Văn Học & Nghệ Thuật
"Các chữ Hán Việt thường dùng sai" - by Lê Vĩnh Húy / Trần Văn Giang (ghi lại)

Lời giới thiệu
“Tiên sinh Lê Vĩnh Húy có lẽ đã cảm thấy chướng tai gai mắt về những “thằng ngu” ưa "xổ Nho" nên ông mới bỏ công dạy dỗ và vạch ra những sai lầm tức cười! Đọc xong, tôi cũng xin đề nghị là, mỗi khi đã có sẵn chữ Việt cùng nghĩa rồi thì hãy cố tránh xài chữ Nho; Vì như vậy coi chắc ăn hơn - Ít bị lòi cái ngu của minh ra!”
BXC
*
1. CHUNG – CHÚNG – CHỦNG
a) CHUNG CƯ hay CHÚNG CƯ?
“Chung cư” cũng là danh từ mới, dịch chữ “Apartment” trong Anh ngữ.
“Chung” đây là tiếng Việt, trái nghĩa với "riêng." “Cư” 居 là chữ Hán, nghĩa là “Ở.” Gán ghép vậy giống như cho gà trống “đạp” vịt mái, đặng kiếm ổ trứng ung.
Trong Hán Việt chỉ có Chung 終 là “hết,” hoặc “chết.” “Chung cư” vì vậy thành ra chỗ người chết ở, tức là… nghĩa trang. Hết biết!
“Apartment” là khu nhà dành cho nhiều gia đình ở, phân ra nhiều căn buồng. Tây dịch "Apartment" là “Pension,” Tàu kêu là “Công ngụ” 公寓. Chữ Công 公 nầy mới đúng nghĩa “Chung đụng” trong tiếng Việt.
Còn bên mình khi dịch, thì lấy chữ “Cư” chớ không lấy “Ngụ.” Đã vậy thì phải là “Chúng cư” 眾居 mới hợp nghĩa, vì Chúng là số đông (như “chúng sinh”).
b) HỢP CHỦNG QUỐC hay HỢP CHÚNG QUỐC?
“United States” nghĩa là “Liên hợp các tiểu bang,” dịch ra Hán Việt là “Hợp chúng quốc” 合衆國.
Nhưng nhiều người giỏi chữ quá, đã hiểu thành “Liên hợp các chủng tộc,” nên kêu là "Hợp chủng quốc" 合種國. Theo đó mà suy tiếp thì nước Việt có tới 54 sắc tộc, chắc phải kêu “Tạp chủng quốc?”
CÔNG XÚC TU SỈ 公觸羞
Do có chữ “Tu sỉ,” nên dễ lộn với “Tu sĩ” (giới tăng lữ), từ đó hiểu lầm là “xúc phạm các thầy tu.”
Thiệt ra, “Công” là "Công khai, Công cộng;" “Xúc” là "Túc phạm;" “Tu” là "mắc cỡ;" “Sỉ” là "nhục nhã." “Công xúc tu sỉ” vì vậy là ngang nhiên có ngôn ngữ, hành vi vô liêm sỉ, làm người khác mắc cỡ ở nơi công cộng. Nói chung là "hành vi vi phạm thuần phong mỹ tục." Thí dụ: Cởi truồng chạy nhong nhong ra đường, theo luật Việt Nam hiện hành thì bị phạt hành chính, còn thời Pháp thuộc là can tội “Công xúc tu sỉ.” Tội danh này, các nước xài Hán ngữ kêu là tội “Phi lễ” (vô lễ, bất kính với người xung quanh).
3. CỨU CÁNH 究竟
“Cứu” đây là "chỗ tận cùng." “Cánh” là "sau hết, xong xuôi." Cứu cánh vì vậy nghĩa là "kết quả, rốt cuộc, sau cùng." Người mình hay nói: “Cứu cánh biện minh cho phương tiện,” tức là sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, miễn sao đạt được mục đích cuối cùng là được.
Nhưng vì có chữ “Cứu,” khiến nhiều người liên tưởng với Cấp cứu, Cứu tinh, dẫn tới chỗ cho Cứu cánh là “yếu tố cứu giúp cuối cùng trong cơn nguy cấp.” Nhờ vậy tụi bình luận viên được dịp nói xàm, kiểu “Cặp giò của Ronaldo là cứu cánh cho đội tuyển Bồ Đào Nha.”
