Quán Bên Đường
NỖI BUỒN HẠ CHÍ
Chúng tôi tất cả chỉ có bốn người: Nguyễn Thị Khánh Trâm, Nguyễn Thị Từ Huy, Nguyễn Xuân Diện và tôi, ngồi âm thầm trong góc một quán cà phê.
Ảnh: Nguyễn Thị Khánh Trâm
http://xuandienhannom.blogspot.com/2014/07/a-ay-roi-sang-nay-ong-nguyen-phu-trong.html
NỖI BUỒN HẠ CHÍ
(Tặng
Khánh Trâm, Từ Huy, Thuý Hạnh, Xuân Diện)
Đào Tiến Thi
Chúng tôi tất cả
chỉ có bốn người: Nguyễn Thị Khánh Trâm, Nguyễn Thị Từ Huy, Nguyễn
Xuân Diện và tôi, ngồi âm thầm trong góc một quán cà phê.
Đây là thịnh tình của Khánh Trâm. Chị muốn có một cuộc hàn huyên để chia tay Từ Huy, người sắp lên đường sang Pháp học tiến sỹ triết học.
Nhưng suốt hai giờ đồng hồ, chẳng ai quan tâm gì đến việc học sắp tới của Từ Huy. Câu chuyện chỉ xoay quanh về thảm trạng đất nước. Không còn cái không khí sôi nổi như trước kia trong những cuộc tụ họp tương tự. Thỉnh thoảng lại đặt ra một câu hỏi: Đất nước đi về đâu? Câu hỏi không lời đáp, nhưng ai cũng linh cảm phần nhiều nó không đi về hướng tươi sáng. Nó vẫn đang đi về hướng Tàu Cộng, ngày càng cột chặt vào Tàu Cộng. Thỉnh thoảng lại vang lên một tiếng thở dài: “Mất nước thật rồi”. Cách đây ít ngày, bạn Thuý Hạnh (Hạnh Tây Hồ), sau khi công an trả tự do trong cuộc biểu tình chiều 19-6 cũng nhắn cho tôi: “Anh ơi, buồn lắm, mất nước thật rồi, em thấy không còn hy vọng gì nữa”. Tôi đọc câu ấy mà ứa nước mắt. Tôi thương đất nước bao nhiêu lại thương Thuý Hạnh bấy nhiêu. Người phụ nữ bé nhỏ ấy, một người phụ nữ bình dân, nghề nghiệp chẳng liên quan gì đến tư tưởng, học thuật mà lại có tấm lòng yêu nước thương đời đến thế. Trong khi ấy hàng chục nghìn giáo sư, tiến sỹ, hàng nghìn văn nhân, thi sỹ, danh hiệu đầy mình, nhà lầu ô tô rầm rộ, xúng xính trên các diễn đàn mây mây gió gió, nhưng đến tận giờ này vẫn ngoảnh mặt làm thinh trước thực trạng thê thảm của đất nước.
Chúng tôi, hai người sống ở Hà Nội, hai người sống ở Sài Gòn, hỏi nhau về tinh thần chung hiện nay của lớp sỹ phu ở hai đầu đất nước. Chẳng thấy có xu hướng gì rõ rệt. Rõ ràng là đang bế tắc. Xuân Diện nhắc lại câu thơ của Bế Kiến Quốc mà tôi lấy làm đề từ cho bài viết nhân kỷ niệm 130 năm ngày Hà thành thất thủ lần thứ hai:
Tất cả chúng tôi đắng ngắt. Khánh Trâm bảo: “Trung nghĩa với đất nước, không phải với vua, phải không?”. Tôi bảo “Phải. Vua đã nhu nhược mà còn trung thì trung thế nào?”. Tình cảnh đất nước hôm nay sao giống hệt vậy. Sỹ phu hôm nay sao cũng giống hệt vậy. Và bi đát hơn nhiều. Bơ vơ, ngơ ngác. Dường như chấp nhận. Dường như buông xuôi. Nếu việc mất nước hồi nửa cuối thế kỷ XIX còn có phần tất yếu thì hôm nay hoàn toàn “lỗi tại ta”, là “nước tự mình đánh mình trước, sau mới bị người ta đánh”.
Trong câu chuyện cũng nhiều lúc bật lên những tiếng cười, nhưng là cười những tình huống trớ trêu, dị hợm mà ai cũng đã từng gặp phải khi đối diện với lực lượng chức năng, với côn đồ, với “quần chúng tự phát” các kiểu.
Sắp chia tay, tôi hỏi Từ Huy: “Sau ba năm học xong, nếu lúc ấy nước đã mất (hoàn toàn), em có trở về nữa không?”.
