Quán Bên Đường
Đường vào Mật-khu TAM GIÁC SẮT (KB Vũ Đình Lưu)
Lời giới thiệu của KB NgụySaigon :
Trong Bản Tường Trình của Thiếu Tướng John Murray , Trưởng văn phòng Tùy Viên Quân Sự, Tòa Đại sứ Mỹ cho biết: Vào lúc cao điểm của cuộc chiến Quân Đội Mỹ và Đồng Minh có 433 Tiểu Đoàn và Quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lược (CSBVXL) có 180 Tiểu Đoàn. Năm 1974, Khi Quân Đội Mỹ rút quân về nước thì QLVNCH có 189 Tiểu Đoàn. Quân số CSBVXL tăng lên 330 Tiểu Đoàn. QLVNCH không còn được Hoa Kỳ yểm trợ Hải Pháo, Không Quân chiến lược B52 và KQ chiến thuật F4. Quân viện bị cắt giảm chỉ bằng 2% tổng số kinh phí đã sử dụng cho Quân Đội Mỹ. Thượng Đế dĩ nhiên nghiên về phe có nhiều Tiểu đoàn hơn. Thượng Đế đã mĩm cười với quân CSBVXL. Biết được điểm yếu của QLVNCH mặc dù bị thất bại thê thảm tại đồn Biên Phòng Đức Huệ, Sư đoàn 5 CSBVXL đã bị Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh/LLXKQDIII đánh
tan chỉ trong một ngày, Sư Đoàn 9 CSBVXL vào tháng 5 năm 1974, đã đồng loạt tấn công và tràn ngập 2 tiền đồn Rạch Bắp, Căn cứ 82 và sau đó tấn chiếm An Điền tại khu Tam Giác Sắt. Đây là một trận chiến lớn trong lãnh thổ Quân Đoàn III. Trước tình hình quân viện bị cắt giảm thảm thiết, QLVNCH đã mất đi ưu thế di động và hỏa lực yểm trợ dồi dào, cùng lúc các đơn vị Tổng trừ bị bị cầm chân trong thế diện địa.Trong hội nghị Diên Hồng khi được hỏi “Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh”. Các bô lảo đồng thanh trả lời “Hy Sinh “. Gần 800 năm sau, không có Hội nghị Diên Hồng, không có cả câu hỏi năm xưa. Nhưng người lính chiến QLVNCH đã thể hiện lòng dũng cảm , tinh thần bất khuất và sự Hy Sinh vô bờ bến đã chiến đấu trong thế cùng lực tận để Bảo Quốc An Dân.
Đọc bài viết “Đường Vào Mật Khu Tam Giác Sắt , tác giả Đại úy Vũ Đình Lưu, con chiến mã đầu đàn của Chi Đoàn 2/5 Thiết Kỵ lừng danh sông núi để ngậm ngùi,để tưởng nhớ, để vinh danh những Kỵ Binh Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh đã Hy Sinh thân mình cho Tổ Quốc Việt Nam. Cũng xin đốt một nén nhang để tưởng niệm hai người bạn thân : Kiến trúc sư Thiếu úy Công Binh Vũ Văn Dũng , và Thiếu úy Kỵ Binh Nguyễn Trung Đồng Dinh đã đền xong nợ nước tại mặt trận An Điền .
Cuộc chiến năm xưa dù đã qua đi nhưng tinh thần bất khuất, sự chiến đấu dũng mảnh và sự Hy Sinh cao cả của những chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bất diệt.
TỔ-QUỐC GHI ƠN!
ĐƯỜNG VÀO MẬT KHU TAM GIÁC SẮT> |
“Vó câu muôn dặm không sờn chí
Xích sắt nghìn miles chẳng sợ mòn”
Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, Cộng Sản Bắc Việt đã xua chiến-xa tiến gần Thủ Đô Sài Gòn nhất. Chúng dùng chiến-xa cùng Bộ Binh với trọng pháo tầm xa yểm trợ tiến chiếm xã Phú Thứ (Quận Phú cường,Tỉnh Bình Dương). Một địa danh cực Nam của vùng mà Cộng-quân gọi là Vùng Tam Giác Sắt cách Sài Gòn 30 Km về hướng BắcTây Bắc vào thời điểm giữa tháng 5 năm 1974.
Tam Giác Sắt, vùng đất hình tam giác nhọn nằm về hướng Tây của Bến Cát. Một địa danh nổi tiếng với rừng cây rộng lớn khoảng 80 cây số vuông, Cộng-quân gọi là vùng bất khả xâm phạm vì nơi đây là căn cứ hậu cần của chúng tại miền Đông Nam Phần. Nhìn vào bản đồ vùng Tam Giác Sắt tựa như đầu một mũi tên sắt nhắm thẳng vào tim của miền Nam Việt Nam.
Vì tầm mức quan trọng chiến lược của vùng Tam Giác Sắt; năm 1967, Liên quân Việt Mỹ đã huy động một lực lượng hùng hậu gồm Sư Đoàn 5 BB, Chiến Đoàn Đặc Nhiệm của Quân Đoàn 3 và một phần lực luợng Tổng Trừ Bị tăng phái. Lực luợng Hoa Kỳ có Sư Đoàn 1và Sư Đoàn 25 Bộ Binh, Lữ Đoàn 173 Dù và Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh. Lực lượng Việt Mỹ đã đánh tan căn cứ hậu cần nầy của CQ sau 17 ngày đêm hành quân tiêu diệt.
Năm 1974, một năm đẫm máu tại vùng Tam Giác Sắt. Không có cuộc hành quân hay chiến dịch nào lâu dài hơn, dữ dằn hơn hay tổn thất hơn là trận đánh vùng Tam Giác Sắt. Tại đây, một vùng tương đối bằng phẳng, cầy nát bởi vô số bom đạn, soi thủng bằng một hệ thống đường hầm chằng chịt. Loang lỗ bởi những vết thẹo của trăm, ngàn cuộc đụng độ lớn nhỏ đã diễn ra khắp cùng mọi nơi của khu rừng An Sơn dày đặc bụi rậm, cây gai suốt 20 năm qua.
Nếu chiếm được vùng này, Cộng-quân sẽ đặt Khu Quân Sự Tân Sơn Nhất và các vị trí phòng thủ của QLVNCH tại Phú Cường, Củ Chi, Lai Khê trong tầm đạn của đại pháo.
Quận Bến Cát nằm về phía Đông Mật khu Tam Giác Sắt, cách Biên Hòa 35 Km hướng Bắc Tây Bắc. Một Thị trấn nhỏ nằm cạnh Quốc lộ 13, bao lâu nay đồng bào được sống yên bình, sinh hoạt bán buôn thịnh vượng.
Ngày 16 tháng 5, hai Trung Đoàn của Sư Đoàn 9 Bắc Việt cùng chiến-xa với trọng pháo yểm trợ chiếm Rạch Bắp ( là căn cứ cuối cùng của QLVNCH trấn giữ mạn Bắc của vùng Tam Giác Sắt ) và tràn ngập Căn Cứ 82 cách xã An Điền 4 km về hướng Tây. Sau đó, ng ày 17 th áng 5, gần năm ngàn thường dân An Điền, Bến Cát lũ lược tháo chạy từ bỏ làng xã,Thị Trấn, khi CSBV dùng đại pháo và Súng cối xua đuổi tàn bạo. Tiếp theo Trung Đoàn 95C Cộng-quân tấn chiếm xã An Điền. Trung Đoàn 272 đâm thẳng xuống phía Nam chiếm Phú Thứ để tiến về Phú Cường nhưng QLVNCH đã chận đứng bước tiến tại đây.
Xã An Điền, nằm về phía Tây Thị trấn Bến Cát một cây số rưỡi nối liền bằng một con đường độc đạo đất đỏ là Hương lộ 7, với chiếc cầu sắt yếu ớt bắc qua sông Thị Tính hiền hoà, nước trong vắt. Chung quanh xã, từ hướng Bắc qua Đông xuống mạn Nam là ruộng lúa, sình lầy. Đây là địa danh cực Đông của vùng Tam Giác Sắt.
Tướng Phạm Quốc Thuần Tư Lệnh Quân Đoàn 3 dàn Sư Đoàn 18 Bộ Binh ra nhiều cánh quân phản công tái chiếm các vị trí đã mất. Sự phản công khởi sự khoảng ngày 22 tháng 5. Các Chiến Đoàn Thiết Kỵ của Lữ Đoàn 3 Xung kích( LĐ3XK) tham chiến. Chiến Đoàn 322 gồm Thiết Đoàn 22 Chiến-xa và Tiểu Đoàn 2/43 Bộ Binh tấn công từ hướng Nam lên đồi 82 và Rạch Bắp. Chiến Đoàn 318 tiến công từ Bến Cát vào An Điền. Cùng một lúc 3 Tiểu Đoàn của Đoàn 7 Biệt Động Quân từ hướng Bắc tấn công xuống Căn cứ 82. Tất cả mọi nỗ lực tái chiếm đều không đem lại kết quả và bị tổn thất nặng nề. Đại tá Dư Ngọc Thanh Tư Lệnh phó L Đ3XK bị thương hư một mắt tại khu vực chiếc cầu phao đuợc Công Binh can đảm bắc qua sông Thị Tính dưới đạn pháo của địch quân. Chiếc cầu phao chiều dài khoảng 50 mét dùng cho chiến-xa xử dụng vì chiếc cầu sắt Thị Tính không chịu nổi sức nặng của chiến-xa. Bốn ngày sau tức ngày 26 tháng 5 Tướng Thuần quyết định thu quân đề chuẩn bị cho một kế hoạch mới.
Tại Bộ Tư Lệnh Tiền phương của Sư Đoàn 18 Bộ Binh cạnh Quốc Lộ 13 cách Bến Cát chừng 5 Km về hướng Nam. Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Lê Minh Đảo,Trung tá Ngô Kỳ Dũng Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 52 Bộ Binh ( TR/Đ52BB ) các Tiểu ĐoànTrưởng Bộ Binh, Pháo Binh cùng tôi Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 2/5 Thiết Kỵ ( CĐ2/5 TK ) nhận lệnh tấn công tái chiếm An Điền. Và từ đây làm bàn đạp cho các đơn vị QLCVCH tái chiếm Căn Cứ 82, Rạch Bắp.
Trên Quốc Lộ 13 từ hướng Nam, CĐ2/5 TK cộng một Chi Đội Chiến-xa M41cùng Đại Đội 52 Trinh Sát ( ĐĐ52/TS ) tùng thiết di chuyển trong đêm tối. Đoàn Thiết Kỵ chỉ được mở đèn “ mắt mèo” và im lặng vô tuyến. Theo sau là đoàn xe GMC chở Tiểu Đoàn 1/52 Bộ Binh ( TĐ1/52BB ) tiến vào Thị Trấn Bến Cát lúc 5 giờ sáng ngày 1 tháng 6 năm 1974.
