Kinh Khổ
Làm sao để biết đâu là một nhà nước yếu? *
Một chuyến bay từ Manila đến Singapore sẽ đưa bạn từ một trong những sân bay tồi tệ nhất đến một trong những sân bay tốt nhất trên thế giới. Nó cũng sẽ đưa bạn
Dịch từ: John West, Asia’s Weak and Fragile States, Asian Century Institute.
Vi Yên
(Luật Khoa)
Một chuyến bay từ Manila đến Singapore sẽ đưa bạn từ một trong những
sân bay tồi tệ nhất đến một trong những sân bay tốt nhất trên thế giới.
Nó cũng sẽ đưa bạn từ một trong những nhà nước yếu kém và dễ sụp đổ sang
một trong những nhà nước mạnh của châu Á.
Cho tới gần đây, sân bay Ninoy Aquino của Manila mới nhường cái danh
hiệu “sân bay tồi tệ nhất thế giới” cho sân bay quốc tế Islamabad
Benazir Bhutto của Pakistan, theo trang The Guide to Sleeping in
Airports. Năm 2014, sân bay Manila đã leo lên hạng thứ tư trong những
sân bay tồi tệ nhất thế giới nhờ việc mở thêm sân ga thứ ba.
Ngược lại, sân bay quốc tế Changi của Singapore đã được bình chọn là sân
bay tốt nhất thế giới trong 18 năm liên tiếp. Trên thực tế, trong số
các sân bay tốt nhất thế giới, có năm sân bay nằm ở Châu Á, ngoài
Singapore thì bốn sân bay còn lại là Seoul, Kuala Lumpur, Hồng Kông và
Tokyo (sân bay Haneda).
Những đánh giá xếp hạng của độc giả trên trang “The Guide to Sleeping in
Airports” có thể không phải là bằng chứng khoa học về chất lượng của
sân bay hay là về sức mạnh của các nhà nước ở châu Á. Nhưng chắc chắn là
chúng phù hợp với các chỉ số khách quan khác.
Yếu tố quyết định quan trọng nhất của sự thành công ở Châu Á là sự hiện
diện của “các nhà nước mạnh” trong các nền kinh tế như Nhật Bản, Hồng
Kông, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan. Theo Chỉ số các nhà nước dễ sụp
đổ của Quỹ Hòa bình, thì Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc đều đạt điểm số
cao (Hồng Kông và Đài Loan không được xét tới ở đây). Ba quốc gia này
được xếp vào nhóm “rất ổn định” cùng với các nước phát triển như Mỹ,
Đức, Pháp và Anh.
Phải lần xuống phía dưới danh sách mới có thể tìm ra các nước châu Á
khác. Có thể thấy Malaysia nằm trong nhóm “cảnh báo”, thấp hơn Hàn Quốc
khoảng 39 bậc trong danh sách gồm 178 quốc gia này. Tiếp tục xuống tới
nhóm “cảnh báo cao độ” là Việt Nam, Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan và Trung
Quốc. Và thậm chí xuống thấp hơn nữa tới nhóm “cảnh báo rất cao” là Lào,
Philippines và Campuchia. Xuống gần cuối danh sách là nhóm “báo động”
gồm các quốc gia như Nepal, Sri Lanka, Bangladesh, Bắc Triều Tiên và
Myanmar.
Vậy, làm thế nào mà chúng ta có thể biết được liệu một nhà nước có yếu và dễ sụp đổ?
Một nhà nước yếu có thể thể hiện sự kém cỏi ở nhiều khía cạnh. Đáng chú ý
nhất là khi nó không có khả năng cung cấp dịch vụ công cho người dân.
Chất lượng của các dịch vụ công cơ bản như nước sạch, vệ sinh, y tế,
giáo dục và các phương tiện giao thông là những thứ rất kinh hoàng tại
các nhà nước yếu và dễ sụp đổ ở châu Á. Điều này có thể là do các nhà
nước này không có khả năng thu đủ thuế để cung cấp tài chính cho các
dịch vụ công, bởi các tầng lớp chóp bu bòn rút hệ thống thuế một cách có
hệ thống, nhất là ở Philippines.