Từ Huy: “Khó quá! Em chưa biết làm thế nào!”. Một nụ cười mà phần héo nhiều hơn phần tươi.
Chia tay. Từ Huy lần lượt ôm lấy từng người bạn. Hình như chúng tôi đều sắp khóc. Không phải khóc vì sắp chia tay mà khóc vì buồn cho đất nước.
Trở về, tôi băng qua chặng đường gần 20 cây số dưới cái nắng nóng 37 – 38 độ. Đã qua tiết hạ chí được mấy hôm, nhưng có lẽ hôm nay mới đích thực là hạ chí. Thế nhưng tôi không thấy ghê nắng như cái bệnh ghê nắng vốn có của tôi. Trái lại, tôi cảm thấy nẻo về lành lạnh. Đội ngũ chúng tôi vẫn bên nhau, nhưng để chia sẻ nỗi niềm hơn là bàn phương kế cứu nước. Kể từ mùa hè 2011, ba mùa hè trước là ba mùa hè rực lửa đấu tranh chống Trung Cộng xâm lược. Mùa hè này đáng lẽ phải rực lửa hơn tất cả thì lại nguội lạnh làm sao!
Về nhà vào Bauxite VN thấy có bài Quốc thổ trầm luân của nhà giáo Nguyễn Thượng Long, đọc lại càng buồn não ruột. Gọi điện luôn cho bác Long, lấy cớ sửa giúp bác một chữ cho đỡ buồn:
Tôi: “Bài viết của bác lâm ly, thống thiết quá”.
Bác Long: “Buồn lắm ông ạ, đành than một tiếng, chứ chả biết làm thế nào”.
Tôi: “Anh à, nhiều bản chép “Quốc thổ trầm luân dân tộc luỵ” là nhầm chữ tuỵ thành chữ luỵ. Tuỵ ở đây là “khốn khổ”.
Bác Long: “Có phải tuỵ như trong chữ tiều tuỵ không?”.
Tôi: “Dạ phải. Hán Việt tự điển của cụ Thiều Chửu còn chú thêm: “Người vì khó nhọc mà gầy gò đi gọi là nhan sắc tiều tuỵ”. Dân tộc mình cũng thế anh ạ. Mấy nghìn năm hiển hách, rực rỡ một cõi trời Nam nay thành một dân tộc tiều tuỵ…”.
Ngoài kia, trời vẫn đang đổ lửa xuống phố phường Hà Nội, xuống khắp cả đồng quê, rừng núi Việt Nam. Tiết hạ chí mà lại! Nếu đi bộ lúc 12 giờ trưa, ta giẫm lên đầu bóng nắng của ta. Nghĩa là những ngày này ánh sáng mặt trời chiếu vuông góc xuống mặt phẳng trái đất khu vực chúng ta đang sống. Nghĩa là chúng ta đang nhận được nhiều lửa trời nhất. Chỉ có lửa trong lòng người dân Việt thì vẫn chưa cháy lên.
Đ.T.T
Đây là thịnh tình của Khánh Trâm. Chị muốn có một cuộc hàn huyên để chia tay Từ Huy, người sắp lên đường sang Pháp học tiến sỹ triết học.
Nhưng suốt hai giờ đồng hồ, chẳng ai quan tâm gì đến việc học sắp tới của Từ Huy. Câu chuyện chỉ xoay quanh về thảm trạng đất nước. Không còn cái không khí sôi nổi như trước kia trong những cuộc tụ họp tương tự. Thỉnh thoảng lại đặt ra một câu hỏi: Đất nước đi về đâu? Câu hỏi không lời đáp, nhưng ai cũng linh cảm phần nhiều nó không đi về hướng tươi sáng. Nó vẫn đang đi về hướng Tàu Cộng, ngày càng cột chặt vào Tàu Cộng. Thỉnh thoảng lại vang lên một tiếng thở dài: “Mất nước thật rồi”. Cách đây ít ngày, bạn Thuý Hạnh (Hạnh Tây Hồ), sau khi công an trả tự do trong cuộc biểu tình chiều 19-6 cũng nhắn cho tôi: “Anh ơi, buồn lắm, mất nước thật rồi, em thấy không còn hy vọng gì nữa”. Tôi đọc câu ấy mà ứa nước mắt. Tôi thương đất nước bao nhiêu lại thương Thuý Hạnh bấy nhiêu. Người phụ nữ bé nhỏ ấy, một người phụ nữ bình dân, nghề nghiệp chẳng liên quan gì đến tư tưởng, học thuật mà lại có tấm lòng yêu nước thương đời đến thế. Trong khi ấy hàng chục nghìn giáo sư, tiến sỹ, hàng nghìn văn nhân, thi sỹ, danh hiệu đầy mình, nhà lầu ô tô rầm rộ, xúng xính trên các diễn đàn mây mây gió gió, nhưng đến tận giờ này vẫn ngoảnh mặt làm thinh trước thực trạng thê thảm của đất nước.