4. DA LIỄU
Danh từ nầy cũng kiểu gán ghép tùy tiện. “Da” là tiếng Việt, ghép với "Liễu" là Hán Việt.
Thiệt ra đây vốn là "Hoa liễu" 花柳. Danh từ Hán Việt nầy, lúc đầu là rút gọn thành ngữ “Tầm hoa vấn liễu” (Tìm hoa hỏi liễu), cách nói bóng bẩy vụ chui vô ổ điếm. Từ đó Hoa liễu dùng để chỉ các thứ bịnh lậu, bịnh phong tình.
Sau 1975, chữ “Hoa liễu” bị phối giống thoái hóa, thành “Da liễu.”
5. ĐA PHẦN
Danh từ “Đa phần” được hiểu là “phần lớn.” Trong đó “Đa” (Nhiều) là chữ Hán, lại được ghép với “Phần” là tiếng Việt. Kiểu nửa quê nửa tỉnh nầy đúng là xài tiếng “Hán bồi.”
Tiếng Việt mình vốn đã sẵn chữ “Phần lớn,” “Phần đông,” “Phần nhiều,” sao không lựa đó mà xài cho dễ hiểu? Như muốn "xổ Nho" sang miệng, thì phải là “Đa số,” hoặc “Đại bộ phận.” Còn thích lươn lẹo lẽo lự thì cứ hô “Một bộ phận không nhỏ.”
6. ĐẢM BẢO 擔保
"Đảm" là "gánh vác;" "Bảo" là "giữ gìn." Ghép lại thành ra nghĩa là "sẽ không để xảy ra trục trặc gì đó."
Thiệt ra nói “Đảm bảo” không sai. Có điều, người xưa khi mượn chữ Hán, đã đảo lộn trật tự các thành tố của từ cho phù hợp văn phạm Việt ngữ. Thí dụ: “Lệ Ngoại” 例外 đảo lộn thành “Ngoại lệ,” "Cao độ" 高度 thành “Độ cao,” "Trọng tải" 重載 thành “Tải trọng” v..v…
Ngoài ra, ở đây chữ “Bảo,” cùng chung một mạch với Bảo vệ, Bảo lãnh, Bảo chứng, Bảo an… Nên “Đảm bảo” theo đó cũng được ông bà mình đảo thành “Bảo đảm.”
Kịp tới khi đám Việt cộng qua Tàu học chữ, lại rước về nguyên xi hai chữ “Đảm bảo.”
7. GIẢ THIẾT – GIẢ THUYẾT
a). GIẢ THIẾT 假設: Là một "dữ kiện coi như có thiệt," được chấp nhận trước là đúng, đặng làm chỗ dựa hầu chứng minh giống ôn gì đó. Thí dụ: “Nếu mai trời sập, thì đảng ta vẫn không chịu sụm.” “Nếu mai trời sập” là một Giả thiết.
b). GIẢ THUYẾT 假説: Có nghĩa ngược lại, chỉ là tạm giải thích một hiện tượng, sự việc nào đó chưa được chứng minh; tức là chỉ phỏng đoán. Thí dụ: “Do hồi đó anh Phúc trồng cả tỷ cây đa, nên giờ ảnh thành chú Cuội.” “Thành chú Cuội” là một Giả thuyết.
8. KHUẤT TẤT 屈膝
Động từ “Khuất tất,” vì gồm hai chữ liền vần, nên dễ lầm tưởng là chữ láy. Ngoài ra, do "Tất" đồng âm với “bít-tất” (tức “đôi vớ” trong Nam, ngoài Bắc có khi cũng kêu gọn là “Tất”), khiến có người hiểu là “che khuất đôi tất.” Vì vậy, “Khuất tất” dễ bị lầm, cho là đồng nghĩa với “ám muội.”
Nhưng đây là chữ Hán Việt.
“Khuất” là "co lại, hàng phục." Thí dụ, Mạnh tử có câu: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Giàu sang không buông thả, nghèo hèn không dời đổi chí hướng, uy quyền không thể khuất phục).