![]() |
Tắc đường là căn bệnh trầm kha chưa biết khi nào mới có thuốc chữa của Philippines. Ảnh: PBS. |
Nỗi bất an cũng là một đặc điểm của các xã hội yếu, nó thường là sản
phẩm của sự nghèo đói, bất bình đẳng và cái cảm giác bất công xã hội.
Nạn tham nhũng và lực lượng cảnh sát kém cỏi cũng góp phần vào nỗi bất
an ấy.
Một đặc điểm nữa của các nhà nước yếu là, chúng thường bị mất kiểm soát
đối với lãnh thổ của chúng, hoặc đối với sự độc quyền sử dụng vũ lực một
cách hợp pháp. Nhiều quốc gia châu Á như Myanmar và Ấn Độ không thể
khẳng định chủ quyền trên phần lớn lãnh thổ của họ, do các nhóm sắc tộc
thiểu số vẫn nắm giữ quyền lực, hoặc do giới chóp bu địa phương thường
sở hữu quân đội riêng. Giới chóp bu đầy quyền lực này cũng có thể ép
buộc các chính phủ yếu kém phải thực hiện các chính sách thiên vị cho
lợi ích của họ, như là bảo vệ sự độc quyền. Các cuộc bầu cử cũng có thể
bị lạm dụng một cách sai trái, do sự chi phối của các nhóm gia đình
chính trị, việc mua bán phiếu bầu, và những mánh khóe chính trị khác.
Rõ ràng là những đặc điểm này của các nhà nước yếu đã làm xói mòn những triển vọng phát triển kinh tế và xã hội.
Trường hợp của Philippines đã đưa ra một góc nhìn thú vị về tình trạng
của nhà nước ở châu Á. Quần đảo gồm 7107 hòn đảo này được coi là có một
nhà nước yếu và một xã hội mạnh. Có tác giả đã gọi đây là “tình trạng vô
chính phủ giữa các gia đình”.
Thật vậy, cho đến khi thực dân Tây Ban Nha xâm lược Philippines vào thế
kỷ 16, ở vùng đảo này dường như không có lấy một nhà nước. Ngoài một số
ông vua Hồi giáo ở miền Nam, thì các xã hội tiền thuộc địa đã bị chia
cắt thành những ngôi làng tự trị hoặc bị giao do các tầng lớp chóp bu
địa phương cai quản. Nói cách khác, Philippines không tồn tại như một
quốc gia cho đến khi các thủy thủ Tây Ban Nha lui tới đảo quốc này vào
thời vua Philip II. Thậm chí ngày nay, dường như nhiều người Philippines
vẫn gắn bó với bản sắc địa phương của họ hơn là với bản sắc quốc gia.
Trong thời kỳ thuộc địa, người Tây Ban Nha đã không thành lập một nhà
nước mạnh. Ngoài Manila ra thì vùng thuộc địa này chủ yếu do Giáo hội
Công giáo và giới kinh doanh tư nhân quản lý. Cuối thời kỳ Tây Ban Nha
cai trị ở cuối thế kỷ 19, khi những người thuộc địa kết hôn với giới cai
trị thực dân (“mestizos”), và khi những người Trung Quốc di cư đến
Philippines, thì họ hình thành nên một tầng lớp chóp bu địa phương. Tầng
lớp này tiếp tục củng cố vị thế quyền lực kinh tế và chính trị của
chính nó trong thời kỳ thuộc địa của Mỹ ở nửa đầu của thế kỷ 20.
Giới chóp bu của Philippines (ước tính gồm khoảng 178 gia đình) đã duy
trì sự kiểm soát đối với nền kinh tế và chính trị của đất nước thông qua
các giai đoạn cai trị quân sự lẫn dân chủ, và kết quả là nhà nước
Philippines vẫn yếu và dễ sụp đổ.
Một số gia đình thuộc giới chóp bu như Ayala và Aboitiz đã thống trị kể
từ thời kỳ thuộc địa Tây Ban Nha. Lợi nhuận kinh doanh của họ thu được
từ những dịch vụ công cho tới phát triển nhà cửa, từ ngân hàng cho tới
viễn thông và các ngành công nghiệp gia công đang bùng nổ. Địa vị thống
trị của các gia đình chóp bu này thường chẳng phải là nhờ vào sự nhạy
bén tuyệt vời trong kinh doanh, mà chủ yếu là do chính phủ sắp đặt nhằm
mang lại sự độc quyền và bảo hộ cho những người chơi chính. Mặc dù đã có
những cải cách rộng khắp từ năm 1981, nhưng phần lớn thị trường vẫn bị
độc quyền.