Thị Trấn Bến Cát nhỏ bé, trong thời gian này càng thấy bé bỏng hơn vì không còn sự sinh hoạt nào của dân chúng, một Thị Trấn chết, quá vắng lặng. Không còn ánh sáng đèn điện nào, đây đó một vài đám cháy do đạn pháo kích của CSBV ngày hôm qua.Trên không trung những hỏa châu treo lơ lửng rọi ánh sáng vàng vọt yếu ớt xuống thành phố. Nhà nhà cửa đóng then gài. Đây đó gặp những toán Biệt Động quân (BĐQ) tuần canh trong thành phố. Chúng tôi tiến xuyên qua thành phố và hướng đến bờ sông Thị Tính. Trong lúc di chuyển thỉnh thoảng vài trái đạn pháo kích rơi rải rác khắp nơi vì bọn chúng biết có một lực lượng mới đến đây. Trấn giữ thành phố là một Đại Đội BĐQ, còn Tiểu Đoàn BĐQ (-) trấn giữ mạn Bắc. Chi Khu Bến Cát phụ trách phòng thủ mạn Nam của thị trấn
CĐ 2/5 TK và ĐĐ 52 TS (cánh quân 1) tiến sát bên này chiếc cầu phao. Đơn vị bố trí sát nhà máy xay lúa rất lớn đã bị hư hại vì đạn pháo của CSBV . TĐ1/52 BB ( cánh quân 2 ) dàn quân hai bên trái phải của Chi Đoàn, dọc theo bờ sông Thị Tính. Trục tấn công chính diện từ Bến Cát vào An Điền lấy con đường độc đạo làm chuẩn.
Theo kế hoạch, hai Tiểu Đoàn 2/52BB và 3/52BB ( cánh quân3 ) sẽ đánh từ hướng Nam lên Bắc để cùng cánh quân 1 và 2 tái chiếm xã An Điền.
Đúng 5 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 6 -1974, ba cánh quân của Chiến Đoàn 52 bắt đầu vượt tuyến xuất phát tấn công vào An Điền cửa ngỏ vào mật khu Tam Giác Sắt.
Tôi điều Chi Đội 4 Chiến-xa M41vượt cầu phao, kế tiếp là xe Chỉ huy, và lần lược các Chi Đội Thiết Kỵ theo sau. Đơn vị di chuyển hàng dọc vì chỉ có1con đường duy nhất để vào An Điền. Hai bên con lộ đất đỏ nhỏ bé là ruộng lúa, nước và sình lầy. Một địa thế hoàn toàn bất lợi cho Thiết Giáp, mặc dù là loại xe M113 cũng không thể nào vượt qua được cánh đồng bề ngang một cây số này. Bất lợi hơn nữa là xữ dụng đội hình Chi Đoàn hàng dọc để trực diện tấn công mục tiêu khá rộng lớn.
Áp dụng chiến thắng cuộc tấn công giải tỏa tiền đồn cấp Đại Đội Địa Phương Quân bị 1 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn Bình Giả bao vây tại Xà Bang, Bình Giả tháng 3 năm 1973. Tướng quân Lê Minh Đảo và Đ/tá Trần Bá Thành đã dùng Tiều Đoàn 2/48 ( Th/tá Phúc ) của TR/Đ 48 BB cùng CĐ2/5 TK tấn công vũ bão chiếm mục tiêu thật nhanh chóng. Thà có thể bị thiệt hại vào giờ phút đầu, nhưng về sau thì bảo toàn nhân mạng. Không thể tấn công nửa vời vì trên trục tiến quân Cộng-quân bao giờ cũng đặt chốt kiền và trận địa pháo. Sau khi chọc thủng cụm phòng tuyến ngoại vi sẽ bung rộng đội hình đánh mục tiêu kế tiếp.Chúng tôi áp dụng phương thức tấn công này.
Ba chiếc M41cùng với ĐĐ52/TS tiến quân 2 bên trái phải con lộ, đã qua bên kia sông, cách cầu phao khoảng 500 mét. LLCSBV bắt đầu pháo vào đoàn quân bằng Súng cối 82 ly. Chi Đội Chiến-xa nới rộng khoảng cách và tiếp tục tiến tới nhanh chóng cùng chiến sĩ Trinh Sát. Tôi thấy chiếc chiến-xa M41 dẫn đầu khựng lại một cách bất thường, và nhận báo cáo của trưởng xa là gặp một chiếc cống sập bề dài bằng CX M41, khá sâu, không thể băng qua được. Tôi gọi lên Chiến Đoàn để báo cáo. Tiếp liền theo chiến-xa T54 từ An Điền khai hỏa nhắm vào đội hình Chi Đoàn. Từng cục lửa đỏ hực liên tiếp bay đến với tiếng rít rợn người của đạn Đại bác 100 ly trên chiến-xa T54. Tôi liền cho lệnh Đại bác 76 ly trên CX M41tác xạ, dựa vào điểm lóe sáng khởi đầu của Đại bác trên T54. Thật tình nói rằng tác xạ để anh em binh sĩ lên tinh thần chứ không thấy được chiếc T54 nào vì chúng nằm dưới hầm và nguỵ trang. Hơn nữa bên An Điền mịt mù khói lửa bởi hàng trăm quả đạn đại bác 105 ly,155ly của các Pháo Đội đang trút xuống hầu đè bẹp mục tiêu.
Ngoài bìa làng có nhiều chốt của chúng sát cánh đồng lúa, chúng dùng Đại bác 82 ly không giật của Liên Sô tác xạ vào đội hình Thiết Giáp và Bộ Binh. Trong bìa làng thì Thượng liên khạc lửa. Những khẩu Đại liên 50 bây giờ được khai hỏa vì các chốt nằm trong tầm sát hại của Đại liên 50 là 800 mét. Các chốt này ngay giữa đồng trống nên bị Đại liên, Súng cối 81ly và Đại bác 76 ly tiêu diệt dễ dàng. Tiếp liền sau đó chiếc M41 thứ 4 bị T54 bắn trúng pháo tháp ngay trên chiếc cầu phao. Chiếc M41, bị xô lệch nằm chênh vênh một nửa trên cầu phao, một nửa chấm nước làm chiếc cầu nghiêng một góc 30 độ.
Hỡi ôi!!! một tình huống nguy hiểm không lối thoát, tiến không được, thoái cũng không còn đường. Sông thì sâu làm sao chiến-xa M41 có thể băng qua được. Trong lòng tôi lo lắng và bối rối vô cùng, nhưng vẫn cố giữ bình tỉnh để tìm một cách cứu nguy nhanh nhất. Tôi nghĩ ngay đến kế dùng “Hỏa Mù” đề che mắt địch nên bảo anh Th/úy Tiền Sát Viên Pháo Binh xin bắn đạn khói. Được Chiến Đoàn đáp ứng ngay tức khắc. Một màn khói dày đặc bao phủ bìa làng An Điền, hiệu quả tức thời, T54 ngưng tác xạ vì chúng không còn thấy chúng tôi nữa. Việc cấp cứu xa đội CX bị nạn thực hiện ngay. Các chiến sĩ Trinh Sát và Kỵ Binh bất chấp hiểm nguy, chạy như bay và nhảy phóc lên xe cứu bạn, rất may xe không bị nổ và cháy.
Một HSQ Trưởng-xa và tài xế bị thương nặng, hai KB hy sinh. Chiếc M 41 lủng pháo tháp một lỗ bằng cái chén!
Tất cả các cánh quân của TRĐ52BB bây giờ đều nằm trong trận địa pháo của địch. Hệ thống liên lạc Truyền Tin bắt đầu bận rộn với những báo cáo thiệt hại về nhân mạng của 3 Tiểu Đoàn. Trước mắt tôi, mũi tiến công của TĐ1/52 BB hai bên trái phải của con lộ 7 bị ngưng lại vì bãi mìn “cóc” trước mặt, cách bìa làng An Điền khoảng 800 mét ( Mìn “cóc”, một loại mìn nhỏ hình trụ cao khoảng 5cm, đường kính khoảng 6cm không đến nổi nguy hiểm đến tính mạng nhưng khi đạp phải, bàn chân chắc chắn không còn).
Một vài chiến sĩ gục ngã, tiếp đến cả chục người, rồi hàng chục người ngã gục xuống ruộng lúa sình lầy vì mìn và đoàn quân đang hứng pháo của CSBV. Tất cả đơn vị bây giờ là mục tiêu quá lộ liễu của địch. Phía trước là bãi mìn dầy đặc, rộng lớn được đặt sẳn bởi Cộng-quân từ trước. Trên không những quả đạn pháo đủ loại trút xuống đoàn quân. Từng cột bùn đen liên tiếp bắn lên cao khắp nơi trên cánh đồng lúa.
Một tình huống khốn đốn, nguy kịch, hàng trăm chiến sĩ bì bõm dưới sình lầy quá đổi gối, không thể chần chờ, các cánh quân của BB bắt đầu lui binh để tránh bị tiêu diệt. Một chiến sĩ bị thương kèm theo một chiến sĩ xách nách dìu lê lết trong bùn lầy để mau chóng thoát khỏi bàn tay Tử Thần oan nghiệt. Có hành động nào can đảm và cảm động bằng, có hình ảnh nào đau thương hơn! Tình đồng đội, tình chiến hữu cao cả tuyệt vời.
Tôi cho Chi Đoàn Phó (Đ/Úy Hồ Thúc Hạ) điều động các Chi Đội phía sau rút lui về nhà máy xay lúa cạnh bờ sông bố trí chờ lệnh. Tiếp đến tôi tìm cách để 3 CX M41 lui về bên này sông.
Có ba cách, thứ nhất là ủi chiếc M41 nằm chênh vênh trên cầu phao rớt xuống sông nhưng xe nào leo lên được chiếc cầu nghiêng như thế này! Cách thứ nhì dùng chiến-xa bắn, nhưng nếu chẳng may làm lủng phao, chiếc cầu chìm thì càng thêm nguy.Thứ ba có thề thực hiện được bằng cách móc “ cáp” kéo cho nó rơi xuống sông dù rất nguy hiểm vì đạn pháo kích đang nổ khắp nơi.
Tất cả các cặp mắt của những Kỵ Binh và Bộ Binh ngồi trên xe Chỉ huy đều nhìn tôi đợi chờ một quyết định cuối cùng. Họ mong cho bạn bè đồng đội về bên này sông càng nhanh càng tốt. Tội nghiệp thay, với những ánh mắt nhìn tôi chia sẽ, chia sẽ những gì tôi đang lo lắng, hồi họp. Tôi điều Xa Đội M 86 ( loại xe phóng cầu, gắn lưỡi ủi đất, có sợi dây cáp thật dài cuộn trong một cái trơi dùng lực của động cơ ) tiến lại chiếc M 41 bị nạn và bắt đầu công việc dưới đạn pháo của Cộng-quân. Nhưng…
Trong chốc lác một loạt Hỏa tiễn 122 ly của CSBV với tiếng xé gió đầy uy hiếp bay đến đâm xuống giòng sông nổ tung toé nước gần chiếc cầu phao. Với sức dội mạnh mẽ chiếc cầu bị chấn động gần như bung lên khỏi mặt nước. Chiếc M41 chao qua chao lại rồi nhào xuống giòng sông, chiếc cầu nổi trở lại vị trí cân bằng. Trong cái xui tận mạng cũng còn có cái hên đến với mình, trường hợp này Chi Đoàn gặp may mắn một cách quá bất ngờ. Tôi và mọi người trên xe chỉ huy đồng ồ lên một tiếng thật lớn như trút bỏ một sức nặng ngàn cân đè bẹp thân người.
Ba chiến-xa M41 lần lượt lui về bên này sông Thị Tính. Các cánh quân của TĐ52 BB cũng lui binh, bố trí phía Đông giòng sông để thực hiện công việc tải thương. Ngoài các chiến sĩ tử thương vì pháo, các thương binh hầu hết bị mất một bàn chân hoặc cụt giò vì đạp phải loại mìn cóc nguy hiểm. Thế là nỗ lực tấn công tái chiếm An Điền không thực hiện được.