Còn “Tất” là đầu gối. Trong thể văn biền ngẫu có loại câu “Hạc tất” (Gối hạc), là câu văn chia làm ba đoạn, hai đoạn đầu với cuối dài hơi hơn, đoạn giữa ngắn, giống chỗ đầu gối con hạc. Có câu đối nôm cực kỳ sinh động, tả như vẽ cảnh thầy khóa thời xưa thi rớt:
"Ngỏng cổ cò trông bảng không tên, trời đất hỡi, văn chương xuống bể;
Lủi đầu cuốc về nhà gọi vợ, mẹ nó ơi, tiền gạo lên trời!"
Mấy chữ “trời đất hỡi,” “mẹ nó ơi” đó chính là chỗ Hạc tất.
“Khuất tất” vì vậy nghĩa đen là "hổng thấy đầu gối," tức động tác quỳ sụp xuống; nghĩa bóng chỉ "thái độ khuất nhục." Thí dụ, trong Hán thư (truyện Tư Mã Tương Như), có câu “Giao tý thụ sự, khuất tất thỉnh hòa” 交臂受事, 屈膝請和 (Giơ tay chịu khiến, quỳ gối xin hàng).
Không ít người vướng phải lối hiểu sai nghĩa, dùng “Khuất tất” với cái nghĩa "có điều gì ám muội, không minh bạch." Thí dụ: “Trong vụ nầy có điều khuất tất.” Ở đây, phải dùng “khuất lấp,” hoặc “mập mờ” mới đúng.
9. LANG BẠT KỲ HỒ 狼跋其胡
Thành ngữ này do có chữ “Lang,” khiến liên tưởng tới “lang thang,” rồi chữ “Bạt” lại khều thêm “phiêu bạc,” tới chữ “Hồ” dường như cũng dính dáng với “giang hồ.” Do đó, “Lang bạt kỳ hồ” thường được hiểu sai là "bềnh bồng vô định, rày đây mai đó." Thiệt ra nghĩa của nó hoàn toàn trái ngược: "Là tình trạng lúng túng kẹt xương khu, tiến thối đều không xong."
Vốn đây là chữ trong Kinh Thi (thiên Bân phong): “Lang bạt kỳ hồ, tải chí kỳ vĩ” 狼跋其胡, 载疐其尾 (Con sói già bước tới thì giẫm trúng yếm da trước cổ, lui lại thì đạp nhằm đuôi mình).
“Lang” là loài sói; “Bạt” là giẫm lên; “Hồ” là cái yếm da lòng thòng trước cổ loài thú.
Hầu hết tụi bốn chân đều có yếm da ở cổ. Yếm nầy dễ thấy nhứt ở mấy con bò già, đã "đách" có công dụng quái gì, lại lòng thòng vướng víu mắc ớn. Có điều, yếm da xệ tới vướng chơn không bước được thì là cách phóng đại, cốt để nhấn mạnh cái ý “bị vướng víu.”
Nên “Lang bạt kỳ hồ,” về ý nghĩa tương tợ thành ngữ “Như gà mắc tóc” bên ta.
Còn như muốn tả tình trạng trôi dạt bềnh bồng, nên dùng thành ngữ “trôi sông lạc chợ,” hoặc thích "xổ Nho" thì xài “Phiêu bạc giang hồ” cho nó xôm tụ!
10. SỞ HỮU 所有
“Sở hữu” là "những thứ thuộc về mình, của cải mình có được." Nói vậy có phần mù mờ. Thú vị là ở đây ngành luật đã giúp định nghĩa rõ ràng, cụ thể: “Quyền sở hữu phải gồm đủ ba quyền: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.”
