Nhân Vật
Hé lộ nghi vấn đặc biệt về mộ vua Quang Trung ở Quảng Nam
Cuối tháng 8-2014, từ một nguồn thông tin đặc biệt, Phòng PA83 CA tỉnh Quảng Nam phát hiện một tài liệu viết bằng chữ Hán Nôm, có nội dung đề cập đến thân thế một phụ nữ được vua Quang Trung phong
Phát hiện lịch sử
Cuối tháng 8-2014, từ một nguồn thông tin đặc biệt, Phòng PA83 CA tỉnh Quảng Nam phát hiện một tài liệu viết bằng chữ Hán Nôm, có nội dung đề cập đến thân thế một phụ nữ được vua Quang Trung phong làm Chánh cung hoàng hậu. Tài liệu này là gia phả của một tộc Phạm tại một huyện của tỉnh Quảng Nam. Sau khi nhờ các chuyên gia Hán Nôm dịch nghĩa và đánh giá về độ tin cậy của tài liệu, đến nay toàn bộ nội dung của bộ gia phả đã được dịch ra tiếng Việt.
Theo đó, một cuốn gia phả và một cuốn ghi danh sách những người trong họ tộc để xướng tên trong lễ cúng tế được viết vào ngày 18 tháng 2 năm Bảo Đại thứ ba (1927). Trong cuốn gia phả và cuốn sớ xướng tên trong lễ cúng tế có đề cập đến một người tên là Phạm Văn Phước, thuộc đời thứ 4 của tộc Phạm này. Vào giai đoạn cuối thời chúa Nguyễn trấn thủ ở Đàng Trong, ông làm quan ở Xá sai ti, trấn Quảng Nam. Trong cuốn gia phả ghi rõ, hai người con gái của ông Phạm Văn Phước là Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy và Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh.
Sau khi bộ gia phả này được dịch, P.V đã cùng cán bộ Phòng PA83, Sở VH-TT&DL, Bảo tàng Quảng Nam tổ chức điền dã khảo cứu đến địa danh trong cuốn gia phả họ Phạm, quê hương của ông Phạm Văn Phước (địa danh xin được giấu-P.V). Thật bất ngờ, chúng tôi được dân làng kể về một câu chuyện hơn 200 năm trước. Theo dân làng, lúc hành quân từ Bình Định ra Phú Xuân (Huế), do mưa to gió lớn nên Nguyễn Huệ đã dừng chân lại nơi này.
Tại đây, Nguyễn Huệ đến ở tư gia của một viên quan họ Phạm có hai người con gái và đem lòng yêu thương người chị. Nguyễn Huệ đã đưa người chị ra Phú Xuân sinh sống, người em cũng được đi theo để hầu hạ chị. Sau một thời gian, người chị mất, người em được triều đình cho về quê và xây dựng một ngôi chùa để thờ tự chị mình. Sau khi mất, người em được chôn gần ngôi chùa. Do mộ người em được xây dựng khá đẹp và được thắp đèn dầu suốt đêm nên dân làng ai cũng cho rằng đó là mộ bà Phạm Đức Bá.
Từ trái qua: Trong gia phả họ Phạm thể hiện: Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy (hàng dọc thứ 2 tính từ phải qua); Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh (hàng dọc thứ 3 tính từ phải qua). Trong gia phả họ Phạm thể hiện Phạm Văn Phước, trước là Xá sai ti ở trấn Quảng Nam, từ năm Kỷ Dậu được phong tặng Đại tư không thiển quận công (dòng hàng dọc 2 và 3 bên phải sang).
Ngôi mộ nghi vấn
Lần theo câu chuyện, chúng tôi tìm được ngôi chùa trên. Đại đức Thích Văn Chánh, trụ trì chùa xác nhận, trong lịch sử ngôi chùa có ghi rõ, bà Phạm Đức Bá là người sáng lập chùa. Trước đây, chùa có giữ sắc phong thời Quang Trung ban hành việc xây dựng chùa và trong chùa có bài vị "Tiền nhân Phạm Đức Bá chi linh vị", nhưng do chiến tranh tài liệu đã bị thất lạc. Liên hệ thân thế của bà Phạm Thị Ngọc Dẫy, Phạm Thị Doanh với câu chuyện dân gian và ngôi mộ mang tên Phạm Đức Bá, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm trùng khớp với nhau. Trong gia phả ghi, người chị là Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy, còn người em là Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh.