Chiếc cống bị giật sập đêm qua, nhưng lực lượng chúng tôi tấn công quá sớm nên chưa nhận được một báo cáo nào. Nên tình hình cánh quân Thiết Giáp mới ra nông nổi. Mới hôm qua đây thôi, Tướng Tư Lệnh quyết định dùng Thiết Giáp tấn công vào An Điền kèm theo lời khích lệ: “… Cặp lon Thiếu tá của em…trong An Điền…”. Riêng tôi cũng tin tưởng dùng chiến-xa cùng Bộ Binh đánh chớp nhoáng làm địch trở tay không kịp, bám lấy bờ làng, làm bàn đạp tấn công mục tiêu kế tiếp.
Kế hoạch này có thể thực hiện được, nhưng phải chấp nhận một tổn thất rất lớn về chiến-xa và nhân mạng vì tôi biết CX M41 không phải là đối thủ của T54. Chi Đòan có 3 khầu Đại bác 106ly không giật và 2 khầu Hỏa tiển Tow được tăng phái gắn trên M113. Nhưng Hỏa tiển Tow muốn bắn được, nhanh nhất cũng phải sau 15 phút vì chờ trên BộTổng Tham Mưu chấp thuận, ngán ng ẩm thay! ( ?) còn Đại bác 106 ly tác xạ cũng không nhanh chút nào, dùng để phá vỡ công sự kiên cố thì tốt hơn.
Quân lệnh phải thi hành, dù hy sinh mạng sống.
Cách đây mới hơn một tuần lễ, Chiến Đoàn 318, lực lượng Thiết Giáp có nguyên 1 Chi Đòan Chiến-xa M48A3 và 2 Chi Đoàn Thiết Kỵ M113 cùng Bộ Binh. (So sánh Thiết Giáp, Chiến Đoàn 318 mạnh gấp 4 lần hơn chúng tôi ) cũng tấn cống hướng chính diện từ Bến Cát vào An Điền nhưng đã thất bại. Huống chi bây giờ chỉ có một Chi Đoàn M113 và 4 chiếc chiến-xa M41.
Đến bây giờ, tôi nghĩ rằng ví như không có chiếc cống sập cản trở chiến-xa, không có bãi mìn chận đứng BB. Đoàn quân có thể chiếm được An Điền, nhưng e rằng CĐ 2/5TK sẽ mất tên! BB phải đánh cận chiến với địch và ít nhất thiệt hại cũng phân nửa .Vì sau khi vào An Điền mới biết số chiến-xa T54 trên 10 chiếc có hầm ẩn núp ngụy trang. Hầm hố địch quân kiên cố cấp Trung Đoàn.
Với hàng Tướng, Sĩ có thể nghĩ rằng những con “Tốt” đã qua sông, có Xe Pháo Mã hổ tương yểm trợ. Theo luật trên bàn cờ bằng mọi giá phải tiến dù bị loại khỏi cuộc chơi, không hề có nước lui. Nhưng ở đây thì không. Hoàn toàn không thể nào hy sinh những con “Tốt” đó, bằng mọi giá phải về bên này sông. Giòng sông có tên Thị Tính. Vì với nhiệm vụ chỉ huy cánh quân 1gồm ĐĐ52/TS và các M41, đó là những Xe, Pháo, Mã thiện chiến, nhanh nhẹn, ngang dọc vẫy vùng, hữu xung tả đột, tiến hoặc thối và chúng không bao giờ là những con Tốt.
May mà tôi không được “thêm lon giữa 2 hàng nến trong” với Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu! Người thân của tôi không phải nhìn tôi qua làn nước mắt :
“Chiếc quan tài phủ cờ màu
Hằn lên ba vạch đỏ au phù phàng” – thơ Lê Thị Ý-
Chiếc cống sập, đã làm hỏng hoàn toàn cuộc tấn công của CĐ2/5TK và ĐĐ52 TS. May mắn hay kém may mắn (?)
Tôi vẫn còn nhớ một sĩ quan cao cấp trong Bộ Tư Lệnh sau buổi họp hành quân mời tôi một ly rượu trước khi tôi quay trở về đơn vị. Đó là ly rượu whisky bình thường nhưng được mời lúc bấy giờ được xem như “Bồ Đào mỹ tửu..”.mặc dù tôi không hề uống rượu từ năm 1971 sau khi bị thương nặng tại chiến trường đồn điền cao su Mimot, Kampuchia.
Không có tiếng “Tỳ Bà dục người ra đi” tôi vẫn Thiết Kỵ lên đường. Mong rằng tôi và tất cả chiến hữu ngày mai ra đi không như “Kinh Kha Tráng sĩ”. Tôi biết rằng An Điền chiếm đóng cả một TR/Đ Cộng-quân có cả chiến-xa. Nên phần thắng về ta không dễ dàng chút nào.
CĐ 2/5 TK và ĐĐ 52TS rút lui bố trí ven theo bờ sông Thị Tính sát nhà máy xay lúa bên này chiếc cầu nổi.
Nửa đêm ngày 2 tháng 6-74, thêm một lực lượng mới mạnh mẽ dày dạn chiến trường, đó là Trung Đoàn 48 BB ( TR/Đ 48BB ) của Đ/tá Trần Bá Thành. Đại Đội 48 Trinh Sát làm mũi dùi và 3 Tiều Đoàn 1,2,3 khởi động các cuộc tấn công tốc chiến. Xuất phát từ hướng Nam cách An Điền 2 cây số, bằng rất nhiều toán nhỏ đột kích chớp nhoáng , không gặp trở ngại vì bãi mìn cóc như cánh quân của TR/Đ 52BB.
Khoảng 4 giờ sáng ngày 3-6 chúng tôi nhìn thấy xuyên qua màn đêm một CX T54 lù lù xuất hiện, chạy vội vàng từ An Điền theo con đường độc đạo hướng về Bến Cát vì bị các chiến sĩ của TR/Đ48BB oanh liệt truy kích. Tôi cho lệnh 3 chiến-xa M41 và 3 M113 có trang bị Đại bác bắn thẳng 106 ly sẵn sàng và chờ lệnh tác xạ. Tôi cũng thừa biết rằng T54 không thể nào vượt qua chiếc cống sập.
Chiếc T54 chạy đến chiếc cống sập và nhào đầu lọt xuống đó. Khói đen mù mịt tuôn ra vì chúng có gắng bò lên, nhưng vô ích. Tôi nhìn bằng hệ thống hồng ngoại tuyến chỉ thấy có cái pháo tháp nhô lên khỏi mặt đường. Kế tiếp thêm một T54 nữa cũng từ An Điền chạy ra, tiến lại sát đồng đội bị nạn, tìm cách kéo lên. Những tràng đạn Pháo Binh ta bắt đầu nổ chung quanh 2 chiếc T54. Chiếc T54 thứ nhì loay hoay một lúc rồi quay đầu bỏ chạy về hướng An Điền, chúng thất thần vì những quả đạn pháo nổ quá gần nên lọt xuống ruộng sình cách bìa làng khoảng 200mét. Thế là hai chiếc T54 nằm chết cứng nơi đây. Nhiều đơn vị báo cáo lên Sư Đoàn về hai chiến-xa T54 bị lầy ….
Đến trưa ngày 3 tháng 6 chiếc T54 sa lầy dưới cống mới thật sự bị khống chế sau nhiều tiếng đồng hồ khi diệt được tên xạ thủ Thượng liên bị xích trong pháo tháp. Xa đội 2 chiếcT54 đã tẩu thoát trong đêm. Một số chiến sĩ tử thương và bị thương khi bò lại gần chiến-xa vì cây Thượng liên trên xe nhả đạn. Phóng viên nhà báo chụp bức ảnh T54 này đầu tiên là một phóng viên của báo chí Hoa Ngữ. (Tôi đã giữ tờ báo có hình chiếc T54 bị nạn đến 30-4-75 trong xe M113. Đó là một sự thật nhưng rất tiếc đến bây giờ không còn).
Đến chiều Bộ Chỉ Huy TH/Đ5KB và Công Binh cấp tốc trục kéo chiếc T54 và lấp chiếc cống để lực lượng tiếp tục tấn công vào An Điền. Chiếc T54 này về sau được trưng bày trước Dinh Độc Lập.
Ngay lập tức CĐ2/5TK cùng ĐĐ52/ TS, các cánh quân 3 Tiều Đoàn của TR/ Đ 52BB và TR/Đ48BB ồ ạt chiếm cứ hoàn toàn xã An Điền. Liền sau đó truy kích chúng gần đến đồi 82, đoàn quân bị khựng lại vì vào trận địa pháo của chúng bắn chận. Phải nói rằng khu đất An Điền thì đúng hơn vì có còn gì để có thể gọi là một Xã. Đến nổi không còn viên gạch nào nguyên vẹn, nói chi đến một bức tường nhà. Một bình địa ngổn ngang nghi ngút khói lửa, nhiều xác địch quân nằm rải rác khắp nơi, mùi xú uế xông lên nồng nặc. Chung quanh những hầm của chiến-xa T54 còn rơi rớt nhiều vỏ đạn đồng sáng bóng và nhiều bó thuốc bồi hình đủa dùng cho đạn Đại bác. Các Kỵ Binh thâu lượm vũ khí còn sót lại và không quên mang về cả chục vỏ đạn đồng của Đại bác 100 ly đã kích hỏa. Riêng tôi, các Kỵ Binh cũng có tặng 4 vỏ, đem về hậu cứ làm kỹ niệm và dùng làm bình để cắm cành Mai.
An Điền đã giải tỏa xong trưa ngày 4 tháng 6 -1974. TR/Đ48 BB cấp tốc rút về Long Giao, để phòng thủ Long Khánh vì các Quận Định Quán, Tánh Linh ( Bình Tuy) bị áp lực nặng của CSBV. TR/Đ 52 BB và CĐ 2/5 TK vẫn phòng thủ và chờ kế hoạch tấn công đồi 82.
Đêm ngày 5 rạng sáng ngày 6 tháng 6 Cộng-quân lại mở cuộc tấn công dữ dội vào lực lượng phòng thủ An Điền hướng tấn công chính nhắm vào Bộ Chỉ Huy TR/Đ 52BB, một Tiểu Đoàn BB và CĐ2/5 TK bằng 2 Tiều Đoàn trừ bị, mặc dù cách đó 2 ngày chúng bị tổn thất nặng nề. Chúng dùng 4 chiếc máy cày giả dạng T54 để “hù” chiến sĩ ta. Chỉ vài loạt Đại liên 50 chính xác, 4 chiếc máy cày bốc cháy nghi ngút. Lực lượng phòng thủ đánh trả tơi bời, làm sao xuyên thủng vị trí của các chiến sĩ TR/Đ52 BB đầy kinh nghiệm chiến trường cộng với hỏa lực kinh hồn của một Chi Đoàn cộng ( cộng 4chiếc M41 )Thiết Giáp. Đến gần sáng chúng tháo chạy về hướng đồi 82 sau khi bị tổn thất trầm trọng.
Tổng kết trong 6 ngày, CĐ2/5 TK có một Sĩ quan tử trận, đó là Th/Úy Nguyễn Trung Đồng Dinh. Thương tiếc một Sĩ quan trẻ, học lực cao và cá tính rất văn nghệ đã ra đi quá sớm để trả nợ nước non. Anh đã hy sinh như biết bao nhiêu lớp người trẻ tuổi tài cao đã phải nằm xuống vì Tổ Quốc, cho cuộc chinh chiến điêu linh. Bên Thiết Giáp có 3 hy sinh (một SQ, một Trung sĩ, một Hạ sĩ ), 3 bị thương nặng. Một M41 lủng pháo tháp, một M113 bất khiển dụng. Phía Bộ Binh phải đến con số hàng trăm bị loại khỏi vòng chiến đấu.
