Sau khi nhận định: quãng trên dưới 70-80 % từ vựng tiếng Việt có thành tố Hán-Việt, ông cho rằng “nếu vì một lý do nào đó mà để ngôn ngữ nước mình bị một ngôn ngữ khác lấn át và tình trạng lấn át kéo dài
Trên trang mạng Bách
Việt, ông Trần Kinh Nghị có bài “Di sản Hán Việt”*. Sau khi nhận định:
quãng trên dưới 70-80 % từ vựng tiếng Việt có thành tố Hán-Việt, ông cho
rằng “nếu vì một lý do nào đó mà để ngôn ngữ nước mình bị một ngôn ngữ
khác lấn át và tình trạng lấn át kéo dài chắc chắn sẽ dẫn đến nguy cơ bị
đồng hóa hoặc thoái hóa.” Kết thúc bài viết, ông đề nghị Nhà nước có
biện pháp hạn chế việc dùng từ Hán Việt để giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt.
Đồng cảm với nỗi bức thúc của ông nhưng nhận thấy đây là vấn đề lớn và không hề đơn giản, chúng tôi xin thưa lại đôi lời.
- I. Có đúng tiếng Việt vay mượn từ ngôn ngữ Hán?
Muốn giải quyết thỏa
đáng chuyện này, không còn cách nào khác là phải đi tới tận cùng cội
nguồn ngôn ngữ, không chỉ của người Việt mà cả của người Trung Hoa.
Nửa sau thế kỷ XIX, ngay
khi chưa đặt xong ách đô hộ trên toàn cõi Vệt Nam, những học giả người
Pháp đã có mặt để nghiên cứu thiên nhiên, con người, văn hóa, xã hội xứ
Annam. Từ kết quả nghiên cứu, năm 1898, nhà nước bảo hộ Pháp cho thành
lập Viện Viễn Đông Bác Cổ tại Hà Nội. Đứng đầu lĩnh vực khoa học nhân
văn là những nhà Hán học như E. Aymonier, L. Maspéro… Là học giả phương
Tây, họ mang quan niệm Âu trung: châu Âu là trung tâm của văn minh nhân
loại. Là nhà Hán học, họ theo thuyết Hoa tâm: Trung Hoa là trung tâm của
châu Á. Họ cũng chịu ảnh hưởng của tri thức sai lầm đương thời cho
rằng, con người từ Tây Tạng xâm nhập Trung Quốc rồi sau đó xuống Việt
Nam và Đông Nam Á nên ánh sáng văn minh cũng từ Trung Hoa lan tỏa tới
phương Nam. Khi nghiên cứu tiếng nói của người Việt Nam, họ có trong tay
những bộ từ điển Trung Hoa đồ sộ như Từ Hải, Tứ khố toàn thư, Khang Hy…
Trong khi đó, tiếng Việt chỉ có Từ điển Việt-Bồ-La của Alexander de
Rhodes cùng Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, hai cuốn sách nhỏ,
tập hợp từ ngữ Việt chữ Latinh mới có khoảng 300 tuổi. Bằng thao tác
đơn giản là thống kê, so sánh những từ được cho là gốc Hán có trong tiếng Việt, họ eureka: “Tiếng Việt mượn khoảng 70% từ Hán ngữ!”
Sự thật có đúng như vậy không?
Vào năm 1898, H. Frey,
một đại tá người Pháp, từng công tác ở Tây Phi sau đó có mặt ở Việt Nam,
đã xuất bản cuốn Tiếng Annam, mẹ của các ngữ (L’Annamite, mère des langues): Tiếng Annam, xuất xứ của các ngôn ngữ: Cộng đồng các chủng tộc Xentơ, Xémit, Xuđăng và Đông Dương. Bằng kinh nghiệm ở Châu lục đen, nhà ngữ học chân thực này cho rằng tiếng Việt gần gũi với tiếng các sắc dân châu Phi và là nguồn cội của mọi ngôn ngữ phương Đông.