Tình trạng yếu kém của đất nước thể hiện rõ ràng nhất ở cơ sở hạ tầng
hết sức nghèo nàn về vận tải và năng lượng, cũng như ở các hệ thống y
tế, giáo dục, vệ sinh, và nguồn nước cũng nghèo nàn không kém. Chính
quyền Philippines cũng bị cho là kém cỏi trong việc thực thi những điều
luật và các quy định có thể mâu thuẫn với lợi ích của giới đầu sỏ (như
đánh thuế, lâm nghiệp, cải cách ruộng đất). Tình trạng này còn được thể
hiện qua những cuộc nổi dậy dai dẳng của người Hồi giáo và cộng sản, các
vụ bắt cóc và các hành vi bạo lực khác, cũng như tình trạng tham nhũng
ăn sâu.
Sự yếu kém của nhà nước Philippines cũng hiện rõ trong cái cách mà nó xử
lý trước trận siêu bão Yolanda vào năm 2013. Chính phủ đã không thể
quản lý các hoạt động cứu trợ thiên tai một cách hiệu quả.
Sau nhiều thập kỷ mang danh “người bệnh” của châu Á, nền kinh tế
Philippines hiện đang bùng nổ, được thúc đẩy bởi các hoạt động xây dựng
và tiêu dùng. Nhưng dấu vết của một nhà nước yếu vẫn còn rất rõ ràng.
Do cơ sở hạ tầng đô thị không theo kịp với tốc độ đầu tư bất động sản
nên tình trạng tắc nghẽn giao thông ngày một tồi tệ hơn. Mặc dù đã mở
một nhà ga mới, song sân bay Manila vẫn còn đông đúc, hỗn loạn. Tình
trạng tắc nghẽn giờ đây đã lan sang các cảng biển Manila, do trình độ
kém cỏi của cơ quan hải quan và tham nhũng nghiêm trọng. Vào thời điểm
bài này được viết, một số tàu thuyền [nước ngoài – ND] đã hết kiên nhẫn
và quay trở về cảng nước họ với hàng hóa vẫn chất đầy tàu.
Hơn nữa, mức tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ ở Philippines không theo lý
thuyết khuếch tán lợi ích, với tỷ lệ đói nghèo vẫn ở mức gần 30% dân số.
Cielito Habito, cựu Bộ trưởng Kế hoạch Kinh tế, đã ước tính rằng lượng
tài sản gia tăng trong năm 2011 của 40 gia đình giàu nhất Philippines
trong danh sách người giàu của Forbes chiếm tới 76% mức tăng trưởng GDP
của cả nước, cao hơn rất nhiều so với ở Thái Lan, Malaysia, hay Nhật
Bản.
Nói cách khác, tầng lớp tinh hoa nhỏ bé của Philippines đang cóp nhặt
phần lớn nguồn tài sản mới của đất nước, trong khi người nghèo bị đẩy ra
ngoài. “Tôi nghĩ người ta đang cảm thấy một điều rất rõ ràng là, có cái
gì đó không đúng về mặt cấu trúc. Giới đầu sỏ đã kiểm soát quá nhiều
tài nguyên của đất nước”, Habito nói.
Con đường dẫn tới sự giàu có cho nhóm nhỏ này cũng được thúc đẩy bởi một
nền văn hoá chính trị chủ yếu dựa trên quan hệ cá nhân hơn bất cứ yếu
tố nào khác, Habito nói thêm.
![]() |
Một hình ảnh khắc họa tình trạng bất bình đẳng ở Manila, Philippines. Ảnh: Oxfam. |
Rốt cuộc, người dân Philippines đã bị thúc đẩy hơn bao giờ hết để rời bỏ
đất nước của họ và gia nhập đội ngũ đồng hương ở hầu hết mọi quốc gia
trên thế giới. Hơn 10% dân số và hơn 20% số người trong độ tuổi lao
động, đã rời khỏi đất nước.