Đến bây giờ nhắc lại lòng còn ngậm ngùi. Nén hương lòng của những KB còn lại thắp lên để nhớ, để thương các Chiến Sĩ can trường đã anh dũng hy sinh, tri ân các Anh đã một thời cùng chia sẽ hiểm nguy với chúng tôi.
Sau đó vài ngày Tướng Đảo,Tướng Khôi và Tr/tá Dũng lên xe M113 chỉ huy của tôi thám sát địa thế để mở cuộc tấn công Căn cứ 82 cách An Điền 4 cây số về hướng Tây. Đến khi xe tiến gần bìa rừng cùng hai Chi Đội hộ tống thỉ bị pháo liên tục gần xe nên phải đưa 3 vị trở về căn cứ.
Tiếp theo các lực lượng của Sư Đoàn thay nhau tấn công tái chiếm đồi 82 nhưng không đem lại kết quả nào. Không Quân bị hạn chế bởi mùa mưa, mây thấp và hệ thống Phòng không dày đặc, mặc dù các Phi Tuần đã nổ lực oanh tạc các vị trí Đại pháo, Hỏa tiễn, Súng Phòng Không nhưng kết quả không như ý. Cũng như lực lượng VNCH chỉ có một hướng tấn công duy nhất vào đồi 82 là trực diện, xuất phát từ An Điền với địa thế cây rừng, giai góc và giây leo chằng chịt. Thiết GiápBinh bị hạn chế tầm nhìn, quan sát chỉ trong vòng vài, ba mét. Chung quanh Căn Cứ 82 hệ thống giao thông hào, mìn và giây kẽm gai bao phủ rộng lớn. Khi các lực lượng tiến vào vùng trận địa pháo của chúng bị tổn thất nặng nề, và là mục tiêu quá lộ liễu vì chúng quan sát lực lượng ta từ địa thế cao là đồi 82.
Chiến Đoàn 52 BB trấn giữ An Điền hơn 3 tháng , không có ngày nào pháo địch không rơi xuống vị trí chúng tôi, không hàng loạt thì cũng 5,7 trái pháo mỗi ngày. Không có ngày nào các chiến sĩ Bộ Binh không nhảy vội vã xuống hầm hố cá nhân; các Kỵ Binh vội vàng chạy vào trong xe để tránh pháo. Sau khi An Điền được giải tỏa đồng bào Bến Cát lần lượt hồi hương, những quán ăn, quán Café bắt đầu mở cửa, nhịp sống đang hồi phục. Nhờ vậy những người lính trẻ chúng tôi mới có được ly Café nóng ấm lòng người. Tạm thời quên đi lửa đạn mặc dù trong giây phút ngắn ngủi, đó cũng là hạnh phúc, tuy nhỏ nhoi của người lính chiến nơi trận mạc.
Đến ngày 7 tháng 9 TR/Đ 9 của Sư Đoàn 5 BB và TH/Đ 10 KB vào An Điền thay thế TR/Đ 52BB và CD2/5 TK. Các cuộc tấn công mới bắt đầu và cho đến xế trưa ngày 4 tháng 10-1974 quân ta mới cắm cờ trên đồi 82.
Đơn vị tôi di chuyển khỏi An Điền, đóng quân tại trường Trung Học Bến Cát. Theo lệnh Sư Đoàn, một Chi Đội M113 ( Th/úy Hòa ) di chuyển xuống xã Phú Thứ phối hợp cùng Bộ Binh (TR/Đ 43BB) phòng thủ vì nơi đây áp lực địch vẫn còn nặng. Chi Đội báo cáo ngày nào cũng hứng pháo của CQ. Và “chịu trận” pháo hơn 45 ngày đêm ròng rã.
Và đến 6 tuần lễ nữa ( ngày 20 tháng 11-1974 ) QLVNCH mới đánh bật Công Quân ra khỏi Rạch Bắp địa điểm cuối cùng của vùng Tam Giác Sắt.
Cuộc chiến vùng Tam Giác Sắt tạm thời kết thúc, sau khi kéo dài đến 7 tháng của năm 1974. Nhưng TĐ/5KB vẫn “rền tiếng xích sắt thét vang”, tiếp tục bước quân hành đến vùng trách nhiệm mới. Nhưng, kém may mắn thay! chỉ trong một đêm của năm 1974 sắp tàn, Thiết đoàn đã phải gánh chịu đau thương nghiệt ngã và đầy tang tóc.
Ngày 19 tháng 12-1974 Bộ Chỉ Huy TĐ/Đ 5KB ( Tr/tá Trần Văn Nô: Thiết Đoàn Trưởng, Th/tá Mai Văn Thân: Thiết Đoàn Phó ) và CĐ 2/5 TK ( Trừ CĐ3/5TK, đã cùng TR/Đ 48BB di chuyển về Long Khánh từ trước ) chuyển quân về Ngã Ba Ông Đổn – Núi Chứa Chan lúc 6giờ chiều tăng phái cho TR/Đ 48 BB phòng thủ Long Khánh và chuẩn bị tiếp ứng cho Quận Tánh Linh Tỉnh Bình Tuy bị Cộng-quân tấn công và sắp bị tràn ngập.
Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn và một Đại Đội BB đóng quân đêm trong một Căn Cứ Pháo Binh dưới chân núi Chứa Chan. CĐ 3/5TK ( Đ/úy Lê Sơn ) và một Đại Đội BB đóng quân cách BCH/TĐ khoảng 3km về hướng Tánh Linh. CĐ 2/5 TK và một Đại Đội cũng đã được chỉ định đóng quân cách BCH/TĐ 5 km về hướng Bắc.
Khoảng 2 giờ sáng ngày 20 tháng 12-1974 Bộ Chỉ Huy TH/Đ 5 KB bị Cộng-quân đột nhập tấn kích.
Nhiều tiếng nổ lớn xé màn đêm tĩnh mịch phát xuất từ hướng Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn. Tôi bật dậy leo lên xe quan sát, nhìn về hướng Thiết Đoàn, từng lằng đạn lửa đan chéo nhau dày đặc. Nhất là trên lưng chừng núi Chứa Chan Cộng-quân dùng Đại bác 57 ly, 75 ly và Thượng liên12ly8 bắn xối xả xuống vị trí đóng quân. Tôi bấm máy liên lạc với BCH/TĐ nhưng im hơi lặng tiếng. Gọi mãi chẳng có thẩm quyền nào trả lời, ban Truyền Tin cũng im bặt.Trong lòng như dầu sôi lửa bỏng. Tôi cũng như Sơn muốn kéo Chi Đoàn về để phản công, chúng tôi gọi lên Chiến Đoàn 48 để xin di quân nhưng Chiến đoàn cho biết cũng không liên lạc được với Thiết Đoàn nên đành chờ lệnh.
Đến nửa tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới liên lạc được với Chiến Đoàn và cho biết Thiết Đoàn bị đánh Đặc Công. Tôi xin Chiến Đoàn cho Chi Đoàn xuống tiếp ứng nhưng Đ/tá Chiến Đoàn Trưởng không chấp thuận vì lý do địch đánh từ bên trong vị trí chứ không có từ ngoài tấn công vào. Chúng tôi kéo quân xuống sợ thêm rối ren vì hỏa lực Đại liên của Thiết Giáp, nên để BB thanh toán từng tên một trong vị trí . Ông cho biết các Chi Đội Chỉ Huy đã phản công hiệu quả bằng súng cá nhân.Và ông bảo tôi sẳn sàng hành quân truy kích khi có lệnh….Tiếp ứng với phản công! tất cả đã quá muộn màng! Trong vòng 15 phút đầu tiên BCH/TĐ đã bị tê liệt, vì địch đánh bằng lựu đạn và B40 từ bên trong vị trí phòng thủ. Kết quả vô cùng đau đớn.
Riêng bên Thiết Giáp: Th/tá Mai Văn Thân Thiết Đoàn Phó, Th/tá Viễn Sum Trưởng Ban 3/ HQ tử thương. Đ/Úy Lê Văn Nhơn phụ tá Ban 3/ HQ bị thương nặng. Và nhiều KB các cấp tử thương hoặc bị thương. May mắn Tr/tá Thiết Đoàn Trưởng thoát khỏi lưỡi hái của Tử Thần trong gang tất. Hai M113 ( có M113 của TH/Đ Phó ) 1M577 ( xe ban Tuyền Tin ) bị hư hại.
Nguyên một Trung Đội Đặc Công địch bỏ xác tại chỗ cùng vũ khí, chấc nổ, 3 tên bị bắt sống.
Chiến tranh đồng nghĩa với tang tóc, đau thương. Sau 37 năm, thời gian dài bằng nửa đời người. Nhìn lại chỉ có 6 tháng cuối năm 1974, tim vẫn nhói đau, nước mắt vẫn lưng tròng. Thiết Đoàn 5 KB đã mất đi 4 Sĩ Quan ưu tú, nhiều HSQ và KB can trường đã ra đi, bỏ bạn, bỏ bè.Trong tim, trong óc, mọi người còn hằn lại những đau xót, nhớ nhung và thương tiếc.
Với cái chết đầy thương tâm của Th/tá Thân mọi người đều rơi lệ nghẹn ngào. Anh, một cấp Chỉ huy ưu tú trong Binh chủng Thiết Giáp. Kỵ Binh các cấp trong đơn vị đều mến thương và kính phục. Nhưng, khi ra đi vĩnh viễn Anh không kịp giã từ vợ con, bè bạn. Đớn đau thay! vợ Anh, chị LCH nhìn biết được xác chồng tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa qua chiếc quần cộc màu đỏ chị đã may cho Anh cách đó 2 tuần. Anh đã thật sự muôn đời, mãn kiếp là chồng của người vợ hiền thục thủy chung. Các con Anh còn quá thơ ngây, dại khờ, nhưng giờ đây chinh chiến đã cướp đi một người cha quý mến.
“Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm người ơi”
Có ai cầm được 2 giòng lệ tuôn! Có ai chận được tiếng nấc uất nghẹn từ đáy lòng vì thương vì tiếc các Anh.
Than ôi! với mẫu tự có 26 chữ cái, tôi cũng không biết cách sắp xếp thế nào để diễn tả hết ý nghĩa, sự hy sinh đầy cao cả của những người lính trong QLVNCH. Làm sao viết lên hết những nghiệt ngã các anh đã chịu, làm sao nói lên hết được lòng can trường xã thân vì 4 chữ Bảo Quốc An Dân trong suốt những tháng năm chiến tranh tàn khốc.
Chiến chinh đã cướp đi niềm hạnh phúc của những người Cha, người Mẹ, người Vợ. Chiến chinh đã lấy mất hạnh phúc của tuổi trẻ dại khờ. Nhưng chiến chinh không thể đốt cháy hết được những khổ nạn đời sống của người hệ lụy.
Các Anh đã trả nợ nước non, nay các anh đang được vui sống muôn đời. “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” – Kinh Hoà Bình- Nguyện cầu Thượng Đế xoa diệu nỗi đau và phù trợ cho những người còn lại.
( Những nén hương lòng thắplên, kính dâng đến Anh Linh của Cố Tr/tá Mai Văn Thân, Cố Tr/tá Viễn Sum, Cố Tr/úy Nguyễn Trung Đồng Dinh và những Chiến Sĩ VNCH anh hùng Vị Quốc Vong Thân trong trận chiến năm 1974 ).