Trong câu chuyện dân gian, người chị được vua lấy làm vợ, người em cũng được đi theo vào cung để hầu hạ. Theo tìm hiểu trong sử sách, dưới triều vua Quang Trung, cung nữ được chia làm 2 cung, Tả cung và Hữu cung. Như vậy, khả năng người em trong câu chuyện dân gian chính là Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh trong gia phả họ Phạm. Vì có chị là vợ vua nên người em được đặt thêm mỹ tự là "Đức Bá" theo điển lệ triều đình là giả thuyết rất thuyết phục.
Trong khi đó, ngôi mộ được cho là mộ bà Phạm Đức Bá hiện nay có nhiều đặc điểm rất đặc biệt so với các ngôi mộ cổ khác. Năm 1978, một số người đã dùng thuốc nổ để công phá ngôi mộ này nhằm tìm vàng bạc châu báu nhưng họ chỉ phá được lớp mu rùa trên mộ, còn phần đáy mộ thì không khai quật được. Hiện nay ngôi mộ vẫn còn và một phần thành mộ lộ thiên, có hoa văn thuộc triều Tây Sơn, nhìn bên ngoài có màu xám nhạt, có lẫn vôi sống, vỏ sò. Ngoài ngôi mộ trên, gần đó còn hai ngôi mộ khác cũng cùng thời Tây Sơn.
Theo ông Tôn Thất Hướng - Phó phòng nghiệp vụ Sở VH-TT&DL Quảng Nam cho biết, ở Việt Nam, mộ hợp chất thường có niên đại từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Hợp chất này là tổng hòa các chất như cát, mật đường, nhựa thực vật, vôi sò giã nhuyễn... Nó cứng hơn đá và "bất khả phân ly" không thể phá vỡ. Chính vì sự bền vững ấy nên chỉ có tầng lớp quý tộc mới được mộ táng bằng hợp chất. Và cũng vì được xây bằng hợp chất mà các đối tượng xấu không đào được phần dưới của ngôi mộ...
Với những tài liệu chúng tôi tiếp cận và hiện trạng ngôi mộ cổ hiện nay, cộng thêm câu chuyện trong dân gian, có cơ sở để nhận định rằng, Hoàng chánh hậu của vua Quang Trung là người Quảng Nam, như trong gia phả họ Phạm ghi rất rõ "Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy" chứ không phải Chánh cung Phạm Thị Liên (Tuy Viễn, Bình Định) như sử sách lâu nay đề cập.
Đặc biệt, nhiều tư liệu thu thập được cho thấy ngôi mộ trên có nhiều nghi vấn là mộ vua Quang Trung-Nguyễn Huệ chứ không phải mộ của Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh. Tuy nhiên, để có kết luận chính xác, rất cần các cơ quan chức năng vào cuộc để thẩm định. Và đây cũng là nguyện vọng chính đáng của người dân và dòng tộc Phạm ở địa phương.
Những nội dung liên quan đến sự phát hiện lịch sử này chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin đến bạn đọc trong thời gian sớm nhất.
T.Tân-V.Hoàng
Song Phương chuyển
Phát hiện lịch sử
Cuối tháng 8-2014, từ một nguồn thông tin đặc biệt, Phòng PA83 CA tỉnh Quảng Nam phát hiện một tài liệu viết bằng chữ Hán Nôm, có nội dung đề cập đến thân thế một phụ nữ được vua Quang Trung phong làm Chánh cung hoàng hậu. Tài liệu này là gia phả của một tộc Phạm tại một huyện của tỉnh Quảng Nam. Sau khi nhờ các chuyên gia Hán Nôm dịch nghĩa và đánh giá về độ tin cậy của tài liệu, đến nay toàn bộ nội dung của bộ gia phả đã được dịch ra tiếng Việt.