“Sở hữu” là "những thứ của ta, tức là vật ngoài thân, không dính liền lủng lẳng bên mình." Nhiều nhà báo cách mạng bi giờ thích nói Nho, đã xài chữ “Sở hữu” vô tội vạ. Thí dụ: “Tiền đạo A sở hữu chân trái sút phạt điệu nghệ,” hoặc “Mỹ nhân B. sở hữu vòng eo 56cm mê hồn,” v..v... Cái chân hoặc vòng eo đó, đương sự không thể toàn quyền sử dụng, cầu thủ thượng thặng như Cristiano Ronaldo nhiều khi cũng sút phạt như hạch; còn vòng eo Ngọc Trinh, tuy tui chưa từng có dịp tận tay đo qua, nhưng ai cũng biết hổng phải lúc nào cổ cũng giữ được cỡ eo đó. Và Ronaldo nếu chặt chân đem bán, thì cái giò vàng kia cũng vô dụng, chẳng nên cơm cháo gì. Trường hợp đó mà xài chữ “Sở hữu” thì chỉ là đem khoe cái ngu của mình đặng cho chúng cười miễn phí.
11. TA THÁN 嗟嘆
“Ta” là thán từ, biểu thị "tiếng kêu xót thương." “Thán” là "thở dài, tiếng than." “Ta thán” nghĩa là "tiếng kêu ca, than khóc." Thí dụ: “Lòng dân ta thán.”
Còn “Ca thán” chắc là vừa ca hát vừa than khóc, chuyện thường thấy trong đám ma buổi tân thời. Người thích xài chữ “Ca thán” nếu không phải dòng dõi "Hít-le," ắt cũng con cháu "Phùng Há."
12. THỤC MẠNG
“Thục” là “chuộc.” "Thục mạng" 贖命 là "chuộc mạng," tức đem tiền tài, phẩm vật ra nộp nhằm chuộc mạng sống, hoặc để miễn tù tội.
Không hiểu sao, gần đây người ta lại hiểu “Thục mạng” là liều mạng, bạt mạng cô hồn. Thành thử thỉnh thoảng đọc báo lại thấy có “chạy thục mạng,” “đánh nhau thục mạng.” Không phải cứ xài Hán Việt mới tỏ ra học xa hiểu rộng. Ở đây phải là “chạy trối chết,” “uýnh nhau trối chết” mới đúng.
Xài đúng chữ thì cho dù câu văn chất phác nhưng sinh động, còn hơn dùng Hán Việt màu mè mà xàm xí mứng.
13. TRIỀU CƯỜNG
“Triều cường” cũng là tiếng tân thời, để chỉ mực nước sông hoặc nước biển dâng cao bất thường trong khoảng thời gian nhất định. Nhiều người cho đây là do tiếng Hán Việt “Cường triều” 強潮 đảo lại mà thành.
Ngặt nỗi tiếng Tàu hề không có chữ “Cường triều.” Để chỉ mực nước dâng cao, tụi Tàu nói “Trướng triều” 漲潮, là “con nước dâng đầy.”
Nói về mực thủy triều, người mình thiếu cha gì chữ diễn tả: Nước lớn, Nước đứng, Nước ròng, Nước lớn đầy… Như nước lớn quá cỡ, thì là “Nước rong,” mắc mớ gì kêu “Triều cường” vậy bây?
14. XÁN LẠN 燦爛
“Xán” và “Lạn” đều nghĩa là "tươi sáng." “Xán lạn” do vậy diễn tả "thứ gì đó sáng chói, đẹp đẽ." Thí dụ: “Tiền đồ xán lạn.”
Nhiều người lại hiểu đây là chữ láy trong tiếng Việt, nên viết thành “Sáng lạng.” Dám hỏi: "Hồi sáng các hạ ra đường lạng lách cho đã, giờ kịp vô nhà thương chưa?"
15. YẾU ĐIỂM 要點
Chữ nầy dễ bị hiểu thành “Điểm yếu,” tức là "nhược điểm."
Nhưng “Yếu” là “quan trọng, cần thiết.” Như Thiết yếu, Trọng yếu, Yếu nhơn (nhơn vật quan trọng)… Nên “Yếu điểm” là chỗ quan trọng, không phải chỗ yếu kém.
Lê Vĩnh Húy
Trần Văn Giang (ghi lại)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- 14 BÀI THƠ ĐỘC VẬN 7 CHỮ - Đặng Xuân Xuyến
- Sài Gòn niềm nhớ không nguôi - Nguyễn Duy Phước
- Xuân Tóc Quăn" - by Sơn Trung / Trần Văn Giang (ghi lại).
