Quán Bên Đường
Khóc Người Pleiku - Trần Ngọc Nguyên Vũ
Anh Phan Đắc Huề khóa 63A, chỉ số Hoa-Tiêu KT. Anh từng phục vụ ở các đơn vị như PĐ Phi-Long 518, PĐ Phượng-Hoàng 514 ở Biên-Hòa, và đơn vị tác chiến cuối cùng của anh là Phi-Đoàn Thái-Dương 530 đồn trú tại phi-trường Cù-Hanh trên PleiKu. Không hiểu do cái «Duyên» nào đưa anh đến với chiếc phi cơ AD6, chứ trông anh người ta chỉ tưởng đến một «Ông giáo» đạo mạo hiền lành chứ không thể nào lại là một người lính chiến được... Nhớ khi xưa anh gắn bó, và chia xẻ những nhọc nhằn nguy hiểm cùng với anh em... Trên trời anh vẫy vùng ngang dọc, vật lộn với tử thần, xuống đất anh hiền như cục đất. Anh không bon chen, mà cũng chẳng màng danh phận... Anh nhìn đời bằng con mắt thật bình thản, và lúc nào trên môi cũng sẵn sàng nở một nụ cười...
Chị Huề người bạn đời của anh là một người đàn bà nhu mì, đôn hậu, chất phác và giản dị, luôn luôn dịu dàng kín đáo đứng bên cạnh anh. Ở chị, người ta không thấy dấu vết của phấn son, nhưng đôi má chị lúc nào cũng hồng lên khi anh thủ thỉ với chị những lời lẽ yêu thương chia xẻ. Chị cũng chẳng quản thân cò lặn lội bồng con vượt suối băng rừng theo anh đi trấn thủ lưu đồn nơi vùng trời biên giới... Niềm vui của chị là chiều chiều ôm con tựa cửa trông chồng trở về sau những chuyến bay hiểm nghèo...Và mỗi lần khi thấy hai chấm đen hiện ra từ cuối chân trời mịt mù sương khói, song hành lao về hướng phi trường thì đôi mắt chị lại sáng lên. Chị vội vã bế con vào bếp coi lại nồi cơm vừa chín tới, bớt ngọn lửa hồng cho nồi canh rau đang sôi, trở khúc cá chiên trên chảo đợi anh về...
Rồi người phi công oai hùng ấy sau khi ký tên vào sổ kiểm-tra kỹ-thuật, trao đổi vài câu với anh em phi đạo về mấy lỗ đạn trên thân tầu, rồi cùng người phi tuần viên vào phòng hành quân giải-trình phi-vụ. Anh say sưa phân tích ưu khuyết điểm của những đường bay nhào lộn nghẹt thở ngoài chiến trường vừa qua... rồi anh vỗ vai khích lệ người bạn trẻ. Một tay khoác khẩu súng Colt45 lên vai, một tay xách tấm ván ép, anh lững thững đi về cư xá... để khi gặp vợ, anh hí hửng khoe:
- Anh vừa xin ông Hà Thuyên bên kiến tạo được tấm ván ép, để ngày mai anh đóng cho em và con chiếc ghế kê ngoài cửa ngồi hóng gió cho mát nghe.
Bữa cơm chiều hôm đó, trong căn nhà nhỏ trên ngọn đồi của khu cư xá, người ta nghe được những tiếng cười khúc khích của cặp vợ chồng đang ngập chìm trong biển yêu thương, hạnh phúc, và tiếng nói bi bô của bé bập bẹ gọi Mẹ gọi Cha... Rồi đêm về, khi mọi vật đều chìm đắm trong màn sương rừng khí núi, thì văng vẳng đâu đây một giọng ru con não nề nổi lên:
- Ầu Ơ... Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi...
Tiếng ru đó chăc hẳn cũng đã hơn một lần làm cháy lòng người nghe.
