Văn Học & Nghệ Thuật
Cuộc đời kỳ lạ của cha đẻ Xuân Tóc Đỏ
Thẻ nhà báo của Vũ Trọng Phụng |
Làm rể nhà văn, lấy bà Vũ Mỵ Hằng, người con gái duy nhất của Vũ Trọng Phụng từ năm 1956, ông Sơn đã cùng vợ phụng dưỡng chăm sóc cả bà nội vợ (mẹ nhà văn Vũ Trọng Phụng) và mẹ vợ (cụ Vũ Mỵ Lương - vợ nhà văn). Cũng sinh sống tại làng Giáp Nhất gần cầu Mọc, ông Sơn quen bà Hằng khi bà mới 16 tuổi, rồi chờ cho đủ 18 tuổi là kết hôn. Từ đó, ông Sơn đã cáng đáng trọng trách trau chuốt gìn giữ di sản văn chương quý giá mà bố vợ mình - nhà văn Vũ Trọng Phụng để lại.
Theo ông Nghiêm Xuân Sơn, nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, nhưng quê gốc ở Mỹ Hào - Hưng Yên. Sinh thời, gia cảnh nhà văn rất nghèo, cái nghèo "gia truyền" như lời nhà văn Ngô Tất Tố đã nói. Trong bài viết có tựa đề "Gia thế ông Vũ Trọng Phụng" đăng trên Tạp chí văn học Tao Đàn số tưởng niệm Vũ Trọng Phụng, có sự tham gia của các cây bút lừng danh thời ấy như Tam Lang, Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Lan Khai, Trương Tửu, Thanh Châu, Nguyễn Triệu Luật, nhà văn Ngô Tất Tố cảm thán: "Trong các nhà văn hiện thời, ông Phụng là người nghèo lắm. Khác hẳn những ông Trần Tế Xương và Nghiêm Phúc Đồng, cái nghèo của ông là thể nghèo "gia truyền" không phải "nghèo lỏi". Những người hiếu danh thường hay giấu giếm gia thế, nếu như tiền nhân của họ không có người nào hiển đạt. Ông Phụng không có óc ấy. Chính ông kể cho tôi nghe tổ phụ của ông chỉ làm lý trưởng, thân phụ ông chỉ là một người thường dân và đã tạ thế khi ông mới 7 tháng tuổi, tổ phụ ông mới ngoài 60. Ở nơi quê quán, ông không có một tấc đất cắm dùi".
Ông Nghiêm Xuân Sơn kể, ngay trước ngày Hội Nhà văn Việt Nam chính thức tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Vũ Trọng Phụng (ngày 22/10 vừa qua), con gái nhà văn Ngô Tất Tố đã mang bản copy bài báo có tuổi đời hơn 70 năm đến tặng gia đình ông. Nhà văn Ngô Tất Tố còn viết tiếp: "Tôi biết ông từ thời làm Báo Công dân, cách đây độ 4, 5 năm chi đó. Hồi đấy có lẽ là hồi quẫn bách nhất trong đời ông, vì rằng, ngoài làm Báo Công dân ông không còn chỗ làm nào khác, mà Báo Công dân thì lại chỉ là cơ quan của một bọn anh em nhà văn nghèo dúm rau dúm bếp làm với nhau, ít khi trả tiền in rồi trong két có được tiền thừa mà trả cho người cầm bút.
Thế nhưng, ông cũng không tỏ ra mình cần tiền. Mỗi khi ở Gia Lâm sang tòa báo, ông cứ cặm cụi cuốc bộ đi, cuốc bộ về, hôm nào mỏi lắm mới lấy 5 xu đi xe. Một điều quan trọng nữa là đời ông luôn thấy sự túng thiếu, nhưng không lúc nào ông tự đem sự túng thiếu của mình mà làm phiền lụy người nào, dù khi túng thiếu cực điểm cũng vậy".