- Tết , kể chuyện “ Ma” trong “ Văn Thi Sĩ Tiền Chiến” của Nguyễn Vỹ - Trần Thế Kỷ
- "Mười Cái Chết Oan Khiên Của Văn Nghệ Sĩ Miền Nam" - by Phạm Văn Duyệt / Trần Văn Giang (ghi lại).
"Các chữ Hán Việt thường dùng sai" - by Lê Vĩnh Húy / Trần Văn Giang (ghi lại)

Lời giới thiệu
“Tiên sinh Lê Vĩnh Húy có lẽ đã cảm thấy chướng tai gai mắt về những “thằng ngu” ưa "xổ Nho" nên ông mới bỏ công dạy dỗ và vạch ra những sai lầm tức cười! Đọc xong, tôi cũng xin đề nghị là, mỗi khi đã có sẵn chữ Việt cùng nghĩa rồi thì hãy cố tránh xài chữ Nho; Vì như vậy coi chắc ăn hơn - Ít bị lòi cái ngu của minh ra!”
BXC
*
1. CHUNG – CHÚNG – CHỦNG
a) CHUNG CƯ hay CHÚNG CƯ?
“Chung cư” cũng là danh từ mới, dịch chữ “Apartment” trong Anh ngữ.
“Chung” đây là tiếng Việt, trái nghĩa với "riêng." “Cư” 居 là chữ Hán, nghĩa là “Ở.” Gán ghép vậy giống như cho gà trống “đạp” vịt mái, đặng kiếm ổ trứng ung.
Trong Hán Việt chỉ có Chung 終 là “hết,” hoặc “chết.” “Chung cư” vì vậy thành ra chỗ người chết ở, tức là… nghĩa trang. Hết biết!
“Apartment” là khu nhà dành cho nhiều gia đình ở, phân ra nhiều căn buồng. Tây dịch "Apartment" là “Pension,” Tàu kêu là “Công ngụ” 公寓. Chữ Công 公 nầy mới đúng nghĩa “Chung đụng” trong tiếng Việt.
Còn bên mình khi dịch, thì lấy chữ “Cư” chớ không lấy “Ngụ.” Đã vậy thì phải là “Chúng cư” 眾居 mới hợp nghĩa, vì Chúng là số đông (như “chúng sinh”).
b) HỢP CHỦNG QUỐC hay HỢP CHÚNG QUỐC?
“United States” nghĩa là “Liên hợp các tiểu bang,” dịch ra Hán Việt là “Hợp chúng quốc” 合衆國.
Nhưng nhiều người giỏi chữ quá, đã hiểu thành “Liên hợp các chủng tộc,” nên kêu là "Hợp chủng quốc" 合種國. Theo đó mà suy tiếp thì nước Việt có tới 54 sắc tộc, chắc phải kêu “Tạp chủng quốc?”
CÔNG XÚC TU SỈ 公觸羞
Do có chữ “Tu sỉ,” nên dễ lộn với “Tu sĩ” (giới tăng lữ), từ đó hiểu lầm là “xúc phạm các thầy tu.”
Thiệt ra, “Công” là "Công khai, Công cộng;" “Xúc” là "Túc phạm;" “Tu” là "mắc cỡ;" “Sỉ” là "nhục nhã." “Công xúc tu sỉ” vì vậy là ngang nhiên có ngôn ngữ, hành vi vô liêm sỉ, làm người khác mắc cỡ ở nơi công cộng. Nói chung là "hành vi vi phạm thuần phong mỹ tục." Thí dụ: Cởi truồng chạy nhong nhong ra đường, theo luật Việt Nam hiện hành thì bị phạt hành chính, còn thời Pháp thuộc là can tội “Công xúc tu sỉ.” Tội danh này, các nước xài Hán ngữ kêu là tội “Phi lễ” (vô lễ, bất kính với người xung quanh).
3. CỨU CÁNH 究竟
“Cứu” đây là "chỗ tận cùng." “Cánh” là "sau hết, xong xuôi." Cứu cánh vì vậy nghĩa là "kết quả, rốt cuộc, sau cùng." Người mình hay nói: “Cứu cánh biện minh cho phương tiện,” tức là sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, miễn sao đạt được mục đích cuối cùng là được.