Tiếp đó ông còn cho ra hai cuốn khác khẳng định quan điểm của mình. Tuy
nhiên, các viện sĩ của Viễn Đông Bác Cổ “không thèm chấp” gã tay ngang
võ biền. Không chỉ vậy, vào năm 1937-1938 còn có cuộc tranh luận giữa
nhà ngữ học trẻ người Ba Lan Prilusky với viện sĩ Maspéro. Từ khảo cứu
của mình, Prilusky phát triển quan điểm của H. Frey nhưng kết cục phần
thắng thuộc về bậc lão làng!
Kết luận của Viện Viễn
Đông Bác Cổ dáng đòn hủy diệt không chỉ vào văn hóa mà cả vào tương lai
dân tộc Việt Nam! Do ngón đòn ác hiểm này mà sau đó, khi phân loại ngôn
ngữ phương Đông, đề xuất một họ ngôn ngữ Annambị bãi bỏ do “không xứng đáng vì vay mượn quá nhiều từ nước ngoài!” Thay vào đó là họ ngôn ngữ mang cái tên không tiêu biểu: ngôn ngữ Mon-Khmer.
Kết quả là cho đến nay, trong sách giao khoa ngôn ngữ của nhiều đại học
hàng đầu thế giới vẫn viết “Tiếng Việt vay mượn khoảng 60% từ ngôn ngữ
Trung Hoa (!)” Dù sao thì cũng được an ủi phần nào vì 60% ít hơn con số
chúng ta tự nhận!
Điều khủng khiếp nhất
là, vào thập niên 1920, các học giả tiên phong người Việt như Trần Trọng
Kim, Nguyễn Văn Tố… tiếp nhận tri thức sai lầm đó, dạy cho con dân
Việt. Ý tưởng tiếng Việt vay mượn tiếng Hán như cỏ dại lan rộng trên
cánh đồng tư tưởng, thấm tới toàn bộ người có học Việt Nam hiện nay! Gần
suốt thế kỷ, học giả Việt không một lời cãi lại. Ở thập niên 80, trong
công trình ngữ học công phu Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nguyễn Tài Cẩn “khám phá”: ngoài cái gọi là “từ Hán Việt”, trong tiếng Việt còn lớp từ Hán cổ và lớp từ Hán Việt Việt hóa (1).
Không đưa ra con số thống kê nhưng với hai lớp từ được bổ sung đó, có
lẽ tỷ trọng vay mượn của tiếng Việt còn tăng lên gấp bội!
Nhưng dù sao, đấy chỉ là
tính toán của nhà bác học, còn với người dân Việt, ít người tin, chỉ vì
lý do đơn giản: một dân tộc vay mượn đến bằng nấy tiếng nước ngoài
không thể là dân tộc trưởng thành, chắc chắn đã bị đồng hóa sau nghìn
năm nô lệ!
Năm 2006, từ nghiên cứu của mình, chúng tôi công bố bài viết Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa (2).
Rất may là ý tưởng “điên rồ” đó chẳng những không bị ném đá mà còn
không rơi vào im lặng. Ít lâu sau, từ Sacramento nước Mỹ, nhà nghiên cứu
Đỗ Ngọc Thành gửi cho chúng tôi những bài viết chấn động: Phát hiện lại Việt Nhân ca, Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn, Đi tìm nguồn gốc chữ Nôm…(3)
trong đó dẫn ra hàng nghìn bằng chứng không thể phản bác cho thấy,
tiếng nói nguyên thủy của người Trung Hoa là tiếng Việt. Người bạn Việt
Triều Châu của tôi khẳng định: “Tất cả các chữ tượng hình được làm ra là
để ký âm tiếng Việt. Vì vậy, mọi chữ vuông chỉ khi đọc và giải nghĩa
bằng tiếng Việt mới chính xác!” Một sự ủng hộ vô giá! Càng may hơn là
đầu năm 2012, chúng tôi nhận được tin: Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt
tỉnh Quảng Tây Trung Quốc phát hiện chữ Việt cổ khắc trên xẻng đá, giống
với chữ Giáp cốt (4)! Từ những nguồn tư liệu phong phú và vững chắc,
chúng tôi nhanh chóng hoàn thành bài viết: Chữ Việt là chủ thể tạo nên
chữ viết Trung Hoa (5)!