Cái nghèo đeo bám, khiến Vũ Trọng Phụng lao vào viết như một người nông phu đang vào vụ, không thể ngơi tay vì sợ bỏ lỡ tiết trời. 27 năm cuộc đời, lăn lộn vào chốn văn chương chừng 10 năm, ông đã kịp để lại cho hậu thế một gia tài đồ sộ, hơn 30 truyện ngắn, 9 tiểu thuyết, 9 phóng sự dài, 7 vở kịch và nhiều bài bình luận văn chương, xã hội sâu sắc… Lao lực do làm việc nhiều, lại không có điều kiện để chăm sóc y tế kịp thời, Vũ Trọng Phụng mắc bệnh lao phổi. Bệnh nặng, tự chữa trị thuốc thang ở nhà nên bệnh tiến triển càng nhanh, ngay cả sức trẻ tuổi 20 cũng phải đầu hàng số mệnh.
Nhà văn Ngô Tất Tố (1893 - 1954) - người bạn vong niên từng khóc thương cho số kiếp của Vũ Trọng Phụng: "Ông đau từ mấy năm trước. Trước khi chết độ 6 - 7 tháng, ông đã có một đêm nguy kịch. Sáng sớm hôm sau ông cho gọi tôi lên nhà thăm bệnh và nói cho tôi biết rằng: Chiều hôm trước một viên bác sĩ chữa bệnh cho ông đã khuyên ông đi nhà thương. Trong đêm vừa rồi ông đã làm sẵn mấy bản chúc thư. Ông bị đau phổi, vẫn sốt hâm hấp, ho ra đờm đặc. Từ mấy bữa trước không thể gượng ngồi dậy mà chỉ nằm được một bên sườn. Ho cũng đau, nói cũng đau, hễ trở mình thì trong sườn nghe có tiếng óc ách.
Bấy giờ người ông tuy đã tiêu nước, nhưng mạch hai tay vẫn còn có lực. Sau khi coi mạch và hỏi các chứng, tôi kê cho ông bài "nhị thang trần" hợp bài "nung thang" gia một lạng ý dĩ và dặn ông uống một ngày hai thang. Sáng mai tôi lại lên thăm ông, ông khoe với tôi bệnh đã bớt nhiều, có lẽ không chết. Từ đó ông uống mãi đơn ấy, tuy thỉnh thoảng cũng thay đổi ít nhiều, nhưng đại thể vẫn không ngoài hai phương thuốc trước. Một tháng sau ông đã dậy được, đã đến thăm tôi ở Báo Thời vụ. Đau ngực, đau sườn, tiếng nước óc ách, khỏi cả, chỉ có cái sốt hâm hấp không khỏi và sắc mặt ông vẫn xanh như người hết máu".
2.
Cầm cự được một khoảng thời gian ít ỏi trong cảnh túng thiếu cùng cực, nhà văn Vũ Trọng Phụng về cõi vĩnh hằng ngày 13/10. Bạn bè văn chương ngày ấy đã mô tả đám tang ông một cách hết sức thê lương, ảm đạm trong một ngày thu trong veo, đẹp trời. Ai cũng ái ngại cho gia đình của nhà văn, thương cảm người vợ trẻ và đứa con gái duy nhất chưa đầy một tuổi.
Thi hài Vũ Trọng Phụng được an táng tại nghĩa trang Thanh Xuân, sau này là khu vực mà người dân Hà Nội quen gọi là Cao, Xà, Lá. Mất chồng khi tóc còn đương xanh, bà Vũ Mỵ Lương, vợ nhà văn Vũ Trọng Phụng đã ở vậy, lần hồi nuôi con, nuôi mẹ chồng. Bà Lương người ngay làng Giáp Nhất, là con gái nhà giàu, danh giá xinh đẹp nhưng đã chấp nhận làm vợ một anh nhà văn nghèo, cả đời bươn chải trong kiếp ở nhà thuê.
Năm 1956, chàng trai trẻ Nghiêm Xuân Sơn về làm rể nhà văn, bắt đầu chặng đường dài toan lo cho đại gia đình vợ. Giai đoạn ấy, mẹ đẻ của nhà văn vẫn còn mạnh khỏe, vui sống cùng con dâu, cháu nội, cháu rể và các chắt. Ông Nghiêm Xuân Sơn nhớ lại, một người con trai của ông ngay lúc còn nhỏ xíu, bị bệnh nặng đã trút hơi thở cuối cùng ngay trên tay cụ nội. Năm 1964, đến lượt cụ bà mẹ đẻ nhà văn qua đời. 12 năm sau, năm 1976, bà Vũ Mỵ Lương, vợ nhà văn tìm về đoàn tụ bên chồng sau hơn 30 năm âm dương cách biệt.