Đã có nhiều lời kêu gọi cho một nhà nước mạnh mẽ hơn và có kỷ luật hơn
tại Philippines, trong đó có cả lời kêu gọi đến từ Lý Quang Diệu của
Singapore. Nhưng cựu Tổng thống Philippines Ramos đã nhanh chóng nhắc
lại cái “nỗi bất hạnh độc tài” của Philippines dưới thời Tổng thống
Marcos.
Thật vậy, Philippines đã từng có một chính phủ mạnh hơn nhưng lại tham
nhũng nghiêm trọng thời Marcos. Quá khứ này đã làm tan biến triển vọng
về một nhà nước mạnh có khả năng cung cấp các dịch vụ và an ninh mà nền
kinh tế và người dân Philippines đang rất cần và xứng đáng được hưởng.
Ấn Độ là một ví dụ khác cho hình ảnh một nhà nước yếu và một xã hội
mạnh. Những cải cách kinh tế được đưa ra vào năm 1991 đã dẫn tới sự bùng
nổ tăng trưởng. Nhưng trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của
Ấn Độ đã chậm lại khi nền kinh tế chạm đến những giới hạn của một nhà
nước yếu, cụ thể là cơ sở hạ tầng nghèo nàn, thói quan liêu của bộ máy
và tham nhũng tràn lan. Người ta chỉ có thể hy vọng rằng chính quyền của
Thủ tướng Narendra Modi có thể thành công trong việc củng cố nhà nước
Ấn Độ.
![]() |
Tàu lửa ở Ấn Độ thường xuyên chịu cảnh quá tải hành khách, ảnh được chụp vào năm 2016. Ảnh: Reuters/Anindito Mukherjee. |
Nhiều người rất ấn tượng với sức mạnh của nhà nước Trung Quốc, khi mà nó
có thể xây dựng những cơ sở hạ tầng xuất sắc như sân bay và tàu cao
tốc. Nhưng nhà nước mạnh của Trung Quốc cũng lạm dụng quyền lực của mình
thông qua việc ưu đãi lợi ích cho các đảng viên Cộng sản, vi phạm nhân
quyền, đàn áp bất cứ ai có dấu hiệu bất đồng chính kiến về xã hội và
chính trị, và hạn chế các quyền tự do cá nhân.
Bất kể tầm quan trọng của việc sở hữu một nhà nước mạnh lớn đến đâu, thì
cũng có những rủi ro khi nhà nước ấy trở nên quá mạnh, theo nhận định
của Giáo sư Daron Acemoglu. Thuế và các hệ thống phúc lợi xã hội rất cao
ở Tây Âu có thể ảnh hưởng đến tính năng động của nền kinh tế. Và trong
khi một nhà nước mạnh có thể thúc đẩy phát triển thì nó cũng có thể bị
kiểm soát bởi các tầng lớp tinh hoa mới nổi lên từ sự phát triển nhanh
chóng, như trường hợp của Hong Kong, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong trường hợp của Nhật Bản, khi mà
nó từng là một nền kinh tế năng động song đã nhanh chóng trở nên xơ
cứng. Các nền kinh tế và xã hội mở, với sự phá hủy mang tính sáng tạo và
đổi mới không ngừng, mới là chìa khóa cho sự thịnh vượng liên tục.
Tóm lại, điều quan trọng nhất là phải làm cho sức mạnh và vai trò của
nhà nước được sử dụng “đúng”. Trong giai đoạn phát triển ban đầu, một
nhà nước mạnh thường có tầm quan trọng nhiều hơn so với khi quốc gia đạt
đến giai đoạn phát triển cao và chủ yếu dựa vào đổi mới kinh doanh để
thúc đẩy tăng trưởng. Và quan trọng nhất, một nhà nước mạnh nên luôn
luôn được cân bằng bởi một xã hội mạnh để đảm bảo trách nhiệm giải trình
và sự minh bạch của nhà nước.
Vi Yên
(Luật Khoa)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Vài Chuyện Buồn 30 Tháng 4" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Sinh Nhật Buồn" - by Khuất Đẩu / Trần Văn Giang (ghi lại).