Như vậy, sang thế kỷ
này, nhờ tiến bộ của khoa học thế giới, nhờ tấm lòng và công sức của
cộng đồng người Việt, không những chúng ta xác định được người Việt có đa dạng di truyền cao nhất trong dân cư châu Á, có nghĩa, Việt Nam là cái nôi của các dân tộc phương Đông mà còn chứng minh được, tổ tiên ta để lại trên đất Trung Hoa không chỉ tiếng nói mà cả chữ viết.
Chúng tôi hình dung quá trình hình thành tiếng nói và chữ viết trên đất Trung Hoa như sau:
Nhiều dữ liệu khoa học
cho thấy, 40.000 năm trước, người Việt cổ đã từ Việt Nam đi lên khai phá
đất Trung Hoa. Tới 4000 năm TCN, người Việt đã xây dựng ở đây nền văn
hóa nông nghiệp rực rỡ. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ do Hiên Viên dẫn
đầu, vượt Hoàng Hà vào chiếm đất Việt, dựng vương triều Hoàng Đế. Trong
vương quốc Hoàng Đế, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra
người Hoa Hạ. Người Hoa Hạ bú sữa mẹ Việt, học tiếng nói Việt. Do ngôn
ngữ Mông Cổ nghèo nên tiếng Việt thành chủ thể của tiếng nói vương
triều. Cùng với thời gian, người Hoa Hạ thay cha ông Mông Cổ lãnh đạo xã
hội, đã áp đặt dân chúng nói theo cách nói Mông Cổ (Mongol parlance:
tính từ đứng trước danh từ, hay như ta vẫn gọi là cách nói ngược.) Trên thực tế, ngôn ngữ của dân cư vương triềuHoàng Đế là tiếng Việt được nói theo văn phạm Mông Cổ.
Sau này, nhà Tần, nhà Hán mở rộng lãnh thổ, ngôn ngữ tại các vùng bị
kiêm tính cũng chuyển hóa theo cách tương tự. Do người Việt sống trên
địa bàn rộng với thổ nhưỡng, khí hậu khác nhau, nên ngôn ngữ bị phân ly
thành nhiều phương ngữ. Trong đó, tiếng nói vùng Quảng Đông (Việt Đông),
Phúc Kiến (Mân Việt) là chuẩn mực nên được gọi là Nhã ngữ với ý nghĩa
ngôn ngữ thanh nhã. Đời nhà Chu, rồi nhà Hán, triều đình khuyến khích
nói theo Nhã ngữ.
Vấn đề khác cũng cần
minh định là ảnh hưởng của chữ viết tới sự hình thành ngôn ngữ phương
Đông. Chữ tượng hình được phát hiện sớm nhất ở văn hóa Giả Hồ 9000 năm
rồi ở văn hóa Bán Pha tỉnh Sơn Tây 6000 năm trước. Khảo cổ học cũng cho
thấy, khoảng 4000-6000 năm cách nay, chữ tượng hình được khắc trên xẻng
đá ở di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây. Chữ Lạc Việt sau đó được đưa lên
đồng bằng Trong Nguồn, bây giờ là Trung Nguyên, vốn là một trung tâm lớn
của người Dương Việt, để khắc lên xương thú và yếm rùa, về sau được gọi
là văn Giáp cốt.