Ông Nghiêm Xuân Sơn đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm, sau học thêm bằng kế toán rồi về làm việc bên Tổng cục Đường sắt. Bà Vũ Mỵ Hằng ở nhà đan len, xoay trở chăm con, chăm chồng. Ông Sơn bảo khu đất mà ông đang ở cùng các con rể và cháu ngoại, có mộ phần Vũ Trọng Phụng nguyên là của gia đình vợ nhà văn, sau này được ông Sơn đứng ra mua thêm rồi một tay xây sửa.
Dù không có dính líu gì tới văn chương, nhưng ông Nghiêm Xuân Sơn đã sớm ý thức được tầm vóc lừng lững và gia tài vô giá của bố vợ trong chốn văn chương. Công việc sưu tầm các hiện vật liên quan đến Vũ Trọng Phụng đã được vợ chồng ông Sơn, bà Hằng thực hiện từ sớm. Do hoàn cảnh khách quan, nhiều lần phần mộ nhà văn Vũ Trọng Phụng phải di dời, chuyển chỗ, cho đến năm 1983, vợ chồng ông Sơn đã đưa ra một quyết định táo bạo: Chuyển mộ phần nhà văn về an táng tại khu đất của nhà ở ngay làng Giáp Nhất. Trước đó, khi nghĩa trang Thanh Xuân bị giải tỏa, xây dựng khu công nghiệp Cao, Xà, Lá, ông Sơn đưa mộ phần bố vợ về mảnh ruộng của dòng họ trên cánh đồng làng. Cánh đồng bị đánh bom, xơ xác, nhà văn lại được con cháu đưa về nghĩa trang Quán Dền.
Cuối cùng, khi nghĩa trang Quán Dền cũng bị thu hồi đất để xây cống thoát nước, mà ông Sơn hồi ức, đấy chính là khu vực đường Lê Văn Lương ngày nay, vợ chồng ông xin ý kiến Hội Nhà văn Việt Nam, chuyển mộ phần cha về ngay khu đất đai hương hỏa của gia đình để tiện chăm nom.
Trên diện tích chừng 300m2, ông Nghiêm Xuân Sơn xây dựng nên một khu tưởng niệm riêng biệt, độc đáo, ấm cúng, thanh bình cho bố vợ và những người gần gũi, thân yêu nhất của nhà văn. Mộ phần nhà văn đã trở thành địa chỉ giàu ý nghĩa với người dân làng Giáp Nhất, với những người yêu mến văn chương, độc giả say mê tác phẩm của Vũ Trọng Phụng và cả nhiều thế hệ sinh viên, nghiên cứu sinh văn khoa các trường đại học.
Cảm kích trước sự tận tâm, chu đáo của vợ chồng con gái, con rể Vũ Trọng Phụng, nhà phê bình - GS-NGND Hoàng Thiếu Sơn trong một bài viết đọc trước mộ phần nhà văn đã tha thiết: "Từ ngày ấy không còn mong được đọc gì thêm của Vũ Trọng Phụng nữa, chúng ta chỉ còn mỗi một ước mong: Vũ Trọng Phụng có được một mộ phần xứng đáng với cống hiến của mình cho quốc văn và cho dân tộc, để những kẻ hậu sinh được đến thăm viếng, tưởng niệm và tri ân. Ước mong ấy mọi người giữ mãi trong lòng, cả trong những năm tháng tối tăm mà bóng đen ngột ngạt đè lên toàn bộ sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng. Cuối cùng ngày 1/5/1988, Vũ Trọng Phụng đã trở về nơi chôn rau cắt rốn của mình (thôn Giáp Nhất, xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, Hà Nội), nơi mình đã sống phần lớn cuộc đời thật ngắn để viết ra những tác phẩm thật dài, đã sống và còn sống rất lâu dài, sống mãi mãi trên đất nước chúng ta. Có thể tìm đâu cho Vũ Trọng Phụng một mộ phần tốt hơn cái phần đất làng Mọc này".
