt chẽ giữa trình độ phát triển kinh tế với sự hiện diện
của dân chủ cũng như giữa thu nhập gia tăng với khả năng sụp đổ của các
chế độ chuyên chế (8). Trong thế giới ngày nay, mối tương quan tích cực
giữa tài sản (được tính bằng GDP theo đầu người) và dân chủ có thể được
thể hiện trong biểu đồ (9) và nó cho thấy tỷ lệ phần trăm các nền dân
chủ (được định nghĩa bởi tổ chức Freedom House) tăng đều đặn cùng với
mức tăng của thu nhập. Có một bộ phận các quốc gia dân chủ giảm trong
khi thu nhập tăng lên. Sự phân bố các quốc gia không dân chủ hoặc độc
tài trên biểu đồ đã hình thành nên đồ thị hình chữ U. Trong khi có nhiều
hơn các chế độ độc tài tồn tại ở những nước nghèo hơn (phần đáy của 2/5
các quốc gia có thu nhập trên đầu người ) thì sự hiện diện của chúng ở
phần trên của danh sách 2/5 các quốc gia dường như đã phản bác lại nhận
định cho rằng sự thịnh vượng có tương quan cùng chiều (nguyên văn tương
quan dương tính – ND). Tuy nhiên khi xem xét kỹ hơn số liệu sẽ thấy hầu
hết các quốc gia giàu có nhưng nằm dưới chế độ độc tài đều là những nước
sản xuất dầu mỏ, nơi mà giới tinh hoa cầm quyền có đủ năng lực tài
chính để mua chuộc người dân của mình để họ chấp thuận chế độ chuyên chế
(9).
Nguồn:
Tính toán sử dụng dữ liệu thu nhập dựa trên sức mua trên đầu người
(PPP) do Ngân hàng Thế giới cung cấp. Chỉ số tự do do Freedom House cung
cấp.
Những
nhà cầm quyền Trung Quốc nếu như nhìn qua biểu đồ sẽ cảm thấy lo lắng
cho triển vọng trong trung và dài hạn của mình. Hiện nay 87 quốc gia có
thu nhập theo đầu người (chuẩn PPP – sức mua tương đương – ND) cao hơn
Trung Quốc và 58 quốc gia trong số đó được đánh giá là có dân chủ, 11
quốc gia được Freedom House sếp hạng “ tự do một phần” và 18 quốc gia bị
coi là độc tài (nguyên văn là “ không tự do” theo Freedom House). Tuy
nhiên trong số 18 quốc gia “ không tự do” có thu nhập theo đầu người cao
hơn Trung Quốc thì có tới 16 quốc gia sản xuất dầu mỏ (Belarus được
tính trong nhóm này bởi vì được Nga trợ cấp đáng kể nhu cầu năng lượng),
Hai quốc gia không sản xuất đầu mỏ là Thái Lan (chính quyền quân sự độc
tài đã lật đổ chính quyền nửa dân chủ vào năm 2014) và Cuba (cũng là
một quốc gia Leninit độc đảng, độc tài). Trong số 11 quốc gia tự do một
phần Mexico và Malaysia là những nhà sản xuất dầu mỏ đáng kể trong khi
Cô oét và Venezuela là những nước sản xuất dầu mỏ kinh điển. Điều làm
cho các lãnh đạo của ĐCSTQ có thêm lý do để lo ngại đó là thu nhập tính
theo đầu người của Trung Quốc vào khoảng $ 13.216 (PPP) năm 2014 cũng
chỉ bằng mức của Đài Loan và Hàn Quốc vào cuối những năm 1980 khi cả hai
quốc gia này bắt đầu tiến trình dân chủ hóa (10). Nếu như kinh nghiệm
chuyển đổi thể chế ở các nước có thu nhập trên trung bình như Đài Loan
và Hàn Quốc có thể được đem ra tham khảo và áp dụng thì ĐCSTQ cần phải
tính đến nhu cầu và những sự vận động xã hội đang dâng cao để tiến hành
những thay đổi chính trị trong thập kỷ tới (một vài tín hiệu của sự vận
động này đã được ghi nhận).