Theo đó, một cuốn gia phả và một cuốn ghi danh sách những người trong họ tộc để xướng tên trong lễ cúng tế được viết vào ngày 18 tháng 2 năm Bảo Đại thứ ba (1927). Trong cuốn gia phả và cuốn sớ xướng tên trong lễ cúng tế có đề cập đến một người tên là Phạm Văn Phước, thuộc đời thứ 4 của tộc Phạm này. Vào giai đoạn cuối thời chúa Nguyễn trấn thủ ở Đàng Trong, ông làm quan ở Xá sai ti, trấn Quảng Nam. Trong cuốn gia phả ghi rõ, hai người con gái của ông Phạm Văn Phước là Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy và Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh.
Sau khi bộ gia phả này được dịch, P.V đã cùng cán bộ Phòng PA83, Sở VH-TT&DL, Bảo tàng Quảng Nam tổ chức điền dã khảo cứu đến địa danh trong cuốn gia phả họ Phạm, quê hương của ông Phạm Văn Phước (địa danh xin được giấu-P.V). Thật bất ngờ, chúng tôi được dân làng kể về một câu chuyện hơn 200 năm trước. Theo dân làng, lúc hành quân từ Bình Định ra Phú Xuân (Huế), do mưa to gió lớn nên Nguyễn Huệ đã dừng chân lại nơi này.
Tại đây, Nguyễn Huệ đến ở tư gia của một viên quan họ Phạm có hai người con gái và đem lòng yêu thương người chị. Nguyễn Huệ đã đưa người chị ra Phú Xuân sinh sống, người em cũng được đi theo để hầu hạ chị. Sau một thời gian, người chị mất, người em được triều đình cho về quê và xây dựng một ngôi chùa để thờ tự chị mình. Sau khi mất, người em được chôn gần ngôi chùa. Do mộ người em được xây dựng khá đẹp và được thắp đèn dầu suốt đêm nên dân làng ai cũng cho rằng đó là mộ bà Phạm Đức Bá.
Từ trái qua: Trong gia phả họ Phạm thể hiện: Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy (hàng dọc thứ 2 tính từ phải qua); Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh (hàng dọc thứ 3 tính từ phải qua). Trong gia phả họ Phạm thể hiện Phạm Văn Phước, trước là Xá sai ti ở trấn Quảng Nam, từ năm Kỷ Dậu được phong tặng Đại tư không thiển quận công (dòng hàng dọc 2 và 3 bên phải sang).
Ngôi mộ nghi vấn
Lần theo câu chuyện, chúng tôi tìm được ngôi chùa trên. Đại đức Thích Văn Chánh, trụ trì chùa xác nhận, trong lịch sử ngôi chùa có ghi rõ, bà Phạm Đức Bá là người sáng lập chùa. Trước đây, chùa có giữ sắc phong thời Quang Trung ban hành việc xây dựng chùa và trong chùa có bài vị "Tiền nhân Phạm Đức Bá chi linh vị", nhưng do chiến tranh tài liệu đã bị thất lạc. Liên hệ thân thế của bà Phạm Thị Ngọc Dẫy, Phạm Thị Doanh với câu chuyện dân gian và ngôi mộ mang tên Phạm Đức Bá, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm trùng khớp với nhau. Trong gia phả ghi, người chị là Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy, còn người em là Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh.
Trong câu chuyện dân gian, người chị được vua lấy làm vợ, người em cũng được đi theo vào cung để hầu hạ. Theo tìm hiểu trong sử sách, dưới triều vua Quang Trung, cung nữ được chia làm 2 cung, Tả cung và Hữu cung. Như vậy, khả năng người em trong câu chuyện dân gian chính là Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh trong gia phả họ Phạm. Vì có chị là vợ vua nên người em được đặt thêm mỹ tự là "Đức Bá" theo điển lệ triều đình là giả thuyết rất thuyết phục.
Trong khi đó, ngôi mộ được cho là mộ bà Phạm Đức Bá hiện nay có nhiều đặc điểm rất đặc biệt so với các ngôi mộ cổ khác. Năm 1978, một số người đã dùng thuốc nổ để công phá ngôi mộ này nhằm tìm vàng bạc châu báu nhưng họ chỉ phá được lớp mu rùa trên mộ, còn phần đáy mộ thì không khai quật được. Hiện nay ngôi mộ vẫn còn và một phần thành mộ lộ thiên, có hoa văn thuộc triều Tây Sơn, nhìn bên ngoài có màu xám nhạt, có lẫn vôi sống, vỏ sò. Ngoài ngôi mộ trên, gần đó còn hai ngôi mộ khác cũng cùng thời Tây Sơn.