Kỵ Binh Vũ Đình Lưu
CA -2011
http://baovecovang.wordpress.com/2011/10/02/d%C6%B0%E1%BB%9Dng-vao-m%E1%BA%ADt-khu-tam-giac-s%E1%BA%AFt-kb-vu-dinh-l%C6%B0u/
Đường vào Mật-khu TAM GIÁC SẮT (KB Vũ Đình Lưu)
Lời giới thiệu của KB NgụySaigon :
Trong Bản Tường Trình của Thiếu Tướng John Murray , Trưởng văn phòng Tùy Viên Quân Sự, Tòa Đại sứ Mỹ cho biết: Vào lúc cao điểm của cuộc chiến Quân Đội Mỹ và Đồng Minh có 433 Tiểu Đoàn và Quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lược (CSBVXL) có 180 Tiểu Đoàn. Năm 1974, Khi Quân Đội Mỹ rút quân về nước thì QLVNCH có 189 Tiểu Đoàn. Quân số CSBVXL tăng lên 330 Tiểu Đoàn. QLVNCH không còn được Hoa Kỳ yểm trợ Hải Pháo, Không Quân chiến lược B52 và KQ chiến thuật F4. Quân viện bị cắt giảm chỉ bằng 2% tổng số kinh phí đã sử dụng cho Quân Đội Mỹ. Thượng Đế dĩ nhiên nghiên về phe có nhiều Tiểu đoàn hơn. Thượng Đế đã mĩm cười với quân CSBVXL. Biết được điểm yếu của QLVNCH mặc dù bị thất bại thê thảm tại đồn Biên Phòng Đức Huệ, Sư đoàn 5 CSBVXL đã bị Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh/LLXKQDIII đánh
tan chỉ trong một ngày, Sư Đoàn 9 CSBVXL vào tháng 5 năm 1974, đã đồng loạt tấn công và tràn ngập 2 tiền đồn Rạch Bắp, Căn cứ 82 và sau đó tấn chiếm An Điền tại khu Tam Giác Sắt. Đây là một trận chiến lớn trong lãnh thổ Quân Đoàn III. Trước tình hình quân viện bị cắt giảm thảm thiết, QLVNCH đã mất đi ưu thế di động và hỏa lực yểm trợ dồi dào, cùng lúc các đơn vị Tổng trừ bị bị cầm chân trong thế diện địa.Trong hội nghị Diên Hồng khi được hỏi “Thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh”. Các bô lảo đồng thanh trả lời “Hy Sinh “. Gần 800 năm sau, không có Hội nghị Diên Hồng, không có cả câu hỏi năm xưa. Nhưng người lính chiến QLVNCH đã thể hiện lòng dũng cảm , tinh thần bất khuất và sự Hy Sinh vô bờ bến đã chiến đấu trong thế cùng lực tận để Bảo Quốc An Dân.
Đọc bài viết “Đường Vào Mật Khu Tam Giác Sắt , tác giả Đại úy Vũ Đình Lưu, con chiến mã đầu đàn của Chi Đoàn 2/5 Thiết Kỵ lừng danh sông núi để ngậm ngùi,để tưởng nhớ, để vinh danh những Kỵ Binh Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh đã Hy Sinh thân mình cho Tổ Quốc Việt Nam. Cũng xin đốt một nén nhang để tưởng niệm hai người bạn thân : Kiến trúc sư Thiếu úy Công Binh Vũ Văn Dũng , và Thiếu úy Kỵ Binh Nguyễn Trung Đồng Dinh đã đền xong nợ nước tại mặt trận An Điền .
Cuộc chiến năm xưa dù đã qua đi nhưng tinh thần bất khuất, sự chiến đấu dũng mảnh và sự Hy Sinh cao cả của những chiến binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bất diệt.
TỔ-QUỐC GHI ƠN!
ĐƯỜNG VÀO MẬT KHU TAM GIÁC SẮT> |
“Vó câu muôn dặm không sờn chí
Xích sắt nghìn miles chẳng sợ mòn”
Lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, Cộng Sản Bắc Việt đã xua chiến-xa tiến gần Thủ Đô Sài Gòn nhất. Chúng dùng chiến-xa cùng Bộ Binh với trọng pháo tầm xa yểm trợ tiến chiếm xã Phú Thứ (Quận Phú cường,Tỉnh Bình Dương). Một địa danh cực Nam của vùng mà Cộng-quân gọi là Vùng Tam Giác Sắt cách Sài Gòn 30 Km về hướng BắcTây Bắc vào thời điểm giữa tháng 5 năm 1974.
Tam Giác Sắt, vùng đất hình tam giác nhọn nằm về hướng Tây của Bến Cát. Một địa danh nổi tiếng với rừng cây rộng lớn khoảng 80 cây số vuông, Cộng-quân gọi là vùng bất khả xâm phạm vì nơi đây là căn cứ hậu cần của chúng tại miền Đông Nam Phần. Nhìn vào bản đồ vùng Tam Giác Sắt tựa như đầu một mũi tên sắt nhắm thẳng vào tim của miền Nam Việt Nam.
Vì tầm mức quan trọng chiến lược của vùng Tam Giác Sắt; năm 1967, Liên quân Việt Mỹ đã huy động một lực lượng hùng hậu gồm Sư Đoàn 5 BB, Chiến Đoàn Đặc Nhiệm của Quân Đoàn 3 và một phần lực luợng Tổng Trừ Bị tăng phái. Lực luợng Hoa Kỳ có Sư Đoàn 1và Sư Đoàn 25 Bộ Binh, Lữ Đoàn 173 Dù và Thiết Đoàn 11 Kỵ Binh. Lực lượng Việt Mỹ đã đánh tan căn cứ hậu cần nầy của CQ sau 17 ngày đêm hành quân tiêu diệt.
Năm 1974, một năm đẫm máu tại vùng Tam Giác Sắt. Không có cuộc hành quân hay chiến dịch nào lâu dài hơn, dữ dằn hơn hay tổn thất hơn là trận đánh vùng Tam Giác Sắt. Tại đây, một vùng tương đối bằng phẳng, cầy nát bởi vô số bom đạn, soi thủng bằng một hệ thống đường hầm chằng chịt. Loang lỗ bởi những vết thẹo của trăm, ngàn cuộc đụng độ lớn nhỏ đã diễn ra khắp cùng mọi nơi của khu rừng An Sơn dày đặc bụi rậm, cây gai suốt 20 năm qua.
Nếu chiếm được vùng này, Cộng-quân sẽ đặt Khu Quân Sự Tân Sơn Nhất và các vị trí phòng thủ của QLVNCH tại Phú Cường, Củ Chi, Lai Khê trong tầm đạn của đại pháo.
Quận Bến Cát nằm về phía Đông Mật khu Tam Giác Sắt, cách Biên Hòa 35 Km hướng Bắc Tây Bắc. Một Thị trấn nhỏ nằm cạnh Quốc lộ 13, bao lâu nay đồng bào được sống yên bình, sinh hoạt bán buôn thịnh vượng.
Ngày 16 tháng 5, hai Trung Đoàn của Sư Đoàn 9 Bắc Việt cùng chiến-xa với trọng pháo yểm trợ chiếm Rạch Bắp ( là căn cứ cuối cùng của QLVNCH trấn giữ mạn Bắc của vùng Tam Giác Sắt ) và tràn ngập Căn Cứ 82 cách xã An Điền 4 km về hướng Tây. Sau đó, ng ày 17 th áng 5, gần năm ngàn thường dân An Điền, Bến Cát lũ lược tháo chạy từ bỏ làng xã,Thị Trấn, khi CSBV dùng đại pháo và Súng cối xua đuổi tàn bạo. Tiếp theo Trung Đoàn 95C Cộng-quân tấn chiếm xã An Điền. Trung Đoàn 272 đâm thẳng xuống phía Nam chiếm Phú Thứ để tiến về Phú Cường nhưng QLVNCH đã chận đứng bước tiến tại đây.
Xã An Điền, nằm về phía Tây Thị trấn Bến Cát một cây số rưỡi nối liền bằng một con đường độc đạo đất đỏ là Hương lộ 7, với chiếc cầu sắt yếu ớt bắc qua sông Thị Tính hiền hoà, nước trong vắt. Chung quanh xã, từ hướng Bắc qua Đông xuống mạn Nam là ruộng lúa, sình lầy. Đây là địa danh cực Đông của vùng Tam Giác Sắt.
Tướng Phạm Quốc Thuần Tư Lệnh Quân Đoàn 3 dàn Sư Đoàn 18 Bộ Binh ra nhiều cánh quân phản công tái chiếm các vị trí đã mất. Sự phản công khởi sự khoảng ngày 22 tháng 5. Các Chiến Đoàn Thiết Kỵ của Lữ Đoàn 3 Xung kích( LĐ3XK) tham chiến. Chiến Đoàn 322 gồm Thiết Đoàn 22 Chiến-xa và Tiểu Đoàn 2/43 Bộ Binh tấn công từ hướng Nam lên đồi 82 và Rạch Bắp. Chiến Đoàn 318 tiến công từ Bến Cát vào An Điền. Cùng một lúc 3 Tiểu Đoàn của Đoàn 7 Biệt Động Quân từ hướng Bắc tấn công xuống Căn cứ 82. Tất cả mọi nỗ lực tái chiếm đều không đem lại kết quả và bị tổn thất nặng nề. Đại tá Dư Ngọc Thanh Tư Lệnh phó L Đ3XK bị thương hư một mắt tại khu vực chiếc cầu phao đuợc Công Binh can đảm bắc qua sông Thị Tính dưới đạn pháo của địch quân. Chiếc cầu phao chiều dài khoảng 50 mét dùng cho chiến-xa xử dụng vì chiếc cầu sắt Thị Tính không chịu nổi sức nặng của chiến-xa. Bốn ngày sau tức ngày 26 tháng 5 Tướng Thuần quyết định thu quân đề chuẩn bị cho một kế hoạch mới.
Tại Bộ Tư Lệnh Tiền phương của Sư Đoàn 18 Bộ Binh cạnh Quốc Lộ 13 cách Bến Cát chừng 5 Km về hướng Nam. Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Lê Minh Đảo,Trung tá Ngô Kỳ Dũng Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 52 Bộ Binh ( TR/Đ52BB ) các Tiểu ĐoànTrưởng Bộ Binh, Pháo Binh cùng tôi Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 2/5 Thiết Kỵ ( CĐ2/5 TK ) nhận lệnh tấn công tái chiếm An Điền. Và từ đây làm bàn đạp cho các đơn vị QLCVCH tái chiếm Căn Cứ 82, Rạch Bắp.
Trên Quốc Lộ 13 từ hướng Nam, CĐ2/5 TK cộng một Chi Đội Chiến-xa M41cùng Đại Đội 52 Trinh Sát ( ĐĐ52/TS ) tùng thiết di chuyển trong đêm tối. Đoàn Thiết Kỵ chỉ được mở đèn “ mắt mèo” và im lặng vô tuyến. Theo sau là đoàn xe GMC chở Tiểu Đoàn 1/52 Bộ Binh ( TĐ1/52BB ) tiến vào Thị Trấn Bến Cát lúc 5 giờ sáng ngày 1 tháng 6 năm 1974.