Hàm
ý duy nhất có thể rút ra từ phân tích này đó là trừ khi Trung Quốc muốn
đi theo tấm gương của Cuba và duy trì một nền kinh tế đóng để đảm bảo
sự tồn vong của chế độ độc đảng, quốc gia này sẽ phải đối mặt với tình
trạng lợi thế ngày một suy giảm trong nỗ lực giữ nguyên quyền lực (miễn
là Trung Quốc một cách kỳ diệu không trở thành một nước giống như Ả rập
Saudi). Nhưng bởi lẽ Trung Quốc sẽ không bao giờ là quốc gia dầu lửa nên
ĐCSTQ vì sự tồn vong của mình trong dài hạn còn có cơ hội khai mở một
số hình thái của thể chế chính trị có cạnh tranh và trở thành một chế độ
“ tự do một phần” – và đây là một bước trọng yếu tiến về phía trước so
với chủ nghĩa Leninnit hiện nay. Một cách khác, Trung Quốc có thể chống
lại ngay cả những cải cách khiêm tốn nhất và đặt cược sự tồn vong của
mình vào việc leo thang đàn áp và nuôi dưỡng chủ nghĩa dân tộc.
Đánh
giá những chính sách và biện pháp được ban lãnh đạo hiện nay của ĐCSTQ
thông qua thì dường như đảng này có ý định đặt cược chống lại lịch sử.
Trong 3 năm gần đây đảng đã rất nỗ lực gia tăng đàn áp. Trong số các
bước đi đáng để ý nhất: ĐCSTQ đã mạnh mẽ thắt chặt kiểm duyệt Internet,
truyền thông xã hội, báo chí, thông qua Luật về an ninh quốc gia chủ yếu
nhắm tới việc ngăn chặn các tổ chức phi chính phủ để bảo đảm an ninh
cho chế độ, phá hủy hàng trăm cây Thánh giá của nhà thờ Thiên Chúa nhằm
hạn chế tự do tín ngưỡng, tăng cường kiểm soát tư tưởng trong các ký túc
xá trường Đại học, cao đẳng và bắt bớ hàng chục luật sư nhân quyền, nhà
hoạt động vì quyền công dân trên cơ sở các bằng chứng ngụy tạo. Theo
nhiều cách nhìn nhận, mức độ đàn áp của ngày hôm nay là cao hơn bất kỳ
giai đoạn nào kể từ cuộc trấn áp Thiên An Môn.
Cũng
không kém phần đáng lo ngại và còn nguy hiểm hơn đó là những tuyên bố
dân tộc chủ nghĩa có tính leo thang của Trung Quốc. ĐCSTQ nhận thức mọi
điều nhưng lại từ bỏ chủ trương đối ngoại của Đặng Tiểu Bình là dấu mình
chờ thời và không đối đầu để ủng hộ cho một chiến lược đối ngoại khoe
cơ bắp và điều này đã làm cho Trung Quốc đi theo một tiến trình xung đột
với Hoa Kỳ. Bằng chứng về lời kêu gọi mới đây kích động chủ nghĩa dân
tộc và chính sách ngoại giao quả quyết của Bắc Kinh có thể tìm thấy
trong màn diễu binh lần đầu tiên kỷ niệm sự kiện bại trận của Nhật Bản
trong chiến tranh thế giới lần thứ II (mặc dù Trung Quốc và ĐCSTQ chỉ
đóng vai trò rất phụ trong cuộc chiến đó), đó còn là chiến dịch tuyên
truyền kỷ niệm “ giấc mơ Trung Hoa” (nội dung chủ yếu là sự phục hưng
của Trung Quốc với vị thế một siêu cường) và đòi hỏi gần như công khai
vị thế ngang hàng với Hoa Kỳ (được diễn đạt bằng ngôn từ “ quan hệ kiểu
mới giữa các siêu cường” trong tuyên bố của Bắc Kinh), những cuộc tấn
công trên mạng không ngơi nghỉ nhằm vào các cơ quan chính phủ và các cơ
sở thương mại Hoa Kỳ cùng với những cuộc khiêu khích và thủ đoạn gây hấn
đẩy tình hình tới miệng hố chiến tranh ở Biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa
(Biển Đông – ND). Cụ thể là thiết lập vùng nhận dạng hàng không ADIZ
trên vùng trời đảo Senkaku, cải tạo hàng loạt bãi chìm và xây dựng trên
các đảo thuộc vùng lãnh hải còn đang tranh chấp ở Biển Đông).