Nhà phê bình Hoàng Thiếu Sơn khẳng định: "Sở dĩ phần mộ nhà văn Vũ Trọng Phụng cùng cụ thân mẫu và người bạn đời của mình đã hoàn thành là do bao công sức, sự hy sinh tận tụy của chị Vũ Mỵ Hằng, con gái nhà văn và chồng là anh Nghiêm Xuân Sơn. Đây không chỉ là việc làm riêng cho gia đình để thỏa lòng mong mỏi của con cháu, mà còn làm cho cả xã hội, để đáp lại nguyện vọng của bao nhiêu người xưa nay ngưỡng mộ nhà văn".
Bà Vũ Mỵ Hằng, giọt máu duy nhất mà nhà văn Vũ Trọng Phụng để lại cõi trần gian cũng qua đời năm 1996. Từ ngày vợ mất, ông Nghiêm Xuân Sơn đã từ TP HCM trở ra, ở hẳn Giáp Nhất để tiện bề coi sóc trông nom mộ phần những người thân. Khu tưởng niệm gồm cả phần mộ của nhà văn Vũ Trọng Phụng luôn sạch sẽ, khang trang và tạo một cảm giác ấm áp vì luôn được gần bên cháu con, luôn có tiếng người vào ra thăm viếng.
Cả đời lo cho gia đình vợ, đến giờ này, nguyện vọng duy nhất của ông Sơn chỉ là, được Nhà nước công nhận, xếp hạng khu tưởng niệm và mộ phần nhà văn Vũ Trọng Phụng, để ông được đường hoàng gắn vào đó 3 chữ "Cấm vi phạm": "Đất đai giờ là toàn đất vàng, đất kim cương, lúc này cháu con tôi đang ngoan, đang tử tế. Biết đâu sau này đến lúc tôi nằm xuống, chúng nó lại đổi ý, muốn bán khu đất này thì sao. Tôi giữ là giữ cho con cháu, giữ cho Nhà nước, giữ lại một địa chỉ văn hóa giàu tâm tưởng trong lòng người. Vậy nên, tôi chỉ xin Nhà nước cho 3 chữ "Cấm vi phạm”.
Mỹ Trân
Bàn ra tán vào (0)
Cuộc đời kỳ lạ của cha đẻ Xuân Tóc Đỏ
Thẻ nhà báo của Vũ Trọng Phụng |
Làm rể nhà văn, lấy bà Vũ Mỵ Hằng, người con gái duy nhất của Vũ Trọng Phụng từ năm 1956, ông Sơn đã cùng vợ phụng dưỡng chăm sóc cả bà nội vợ (mẹ nhà văn Vũ Trọng Phụng) và mẹ vợ (cụ Vũ Mỵ Lương - vợ nhà văn). Cũng sinh sống tại làng Giáp Nhất gần cầu Mọc, ông Sơn quen bà Hằng khi bà mới 16 tuổi, rồi chờ cho đủ 18 tuổi là kết hôn. Từ đó, ông Sơn đã cáng đáng trọng trách trau chuốt gìn giữ di sản văn chương quý giá mà bố vợ mình - nhà văn Vũ Trọng Phụng để lại.
Theo ông Nghiêm Xuân Sơn, nhà văn Vũ Trọng Phụng sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, nhưng quê gốc ở Mỹ Hào - Hưng Yên. Sinh thời, gia cảnh nhà văn rất nghèo, cái nghèo "gia truyền" như lời nhà văn Ngô Tất Tố đã nói. Trong bài viết có tựa đề "Gia thế ông Vũ Trọng Phụng" đăng trên Tạp chí văn học Tao Đàn số tưởng niệm Vũ Trọng Phụng, có sự tham gia của các cây bút lừng danh thời ấy như Tam Lang, Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Lan Khai, Trương Tửu, Thanh Châu, Nguyễn Triệu Luật, nhà văn Ngô Tất Tố cảm thán: "Trong các nhà văn hiện thời, ông Phụng là người nghèo lắm. Khác hẳn những ông Trần Tế Xương và Nghiêm Phúc Đồng, cái nghèo của ông là thể nghèo "gia truyền" không phải "nghèo lỏi". Những người hiếu danh thường hay giấu giếm gia thế, nếu như tiền nhân của họ không có người nào hiển đạt. Ông Phụng không có óc ấy. Chính ông kể cho tôi nghe tổ phụ của ông chỉ làm lý trưởng, thân phụ ông chỉ là một người thường dân và đã tạ thế khi ông mới 7 tháng tuổi, tổ phụ ông mới ngoài 60. Ở nơi quê quán, ông không có một tấc đất cắm dùi".