Theo ông Tôn Thất Hướng - Phó phòng nghiệp vụ Sở VH-TT&DL Quảng Nam cho biết, ở Việt Nam, mộ hợp chất thường có niên đại từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Hợp chất này là tổng hòa các chất như cát, mật đường, nhựa thực vật, vôi sò giã nhuyễn... Nó cứng hơn đá và "bất khả phân ly" không thể phá vỡ. Chính vì sự bền vững ấy nên chỉ có tầng lớp quý tộc mới được mộ táng bằng hợp chất. Và cũng vì được xây bằng hợp chất mà các đối tượng xấu không đào được phần dưới của ngôi mộ...
Với những tài liệu chúng tôi tiếp cận và hiện trạng ngôi mộ cổ hiện nay, cộng thêm câu chuyện trong dân gian, có cơ sở để nhận định rằng, Hoàng chánh hậu của vua Quang Trung là người Quảng Nam, như trong gia phả họ Phạm ghi rất rõ "Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy" chứ không phải Chánh cung Phạm Thị Liên (Tuy Viễn, Bình Định) như sử sách lâu nay đề cập.
Đặc biệt, nhiều tư liệu thu thập được cho thấy ngôi mộ trên có nhiều nghi vấn là mộ vua Quang Trung-Nguyễn Huệ chứ không phải mộ của Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh. Tuy nhiên, để có kết luận chính xác, rất cần các cơ quan chức năng vào cuộc để thẩm định. Và đây cũng là nguyện vọng chính đáng của người dân và dòng tộc Phạm ở địa phương.
T.Tân-V.Hoàng
Song Phương chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- Huỳnh Ngọc Chênh - Hôm nay đón Nguyễn Thúy Hạnh về nhà, kịch tính như phim
- "Sư Minh Tuệ" - by Đỗ Duy Ngọc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Thế lực nào đã đầu độc tướng vi-xi Nguyễn Chí Vịnh?" - Lê Văn Đoành / Trần Văn Giang (ghi lại)
- NHỮNG NỮ LƯU LỪNG DANH Ở MỸ & THẾ GIỚI - TRẦN VĂN NGÀ
- Putin tiến thoái lưỡng nan vì đã tính sai nước cờ _ Hoài Việt
Hé lộ nghi vấn đặc biệt về mộ vua Quang Trung ở Quảng Nam
Cuối tháng 8-2014, từ một nguồn thông tin đặc biệt, Phòng PA83 CA tỉnh Quảng Nam phát hiện một tài liệu viết bằng chữ Hán Nôm, có nội dung đề cập đến thân thế một phụ nữ được vua Quang Trung phong
Phát hiện lịch sử
Cuối tháng 8-2014, từ một nguồn thông tin đặc biệt, Phòng PA83 CA tỉnh Quảng Nam phát hiện một tài liệu viết bằng chữ Hán Nôm, có nội dung đề cập đến thân thế một phụ nữ được vua Quang Trung phong làm Chánh cung hoàng hậu. Tài liệu này là gia phả của một tộc Phạm tại một huyện của tỉnh Quảng Nam. Sau khi nhờ các chuyên gia Hán Nôm dịch nghĩa và đánh giá về độ tin cậy của tài liệu, đến nay toàn bộ nội dung của bộ gia phả đã được dịch ra tiếng Việt.
Theo đó, một cuốn gia phả và một cuốn ghi danh sách những người trong họ tộc để xướng tên trong lễ cúng tế được viết vào ngày 18 tháng 2 năm Bảo Đại thứ ba (1927). Trong cuốn gia phả và cuốn sớ xướng tên trong lễ cúng tế có đề cập đến một người tên là Phạm Văn Phước, thuộc đời thứ 4 của tộc Phạm này. Vào giai đoạn cuối thời chúa Nguyễn trấn thủ ở Đàng Trong, ông làm quan ở Xá sai ti, trấn Quảng Nam. Trong cuốn gia phả ghi rõ, hai người con gái của ông Phạm Văn Phước là Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy và Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh.