...Và rồi định mệnh khắc nghiệt lại một lần nữa xô anh ngã nhào xuống dòng sông đời cuồn cuộn chảy. Đất nước hòa bình, anh cùng người vợ hiền lại bồng con ngụp lặn trong cơn ba đào sóng gió... Cho đến một ngày như khóm lục bình nổi trôi, giạt về dòng xưa bến cũ, nơi anh đã gặp chị trên một chuyến đò ngang năm nào... Nhưng về lại bến cũ mà không giữ được người ngày xưa, để đến một ngày trên gương mặt phong trần của người phi công không còn phi cơ, bom đạn đã hằn lên những nét đau khổ cùng cực, cặp mắt trợn trừng nhìn người vợ đầu gối tay ấp đã không còn chịu đựng nổi những đè nén của cuộc sống mới lên đôi vai còm cõi, nên đành buông tay bỏ anh cùng đàn con chơ vơ nơi dòng sông vô định...
...Rồi cứ thế, theo với dòng thời gian xô dạt, cho tới một ngày anh cũng bỏ lại cuộc sống bần-hàn cơ-cực nơi trần thế cho đàn con để ra đi tìm chị... Ngày xưa, thời chiến tranh, anh đã từng cùng anh em tung hoành trong bão lửa - Trên hai vai nặng trĩu gánh sơn-hà. Bây giờ không còn chinh chiến nhưng anh lại phải ra đi, hành trang chẳng có gì ngoài một phiến băng tâm tinh khiết và trong suốt. Anh ra đi chẳng còn gì vay trả - Nợ tang bồng thôi cũng bỏ xuôi tay. Bây giờ thì anh đã xa lìa chúng ta rồi đó, có ai muốn gởi đến anh những lời nhắn nhủ gì không?
Còn tôi, tôi chỉ biết cúi đầu tưởng nhớ đến người bạn cùng khóa năm xưa... Anh Huề ơi! Đêm nay ở cõi vô hình xa vắng đó - Ai là người đứng đón anh nơi cuối con đường nhạt nhòa mưa sương... Chắc chắn sẽ có chị Huề và rất nhiều người khác nữa, những người ngày xưa đã hơn một lần cùng anh chung lưng sát cánh đó, anh Huề. Họ sẽ đợi anh đến rồi cùng anh chị leo lên những chiếc khu trục cơ, AD5, AD6 cất cánh bay vút về cõi vĩnh hằng cao diệu vợi...
Xin được một lần giơ tay chào vĩnh biệt...
The Last Real Fighters!
bietdongquan.com
Tân Sơn Hòa chuyển
Khóc Người Pleiku - Trần Ngọc Nguyên Vũ
Anh Phan Đắc Huề khóa 63A, chỉ số Hoa-Tiêu KT. Anh từng phục vụ ở các đơn vị như PĐ Phi-Long 518, PĐ Phượng-Hoàng 514 ở Biên-Hòa, và đơn vị tác chiến cuối cùng của anh là Phi-Đoàn Thái-Dương 530 đồn trú tại phi-trường Cù-Hanh trên PleiKu. Không hiểu do cái «Duyên» nào đưa anh đến với chiếc phi cơ AD6, chứ trông anh người ta chỉ tưởng đến một «Ông giáo» đạo mạo hiền lành chứ không thể nào lại là một người lính chiến được... Nhớ khi xưa anh gắn bó, và chia xẻ những nhọc nhằn nguy hiểm cùng với anh em... Trên trời anh vẫy vùng ngang dọc, vật lộn với tử thần, xuống đất anh hiền như cục đất. Anh không bon chen, mà cũng chẳng màng danh phận... Anh nhìn đời bằng con mắt thật bình thản, và lúc nào trên môi cũng sẵn sàng nở một nụ cười...
Chị Huề người bạn đời của anh là một người đàn bà nhu mì, đôn hậu, chất phác và giản dị, luôn luôn dịu dàng kín đáo đứng bên cạnh anh. Ở chị, người ta không thấy dấu vết của phấn son, nhưng đôi má chị lúc nào cũng hồng lên khi anh thủ thỉ với chị những lời lẽ yêu thương chia xẻ. Chị cũng chẳng quản thân cò lặn lội bồng con vượt suối băng rừng theo anh đi trấn thủ lưu đồn nơi vùng trời biên giới... Niềm vui của chị là chiều chiều ôm con tựa cửa trông chồng trở về sau những chuyến bay hiểm nghèo...Và mỗi lần khi thấy hai chấm đen hiện ra từ cuối chân trời mịt mù sương khói, song hành lao về hướng phi trường thì đôi mắt chị lại sáng lên. Chị vội vã bế con vào bếp coi lại nồi cơm vừa chín tới, bớt ngọn lửa hồng cho nồi canh rau đang sôi, trở khúc cá chiên trên chảo đợi anh về...