Chúng tôi, hai người sống ở Hà Nội, hai người sống ở Sài Gòn, hỏi nhau về tinh thần chung hiện nay của lớp sỹ phu ở hai đầu đất nước. Chẳng thấy có xu hướng gì rõ rệt. Rõ ràng là đang bế tắc. Xuân Diện nhắc lại câu thơ của Bế Kiến Quốc mà tôi lấy làm đề từ cho bài viết nhân kỷ niệm 130 năm ngày Hà thành thất thủ lần thứ hai:
Thuở ấy non sông lâm trận giặc
Pháo mã bâng khuâng lạc thế cờ
Vua thì nhu nhược, triều đình nát
Lòng ai trung nghĩa hoá bơ vơ.Tất cả chúng tôi đắng ngắt. Khánh Trâm bảo: “Trung nghĩa với đất nước, không phải với vua, phải không?”. Tôi bảo “Phải. Vua đã nhu nhược mà còn trung thì trung thế nào?”. Tình cảnh đất nước hôm nay sao giống hệt vậy. Sỹ phu hôm nay sao cũng giống hệt vậy. Và bi đát hơn nhiều. Bơ vơ, ngơ ngác. Dường như chấp nhận. Dường như buông xuôi. Nếu việc mất nước hồi nửa cuối thế kỷ XIX còn có phần tất yếu thì hôm nay hoàn toàn “lỗi tại ta”, là “nước tự mình đánh mình trước, sau mới bị người ta đánh”.
Trong câu chuyện cũng nhiều lúc bật lên những tiếng cười, nhưng là cười những tình huống trớ trêu, dị hợm mà ai cũng đã từng gặp phải khi đối diện với lực lượng chức năng, với côn đồ, với “quần chúng tự phát” các kiểu.
Sắp chia tay, tôi hỏi Từ Huy: “Sau ba năm học xong, nếu lúc ấy nước đã mất (hoàn toàn), em có trở về nữa không?”.
Từ Huy: “Khó quá! Em chưa biết làm thế nào!”. Một nụ cười mà phần héo nhiều hơn phần tươi.
Chia tay. Từ Huy lần lượt ôm lấy từng người bạn. Hình như chúng tôi đều sắp khóc. Không phải khóc vì sắp chia tay mà khóc vì buồn cho đất nước.
Trở về, tôi băng qua chặng đường gần 20 cây số dưới cái nắng nóng 37 – 38 độ. Đã qua tiết hạ chí được mấy hôm, nhưng có lẽ hôm nay mới đích thực là hạ chí. Thế nhưng tôi không thấy ghê nắng như cái bệnh ghê nắng vốn có của tôi. Trái lại, tôi cảm thấy nẻo về lành lạnh. Đội ngũ chúng tôi vẫn bên nhau, nhưng để chia sẻ nỗi niềm hơn là bàn phương kế cứu nước. Kể từ mùa hè 2011, ba mùa hè trước là ba mùa hè rực lửa đấu tranh chống Trung Cộng xâm lược. Mùa hè này đáng lẽ phải rực lửa hơn tất cả thì lại nguội lạnh làm sao!
Về nhà vào Bauxite VN thấy có bài Quốc thổ trầm luân của nhà giáo Nguyễn Thượng Long, đọc lại càng buồn não ruột. Gọi điện luôn cho bác Long, lấy cớ sửa giúp bác một chữ cho đỡ buồn:
Tôi: “Bài viết của bác lâm ly, thống thiết quá”.
Bác Long: “Buồn lắm ông ạ, đành than một tiếng, chứ chả biết làm thế nào”.
Tôi: “Anh à, nhiều bản chép “Quốc thổ trầm luân dân tộc luỵ” là nhầm chữ tuỵ thành chữ luỵ. Tuỵ ở đây là “khốn khổ”.
Bác Long: “Có phải tuỵ như trong chữ tiều tuỵ không?”.
Tôi: “Dạ phải. Hán Việt tự điển của cụ Thiều Chửu còn chú thêm: “Người vì khó nhọc mà gầy gò đi gọi là nhan sắc tiều tuỵ”. Dân tộc mình cũng thế anh ạ. Mấy nghìn năm hiển hách, rực rỡ một cõi trời Nam nay thành một dân tộc tiều tuỵ…”.