Chữ viết trên yếm rùa và
xương thú là chữ đơn lập, không thể ghép vần. Tiếng Việt cổ vốn đa âm
nên muốn được ký âm buộc phải đơn âm hóa. Do đó, tại trung tâm đầu não
của người Việt, ít nhất là từ Quý Châu Quảng Tây tới Hà Nam, tiếng nói
chuyển dần thành đơn âm. Một vấn đề khác nảy sinh: tiếng nói thì nhiều
nhưng số chữ chế ra có hạn nên chỉ có những tiếng tiêu biểu mới được ký
tự. Do vậy, chữ tượng hình tập hợp được những tiếng nói tiêu biểu nhất
của người Việt. Đây là quá trình độc lập, diễn ra trong cộng đồng Việt
mà người Hoa Hạ từ thời Hoàng Đế tới giữa đời Thương không biết. Khi vua
Bàn Canh chiếm đất Hà Nam, lập nhà Ân (1384 TCN), mới biết chữ Giáp cốt
của người Dương Việt. Với nhà nước được tổ chức tốt, Bàn Canh đã tiếp
thu và cải tiến chữ của người Việt để ghi việc bói toán, cúng tế cùng
địa lý, lịch sử (5). Trong triều đình nhà Ân, những “họa sư”- người vẽ
chữ, “bốc sư”- thày bói, người Việt, được “lưu dụng” làm công việc này.
Thay nhà Thương, nhà Chu chuyển sang viết chữ trên thẻ tre, trên lụa,
cũng sử dụng nhiều ông thầy người Việt. Nhà Tần vốn là bộ lạc người
Việt, khi dựng nước đã thể chế chữ Giáp cốt thành chữ Triện tồn tại tới
nay. Như vây, có thể nói, không chỉ sáng tạo ra chữ Giáp cốt mà người
Việt còn tích cực góp phần cải tiến, hoàn thiện chữ viết. Do đó quá
trình đơn âm hóa tiếng nói được đẩy mạnh.
Sau đời Hán, Trung Quốc
loạn lạc, nhiều triệu người thiểu số phía Tây thâm nhập, khiến cho tiếng
nói bị pha tạp, theo hướng tăng cường giọng điệu du mục. Tiếng nói của
cư dân trong vương triều thay đổi, dẫn tới việc người trong nước không
hiểu được nhau. Để khắc phục, các vương triều dùng tiếng nói của kinh đô
làm chuẩn mực giao tiếp của triều đình: quan thoại ra đời. Nhà Đường
lấy tiếng nói của kinh đô Tràng An làm tiếng nói chính thức, được gọi là
Đường âm. Đường âm là tiếng Việt được người Tràng An nói thời nhà
Đường. Đấy là bộ phận tinh hoa của tiếng Việt được ký tự bằng chữ vuông.
Đường âm được mang sang dạy và giao dịch ở Việt Nam. Khi giành được
quyền tự chủ, nước ta thoát ách đô hộ của phương Bắc về chính trị, kinh
tế, văn hóa. Tuy nhiên, văn tự tượng hình vẫn là chữ viết chính thống và
Đường âm được duy trì dưới tên gọi là chữ Nho, chữ Thánh hiền. Trong
khi đó, quan thoại của Trung Hoa biến cải theo sự thay đổi của vương
triều và kinh đô. Tới giữa thế kỷ trước, tiếng Bắc Kinh là tiếng nói
chính thống của Trung Hoa, chỉ được số lượng nhỏ người dùng. Nhà Mãn
Thanh rồi chính quyền Quốc dân đảng không làm nổi việc thống nhất ngôn
ngữ. Chỉ tới năm 1958, sau gần 20 năm nhà nước Trung Hoa nỗ lực thực
hiện cuộc đồng hóa khốc liệt, tiếng Bặc Kinh mới được phủ sóng trên phần
lớn lãnh thổ. Tuy nhiên, tới nay trong vùng Nam Dương Tử vẫn có khoảng
20% từ địa phương, truyền miệng trong dân gian mà không được ký tự.
Một vấn đề từ lâu được
đặt ra: chữ Nho xuất hiện ở nước ta từ bao giờ? Chưa ai xác định được !