Sau khi bộ gia phả này được dịch, P.V đã cùng cán bộ Phòng PA83, Sở VH-TT&DL, Bảo tàng Quảng Nam tổ chức điền dã khảo cứu đến địa danh trong cuốn gia phả họ Phạm, quê hương của ông Phạm Văn Phước (địa danh xin được giấu-P.V). Thật bất ngờ, chúng tôi được dân làng kể về một câu chuyện hơn 200 năm trước. Theo dân làng, lúc hành quân từ Bình Định ra Phú Xuân (Huế), do mưa to gió lớn nên Nguyễn Huệ đã dừng chân lại nơi này.
Tại đây, Nguyễn Huệ đến ở tư gia của một viên quan họ Phạm có hai người con gái và đem lòng yêu thương người chị. Nguyễn Huệ đã đưa người chị ra Phú Xuân sinh sống, người em cũng được đi theo để hầu hạ chị. Sau một thời gian, người chị mất, người em được triều đình cho về quê và xây dựng một ngôi chùa để thờ tự chị mình. Sau khi mất, người em được chôn gần ngôi chùa. Do mộ người em được xây dựng khá đẹp và được thắp đèn dầu suốt đêm nên dân làng ai cũng cho rằng đó là mộ bà Phạm Đức Bá.
Từ trái qua: Trong gia phả họ Phạm thể hiện: Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy (hàng dọc thứ 2 tính từ phải qua); Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh (hàng dọc thứ 3 tính từ phải qua). Trong gia phả họ Phạm thể hiện Phạm Văn Phước, trước là Xá sai ti ở trấn Quảng Nam, từ năm Kỷ Dậu được phong tặng Đại tư không thiển quận công (dòng hàng dọc 2 và 3 bên phải sang).
Ngôi mộ nghi vấn
Lần theo câu chuyện, chúng tôi tìm được ngôi chùa trên. Đại đức Thích Văn Chánh, trụ trì chùa xác nhận, trong lịch sử ngôi chùa có ghi rõ, bà Phạm Đức Bá là người sáng lập chùa. Trước đây, chùa có giữ sắc phong thời Quang Trung ban hành việc xây dựng chùa và trong chùa có bài vị "Tiền nhân Phạm Đức Bá chi linh vị", nhưng do chiến tranh tài liệu đã bị thất lạc. Liên hệ thân thế của bà Phạm Thị Ngọc Dẫy, Phạm Thị Doanh với câu chuyện dân gian và ngôi mộ mang tên Phạm Đức Bá, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm trùng khớp với nhau. Trong gia phả ghi, người chị là Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy, còn người em là Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh.
Trong câu chuyện dân gian, người chị được vua lấy làm vợ, người em cũng được đi theo vào cung để hầu hạ. Theo tìm hiểu trong sử sách, dưới triều vua Quang Trung, cung nữ được chia làm 2 cung, Tả cung và Hữu cung. Như vậy, khả năng người em trong câu chuyện dân gian chính là Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh trong gia phả họ Phạm. Vì có chị là vợ vua nên người em được đặt thêm mỹ tự là "Đức Bá" theo điển lệ triều đình là giả thuyết rất thuyết phục.
Trong khi đó, ngôi mộ được cho là mộ bà Phạm Đức Bá hiện nay có nhiều đặc điểm rất đặc biệt so với các ngôi mộ cổ khác. Năm 1978, một số người đã dùng thuốc nổ để công phá ngôi mộ này nhằm tìm vàng bạc châu báu nhưng họ chỉ phá được lớp mu rùa trên mộ, còn phần đáy mộ thì không khai quật được. Hiện nay ngôi mộ vẫn còn và một phần thành mộ lộ thiên, có hoa văn thuộc triều Tây Sơn, nhìn bên ngoài có màu xám nhạt, có lẫn vôi sống, vỏ sò. Ngoài ngôi mộ trên, gần đó còn hai ngôi mộ khác cũng cùng thời Tây Sơn.
Theo ông Tôn Thất Hướng - Phó phòng nghiệp vụ Sở VH-TT&DL Quảng Nam cho biết, ở Việt Nam, mộ hợp chất thường có niên đại từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Hợp chất này là tổng hòa các chất như cát, mật đường, nhựa thực vật, vôi sò giã nhuyễn... Nó cứng hơn đá và "bất khả phân ly" không thể phá vỡ. Chính vì sự bền vững ấy nên chỉ có tầng lớp quý tộc mới được mộ táng bằng hợp chất. Và cũng vì được xây bằng hợp chất mà các đối tượng xấu không đào được phần dưới của ngôi mộ...