Ông Nghiêm Xuân Sơn kể, ngay trước ngày Hội Nhà văn Việt Nam chính thức tổ chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Vũ Trọng Phụng (ngày 22/10 vừa qua), con gái nhà văn Ngô Tất Tố đã mang bản copy bài báo có tuổi đời hơn 70 năm đến tặng gia đình ông. Nhà văn Ngô Tất Tố còn viết tiếp: "Tôi biết ông từ thời làm Báo Công dân, cách đây độ 4, 5 năm chi đó. Hồi đấy có lẽ là hồi quẫn bách nhất trong đời ông, vì rằng, ngoài làm Báo Công dân ông không còn chỗ làm nào khác, mà Báo Công dân thì lại chỉ là cơ quan của một bọn anh em nhà văn nghèo dúm rau dúm bếp làm với nhau, ít khi trả tiền in rồi trong két có được tiền thừa mà trả cho người cầm bút.
Thế nhưng, ông cũng không tỏ ra mình cần tiền. Mỗi khi ở Gia Lâm sang tòa báo, ông cứ cặm cụi cuốc bộ đi, cuốc bộ về, hôm nào mỏi lắm mới lấy 5 xu đi xe. Một điều quan trọng nữa là đời ông luôn thấy sự túng thiếu, nhưng không lúc nào ông tự đem sự túng thiếu của mình mà làm phiền lụy người nào, dù khi túng thiếu cực điểm cũng vậy".
Cái nghèo đeo bám, khiến Vũ Trọng Phụng lao vào viết như một người nông phu đang vào vụ, không thể ngơi tay vì sợ bỏ lỡ tiết trời. 27 năm cuộc đời, lăn lộn vào chốn văn chương chừng 10 năm, ông đã kịp để lại cho hậu thế một gia tài đồ sộ, hơn 30 truyện ngắn, 9 tiểu thuyết, 9 phóng sự dài, 7 vở kịch và nhiều bài bình luận văn chương, xã hội sâu sắc… Lao lực do làm việc nhiều, lại không có điều kiện để chăm sóc y tế kịp thời, Vũ Trọng Phụng mắc bệnh lao phổi. Bệnh nặng, tự chữa trị thuốc thang ở nhà nên bệnh tiến triển càng nhanh, ngay cả sức trẻ tuổi 20 cũng phải đầu hàng số mệnh.
Nhà văn Ngô Tất Tố (1893 - 1954) - người bạn vong niên từng khóc thương cho số kiếp của Vũ Trọng Phụng: "Ông đau từ mấy năm trước. Trước khi chết độ 6 - 7 tháng, ông đã có một đêm nguy kịch. Sáng sớm hôm sau ông cho gọi tôi lên nhà thăm bệnh và nói cho tôi biết rằng: Chiều hôm trước một viên bác sĩ chữa bệnh cho ông đã khuyên ông đi nhà thương. Trong đêm vừa rồi ông đã làm sẵn mấy bản chúc thư. Ông bị đau phổi, vẫn sốt hâm hấp, ho ra đờm đặc. Từ mấy bữa trước không thể gượng ngồi dậy mà chỉ nằm được một bên sườn. Ho cũng đau, nói cũng đau, hễ trở mình thì trong sườn nghe có tiếng óc ách.
Bấy giờ người ông tuy đã tiêu nước, nhưng mạch hai tay vẫn còn có lực. Sau khi coi mạch và hỏi các chứng, tôi kê cho ông bài "nhị thang trần" hợp bài "nung thang" gia một lạng ý dĩ và dặn ông uống một ngày hai thang. Sáng mai tôi lại lên thăm ông, ông khoe với tôi bệnh đã bớt nhiều, có lẽ không chết. Từ đó ông uống mãi đơn ấy, tuy thỉnh thoảng cũng thay đổi ít nhiều, nhưng đại thể vẫn không ngoài hai phương thuốc trước. Một tháng sau ông đã dậy được, đã đến thăm tôi ở Báo Thời vụ. Đau ngực, đau sườn, tiếng nước óc ách, khỏi cả, chỉ có cái sốt hâm hấp không khỏi và sắc mặt ông vẫn xanh như người hết máu".