Nhưng vì có chữ “Cứu,” khiến nhiều người liên tưởng với Cấp cứu, Cứu tinh, dẫn tới chỗ cho Cứu cánh là “yếu tố cứu giúp cuối cùng trong cơn nguy cấp.” Nhờ vậy tụi bình luận viên được dịp nói xàm, kiểu “Cặp giò của Ronaldo là cứu cánh cho đội tuyển Bồ Đào Nha.”
4. DA LIỄU
Danh từ nầy cũng kiểu gán ghép tùy tiện. “Da” là tiếng Việt, ghép với "Liễu" là Hán Việt.
Thiệt ra đây vốn là "Hoa liễu" 花柳. Danh từ Hán Việt nầy, lúc đầu là rút gọn thành ngữ “Tầm hoa vấn liễu” (Tìm hoa hỏi liễu), cách nói bóng bẩy vụ chui vô ổ điếm. Từ đó Hoa liễu dùng để chỉ các thứ bịnh lậu, bịnh phong tình.
Sau 1975, chữ “Hoa liễu” bị phối giống thoái hóa, thành “Da liễu.”
5. ĐA PHẦN
Danh từ “Đa phần” được hiểu là “phần lớn.” Trong đó “Đa” (Nhiều) là chữ Hán, lại được ghép với “Phần” là tiếng Việt. Kiểu nửa quê nửa tỉnh nầy đúng là xài tiếng “Hán bồi.”
Tiếng Việt mình vốn đã sẵn chữ “Phần lớn,” “Phần đông,” “Phần nhiều,” sao không lựa đó mà xài cho dễ hiểu? Như muốn "xổ Nho" sang miệng, thì phải là “Đa số,” hoặc “Đại bộ phận.” Còn thích lươn lẹo lẽo lự thì cứ hô “Một bộ phận không nhỏ.”
6. ĐẢM BẢO 擔保
"Đảm" là "gánh vác;" "Bảo" là "giữ gìn." Ghép lại thành ra nghĩa là "sẽ không để xảy ra trục trặc gì đó."
Thiệt ra nói “Đảm bảo” không sai. Có điều, người xưa khi mượn chữ Hán, đã đảo lộn trật tự các thành tố của từ cho phù hợp văn phạm Việt ngữ. Thí dụ: “Lệ Ngoại” 例外 đảo lộn thành “Ngoại lệ,” "Cao độ" 高度 thành “Độ cao,” "Trọng tải" 重載 thành “Tải trọng” v..v…
Ngoài ra, ở đây chữ “Bảo,” cùng chung một mạch với Bảo vệ, Bảo lãnh, Bảo chứng, Bảo an… Nên “Đảm bảo” theo đó cũng được ông bà mình đảo thành “Bảo đảm.”
Kịp tới khi đám Việt cộng qua Tàu học chữ, lại rước về nguyên xi hai chữ “Đảm bảo.”
7. GIẢ THIẾT – GIẢ THUYẾT
a). GIẢ THIẾT 假設: Là một "dữ kiện coi như có thiệt," được chấp nhận trước là đúng, đặng làm chỗ dựa hầu chứng minh giống ôn gì đó. Thí dụ: “Nếu mai trời sập, thì đảng ta vẫn không chịu sụm.” “Nếu mai trời sập” là một Giả thiết.
b). GIẢ THUYẾT 假説: Có nghĩa ngược lại, chỉ là tạm giải thích một hiện tượng, sự việc nào đó chưa được chứng minh; tức là chỉ phỏng đoán. Thí dụ: “Do hồi đó anh Phúc trồng cả tỷ cây đa, nên giờ ảnh thành chú Cuội.” “Thành chú Cuội” là một Giả thuyết.
8. KHUẤT TẤT 屈膝
Động từ “Khuất tất,” vì gồm hai chữ liền vần, nên dễ lầm tưởng là chữ láy. Ngoài ra, do "Tất" đồng âm với “bít-tất” (tức “đôi vớ” trong Nam, ngoài Bắc có khi cũng kêu gọn là “Tất”), khiến có người hiểu là “che khuất đôi tất.” Vì vậy, “Khuất tất” dễ bị lầm, cho là đồng nghĩa với “ám muội.”