Chúng tôi không biết, hàng nghìn năm trong nước Văn Lang, vùng đất bây
giờ là Việt Nam, chỉ cách Cảm Tang, Quý Châu khoảng 150 km, có sử dụng
chữ tượng hình? Nhưng biết chắc, bộ lạc Thủy, di duệ của người Lạc Việt ở
Quảng Tây, từ thời Tần Hán trốn vào rừng, bị thiểu số hóa, vẫn giữ được
sách cổ ghi bằng chữ Thủy, tương tự Giáp cốt văn của tổ tiên Bách Việt,
gọi là Thủy thư (5). Nay được coi là văn tự hóa thạch sống, một bảo vật
văn hóa nhân loại. Một điều chắc chắn khác là, muộn nhất, chữ Nho có
mặt ở nước ta thời Triệu Vũ Đế. Việc khám phá lăng mộ Triệu Văn Đế ở
Quảng Châu với rất nhiều di vật khắc chữ Nho chứng tỏ điều này. Chắc
chắn rằng, trong 100 năm xây dựng và bảo vệ Nam Việt, nhà Triệu đã dùng
chữ Nho trong hành chính, luật pháp và dạy học. Vì vậy, khi sang nước
ta, Mã Viện phát hiện “Luật Giao Chỉ có tới 10 điều khác luật nhà
Hán”(6). Có phần chắc là luật Việt được viết bằng chữ Nho. Chúng tôi
cũng nghĩ rằng, muộn nhất, tiếng Việt vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ
và Trung Bộ, được đơn âm hóa từ thời nhà Triệu. Và cùng với việc phổ
biến chữ Nho, tiếng Kinh ngày càng trở nên đơn âm.
Một câu hỏi: khi sang
nước ta, người của Triệu Đà rồi quan quân nhà Hán nói tiếng gi? Sử ký
viết, “Đà giết trưởng lại người Tần rồi đưa người của mình lên thay.”
Triệu là một tiểu quốc của người Việt, nên Triệu Đà và tâm phúc của ông
là người Việt (7). Xuống Giang Nam, người của ông gặp tiếng Việt Quảng
Đông, Mân Việt, thứ tiếng Việt thanh nhã chuẩn mực. Thời Hán cũng tương
tự, vì ngoài một số không nhiều quan cao cấp người phương Bắc thì tới
nước ta phần lớn là người Giang Nam. Họ là người Việt, cho dù có nói
ngược theo cách nói Hoa Hạ thì vẫn là tiếng Việt. Vì lẽ đó, rất có thể
hai bên gần như hiểu được nhau. Vì vậy, việc học chữ Nho khá dễ dàng.
Về sau, qua mỗi thời
đại, tiếng của quan quân phương Bắc lại khác đi. Đến thời Đường, tiếng
nói của kinh đô Tràng An được dùng làm quan thoại. Thực chất, đó là
tiếng Việt ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường. Điều này cho thấy một bộ
phận tiếng Việt trải qua quá trình biến đổi dài từ đa âm, không thanh
điệu, tới đây đã thành đơn âm và sáu thanh. Có lẽ, tiếng nói của bộ phận
cư dân mà sau này là người Kinh cũng được chuyển hóa như vậy?
Sau thời Đường, nước ta
độc lập, chữ Nho trở thành quốc ngữ. Theo dòng thời cuộc, tiếng nói của
người Trung Hoa thay đổi, ngày càng xa gốc Việt. Chẳng những người Việt
không hiểu tiếng người phương Bắc mà người Trung Quốc cũng không còn nói
được Đường âm. Di sản vô giá thơ Đường chỉ còn người Việt Nam thưởng
thức trong âm điệu tuyệt vời.
Từ phân tích trên chứng
tỏ rằng, tiếng Việt không những không vay mượn mà trái lại, còn là gốc
gác, là mẹ đẻ của ngôn ngữ Trung Hoa. Cái mà nay người ta quen gọi là
“từ Hán Việt” là sự lầm lẫn lớn bởi chưa hiểu cội nguồn sinh học cũng
như văn hóa dân tộc, trong đó có quá trình hình thành tiếng nói và chữ
viết.
II. Vai trò của lớp từ Việt cổ trong văn hóa dân tộc
Như đã nói ở trên, tiếng
thì nhiều nhưng chữ làm ra quá ít nên tổ tiên ta bắt buộc phải chọn
thật kỹ những tiếng cần ký tự. Đó là những tiếng có nội dung sâu sắc,
hàm chứa ý nghĩa uyên thâm, mà sau này được gọi là ngôn ngữ hàn lâm.