Thị Trấn Bến Cát nhỏ bé, trong thời gian này càng thấy bé bỏng hơn vì không còn sự sinh hoạt nào của dân chúng, một Thị Trấn chết, quá vắng lặng. Không còn ánh sáng đèn điện nào, đây đó một vài đám cháy do đạn pháo kích của CSBV ngày hôm qua.Trên không trung những hỏa châu treo lơ lửng rọi ánh sáng vàng vọt yếu ớt xuống thành phố. Nhà nhà cửa đóng then gài. Đây đó gặp những toán Biệt Động quân (BĐQ) tuần canh trong thành phố. Chúng tôi tiến xuyên qua thành phố và hướng đến bờ sông Thị Tính. Trong lúc di chuyển thỉnh thoảng vài trái đạn pháo kích rơi rải rác khắp nơi vì bọn chúng biết có một lực lượng mới đến đây. Trấn giữ thành phố là một Đại Đội BĐQ, còn Tiểu Đoàn BĐQ (-) trấn giữ mạn Bắc. Chi Khu Bến Cát phụ trách phòng thủ mạn Nam của thị trấn
CĐ 2/5 TK và ĐĐ 52 TS (cánh quân 1) tiến sát bên này chiếc cầu phao. Đơn vị bố trí sát nhà máy xay lúa rất lớn đã bị hư hại vì đạn pháo của CSBV . TĐ1/52 BB ( cánh quân 2 ) dàn quân hai bên trái phải của Chi Đoàn, dọc theo bờ sông Thị Tính. Trục tấn công chính diện từ Bến Cát vào An Điền lấy con đường độc đạo làm chuẩn.
Theo kế hoạch, hai Tiểu Đoàn 2/52BB và 3/52BB ( cánh quân3 ) sẽ đánh từ hướng Nam lên Bắc để cùng cánh quân 1 và 2 tái chiếm xã An Điền.
Đúng 5 giờ 30 sáng ngày 1 tháng 6 -1974, ba cánh quân của Chiến Đoàn 52 bắt đầu vượt tuyến xuất phát tấn công vào An Điền cửa ngỏ vào mật khu Tam Giác Sắt.
Tôi điều Chi Đội 4 Chiến-xa M41vượt cầu phao, kế tiếp là xe Chỉ huy, và lần lược các Chi Đội Thiết Kỵ theo sau. Đơn vị di chuyển hàng dọc vì chỉ có1con đường duy nhất để vào An Điền. Hai bên con lộ đất đỏ nhỏ bé là ruộng lúa, nước và sình lầy. Một địa thế hoàn toàn bất lợi cho Thiết Giáp, mặc dù là loại xe M113 cũng không thể nào vượt qua được cánh đồng bề ngang một cây số này. Bất lợi hơn nữa là xữ dụng đội hình Chi Đoàn hàng dọc để trực diện tấn công mục tiêu khá rộng lớn.
Áp dụng chiến thắng cuộc tấn công giải tỏa tiền đồn cấp Đại Đội Địa Phương Quân bị 1 Tiểu Đoàn của Trung Đoàn Bình Giả bao vây tại Xà Bang, Bình Giả tháng 3 năm 1973. Tướng quân Lê Minh Đảo và Đ/tá Trần Bá Thành đã dùng Tiều Đoàn 2/48 ( Th/tá Phúc ) của TR/Đ 48 BB cùng CĐ2/5 TK tấn công vũ bão chiếm mục tiêu thật nhanh chóng. Thà có thể bị thiệt hại vào giờ phút đầu, nhưng về sau thì bảo toàn nhân mạng. Không thể tấn công nửa vời vì trên trục tiến quân Cộng-quân bao giờ cũng đặt chốt kiền và trận địa pháo. Sau khi chọc thủng cụm phòng tuyến ngoại vi sẽ bung rộng đội hình đánh mục tiêu kế tiếp.Chúng tôi áp dụng phương thức tấn công này.
Ba chiếc M41cùng với ĐĐ52/TS tiến quân 2 bên trái phải con lộ, đã qua bên kia sông, cách cầu phao khoảng 500 mét. LLCSBV bắt đầu pháo vào đoàn quân bằng Súng cối 82 ly. Chi Đội Chiến-xa nới rộng khoảng cách và tiếp tục tiến tới nhanh chóng cùng chiến sĩ Trinh Sát. Tôi thấy chiếc chiến-xa M41 dẫn đầu khựng lại một cách bất thường, và nhận báo cáo của trưởng xa là gặp một chiếc cống sập bề dài bằng CX M41, khá sâu, không thể băng qua được. Tôi gọi lên Chiến Đoàn để báo cáo. Tiếp liền theo chiến-xa T54 từ An Điền khai hỏa nhắm vào đội hình Chi Đoàn. Từng cục lửa đỏ hực liên tiếp bay đến với tiếng rít rợn người của đạn Đại bác 100 ly trên chiến-xa T54. Tôi liền cho lệnh Đại bác 76 ly trên CX M41tác xạ, dựa vào điểm lóe sáng khởi đầu của Đại bác trên T54. Thật tình nói rằng tác xạ để anh em binh sĩ lên tinh thần chứ không thấy được chiếc T54 nào vì chúng nằm dưới hầm và nguỵ trang. Hơn nữa bên An Điền mịt mù khói lửa bởi hàng trăm quả đạn đại bác 105 ly,155ly của các Pháo Đội đang trút xuống hầu đè bẹp mục tiêu.
Ngoài bìa làng có nhiều chốt của chúng sát cánh đồng lúa, chúng dùng Đại bác 82 ly không giật của Liên Sô tác xạ vào đội hình Thiết Giáp và Bộ Binh. Trong bìa làng thì Thượng liên khạc lửa. Những khẩu Đại liên 50 bây giờ được khai hỏa vì các chốt nằm trong tầm sát hại của Đại liên 50 là 800 mét. Các chốt này ngay giữa đồng trống nên bị Đại liên, Súng cối 81ly và Đại bác 76 ly tiêu diệt dễ dàng. Tiếp liền sau đó chiếc M41 thứ 4 bị T54 bắn trúng pháo tháp ngay trên chiếc cầu phao. Chiếc M41, bị xô lệch nằm chênh vênh một nửa trên cầu phao, một nửa chấm nước làm chiếc cầu nghiêng một góc 30 độ.
Hỡi ôi!!! một tình huống nguy hiểm không lối thoát, tiến không được, thoái cũng không còn đường. Sông thì sâu làm sao chiến-xa M41 có thể băng qua được. Trong lòng tôi lo lắng và bối rối vô cùng, nhưng vẫn cố giữ bình tỉnh để tìm một cách cứu nguy nhanh nhất. Tôi nghĩ ngay đến kế dùng “Hỏa Mù” đề che mắt địch nên bảo anh Th/úy Tiền Sát Viên Pháo Binh xin bắn đạn khói. Được Chiến Đoàn đáp ứng ngay tức khắc. Một màn khói dày đặc bao phủ bìa làng An Điền, hiệu quả tức thời, T54 ngưng tác xạ vì chúng không còn thấy chúng tôi nữa. Việc cấp cứu xa đội CX bị nạn thực hiện ngay. Các chiến sĩ Trinh Sát và Kỵ Binh bất chấp hiểm nguy, chạy như bay và nhảy phóc lên xe cứu bạn, rất may xe không bị nổ và cháy.
Một HSQ Trưởng-xa và tài xế bị thương nặng, hai KB hy sinh. Chiếc M 41 lủng pháo tháp một lỗ bằng cái chén!
Tất cả các cánh quân của TRĐ52BB bây giờ đều nằm trong trận địa pháo của địch. Hệ thống liên lạc Truyền Tin bắt đầu bận rộn với những báo cáo thiệt hại về nhân mạng của 3 Tiểu Đoàn. Trước mắt tôi, mũi tiến công của TĐ1/52 BB hai bên trái phải của con lộ 7 bị ngưng lại vì bãi mìn “cóc” trước mặt, cách bìa làng An Điền khoảng 800 mét ( Mìn “cóc”, một loại mìn nhỏ hình trụ cao khoảng 5cm, đường kính khoảng 6cm không đến nổi nguy hiểm đến tính mạng nhưng khi đạp phải, bàn chân chắc chắn không còn).
Một vài chiến sĩ gục ngã, tiếp đến cả chục người, rồi hàng chục người ngã gục xuống ruộng lúa sình lầy vì mìn và đoàn quân đang hứng pháo của CSBV. Tất cả đơn vị bây giờ là mục tiêu quá lộ liễu của địch. Phía trước là bãi mìn dầy đặc, rộng lớn được đặt sẳn bởi Cộng-quân từ trước. Trên không những quả đạn pháo đủ loại trút xuống đoàn quân. Từng cột bùn đen liên tiếp bắn lên cao khắp nơi trên cánh đồng lúa.
Một tình huống khốn đốn, nguy kịch, hàng trăm chiến sĩ bì bõm dưới sình lầy quá đổi gối, không thể chần chờ, các cánh quân của BB bắt đầu lui binh để tránh bị tiêu diệt. Một chiến sĩ bị thương kèm theo một chiến sĩ xách nách dìu lê lết trong bùn lầy để mau chóng thoát khỏi bàn tay Tử Thần oan nghiệt. Có hành động nào can đảm và cảm động bằng, có hình ảnh nào đau thương hơn! Tình đồng đội, tình chiến hữu cao cả tuyệt vời.
Tôi cho Chi Đoàn Phó (Đ/Úy Hồ Thúc Hạ) điều động các Chi Đội phía sau rút lui về nhà máy xay lúa cạnh bờ sông bố trí chờ lệnh. Tiếp đến tôi tìm cách để 3 CX M41 lui về bên này sông.
Có ba cách, thứ nhất là ủi chiếc M41 nằm chênh vênh trên cầu phao rớt xuống sông nhưng xe nào leo lên được chiếc cầu nghiêng như thế này! Cách thứ nhì dùng chiến-xa bắn, nhưng nếu chẳng may làm lủng phao, chiếc cầu chìm thì càng thêm nguy.Thứ ba có thề thực hiện được bằng cách móc “ cáp” kéo cho nó rơi xuống sông dù rất nguy hiểm vì đạn pháo kích đang nổ khắp nơi.
Tất cả các cặp mắt của những Kỵ Binh và Bộ Binh ngồi trên xe Chỉ huy đều nhìn tôi đợi chờ một quyết định cuối cùng. Họ mong cho bạn bè đồng đội về bên này sông càng nhanh càng tốt. Tội nghiệp thay, với những ánh mắt nhìn tôi chia sẽ, chia sẽ những gì tôi đang lo lắng, hồi họp. Tôi điều Xa Đội M 86 ( loại xe phóng cầu, gắn lưỡi ủi đất, có sợi dây cáp thật dài cuộn trong một cái trơi dùng lực của động cơ ) tiến lại chiếc M 41 bị nạn và bắt đầu công việc dưới đạn pháo của Cộng-quân. Nhưng…
Trong chốc lác một loạt Hỏa tiễn 122 ly của CSBV với tiếng xé gió đầy uy hiếp bay đến đâm xuống giòng sông nổ tung toé nước gần chiếc cầu phao. Với sức dội mạnh mẽ chiếc cầu bị chấn động gần như bung lên khỏi mặt nước. Chiếc M41 chao qua chao lại rồi nhào xuống giòng sông, chiếc cầu nổi trở lại vị trí cân bằng. Trong cái xui tận mạng cũng còn có cái hên đến với mình, trường hợp này Chi Đoàn gặp may mắn một cách quá bất ngờ. Tôi và mọi người trên xe chỉ huy đồng ồ lên một tiếng thật lớn như trút bỏ một sức nặng ngàn cân đè bẹp thân người.
Ba chiến-xa M41 lần lượt lui về bên này sông Thị Tính. Các cánh quân của TĐ52 BB cũng lui binh, bố trí phía Đông giòng sông để thực hiện công việc tải thương. Ngoài các chiến sĩ tử thương vì pháo, các thương binh hầu hết bị mất một bàn chân hoặc cụt giò vì đạp phải loại mìn cóc nguy hiểm. Thế là nỗ lực tấn công tái chiếm An Điền không thực hiện được.