- Sự thật về “Nước mắm Việt Hương” của Tàu (?) - by Kỳ Đỗ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Người Mỹ và người Việt khác nhau ở chỗ này !" - by Nguyễn Đắc Phúc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Lịch sử và hoài nghi _ Trần Thế Kỷ
Làm sao để biết đâu là một nhà nước yếu? *
Một chuyến bay từ Manila đến Singapore sẽ đưa bạn từ một trong những sân bay tồi tệ nhất đến một trong những sân bay tốt nhất trên thế giới. Nó cũng sẽ đưa bạn
Một chuyến bay từ Manila đến Singapore sẽ đưa bạn từ một trong những
sân bay tồi tệ nhất đến một trong những sân bay tốt nhất trên thế giới.
Nó cũng sẽ đưa bạn từ một trong những nhà nước yếu kém và dễ sụp đổ sang
một trong những nhà nước mạnh của châu Á.
Cho tới gần đây, sân bay Ninoy Aquino của Manila mới nhường cái danh
hiệu “sân bay tồi tệ nhất thế giới” cho sân bay quốc tế Islamabad
Benazir Bhutto của Pakistan, theo trang The Guide to Sleeping in
Airports. Năm 2014, sân bay Manila đã leo lên hạng thứ tư trong những
sân bay tồi tệ nhất thế giới nhờ việc mở thêm sân ga thứ ba.
Ngược lại, sân bay quốc tế Changi của Singapore đã được bình chọn là sân
bay tốt nhất thế giới trong 18 năm liên tiếp. Trên thực tế, trong số
các sân bay tốt nhất thế giới, có năm sân bay nằm ở Châu Á, ngoài
Singapore thì bốn sân bay còn lại là Seoul, Kuala Lumpur, Hồng Kông và
Tokyo (sân bay Haneda).
Những đánh giá xếp hạng của độc giả trên trang “The Guide to Sleeping in
Airports” có thể không phải là bằng chứng khoa học về chất lượng của
sân bay hay là về sức mạnh của các nhà nước ở châu Á. Nhưng chắc chắn là
chúng phù hợp với các chỉ số khách quan khác.
Yếu tố quyết định quan trọng nhất của sự thành công ở Châu Á là sự hiện
diện của “các nhà nước mạnh” trong các nền kinh tế như Nhật Bản, Hồng
Kông, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan. Theo Chỉ số các nhà nước dễ sụp
đổ của Quỹ Hòa bình, thì Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc đều đạt điểm số
cao (Hồng Kông và Đài Loan không được xét tới ở đây). Ba quốc gia này
được xếp vào nhóm “rất ổn định” cùng với các nước phát triển như Mỹ,
Đức, Pháp và Anh.
Phải lần xuống phía dưới danh sách mới có thể tìm ra các nước châu Á
khác. Có thể thấy Malaysia nằm trong nhóm “cảnh báo”, thấp hơn Hàn Quốc
khoảng 39 bậc trong danh sách gồm 178 quốc gia này. Tiếp tục xuống tới
nhóm “cảnh báo cao độ” là Việt Nam, Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan và Trung
Quốc. Và thậm chí xuống thấp hơn nữa tới nhóm “cảnh báo rất cao” là Lào,
Philippines và Campuchia. Xuống gần cuối danh sách là nhóm “báo động”
gồm các quốc gia như Nepal, Sri Lanka, Bangladesh, Bắc Triều Tiên và
Myanmar.
Vậy, làm thế nào mà chúng ta có thể biết được liệu một nhà nước có yếu và dễ sụp đổ?
Một nhà nước yếu có thể thể hiện sự kém cỏi ở nhiều khía cạnh. Đáng chú ý
nhất là khi nó không có khả năng cung cấp dịch vụ công cho người dân.
Chất lượng của các dịch vụ công cơ bản như nước sạch, vệ sinh, y tế,
giáo dục và các phương tiện giao thông là những thứ rất kinh hoàng tại
các nhà nước yếu và dễ sụp đổ ở châu Á. Điều này có thể là do các nhà
nước này không có khả năng thu đủ thuế để cung cấp tài chính cho các
dịch vụ công, bởi các tầng lớp chóp bu bòn rút hệ thống thuế một cách có
hệ thống, nhất là ở Philippines.