Rồi người phi công oai hùng ấy sau khi ký tên vào sổ kiểm-tra kỹ-thuật, trao đổi vài câu với anh em phi đạo về mấy lỗ đạn trên thân tầu, rồi cùng người phi tuần viên vào phòng hành quân giải-trình phi-vụ. Anh say sưa phân tích ưu khuyết điểm của những đường bay nhào lộn nghẹt thở ngoài chiến trường vừa qua... rồi anh vỗ vai khích lệ người bạn trẻ. Một tay khoác khẩu súng Colt45 lên vai, một tay xách tấm ván ép, anh lững thững đi về cư xá... để khi gặp vợ, anh hí hửng khoe:
- Anh vừa xin ông Hà Thuyên bên kiến tạo được tấm ván ép, để ngày mai anh đóng cho em và con chiếc ghế kê ngoài cửa ngồi hóng gió cho mát nghe.
Bữa cơm chiều hôm đó, trong căn nhà nhỏ trên ngọn đồi của khu cư xá, người ta nghe được những tiếng cười khúc khích của cặp vợ chồng đang ngập chìm trong biển yêu thương, hạnh phúc, và tiếng nói bi bô của bé bập bẹ gọi Mẹ gọi Cha... Rồi đêm về, khi mọi vật đều chìm đắm trong màn sương rừng khí núi, thì văng vẳng đâu đây một giọng ru con não nề nổi lên:
- Ầu Ơ... Ví dầu cầu ván đóng đinh, cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi...
Tiếng ru đó chăc hẳn cũng đã hơn một lần làm cháy lòng người nghe.
...Và rồi định mệnh khắc nghiệt lại một lần nữa xô anh ngã nhào xuống dòng sông đời cuồn cuộn chảy. Đất nước hòa bình, anh cùng người vợ hiền lại bồng con ngụp lặn trong cơn ba đào sóng gió... Cho đến một ngày như khóm lục bình nổi trôi, giạt về dòng xưa bến cũ, nơi anh đã gặp chị trên một chuyến đò ngang năm nào... Nhưng về lại bến cũ mà không giữ được người ngày xưa, để đến một ngày trên gương mặt phong trần của người phi công không còn phi cơ, bom đạn đã hằn lên những nét đau khổ cùng cực, cặp mắt trợn trừng nhìn người vợ đầu gối tay ấp đã không còn chịu đựng nổi những đè nén của cuộc sống mới lên đôi vai còm cõi, nên đành buông tay bỏ anh cùng đàn con chơ vơ nơi dòng sông vô định...
...Rồi cứ thế, theo với dòng thời gian xô dạt, cho tới một ngày anh cũng bỏ lại cuộc sống bần-hàn cơ-cực nơi trần thế cho đàn con để ra đi tìm chị... Ngày xưa, thời chiến tranh, anh đã từng cùng anh em tung hoành trong bão lửa - Trên hai vai nặng trĩu gánh sơn-hà. Bây giờ không còn chinh chiến nhưng anh lại phải ra đi, hành trang chẳng có gì ngoài một phiến băng tâm tinh khiết và trong suốt. Anh ra đi chẳng còn gì vay trả - Nợ tang bồng thôi cũng bỏ xuôi tay. Bây giờ thì anh đã xa lìa chúng ta rồi đó, có ai muốn gởi đến anh những lời nhắn nhủ gì không?
Còn tôi, tôi chỉ biết cúi đầu tưởng nhớ đến người bạn cùng khóa năm xưa... Anh Huề ơi! Đêm nay ở cõi vô hình xa vắng đó - Ai là người đứng đón anh nơi cuối con đường nhạt nhòa mưa sương... Chắc chắn sẽ có chị Huề và rất nhiều người khác nữa, những người ngày xưa đã hơn một lần cùng anh chung lưng sát cánh đó, anh Huề. Họ sẽ đợi anh đến rồi cùng anh chị leo lên những chiếc khu trục cơ, AD5, AD6 cất cánh bay vút về cõi vĩnh hằng cao diệu vợi...
Xin được một lần giơ tay chào vĩnh biệt...
The Last Real Fighters!
bietdongquan.com
Tân Sơn Hòa chuyển