Chiếc cống bị giật sập đêm qua, nhưng lực lượng chúng tôi tấn công quá sớm nên chưa nhận được một báo cáo nào. Nên tình hình cánh quân Thiết Giáp mới ra nông nổi. Mới hôm qua đây thôi, Tướng Tư Lệnh quyết định dùng Thiết Giáp tấn công vào An Điền kèm theo lời khích lệ: “… Cặp lon Thiếu tá của em…trong An Điền…”. Riêng tôi cũng tin tưởng dùng chiến-xa cùng Bộ Binh đánh chớp nhoáng làm địch trở tay không kịp, bám lấy bờ làng, làm bàn đạp tấn công mục tiêu kế tiếp.
Kế hoạch này có thể thực hiện được, nhưng phải chấp nhận một tổn thất rất lớn về chiến-xa và nhân mạng vì tôi biết CX M41 không phải là đối thủ của T54. Chi Đòan có 3 khầu Đại bác 106ly không giật và 2 khầu Hỏa tiển Tow được tăng phái gắn trên M113. Nhưng Hỏa tiển Tow muốn bắn được, nhanh nhất cũng phải sau 15 phút vì chờ trên BộTổng Tham Mưu chấp thuận, ngán ng ẩm thay! ( ?) còn Đại bác 106 ly tác xạ cũng không nhanh chút nào, dùng để phá vỡ công sự kiên cố thì tốt hơn.
Quân lệnh phải thi hành, dù hy sinh mạng sống.
Cách đây mới hơn một tuần lễ, Chiến Đoàn 318, lực lượng Thiết Giáp có nguyên 1 Chi Đòan Chiến-xa M48A3 và 2 Chi Đoàn Thiết Kỵ M113 cùng Bộ Binh. (So sánh Thiết Giáp, Chiến Đoàn 318 mạnh gấp 4 lần hơn chúng tôi ) cũng tấn cống hướng chính diện từ Bến Cát vào An Điền nhưng đã thất bại. Huống chi bây giờ chỉ có một Chi Đoàn M113 và 4 chiếc chiến-xa M41.
Đến bây giờ, tôi nghĩ rằng ví như không có chiếc cống sập cản trở chiến-xa, không có bãi mìn chận đứng BB. Đoàn quân có thể chiếm được An Điền, nhưng e rằng CĐ 2/5TK sẽ mất tên! BB phải đánh cận chiến với địch và ít nhất thiệt hại cũng phân nửa .Vì sau khi vào An Điền mới biết số chiến-xa T54 trên 10 chiếc có hầm ẩn núp ngụy trang. Hầm hố địch quân kiên cố cấp Trung Đoàn.
Với hàng Tướng, Sĩ có thể nghĩ rằng những con “Tốt” đã qua sông, có Xe Pháo Mã hổ tương yểm trợ. Theo luật trên bàn cờ bằng mọi giá phải tiến dù bị loại khỏi cuộc chơi, không hề có nước lui. Nhưng ở đây thì không. Hoàn toàn không thể nào hy sinh những con “Tốt” đó, bằng mọi giá phải về bên này sông. Giòng sông có tên Thị Tính. Vì với nhiệm vụ chỉ huy cánh quân 1gồm ĐĐ52/TS và các M41, đó là những Xe, Pháo, Mã thiện chiến, nhanh nhẹn, ngang dọc vẫy vùng, hữu xung tả đột, tiến hoặc thối và chúng không bao giờ là những con Tốt.
May mà tôi không được “thêm lon giữa 2 hàng nến trong” với Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu! Người thân của tôi không phải nhìn tôi qua làn nước mắt :
“Chiếc quan tài phủ cờ màu
Hằn lên ba vạch đỏ au phù phàng” – thơ Lê Thị Ý-
Chiếc cống sập, đã làm hỏng hoàn toàn cuộc tấn công của CĐ2/5TK và ĐĐ52 TS. May mắn hay kém may mắn (?)
Tôi vẫn còn nhớ một sĩ quan cao cấp trong Bộ Tư Lệnh sau buổi họp hành quân mời tôi một ly rượu trước khi tôi quay trở về đơn vị. Đó là ly rượu whisky bình thường nhưng được mời lúc bấy giờ được xem như “Bồ Đào mỹ tửu..”.mặc dù tôi không hề uống rượu từ năm 1971 sau khi bị thương nặng tại chiến trường đồn điền cao su Mimot, Kampuchia.
Không có tiếng “Tỳ Bà dục người ra đi” tôi vẫn Thiết Kỵ lên đường. Mong rằng tôi và tất cả chiến hữu ngày mai ra đi không như “Kinh Kha Tráng sĩ”. Tôi biết rằng An Điền chiếm đóng cả một TR/Đ Cộng-quân có cả chiến-xa. Nên phần thắng về ta không dễ dàng chút nào.
CĐ 2/5 TK và ĐĐ 52TS rút lui bố trí ven theo bờ sông Thị Tính sát nhà máy xay lúa bên này chiếc cầu nổi.
Nửa đêm ngày 2 tháng 6-74, thêm một lực lượng mới mạnh mẽ dày dạn chiến trường, đó là Trung Đoàn 48 BB ( TR/Đ 48BB ) của Đ/tá Trần Bá Thành. Đại Đội 48 Trinh Sát làm mũi dùi và 3 Tiều Đoàn 1,2,3 khởi động các cuộc tấn công tốc chiến. Xuất phát từ hướng Nam cách An Điền 2 cây số, bằng rất nhiều toán nhỏ đột kích chớp nhoáng , không gặp trở ngại vì bãi mìn cóc như cánh quân của TR/Đ 52BB.
Khoảng 4 giờ sáng ngày 3-6 chúng tôi nhìn thấy xuyên qua màn đêm một CX T54 lù lù xuất hiện, chạy vội vàng từ An Điền theo con đường độc đạo hướng về Bến Cát vì bị các chiến sĩ của TR/Đ48BB oanh liệt truy kích. Tôi cho lệnh 3 chiến-xa M41 và 3 M113 có trang bị Đại bác bắn thẳng 106 ly sẵn sàng và chờ lệnh tác xạ. Tôi cũng thừa biết rằng T54 không thể nào vượt qua chiếc cống sập.
Chiếc T54 chạy đến chiếc cống sập và nhào đầu lọt xuống đó. Khói đen mù mịt tuôn ra vì chúng có gắng bò lên, nhưng vô ích. Tôi nhìn bằng hệ thống hồng ngoại tuyến chỉ thấy có cái pháo tháp nhô lên khỏi mặt đường. Kế tiếp thêm một T54 nữa cũng từ An Điền chạy ra, tiến lại sát đồng đội bị nạn, tìm cách kéo lên. Những tràng đạn Pháo Binh ta bắt đầu nổ chung quanh 2 chiếc T54. Chiếc T54 thứ nhì loay hoay một lúc rồi quay đầu bỏ chạy về hướng An Điền, chúng thất thần vì những quả đạn pháo nổ quá gần nên lọt xuống ruộng sình cách bìa làng khoảng 200mét. Thế là hai chiếc T54 nằm chết cứng nơi đây. Nhiều đơn vị báo cáo lên Sư Đoàn về hai chiến-xa T54 bị lầy ….
Đến trưa ngày 3 tháng 6 chiếc T54 sa lầy dưới cống mới thật sự bị khống chế sau nhiều tiếng đồng hồ khi diệt được tên xạ thủ Thượng liên bị xích trong pháo tháp. Xa đội 2 chiếcT54 đã tẩu thoát trong đêm. Một số chiến sĩ tử thương và bị thương khi bò lại gần chiến-xa vì cây Thượng liên trên xe nhả đạn. Phóng viên nhà báo chụp bức ảnh T54 này đầu tiên là một phóng viên của báo chí Hoa Ngữ. (Tôi đã giữ tờ báo có hình chiếc T54 bị nạn đến 30-4-75 trong xe M113. Đó là một sự thật nhưng rất tiếc đến bây giờ không còn).
Đến chiều Bộ Chỉ Huy TH/Đ5KB và Công Binh cấp tốc trục kéo chiếc T54 và lấp chiếc cống để lực lượng tiếp tục tấn công vào An Điền. Chiếc T54 này về sau được trưng bày trước Dinh Độc Lập.
Ngay lập tức CĐ2/5TK cùng ĐĐ52/ TS, các cánh quân 3 Tiều Đoàn của TR/ Đ 52BB và TR/Đ48BB ồ ạt chiếm cứ hoàn toàn xã An Điền. Liền sau đó truy kích chúng gần đến đồi 82, đoàn quân bị khựng lại vì vào trận địa pháo của chúng bắn chận. Phải nói rằng khu đất An Điền thì đúng hơn vì có còn gì để có thể gọi là một Xã. Đến nổi không còn viên gạch nào nguyên vẹn, nói chi đến một bức tường nhà. Một bình địa ngổn ngang nghi ngút khói lửa, nhiều xác địch quân nằm rải rác khắp nơi, mùi xú uế xông lên nồng nặc. Chung quanh những hầm của chiến-xa T54 còn rơi rớt nhiều vỏ đạn đồng sáng bóng và nhiều bó thuốc bồi hình đủa dùng cho đạn Đại bác. Các Kỵ Binh thâu lượm vũ khí còn sót lại và không quên mang về cả chục vỏ đạn đồng của Đại bác 100 ly đã kích hỏa. Riêng tôi, các Kỵ Binh cũng có tặng 4 vỏ, đem về hậu cứ làm kỹ niệm và dùng làm bình để cắm cành Mai.
An Điền đã giải tỏa xong trưa ngày 4 tháng 6 -1974. TR/Đ48 BB cấp tốc rút về Long Giao, để phòng thủ Long Khánh vì các Quận Định Quán, Tánh Linh ( Bình Tuy) bị áp lực nặng của CSBV. TR/Đ 52 BB và CĐ 2/5 TK vẫn phòng thủ và chờ kế hoạch tấn công đồi 82.
Đêm ngày 5 rạng sáng ngày 6 tháng 6 Cộng-quân lại mở cuộc tấn công dữ dội vào lực lượng phòng thủ An Điền hướng tấn công chính nhắm vào Bộ Chỉ Huy TR/Đ 52BB, một Tiểu Đoàn BB và CĐ2/5 TK bằng 2 Tiều Đoàn trừ bị, mặc dù cách đó 2 ngày chúng bị tổn thất nặng nề. Chúng dùng 4 chiếc máy cày giả dạng T54 để “hù” chiến sĩ ta. Chỉ vài loạt Đại liên 50 chính xác, 4 chiếc máy cày bốc cháy nghi ngút. Lực lượng phòng thủ đánh trả tơi bời, làm sao xuyên thủng vị trí của các chiến sĩ TR/Đ52 BB đầy kinh nghiệm chiến trường cộng với hỏa lực kinh hồn của một Chi Đoàn cộng ( cộng 4chiếc M41 )Thiết Giáp. Đến gần sáng chúng tháo chạy về hướng đồi 82 sau khi bị tổn thất trầm trọng.
Tổng kết trong 6 ngày, CĐ2/5 TK có một Sĩ quan tử trận, đó là Th/Úy Nguyễn Trung Đồng Dinh. Thương tiếc một Sĩ quan trẻ, học lực cao và cá tính rất văn nghệ đã ra đi quá sớm để trả nợ nước non. Anh đã hy sinh như biết bao nhiêu lớp người trẻ tuổi tài cao đã phải nằm xuống vì Tổ Quốc, cho cuộc chinh chiến điêu linh. Bên Thiết Giáp có 3 hy sinh (một SQ, một Trung sĩ, một Hạ sĩ ), 3 bị thương nặng. Một M41 lủng pháo tháp, một M113 bất khiển dụng. Phía Bộ Binh phải đến con số hàng trăm bị loại khỏi vòng chiến đấu.