Nếu
như ĐCSTQ tin rằng leo thang đàn áp và chủ nghĩa dân tộc sẽ giúp cho
đảng duy trì quyền lực trong giai đoạn đang có hỗn loạn trong giới lãnh
đạo cấp cao, kinh tế suy thoái và căng thẳng xã hội dâng cao thì đảng
cũng nên nhìn nhận những rủi ro to lớn và cái giá phải trả cho chiến
lược sinh tồn mới này. Ngoài việc khiến Trung Quốc bị lạc hậu chiến lược
này tỏ ra không bền vững và nguy hiểm. Trấn áp có thể có tác dụng trong
một thời điểm nhưng các chế độ chuyên chế quá phụ thuộc vào nó sẽ phải
sẵn sàng gia tăng việc sử dụng bạo lực liên tục và áp dụng những biện
pháp hà khắc để ngăn cản các lực lượng chống đối.
Đàn
áp có thể là không tốt cho việc kinh doanh, vì khi đó nhà cầm quyền
buộc phải ngăn chặn dòng thông tin và tự do kinh tế để bảo đảm an ninh
cho chế độ (quả thực, các hãng phương Tây đang phàn nàn về những bất
tiện do tường lửa Vạn lý Trường thành gây ra). Gia tăng mức độ đàn áp
trong lúc kinh tế đang chìm đắm trong đình đốn sẽ gây căng thẳng và áp
lực lên các nguồn lực của ĐCSTQ bởi lẽ việc trấn áp đòi hỏi phải duy trì
mạng lưới tốn kém những kẻ nội gián chuyên cung cấp thông tin, công an
chìm, nhân viên kiểm duyệt và các lực lượng bán vũ trang. Đàn áp còn làm
phát sinh những chi phí khổng lồ về đạo đức và có thể nhóm lửa cho
những cuộc tranh luận bên trong chế độ.
Hãy đặt câu hỏi một cách rõ ràng: liệu Trung Quốc có thực sự sẵn sàng để trở thành một Bắc Triều Tiên khác?
Sử
dụng chủ nghĩa dân tộc và khoe cơ bắp có thể đem lại những lợi ích
chính trị nhất thời nhưng ĐCSTQ sẽ phải trả giá bằng an ninh của mình
trong dài hạn. Một trong những lựa chọn chiến lược khôn ngoan nhất của
Đặng Tiểu Bình là phát triển các mối quan hệ bạn bè với phương Tây do
Hoa Kỳ lãnh đạo nhằm thúc đẩy chương trình hiện đại hóa Trung Hoa. Trong
thời kỳ hậu Đặng Tiểu Bình hai nhân vật tiền nhiệm của họ Tập là Giang
Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào cũng đã học bài học cốt tử từ sự sụp đổ của Liên
Xô: xung đột chiến lược với Hoa Kỳ sẽ gây nguy hiểm cho chính sự tồn
vong của ĐCSTQ. Chi phí cho một cuộc chạy đua vũ trang sẽ ở mức không
chịu đựng nổi và sự thù địch công khai trong quan hệ Trung – Mỹ sẽ phá
hủy mối quan hệ kinh tế song phương.