Nhưng đây là chữ Hán Việt.
“Khuất” là "co lại, hàng phục." Thí dụ, Mạnh tử có câu: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (Giàu sang không buông thả, nghèo hèn không dời đổi chí hướng, uy quyền không thể khuất phục).
Còn “Tất” là đầu gối. Trong thể văn biền ngẫu có loại câu “Hạc tất” (Gối hạc), là câu văn chia làm ba đoạn, hai đoạn đầu với cuối dài hơi hơn, đoạn giữa ngắn, giống chỗ đầu gối con hạc. Có câu đối nôm cực kỳ sinh động, tả như vẽ cảnh thầy khóa thời xưa thi rớt:
"Ngỏng cổ cò trông bảng không tên, trời đất hỡi, văn chương xuống bể;
Lủi đầu cuốc về nhà gọi vợ, mẹ nó ơi, tiền gạo lên trời!"
Mấy chữ “trời đất hỡi,” “mẹ nó ơi” đó chính là chỗ Hạc tất.
“Khuất tất” vì vậy nghĩa đen là "hổng thấy đầu gối," tức động tác quỳ sụp xuống; nghĩa bóng chỉ "thái độ khuất nhục." Thí dụ, trong Hán thư (truyện Tư Mã Tương Như), có câu “Giao tý thụ sự, khuất tất thỉnh hòa” 交臂受事, 屈膝請和 (Giơ tay chịu khiến, quỳ gối xin hàng).
Không ít người vướng phải lối hiểu sai nghĩa, dùng “Khuất tất” với cái nghĩa "có điều gì ám muội, không minh bạch." Thí dụ: “Trong vụ nầy có điều khuất tất.” Ở đây, phải dùng “khuất lấp,” hoặc “mập mờ” mới đúng.
9. LANG BẠT KỲ HỒ 狼跋其胡
Thành ngữ này do có chữ “Lang,” khiến liên tưởng tới “lang thang,” rồi chữ “Bạt” lại khều thêm “phiêu bạc,” tới chữ “Hồ” dường như cũng dính dáng với “giang hồ.” Do đó, “Lang bạt kỳ hồ” thường được hiểu sai là "bềnh bồng vô định, rày đây mai đó." Thiệt ra nghĩa của nó hoàn toàn trái ngược: "Là tình trạng lúng túng kẹt xương khu, tiến thối đều không xong."
Vốn đây là chữ trong Kinh Thi (thiên Bân phong): “Lang bạt kỳ hồ, tải chí kỳ vĩ” 狼跋其胡, 载疐其尾 (Con sói già bước tới thì giẫm trúng yếm da trước cổ, lui lại thì đạp nhằm đuôi mình).
“Lang” là loài sói; “Bạt” là giẫm lên; “Hồ” là cái yếm da lòng thòng trước cổ loài thú.
Hầu hết tụi bốn chân đều có yếm da ở cổ. Yếm nầy dễ thấy nhứt ở mấy con bò già, đã "đách" có công dụng quái gì, lại lòng thòng vướng víu mắc ớn. Có điều, yếm da xệ tới vướng chơn không bước được thì là cách phóng đại, cốt để nhấn mạnh cái ý “bị vướng víu.”
Nên “Lang bạt kỳ hồ,” về ý nghĩa tương tợ thành ngữ “Như gà mắc tóc” bên ta.
Còn như muốn tả tình trạng trôi dạt bềnh bồng, nên dùng thành ngữ “trôi sông lạc chợ,” hoặc thích "xổ Nho" thì xài “Phiêu bạc giang hồ” cho nó xôm tụ!
10. SỞ HỮU 所有
“Sở hữu” là "những thứ thuộc về mình, của cải mình có được." Nói vậy có phần mù mờ. Thú vị là ở đây ngành luật đã giúp định nghĩa rõ ràng, cụ thể: “Quyền sở hữu phải gồm đủ ba quyền: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt.”