2.
Cầm cự được một khoảng thời gian ít ỏi trong cảnh túng thiếu cùng cực, nhà văn Vũ Trọng Phụng về cõi vĩnh hằng ngày 13/10. Bạn bè văn chương ngày ấy đã mô tả đám tang ông một cách hết sức thê lương, ảm đạm trong một ngày thu trong veo, đẹp trời. Ai cũng ái ngại cho gia đình của nhà văn, thương cảm người vợ trẻ và đứa con gái duy nhất chưa đầy một tuổi.
Thi hài Vũ Trọng Phụng được an táng tại nghĩa trang Thanh Xuân, sau này là khu vực mà người dân Hà Nội quen gọi là Cao, Xà, Lá. Mất chồng khi tóc còn đương xanh, bà Vũ Mỵ Lương, vợ nhà văn Vũ Trọng Phụng đã ở vậy, lần hồi nuôi con, nuôi mẹ chồng. Bà Lương người ngay làng Giáp Nhất, là con gái nhà giàu, danh giá xinh đẹp nhưng đã chấp nhận làm vợ một anh nhà văn nghèo, cả đời bươn chải trong kiếp ở nhà thuê.
Năm 1956, chàng trai trẻ Nghiêm Xuân Sơn về làm rể nhà văn, bắt đầu chặng đường dài toan lo cho đại gia đình vợ. Giai đoạn ấy, mẹ đẻ của nhà văn vẫn còn mạnh khỏe, vui sống cùng con dâu, cháu nội, cháu rể và các chắt. Ông Nghiêm Xuân Sơn nhớ lại, một người con trai của ông ngay lúc còn nhỏ xíu, bị bệnh nặng đã trút hơi thở cuối cùng ngay trên tay cụ nội. Năm 1964, đến lượt cụ bà mẹ đẻ nhà văn qua đời. 12 năm sau, năm 1976, bà Vũ Mỵ Lương, vợ nhà văn tìm về đoàn tụ bên chồng sau hơn 30 năm âm dương cách biệt.
Ông Nghiêm Xuân Sơn đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm, sau học thêm bằng kế toán rồi về làm việc bên Tổng cục Đường sắt. Bà Vũ Mỵ Hằng ở nhà đan len, xoay trở chăm con, chăm chồng. Ông Sơn bảo khu đất mà ông đang ở cùng các con rể và cháu ngoại, có mộ phần Vũ Trọng Phụng nguyên là của gia đình vợ nhà văn, sau này được ông Sơn đứng ra mua thêm rồi một tay xây sửa.
Dù không có dính líu gì tới văn chương, nhưng ông Nghiêm Xuân Sơn đã sớm ý thức được tầm vóc lừng lững và gia tài vô giá của bố vợ trong chốn văn chương. Công việc sưu tầm các hiện vật liên quan đến Vũ Trọng Phụng đã được vợ chồng ông Sơn, bà Hằng thực hiện từ sớm. Do hoàn cảnh khách quan, nhiều lần phần mộ nhà văn Vũ Trọng Phụng phải di dời, chuyển chỗ, cho đến năm 1983, vợ chồng ông Sơn đã đưa ra một quyết định táo bạo: Chuyển mộ phần nhà văn về an táng tại khu đất của nhà ở ngay làng Giáp Nhất. Trước đó, khi nghĩa trang Thanh Xuân bị giải tỏa, xây dựng khu công nghiệp Cao, Xà, Lá, ông Sơn đưa mộ phần bố vợ về mảnh ruộng của dòng họ trên cánh đồng làng. Cánh đồng bị đánh bom, xơ xác, nhà văn lại được con cháu đưa về nghĩa trang Quán Dền.
Cuối cùng, khi nghĩa trang Quán Dền cũng bị thu hồi đất để xây cống thoát nước, mà ông Sơn hồi ức, đấy chính là khu vực đường Lê Văn Lương ngày nay, vợ chồng ông xin ý kiến Hội Nhà văn Việt Nam, chuyển mộ phần cha về ngay khu đất đai hương hỏa của gia đình để tiện chăm nom.