Với những tài liệu chúng tôi tiếp cận và hiện trạng ngôi mộ cổ hiện nay, cộng thêm câu chuyện trong dân gian, có cơ sở để nhận định rằng, Hoàng chánh hậu của vua Quang Trung là người Quảng Nam, như trong gia phả họ Phạm ghi rất rõ "Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy" chứ không phải Chánh cung Phạm Thị Liên (Tuy Viễn, Bình Định) như sử sách lâu nay đề cập.
Đặc biệt, nhiều tư liệu thu thập được cho thấy ngôi mộ trên có nhiều nghi vấn là mộ vua Quang Trung-Nguyễn Huệ chứ không phải mộ của Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh. Tuy nhiên, để có kết luận chính xác, rất cần các cơ quan chức năng vào cuộc để thẩm định. Và đây cũng là nguyện vọng chính đáng của người dân và dòng tộc Phạm ở địa phương.
Những nội dung liên quan đến sự phát hiện lịch sử này chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin đến bạn đọc trong thời gian sớm nhất.
T.Tân-V.Hoàng
Song Phương chuyển
Cuối tháng 8-2014, từ một nguồn thông tin đặc biệt, Phòng PA83 CA tỉnh Quảng Nam phát hiện một tài liệu viết bằng chữ Hán Nôm, có nội dung đề cập đến thân thế một phụ nữ được vua Quang Trung phong làm Chánh cung hoàng hậu. Tài liệu này là gia phả của một tộc Phạm tại một huyện của tỉnh Quảng Nam. Sau khi nhờ các chuyên gia Hán Nôm dịch nghĩa và đánh giá về độ tin cậy của tài liệu, đến nay toàn bộ nội dung của bộ gia phả đã được dịch ra tiếng Việt.
Theo đó, một cuốn gia phả và một cuốn ghi danh sách những người trong họ tộc để xướng tên trong lễ cúng tế được viết vào ngày 18 tháng 2 năm Bảo Đại thứ ba (1927). Trong cuốn gia phả và cuốn sớ xướng tên trong lễ cúng tế có đề cập đến một người tên là Phạm Văn Phước, thuộc đời thứ 4 của tộc Phạm này. Vào giai đoạn cuối thời chúa Nguyễn trấn thủ ở Đàng Trong, ông làm quan ở Xá sai ti, trấn Quảng Nam. Trong cuốn gia phả ghi rõ, hai người con gái của ông Phạm Văn Phước là Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy và Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh.
Sau khi bộ gia phả này được dịch, P.V đã cùng cán bộ Phòng PA83, Sở VH-TT&DL, Bảo tàng Quảng Nam tổ chức điền dã khảo cứu đến địa danh trong cuốn gia phả họ Phạm, quê hương của ông Phạm Văn Phước (địa danh xin được giấu-P.V). Thật bất ngờ, chúng tôi được dân làng kể về một câu chuyện hơn 200 năm trước. Theo dân làng, lúc hành quân từ Bình Định ra Phú Xuân (Huế), do mưa to gió lớn nên Nguyễn Huệ đã dừng chân lại nơi này.
Tại đây, Nguyễn Huệ đến ở tư gia của một viên quan họ Phạm có hai người con gái và đem lòng yêu thương người chị. Nguyễn Huệ đã đưa người chị ra Phú Xuân sinh sống, người em cũng được đi theo để hầu hạ chị. Sau một thời gian, người chị mất, người em được triều đình cho về quê và xây dựng một ngôi chùa để thờ tự chị mình. Sau khi mất, người em được chôn gần ngôi chùa. Do mộ người em được xây dựng khá đẹp và được thắp đèn dầu suốt đêm nên dân làng ai cũng cho rằng đó là mộ bà Phạm Đức Bá.