“Sở hữu” là "những thứ của ta, tức là vật ngoài thân, không dính liền lủng lẳng bên mình." Nhiều nhà báo cách mạng bi giờ thích nói Nho, đã xài chữ “Sở hữu” vô tội vạ. Thí dụ: “Tiền đạo A sở hữu chân trái sút phạt điệu nghệ,” hoặc “Mỹ nhân B. sở hữu vòng eo 56cm mê hồn,” v..v... Cái chân hoặc vòng eo đó, đương sự không thể toàn quyền sử dụng, cầu thủ thượng thặng như Cristiano Ronaldo nhiều khi cũng sút phạt như hạch; còn vòng eo Ngọc Trinh, tuy tui chưa từng có dịp tận tay đo qua, nhưng ai cũng biết hổng phải lúc nào cổ cũng giữ được cỡ eo đó. Và Ronaldo nếu chặt chân đem bán, thì cái giò vàng kia cũng vô dụng, chẳng nên cơm cháo gì. Trường hợp đó mà xài chữ “Sở hữu” thì chỉ là đem khoe cái ngu của mình đặng cho chúng cười miễn phí.
11. TA THÁN 嗟嘆
“Ta” là thán từ, biểu thị "tiếng kêu xót thương." “Thán” là "thở dài, tiếng than." “Ta thán” nghĩa là "tiếng kêu ca, than khóc." Thí dụ: “Lòng dân ta thán.”
Còn “Ca thán” chắc là vừa ca hát vừa than khóc, chuyện thường thấy trong đám ma buổi tân thời. Người thích xài chữ “Ca thán” nếu không phải dòng dõi "Hít-le," ắt cũng con cháu "Phùng Há."
12. THỤC MẠNG
“Thục” là “chuộc.” "Thục mạng" 贖命 là "chuộc mạng," tức đem tiền tài, phẩm vật ra nộp nhằm chuộc mạng sống, hoặc để miễn tù tội.
Không hiểu sao, gần đây người ta lại hiểu “Thục mạng” là liều mạng, bạt mạng cô hồn. Thành thử thỉnh thoảng đọc báo lại thấy có “chạy thục mạng,” “đánh nhau thục mạng.” Không phải cứ xài Hán Việt mới tỏ ra học xa hiểu rộng. Ở đây phải là “chạy trối chết,” “uýnh nhau trối chết” mới đúng.
Xài đúng chữ thì cho dù câu văn chất phác nhưng sinh động, còn hơn dùng Hán Việt màu mè mà xàm xí mứng.
13. TRIỀU CƯỜNG
“Triều cường” cũng là tiếng tân thời, để chỉ mực nước sông hoặc nước biển dâng cao bất thường trong khoảng thời gian nhất định. Nhiều người cho đây là do tiếng Hán Việt “Cường triều” 強潮 đảo lại mà thành.
Ngặt nỗi tiếng Tàu hề không có chữ “Cường triều.” Để chỉ mực nước dâng cao, tụi Tàu nói “Trướng triều” 漲潮, là “con nước dâng đầy.”
Nói về mực thủy triều, người mình thiếu cha gì chữ diễn tả: Nước lớn, Nước đứng, Nước ròng, Nước lớn đầy… Như nước lớn quá cỡ, thì là “Nước rong,” mắc mớ gì kêu “Triều cường” vậy bây?
14. XÁN LẠN 燦爛
“Xán” và “Lạn” đều nghĩa là "tươi sáng." “Xán lạn” do vậy diễn tả "thứ gì đó sáng chói, đẹp đẽ." Thí dụ: “Tiền đồ xán lạn.”
Nhiều người lại hiểu đây là chữ láy trong tiếng Việt, nên viết thành “Sáng lạng.” Dám hỏi: "Hồi sáng các hạ ra đường lạng lách cho đã, giờ kịp vô nhà thương chưa?"
15. YẾU ĐIỂM 要點
Chữ nầy dễ bị hiểu thành “Điểm yếu,” tức là "nhược điểm."
Nhưng “Yếu” là “quan trọng, cần thiết.” Như Thiết yếu, Trọng yếu, Yếu nhơn (nhơn vật quan trọng)… Nên “Yếu điểm” là chỗ quan trọng, không phải chỗ yếu kém.
Lê Vĩnh Húy
Trần Văn Giang (ghi lại)

639005213363026050.jpg)





639005213363026050.jpg)