Dù có áp dụng cách tạo từ đồng âm dị nghĩa thì cũng còn vô số tiếng
không được ký âm vì không đủ chữ. Ở phía bắc Trung Hoa, dần dần những
tiếng không được ký tự bị mai một.
Trong khi đó, ở miền
nam, chúng trở thành từ địa phương, được truyền miệng trong dân gian. Ở
Việt Nam tình hình tương tự. Khi làm chủ đất nước, người Việt thấy quá
nhiều tiếng không có chữ, nên vào đời Trần đã mô phỏng chữ Nho để tạo ra
chữ Nôm. Tuy nhiên, vì nhiều lẽ, chữ Nôm không được coi là văn tự chính
thức. Mọi giao dịch hành chính đều phải dùng chữ Nho, nên nhiều địa
danh phải chuyển sang chữ Nho, việc làm bất khả kháng ngày xưa khiến nay
nhiều người bức thúc.
Một vấn đề cũng cần bàn
cho ra lẽ, đó là tìm tên gọi xác đáng cho lớp từ đặc biệt này. Thoạt kỳ
thủy, nó là Đường âm. Tới lúc nào đó được gọi là chữ Nho. Ở miền Nam cho
tới năm 1975, gọi là cổ văn. Vào thập niên 1960, các học giả miền Bắc
gọi là “từ Hán Việt”. Một thời gian dài nửa thế kỷ ta chấp nhận tên gọi
đó vì tưởng rằng hợp lý. Nhưng bản thân khái niệm “từ Hán Việt” lại mâu
thuẫn và vô nghĩa. Thuật ngữ này hàm ý: chữ của Hán, còn cách đọc của
Việt, ghép lại thành “từ Hán Việt.” Nhưng như phát hiện của Nguyễn Tài
Cẩn, cách đọc đó chính là tiếng nói ở kinh đô Tràng An thời nhà Đường!
Như vậy, theo cách hiểu hiện nay, cả chữ viết và cách đọc đều của người
Hán, nên không thể là “từ Hán Việt!”. Nay ta thấy không thể tiếp tục
dùng thuật ngữ sai lầm cũ. Nhưng dùng tên nào thích hợp hơn?
Đường âm là đúng nhưng
bây giờ không thể trở lại tên gọi này vì đó là sản phẩm của một thời
điểm lịch sử. Tiếng Hán không đúng vì đó không phải là tiếng nói thời
nhà Hán, càng không phải tiếng nói của người Trung Hoa hôm nay. Có lẽ
tên gọi chữ Nho phù hợp hơn cả, vì nó có nghĩa là chữ của
nhà nho, sâu xa hơn, như phát hiện của triết gia Kim Định, là sản phẩm
của văn hóa Việt nho nguồn cội. Sở dĩ gọi là “từ Hán Việt” vì người ta
lầm tưởng đó là sản phẩm vừa của Hán vừa của Việt. Tuy nhiên cách hiểu
như thế vừa không chính xác vừa gây phản cảm, đè nặng lên tâm trí chúng
ta một cảm giác lệ thuộc bên ngoài. Thực chất, đó không phải “từ Hán
Việt” mà là tiếng Việt cổ. Khác với nhiều ngữ khác, tiếng
cổ là tử ngữ, thì trong ngôn ngữ Việt, tiếng Việt cổ vô cùng sống động.
Lý do nó trở thành cổ ngữ là vì lịch sử dân tộc có biến động lớn, chữ
Nho bị bãi bỏ để thay bằng thứ chữ viết khác. Mấy trăm năm trước, khi
chuyển giao chữ La Tinh quốc ngữ cho chúng ta, một học giả phương Tây
từng nói đại ý: Chúng ta trao cho người Annam một thứ chữ dễ học,
giúp họ nhanh chóng bắt kịp đà văn minh. Nhưng chắc chắn nó sẽ làm cho
thế hệ tương lai của họ cắt đứt với nguồn cội. Hôm
nay, lời cảnh báo đó đã trở thành hiện thực với toàn bộ nền văn hóa
Việt. Về ngôn ngữ thì đó là lớp lớp người Việt không hiểu tiếng nói của
tổ tiên, như tác giả Trần Kinh Nghị than phiền. Vì vậy, chúng tôi cho
rằng, cần nhìn nhận lại gia sản quý giá này để sử dụng tốt nhất.