Không
rõ ban lãnh đạo ĐCSTQ có nhận thức được những rủi ro mà chiến lược sinh
tồn mới đang hoàn thiện của họ sẽ mang lại hay không nhưng nếu các
thành viên trong ban lãnh đạo tin chắc rằng chỉ có chiến lược đó mới cứu
vãn được sự lãnh đạo của đảng và do hiện đang lo sợ bởi sự sụp đổ của
những trụ cột quan trọng trong mô hình hậu Thiên An Môn thì rất có thể
họ sẽ tiếp tục đường lối hiện nay. Và thật mỉa mai, đường lối đó, nếu
như phân tích ở trên là đúng thì chắc chắn sẽ thúc đẩy sự kết thúc của
ĐCSTQ thay vì ngăn chặn nó.
Thăng long- Hà nội 24/02/2016
Bản dịch của Phạm Gia Minh
Tài liệu tham khảo
1The
literature on China’s “resilient authoritarianism” is large.
Representative works include Andrew J. Nathan, “Authoritarian
Resilience,” Journal of Democracy (January 2003); David L. Shambaugh, China’s Communist Party: Atrophy and Adaptation (University of California Press, 2008).
2Andrew
Nathan acknowledged in 2013 that, “The consensus is stronger than at
any time since the 1989 Tiananmen crisis that the resilience of the
authoritarian regime in the People’s Republic of China (PRC) is
approaching its limits.” Nathan, “Foreseeing the Unforeseeable,” in
Andrew Nathan, Larry Diamond, and Marc Plattner, eds., Will China Democratize? (Johns Hopkins University Press, 2013); David Shambaugh published a much-noted long essay, “The Coming Chinese Crackup,” in the Wall Street Journal on March 6, 2015 arguing that the endgame for the CPC regime has begun.
3Samuel P. Huntington, The Third Wave: Democratization in the Late Twentieth Century (University of Oklahoma Press, 1993); Guillermo O’Donnell and Philippe C. Schmitter, Transitions from Authoritarian Rule: Tentative Conclusions about Uncertain Democracies (Johns Hopkins University Press, 2013).
4See Aviezer Tucker, “Why We Need Totalitarianism”, The American Interest (May/June 2015).
5Cai Fang Wang Dewen, “Impacts of Internal Migration on Economic Growth and Urban Development in China,” in Josh DeWind and Jennifer Holdaway, eds., Migration and Development Within and Across Borders (The Social Science Research Council, 2008.)
6The
literature on the predatory state and extractive institutions is vast.
The most influential works are Daron Acemoğlu and James Robinson, Why Nations Fail (Crown Publishing, 2012); Douglass North, Institutions, Institutional Change and Economic Performance (Cambridge University Press, 1990).
7The
huge inefficiency of state-owned enterprises, as compared with the
dynamism of the Chinese private sector, is detailed in Nick Lardy, Markets over Mao: The Rise of Private Business in China (Peterson Institute for International Economics, 2014)
8Seymour Martin Lipset, “Some Social Requisites of Democracy: Economic Development and Political Legitimacy,”American Political Science Review (March 1959); Adam Przeworski, Democracy and Development: Political Institutions and Well-Being in the World, 1950–1990 (Cambridge University Press, 2000).
9Academic
research has also established a strong link between oil and
dictatorship. See Michael Ross, “Does Oil Hinder Democracy?” World Politics (April 2001).
10Yu Liu and Dingding Chen, “Why China Will Democratize,” Washington Quarterly (Winter 2012).
Minxin Pei is
the Tom and Margot Pritzker ’72 Professor of Government at Claremont
McKenna College and a non-resident senior fellow of the German Marshall
Fund of the United States. His latest book, China’s Crony Capitalism: Dynamics of Regime Decay, will
be published by Harvard University Press in 2016. This article is drawn
from a larger research project on China’s likely regime transition that
has received financial support from the Smith Richardson Foundation,
the Carnegie Corporation of New York, and the John D. and Catherine T.
MacArthur Foundation.
http://www.viet-studies.info/kinhte/Pei_CCPTwilighlt_trans.htm