![]() |
Tắc đường là căn bệnh trầm kha chưa biết khi nào mới có thuốc chữa của Philippines. Ảnh: PBS. |
Nỗi bất an cũng là một đặc điểm của các xã hội yếu, nó thường là sản
phẩm của sự nghèo đói, bất bình đẳng và cái cảm giác bất công xã hội.
Nạn tham nhũng và lực lượng cảnh sát kém cỏi cũng góp phần vào nỗi bất
an ấy.
Một đặc điểm nữa của các nhà nước yếu là, chúng thường bị mất kiểm soát
đối với lãnh thổ của chúng, hoặc đối với sự độc quyền sử dụng vũ lực một
cách hợp pháp. Nhiều quốc gia châu Á như Myanmar và Ấn Độ không thể
khẳng định chủ quyền trên phần lớn lãnh thổ của họ, do các nhóm sắc tộc
thiểu số vẫn nắm giữ quyền lực, hoặc do giới chóp bu địa phương thường
sở hữu quân đội riêng. Giới chóp bu đầy quyền lực này cũng có thể ép
buộc các chính phủ yếu kém phải thực hiện các chính sách thiên vị cho
lợi ích của họ, như là bảo vệ sự độc quyền. Các cuộc bầu cử cũng có thể
bị lạm dụng một cách sai trái, do sự chi phối của các nhóm gia đình
chính trị, việc mua bán phiếu bầu, và những mánh khóe chính trị khác.
Rõ ràng là những đặc điểm này của các nhà nước yếu đã làm xói mòn những triển vọng phát triển kinh tế và xã hội.
Trường hợp của Philippines đã đưa ra một góc nhìn thú vị về tình trạng
của nhà nước ở châu Á. Quần đảo gồm 7107 hòn đảo này được coi là có một
nhà nước yếu và một xã hội mạnh. Có tác giả đã gọi đây là “tình trạng vô
chính phủ giữa các gia đình”.
Thật vậy, cho đến khi thực dân Tây Ban Nha xâm lược Philippines vào thế
kỷ 16, ở vùng đảo này dường như không có lấy một nhà nước. Ngoài một số
ông vua Hồi giáo ở miền Nam, thì các xã hội tiền thuộc địa đã bị chia
cắt thành những ngôi làng tự trị hoặc bị giao do các tầng lớp chóp bu
địa phương cai quản. Nói cách khác, Philippines không tồn tại như một
quốc gia cho đến khi các thủy thủ Tây Ban Nha lui tới đảo quốc này vào
thời vua Philip II. Thậm chí ngày nay, dường như nhiều người Philippines
vẫn gắn bó với bản sắc địa phương của họ hơn là với bản sắc quốc gia.
Trong thời kỳ thuộc địa, người Tây Ban Nha đã không thành lập một nhà
nước mạnh. Ngoài Manila ra thì vùng thuộc địa này chủ yếu do Giáo hội
Công giáo và giới kinh doanh tư nhân quản lý. Cuối thời kỳ Tây Ban Nha
cai trị ở cuối thế kỷ 19, khi những người thuộc địa kết hôn với giới cai
trị thực dân (“mestizos”), và khi những người Trung Quốc di cư đến
Philippines, thì họ hình thành nên một tầng lớp chóp bu địa phương. Tầng
lớp này tiếp tục củng cố vị thế quyền lực kinh tế và chính trị của
chính nó trong thời kỳ thuộc địa của Mỹ ở nửa đầu của thế kỷ 20.
Giới chóp bu của Philippines (ước tính gồm khoảng 178 gia đình) đã duy
trì sự kiểm soát đối với nền kinh tế và chính trị của đất nước thông qua
các giai đoạn cai trị quân sự lẫn dân chủ, và kết quả là nhà nước
Philippines vẫn yếu và dễ sụp đổ.