Từ trái qua: Trong gia phả họ Phạm thể hiện: Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy (hàng dọc thứ 2 tính từ phải qua); Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh (hàng dọc thứ 3 tính từ phải qua). Trong gia phả họ Phạm thể hiện Phạm Văn Phước, trước là Xá sai ti ở trấn Quảng Nam, từ năm Kỷ Dậu được phong tặng Đại tư không thiển quận công (dòng hàng dọc 2 và 3 bên phải sang).
Ngôi mộ nghi vấn
Lần theo câu chuyện, chúng tôi tìm được ngôi chùa trên. Đại đức Thích Văn Chánh, trụ trì chùa xác nhận, trong lịch sử ngôi chùa có ghi rõ, bà Phạm Đức Bá là người sáng lập chùa. Trước đây, chùa có giữ sắc phong thời Quang Trung ban hành việc xây dựng chùa và trong chùa có bài vị "Tiền nhân Phạm Đức Bá chi linh vị", nhưng do chiến tranh tài liệu đã bị thất lạc. Liên hệ thân thế của bà Phạm Thị Ngọc Dẫy, Phạm Thị Doanh với câu chuyện dân gian và ngôi mộ mang tên Phạm Đức Bá, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm trùng khớp với nhau. Trong gia phả ghi, người chị là Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy, còn người em là Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh.
Trong câu chuyện dân gian, người chị được vua lấy làm vợ, người em cũng được đi theo vào cung để hầu hạ. Theo tìm hiểu trong sử sách, dưới triều vua Quang Trung, cung nữ được chia làm 2 cung, Tả cung và Hữu cung. Như vậy, khả năng người em trong câu chuyện dân gian chính là Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh trong gia phả họ Phạm. Vì có chị là vợ vua nên người em được đặt thêm mỹ tự là "Đức Bá" theo điển lệ triều đình là giả thuyết rất thuyết phục.
Trong khi đó, ngôi mộ được cho là mộ bà Phạm Đức Bá hiện nay có nhiều đặc điểm rất đặc biệt so với các ngôi mộ cổ khác. Năm 1978, một số người đã dùng thuốc nổ để công phá ngôi mộ này nhằm tìm vàng bạc châu báu nhưng họ chỉ phá được lớp mu rùa trên mộ, còn phần đáy mộ thì không khai quật được. Hiện nay ngôi mộ vẫn còn và một phần thành mộ lộ thiên, có hoa văn thuộc triều Tây Sơn, nhìn bên ngoài có màu xám nhạt, có lẫn vôi sống, vỏ sò. Ngoài ngôi mộ trên, gần đó còn hai ngôi mộ khác cũng cùng thời Tây Sơn.
Theo ông Tôn Thất Hướng - Phó phòng nghiệp vụ Sở VH-TT&DL Quảng Nam cho biết, ở Việt Nam, mộ hợp chất thường có niên đại từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII. Hợp chất này là tổng hòa các chất như cát, mật đường, nhựa thực vật, vôi sò giã nhuyễn... Nó cứng hơn đá và "bất khả phân ly" không thể phá vỡ. Chính vì sự bền vững ấy nên chỉ có tầng lớp quý tộc mới được mộ táng bằng hợp chất. Và cũng vì được xây bằng hợp chất mà các đối tượng xấu không đào được phần dưới của ngôi mộ...
Với những tài liệu chúng tôi tiếp cận và hiện trạng ngôi mộ cổ hiện nay, cộng thêm câu chuyện trong dân gian, có cơ sở để nhận định rằng, Hoàng chánh hậu của vua Quang Trung là người Quảng Nam, như trong gia phả họ Phạm ghi rất rõ "Hoàng chánh hậu Phạm Thị Ngọc Dẫy" chứ không phải Chánh cung Phạm Thị Liên (Tuy Viễn, Bình Định) như sử sách lâu nay đề cập.
Đặc biệt, nhiều tư liệu thu thập được cho thấy ngôi mộ trên có nhiều nghi vấn là mộ vua Quang Trung-Nguyễn Huệ chứ không phải mộ của Tả cung Đức Bá Phạm Thị Doanh. Tuy nhiên, để có kết luận chính xác, rất cần các cơ quan chức năng vào cuộc để thẩm định. Và đây cũng là nguyện vọng chính đáng của người dân và dòng tộc Phạm ở địa phương.
T.Tân-V.Hoàng
Song Phương chuyển