- Kết luận
Hàng ngàn năm nay do ngộ
nhận nên ta cho rằng, bộ phận tinh hoa, quan trọng nhất của tiếng Việt
là đồ vay mượn! Sự lầm lẫn này đã tạo nên nỗi đau ngàn năm khi ta vừa
căm ghét một công cụ mà trong quá khứ kẻ thù dùng để đồng hóa, nô lệ
mình lại vừa không thể chối bỏ! Không thể không dùng nhưng rồi mỗi khi
dùng lại day dứt nỗi niềm cay đắng mặc cảm vay mượn!
Nay chúng ta phát hiện
ra sự thật: không hề có cái gọi là “Từ Hán Việt”! Đó chính là chữ Việt,
tiếng Việt được tổ tiên ta sáng tạo trong quá khứ. Việc khẳng định bản
quyền tiếng Việt cổ là khám phá có ý nghĩa đặc biệt, nó giúp ta tự tin,
làm chủ tài sản vô giá của dân tộc. Vấn đề hiện nay là tuyên truyền để
mọi người cùng hiểu. Công việc quan trọng khác là nghiên cứu sử dụng vốn
tài sản này, làm phong phú ngôn ngữ, góp phần xây dựng văn hóa dân tộc.
Cái to nhất ngăn trở ta
dám nhận lại tài sản vô giá này là thói nô lệ, thói tự kỷ ám thị nặng nề
khiến ta vô thức đẩy nhiều di sản quý báu của tổ tiên cho người ngoài
để rồi cúc cung làm chú học trò ngu ngơ, bị đè bẹp dưới cái bóng hoang
tưởng!
Một khi nhận ra chủ quyền, ta sẽ làm gì với tài sản vô giá này?
Nhiều người đã hiểu cơ
sự nên kiến nghị khôi phục việc học chữ Nho. Đấy là việc không thể không
làm. Trước hết vì giá trị lớn lao của chữ Nho. Tính triết lý sâu xa, ý
nghĩa thâm thúy của nó khác với bất cứ chữ viết nào, giúp người học rèn
trí thông minh, luyện tư duy… Chỉ điều này mới giúp chúng ta tiếp nối
với truyền thống, tránh được mối nguy mất gốc như học giả nước ngoài
cảnh báo mấy trăm năm trước. Đó là việc cần chủ trương và kế hoạch lớn.
Trước mắt, việc có thể làm ngay là, trong chương trình tiếng Việt phổ
thông, nên bổ sung một số tiết giảng tiếng Việt cổ,nhằm giải nghĩa những từ thường dùng để học sinh hiểu và sử dụng đúng, đồng thời tập cho họ cách tra Từ điển tiếng Việt.
Chúng tôi xin mạo muội
đề nghị, cần một cuộc cách mạng loại bỏ thuật ngữ “từ Hán Việt” khỏi
ngôn ngữ Việt để thay vào đó tên gọi đúng: tiếng Việt cổ! Đồng thời dùng lại thuật ngữ chữ Nho để gọi văn tự của tổ tiên mà xưa nay vẫn lầm tưởng là chữ nước ngoài.
Madrak, 1. 12. 2013
HVT
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Tài Cẩn – Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1979
2. Hà Văn Thùy. Hành trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học, 2008.
3. Đỗ Ngọc Thành. Nhannamphi.com
- 5. Lịch sử hình thành chữ viết Trung Hoa http://khoahocnet.com/2013/11/11/ha-van-thuy-lich-su-hinh-thanh-chu-viet-trung-hoa/
6. Hậu Hán thư- Mã Viện truyện
- 7. Hà Văn Thùy – Nỗi bất an của lịch sử http://trannhuong.com/tin-tuc-15551/noi-bat-an-cua-lich-su.vhtm