Một số gia đình thuộc giới chóp bu như Ayala và Aboitiz đã thống trị kể
từ thời kỳ thuộc địa Tây Ban Nha. Lợi nhuận kinh doanh của họ thu được
từ những dịch vụ công cho tới phát triển nhà cửa, từ ngân hàng cho tới
viễn thông và các ngành công nghiệp gia công đang bùng nổ. Địa vị thống
trị của các gia đình chóp bu này thường chẳng phải là nhờ vào sự nhạy
bén tuyệt vời trong kinh doanh, mà chủ yếu là do chính phủ sắp đặt nhằm
mang lại sự độc quyền và bảo hộ cho những người chơi chính. Mặc dù đã có
những cải cách rộng khắp từ năm 1981, nhưng phần lớn thị trường vẫn bị
độc quyền.
Tình trạng yếu kém của đất nước thể hiện rõ ràng nhất ở cơ sở hạ tầng
hết sức nghèo nàn về vận tải và năng lượng, cũng như ở các hệ thống y
tế, giáo dục, vệ sinh, và nguồn nước cũng nghèo nàn không kém. Chính
quyền Philippines cũng bị cho là kém cỏi trong việc thực thi những điều
luật và các quy định có thể mâu thuẫn với lợi ích của giới đầu sỏ (như
đánh thuế, lâm nghiệp, cải cách ruộng đất). Tình trạng này còn được thể
hiện qua những cuộc nổi dậy dai dẳng của người Hồi giáo và cộng sản, các
vụ bắt cóc và các hành vi bạo lực khác, cũng như tình trạng tham nhũng
ăn sâu.
Sự yếu kém của nhà nước Philippines cũng hiện rõ trong cái cách mà nó xử
lý trước trận siêu bão Yolanda vào năm 2013. Chính phủ đã không thể
quản lý các hoạt động cứu trợ thiên tai một cách hiệu quả.
Sau nhiều thập kỷ mang danh “người bệnh” của châu Á, nền kinh tế
Philippines hiện đang bùng nổ, được thúc đẩy bởi các hoạt động xây dựng
và tiêu dùng. Nhưng dấu vết của một nhà nước yếu vẫn còn rất rõ ràng.
Do cơ sở hạ tầng đô thị không theo kịp với tốc độ đầu tư bất động sản
nên tình trạng tắc nghẽn giao thông ngày một tồi tệ hơn. Mặc dù đã mở
một nhà ga mới, song sân bay Manila vẫn còn đông đúc, hỗn loạn. Tình
trạng tắc nghẽn giờ đây đã lan sang các cảng biển Manila, do trình độ
kém cỏi của cơ quan hải quan và tham nhũng nghiêm trọng. Vào thời điểm
bài này được viết, một số tàu thuyền [nước ngoài – ND] đã hết kiên nhẫn
và quay trở về cảng nước họ với hàng hóa vẫn chất đầy tàu.
Hơn nữa, mức tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ ở Philippines không theo lý
thuyết khuếch tán lợi ích, với tỷ lệ đói nghèo vẫn ở mức gần 30% dân số.
Cielito Habito, cựu Bộ trưởng Kế hoạch Kinh tế, đã ước tính rằng lượng
tài sản gia tăng trong năm 2011 của 40 gia đình giàu nhất Philippines
trong danh sách người giàu của Forbes chiếm tới 76% mức tăng trưởng GDP
của cả nước, cao hơn rất nhiều so với ở Thái Lan, Malaysia, hay Nhật
Bản.
Nói cách khác, tầng lớp tinh hoa nhỏ bé của Philippines đang cóp nhặt
phần lớn nguồn tài sản mới của đất nước, trong khi người nghèo bị đẩy ra
ngoài. “Tôi nghĩ người ta đang cảm thấy một điều rất rõ ràng là, có cái
gì đó không đúng về mặt cấu trúc. Giới đầu sỏ đã kiểm soát quá nhiều
tài nguyên của đất nước”, Habito nói.
Con đường dẫn tới sự giàu có cho nhóm nhỏ này cũng được thúc đẩy bởi một
nền văn hoá chính trị chủ yếu dựa trên quan hệ cá nhân hơn bất cứ yếu
tố nào khác, Habito nói thêm.
![]() |
Một hình ảnh khắc họa tình trạng bất bình đẳng ở Manila, Philippines. Ảnh: Oxfam. |
Rốt cuộc, người dân Philippines đã bị thúc đẩy hơn bao giờ hết để rời bỏ
đất nước của họ và gia nhập đội ngũ đồng hương ở hầu hết mọi quốc gia
trên thế giới. Hơn 10% dân số và hơn 20% số người trong độ tuổi lao
động, đã rời khỏi đất nước.