Trên diện tích chừng 300m2, ông Nghiêm Xuân Sơn xây dựng nên một khu tưởng niệm riêng biệt, độc đáo, ấm cúng, thanh bình cho bố vợ và những người gần gũi, thân yêu nhất của nhà văn. Mộ phần nhà văn đã trở thành địa chỉ giàu ý nghĩa với người dân làng Giáp Nhất, với những người yêu mến văn chương, độc giả say mê tác phẩm của Vũ Trọng Phụng và cả nhiều thế hệ sinh viên, nghiên cứu sinh văn khoa các trường đại học.
Cảm kích trước sự tận tâm, chu đáo của vợ chồng con gái, con rể Vũ Trọng Phụng, nhà phê bình - GS-NGND Hoàng Thiếu Sơn trong một bài viết đọc trước mộ phần nhà văn đã tha thiết: "Từ ngày ấy không còn mong được đọc gì thêm của Vũ Trọng Phụng nữa, chúng ta chỉ còn mỗi một ước mong: Vũ Trọng Phụng có được một mộ phần xứng đáng với cống hiến của mình cho quốc văn và cho dân tộc, để những kẻ hậu sinh được đến thăm viếng, tưởng niệm và tri ân. Ước mong ấy mọi người giữ mãi trong lòng, cả trong những năm tháng tối tăm mà bóng đen ngột ngạt đè lên toàn bộ sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng. Cuối cùng ngày 1/5/1988, Vũ Trọng Phụng đã trở về nơi chôn rau cắt rốn của mình (thôn Giáp Nhất, xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, Hà Nội), nơi mình đã sống phần lớn cuộc đời thật ngắn để viết ra những tác phẩm thật dài, đã sống và còn sống rất lâu dài, sống mãi mãi trên đất nước chúng ta. Có thể tìm đâu cho Vũ Trọng Phụng một mộ phần tốt hơn cái phần đất làng Mọc này".
Nhà phê bình Hoàng Thiếu Sơn khẳng định: "Sở dĩ phần mộ nhà văn Vũ Trọng Phụng cùng cụ thân mẫu và người bạn đời của mình đã hoàn thành là do bao công sức, sự hy sinh tận tụy của chị Vũ Mỵ Hằng, con gái nhà văn và chồng là anh Nghiêm Xuân Sơn. Đây không chỉ là việc làm riêng cho gia đình để thỏa lòng mong mỏi của con cháu, mà còn làm cho cả xã hội, để đáp lại nguyện vọng của bao nhiêu người xưa nay ngưỡng mộ nhà văn".
Bà Vũ Mỵ Hằng, giọt máu duy nhất mà nhà văn Vũ Trọng Phụng để lại cõi trần gian cũng qua đời năm 1996. Từ ngày vợ mất, ông Nghiêm Xuân Sơn đã từ TP HCM trở ra, ở hẳn Giáp Nhất để tiện bề coi sóc trông nom mộ phần những người thân. Khu tưởng niệm gồm cả phần mộ của nhà văn Vũ Trọng Phụng luôn sạch sẽ, khang trang và tạo một cảm giác ấm áp vì luôn được gần bên cháu con, luôn có tiếng người vào ra thăm viếng.
Cả đời lo cho gia đình vợ, đến giờ này, nguyện vọng duy nhất của ông Sơn chỉ là, được Nhà nước công nhận, xếp hạng khu tưởng niệm và mộ phần nhà văn Vũ Trọng Phụng, để ông được đường hoàng gắn vào đó 3 chữ "Cấm vi phạm": "Đất đai giờ là toàn đất vàng, đất kim cương, lúc này cháu con tôi đang ngoan, đang tử tế. Biết đâu sau này đến lúc tôi nằm xuống, chúng nó lại đổi ý, muốn bán khu đất này thì sao. Tôi giữ là giữ cho con cháu, giữ cho Nhà nước, giữ lại một địa chỉ văn hóa giàu tâm tưởng trong lòng người. Vậy nên, tôi chỉ xin Nhà nước cho 3 chữ "Cấm vi phạm”.
Mỹ Trân