Đến bây giờ nhắc lại lòng còn ngậm ngùi. Nén hương lòng của những KB còn lại thắp lên để nhớ, để thương các Chiến Sĩ can trường đã anh dũng hy sinh, tri ân các Anh đã một thời cùng chia sẽ hiểm nguy với chúng tôi.
Sau đó vài ngày Tướng Đảo,Tướng Khôi và Tr/tá Dũng lên xe M113 chỉ huy của tôi thám sát địa thế để mở cuộc tấn công Căn cứ 82 cách An Điền 4 cây số về hướng Tây. Đến khi xe tiến gần bìa rừng cùng hai Chi Đội hộ tống thỉ bị pháo liên tục gần xe nên phải đưa 3 vị trở về căn cứ.
Tiếp theo các lực lượng của Sư Đoàn thay nhau tấn công tái chiếm đồi 82 nhưng không đem lại kết quả nào. Không Quân bị hạn chế bởi mùa mưa, mây thấp và hệ thống Phòng không dày đặc, mặc dù các Phi Tuần đã nổ lực oanh tạc các vị trí Đại pháo, Hỏa tiễn, Súng Phòng Không nhưng kết quả không như ý. Cũng như lực lượng VNCH chỉ có một hướng tấn công duy nhất vào đồi 82 là trực diện, xuất phát từ An Điền với địa thế cây rừng, giai góc và giây leo chằng chịt. Thiết GiápBinh bị hạn chế tầm nhìn, quan sát chỉ trong vòng vài, ba mét. Chung quanh Căn Cứ 82 hệ thống giao thông hào, mìn và giây kẽm gai bao phủ rộng lớn. Khi các lực lượng tiến vào vùng trận địa pháo của chúng bị tổn thất nặng nề, và là mục tiêu quá lộ liễu vì chúng quan sát lực lượng ta từ địa thế cao là đồi 82.
Chiến Đoàn 52 BB trấn giữ An Điền hơn 3 tháng , không có ngày nào pháo địch không rơi xuống vị trí chúng tôi, không hàng loạt thì cũng 5,7 trái pháo mỗi ngày. Không có ngày nào các chiến sĩ Bộ Binh không nhảy vội vã xuống hầm hố cá nhân; các Kỵ Binh vội vàng chạy vào trong xe để tránh pháo. Sau khi An Điền được giải tỏa đồng bào Bến Cát lần lượt hồi hương, những quán ăn, quán Café bắt đầu mở cửa, nhịp sống đang hồi phục. Nhờ vậy những người lính trẻ chúng tôi mới có được ly Café nóng ấm lòng người. Tạm thời quên đi lửa đạn mặc dù trong giây phút ngắn ngủi, đó cũng là hạnh phúc, tuy nhỏ nhoi của người lính chiến nơi trận mạc.
Đến ngày 7 tháng 9 TR/Đ 9 của Sư Đoàn 5 BB và TH/Đ 10 KB vào An Điền thay thế TR/Đ 52BB và CD2/5 TK. Các cuộc tấn công mới bắt đầu và cho đến xế trưa ngày 4 tháng 10-1974 quân ta mới cắm cờ trên đồi 82.
Đơn vị tôi di chuyển khỏi An Điền, đóng quân tại trường Trung Học Bến Cát. Theo lệnh Sư Đoàn, một Chi Đội M113 ( Th/úy Hòa ) di chuyển xuống xã Phú Thứ phối hợp cùng Bộ Binh (TR/Đ 43BB) phòng thủ vì nơi đây áp lực địch vẫn còn nặng. Chi Đội báo cáo ngày nào cũng hứng pháo của CQ. Và “chịu trận” pháo hơn 45 ngày đêm ròng rã.
Và đến 6 tuần lễ nữa ( ngày 20 tháng 11-1974 ) QLVNCH mới đánh bật Công Quân ra khỏi Rạch Bắp địa điểm cuối cùng của vùng Tam Giác Sắt.
Cuộc chiến vùng Tam Giác Sắt tạm thời kết thúc, sau khi kéo dài đến 7 tháng của năm 1974. Nhưng TĐ/5KB vẫn “rền tiếng xích sắt thét vang”, tiếp tục bước quân hành đến vùng trách nhiệm mới. Nhưng, kém may mắn thay! chỉ trong một đêm của năm 1974 sắp tàn, Thiết đoàn đã phải gánh chịu đau thương nghiệt ngã và đầy tang tóc.
Ngày 19 tháng 12-1974 Bộ Chỉ Huy TĐ/Đ 5KB ( Tr/tá Trần Văn Nô: Thiết Đoàn Trưởng, Th/tá Mai Văn Thân: Thiết Đoàn Phó ) và CĐ 2/5 TK ( Trừ CĐ3/5TK, đã cùng TR/Đ 48BB di chuyển về Long Khánh từ trước ) chuyển quân về Ngã Ba Ông Đổn – Núi Chứa Chan lúc 6giờ chiều tăng phái cho TR/Đ 48 BB phòng thủ Long Khánh và chuẩn bị tiếp ứng cho Quận Tánh Linh Tỉnh Bình Tuy bị Cộng-quân tấn công và sắp bị tràn ngập.
Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn và một Đại Đội BB đóng quân đêm trong một Căn Cứ Pháo Binh dưới chân núi Chứa Chan. CĐ 3/5TK ( Đ/úy Lê Sơn ) và một Đại Đội BB đóng quân cách BCH/TĐ khoảng 3km về hướng Tánh Linh. CĐ 2/5 TK và một Đại Đội cũng đã được chỉ định đóng quân cách BCH/TĐ 5 km về hướng Bắc.
Khoảng 2 giờ sáng ngày 20 tháng 12-1974 Bộ Chỉ Huy TH/Đ 5 KB bị Cộng-quân đột nhập tấn kích.
Nhiều tiếng nổ lớn xé màn đêm tĩnh mịch phát xuất từ hướng Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn. Tôi bật dậy leo lên xe quan sát, nhìn về hướng Thiết Đoàn, từng lằng đạn lửa đan chéo nhau dày đặc. Nhất là trên lưng chừng núi Chứa Chan Cộng-quân dùng Đại bác 57 ly, 75 ly và Thượng liên12ly8 bắn xối xả xuống vị trí đóng quân. Tôi bấm máy liên lạc với BCH/TĐ nhưng im hơi lặng tiếng. Gọi mãi chẳng có thẩm quyền nào trả lời, ban Truyền Tin cũng im bặt.Trong lòng như dầu sôi lửa bỏng. Tôi cũng như Sơn muốn kéo Chi Đoàn về để phản công, chúng tôi gọi lên Chiến Đoàn 48 để xin di quân nhưng Chiến đoàn cho biết cũng không liên lạc được với Thiết Đoàn nên đành chờ lệnh.
Đến nửa tiếng đồng hồ sau chúng tôi mới liên lạc được với Chiến Đoàn và cho biết Thiết Đoàn bị đánh Đặc Công. Tôi xin Chiến Đoàn cho Chi Đoàn xuống tiếp ứng nhưng Đ/tá Chiến Đoàn Trưởng không chấp thuận vì lý do địch đánh từ bên trong vị trí chứ không có từ ngoài tấn công vào. Chúng tôi kéo quân xuống sợ thêm rối ren vì hỏa lực Đại liên của Thiết Giáp, nên để BB thanh toán từng tên một trong vị trí . Ông cho biết các Chi Đội Chỉ Huy đã phản công hiệu quả bằng súng cá nhân.Và ông bảo tôi sẳn sàng hành quân truy kích khi có lệnh….Tiếp ứng với phản công! tất cả đã quá muộn màng! Trong vòng 15 phút đầu tiên BCH/TĐ đã bị tê liệt, vì địch đánh bằng lựu đạn và B40 từ bên trong vị trí phòng thủ. Kết quả vô cùng đau đớn.
Riêng bên Thiết Giáp: Th/tá Mai Văn Thân Thiết Đoàn Phó, Th/tá Viễn Sum Trưởng Ban 3/ HQ tử thương. Đ/Úy Lê Văn Nhơn phụ tá Ban 3/ HQ bị thương nặng. Và nhiều KB các cấp tử thương hoặc bị thương. May mắn Tr/tá Thiết Đoàn Trưởng thoát khỏi lưỡi hái của Tử Thần trong gang tất. Hai M113 ( có M113 của TH/Đ Phó ) 1M577 ( xe ban Tuyền Tin ) bị hư hại.
Nguyên một Trung Đội Đặc Công địch bỏ xác tại chỗ cùng vũ khí, chấc nổ, 3 tên bị bắt sống.
Chiến tranh đồng nghĩa với tang tóc, đau thương. Sau 37 năm, thời gian dài bằng nửa đời người. Nhìn lại chỉ có 6 tháng cuối năm 1974, tim vẫn nhói đau, nước mắt vẫn lưng tròng. Thiết Đoàn 5 KB đã mất đi 4 Sĩ Quan ưu tú, nhiều HSQ và KB can trường đã ra đi, bỏ bạn, bỏ bè.Trong tim, trong óc, mọi người còn hằn lại những đau xót, nhớ nhung và thương tiếc.
Với cái chết đầy thương tâm của Th/tá Thân mọi người đều rơi lệ nghẹn ngào. Anh, một cấp Chỉ huy ưu tú trong Binh chủng Thiết Giáp. Kỵ Binh các cấp trong đơn vị đều mến thương và kính phục. Nhưng, khi ra đi vĩnh viễn Anh không kịp giã từ vợ con, bè bạn. Đớn đau thay! vợ Anh, chị LCH nhìn biết được xác chồng tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa qua chiếc quần cộc màu đỏ chị đã may cho Anh cách đó 2 tuần. Anh đã thật sự muôn đời, mãn kiếp là chồng của người vợ hiền thục thủy chung. Các con Anh còn quá thơ ngây, dại khờ, nhưng giờ đây chinh chiến đã cướp đi một người cha quý mến.
“Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm người ơi”
Có ai cầm được 2 giòng lệ tuôn! Có ai chận được tiếng nấc uất nghẹn từ đáy lòng vì thương vì tiếc các Anh.
Than ôi! với mẫu tự có 26 chữ cái, tôi cũng không biết cách sắp xếp thế nào để diễn tả hết ý nghĩa, sự hy sinh đầy cao cả của những người lính trong QLVNCH. Làm sao viết lên hết những nghiệt ngã các anh đã chịu, làm sao nói lên hết được lòng can trường xã thân vì 4 chữ Bảo Quốc An Dân trong suốt những tháng năm chiến tranh tàn khốc.
Chiến chinh đã cướp đi niềm hạnh phúc của những người Cha, người Mẹ, người Vợ. Chiến chinh đã lấy mất hạnh phúc của tuổi trẻ dại khờ. Nhưng chiến chinh không thể đốt cháy hết được những khổ nạn đời sống của người hệ lụy.
Các Anh đã trả nợ nước non, nay các anh đang được vui sống muôn đời. “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” – Kinh Hoà Bình- Nguyện cầu Thượng Đế xoa diệu nỗi đau và phù trợ cho những người còn lại.
( Những nén hương lòng thắplên, kính dâng đến Anh Linh của Cố Tr/tá Mai Văn Thân, Cố Tr/tá Viễn Sum, Cố Tr/úy Nguyễn Trung Đồng Dinh và những Chiến Sĩ VNCH anh hùng Vị Quốc Vong Thân trong trận chiến năm 1974 ).
Kỵ Binh Vũ Đình Lưu
CA -2011
http://baovecovang.wordpress.com/2011/10/02/d%C6%B0%E1%BB%9Dng-vao-m%E1%BA%ADt-khu-tam-giac-s%E1%BA%AFt-kb-vu-dinh-l%C6%B0u/