Đã có nhiều lời kêu gọi cho một nhà nước mạnh mẽ hơn và có kỷ luật hơn
tại Philippines, trong đó có cả lời kêu gọi đến từ Lý Quang Diệu của
Singapore. Nhưng cựu Tổng thống Philippines Ramos đã nhanh chóng nhắc
lại cái “nỗi bất hạnh độc tài” của Philippines dưới thời Tổng thống
Marcos.
Thật vậy, Philippines đã từng có một chính phủ mạnh hơn nhưng lại tham
nhũng nghiêm trọng thời Marcos. Quá khứ này đã làm tan biến triển vọng
về một nhà nước mạnh có khả năng cung cấp các dịch vụ và an ninh mà nền
kinh tế và người dân Philippines đang rất cần và xứng đáng được hưởng.
Ấn Độ là một ví dụ khác cho hình ảnh một nhà nước yếu và một xã hội
mạnh. Những cải cách kinh tế được đưa ra vào năm 1991 đã dẫn tới sự bùng
nổ tăng trưởng. Nhưng trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng của
Ấn Độ đã chậm lại khi nền kinh tế chạm đến những giới hạn của một nhà
nước yếu, cụ thể là cơ sở hạ tầng nghèo nàn, thói quan liêu của bộ máy
và tham nhũng tràn lan. Người ta chỉ có thể hy vọng rằng chính quyền của
Thủ tướng Narendra Modi có thể thành công trong việc củng cố nhà nước
Ấn Độ.
![]() |
Tàu lửa ở Ấn Độ thường xuyên chịu cảnh quá tải hành khách, ảnh được chụp vào năm 2016. Ảnh: Reuters/Anindito Mukherjee. |
Nhiều người rất ấn tượng với sức mạnh của nhà nước Trung Quốc, khi mà nó
có thể xây dựng những cơ sở hạ tầng xuất sắc như sân bay và tàu cao
tốc. Nhưng nhà nước mạnh của Trung Quốc cũng lạm dụng quyền lực của mình
thông qua việc ưu đãi lợi ích cho các đảng viên Cộng sản, vi phạm nhân
quyền, đàn áp bất cứ ai có dấu hiệu bất đồng chính kiến về xã hội và
chính trị, và hạn chế các quyền tự do cá nhân.
Bất kể tầm quan trọng của việc sở hữu một nhà nước mạnh lớn đến đâu, thì
cũng có những rủi ro khi nhà nước ấy trở nên quá mạnh, theo nhận định
của Giáo sư Daron Acemoglu. Thuế và các hệ thống phúc lợi xã hội rất cao
ở Tây Âu có thể ảnh hưởng đến tính năng động của nền kinh tế. Và trong
khi một nhà nước mạnh có thể thúc đẩy phát triển thì nó cũng có thể bị
kiểm soát bởi các tầng lớp tinh hoa mới nổi lên từ sự phát triển nhanh
chóng, như trường hợp của Hong Kong, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong trường hợp của Nhật Bản, khi mà
nó từng là một nền kinh tế năng động song đã nhanh chóng trở nên xơ
cứng. Các nền kinh tế và xã hội mở, với sự phá hủy mang tính sáng tạo và
đổi mới không ngừng, mới là chìa khóa cho sự thịnh vượng liên tục.
Tóm lại, điều quan trọng nhất là phải làm cho sức mạnh và vai trò của
nhà nước được sử dụng “đúng”. Trong giai đoạn phát triển ban đầu, một
nhà nước mạnh thường có tầm quan trọng nhiều hơn so với khi quốc gia đạt
đến giai đoạn phát triển cao và chủ yếu dựa vào đổi mới kinh doanh để
thúc đẩy tăng trưởng. Và quan trọng nhất, một nhà nước mạnh nên luôn
luôn được cân bằng bởi một xã hội mạnh để đảm bảo trách nhiệm giải trình
và sự minh bạch của nhà nước.
Vi Yên
(Luật Khoa)