Ngoài kia, trời vẫn đang đổ lửa xuống phố phường Hà Nội, xuống khắp cả đồng quê, rừng núi Việt Nam. Tiết hạ chí mà lại! Nếu đi bộ lúc 12 giờ trưa, ta giẫm lên đầu bóng nắng của ta. Nghĩa là những ngày này ánh sáng mặt trời chiếu vuông góc xuống mặt phẳng trái đất khu vực chúng ta đang sống. Nghĩa là chúng ta đang nhận được nhiều lửa trời nhất. Chỉ có lửa trong lòng người dân Việt thì vẫn chưa cháy lên.
Đ.T.T
Đề tặng Từ Huy cuốn sách
Ảnh: Nguyễn Thị Khánh Trâm
http://xuandienhannom.blogspot.com/2014/07/a-ay-roi-sang-nay-ong-nguyen-phu-trong.html
NỖI BUỒN HẠ CHÍ
Chúng tôi tất cả chỉ có bốn người: Nguyễn Thị Khánh Trâm, Nguyễn Thị Từ Huy, Nguyễn Xuân Diện và tôi, ngồi âm thầm trong góc một quán cà phê.
NỖI BUỒN HẠ CHÍ
(Tặng
Khánh Trâm, Từ Huy, Thuý Hạnh, Xuân Diện)
Đào Tiến Thi
Chúng tôi tất cả
chỉ có bốn người: Nguyễn Thị Khánh Trâm, Nguyễn Thị Từ Huy, Nguyễn
Xuân Diện và tôi, ngồi âm thầm trong góc một quán cà phê.
Đây là thịnh tình của Khánh Trâm. Chị muốn có một cuộc hàn huyên để chia tay Từ Huy, người sắp lên đường sang Pháp học tiến sỹ triết học.
Nhưng suốt hai giờ đồng hồ, chẳng ai quan tâm gì đến việc học sắp tới của Từ Huy. Câu chuyện chỉ xoay quanh về thảm trạng đất nước. Không còn cái không khí sôi nổi như trước kia trong những cuộc tụ họp tương tự. Thỉnh thoảng lại đặt ra một câu hỏi: Đất nước đi về đâu? Câu hỏi không lời đáp, nhưng ai cũng linh cảm phần nhiều nó không đi về hướng tươi sáng. Nó vẫn đang đi về hướng Tàu Cộng, ngày càng cột chặt vào Tàu Cộng. Thỉnh thoảng lại vang lên một tiếng thở dài: “Mất nước thật rồi”. Cách đây ít ngày, bạn Thuý Hạnh (Hạnh Tây Hồ), sau khi công an trả tự do trong cuộc biểu tình chiều 19-6 cũng nhắn cho tôi: “Anh ơi, buồn lắm, mất nước thật rồi, em thấy không còn hy vọng gì nữa”. Tôi đọc câu ấy mà ứa nước mắt. Tôi thương đất nước bao nhiêu lại thương Thuý Hạnh bấy nhiêu. Người phụ nữ bé nhỏ ấy, một người phụ nữ bình dân, nghề nghiệp chẳng liên quan gì đến tư tưởng, học thuật mà lại có tấm lòng yêu nước thương đời đến thế. Trong khi ấy hàng chục nghìn giáo sư, tiến sỹ, hàng nghìn văn nhân, thi sỹ, danh hiệu đầy mình, nhà lầu ô tô rầm rộ, xúng xính trên các diễn đàn mây mây gió gió, nhưng đến tận giờ này vẫn ngoảnh mặt làm thinh trước thực trạng thê thảm của đất nước.
Chúng tôi, hai người sống ở Hà Nội, hai người sống ở Sài Gòn, hỏi nhau về tinh thần chung hiện nay của lớp sỹ phu ở hai đầu đất nước. Chẳng thấy có xu hướng gì rõ rệt. Rõ ràng là đang bế tắc. Xuân Diện nhắc lại câu thơ của Bế Kiến Quốc mà tôi lấy làm đề từ cho bài viết nhân kỷ niệm 130 năm ngày Hà thành thất thủ lần thứ hai:
Tất cả chúng tôi đắng ngắt. Khánh Trâm bảo: “Trung nghĩa với đất nước, không phải với vua, phải không?”. Tôi bảo “Phải. Vua đã nhu nhược mà còn trung thì trung thế nào?”. Tình cảnh đất nước hôm nay sao giống hệt vậy. Sỹ phu hôm nay sao cũng giống hệt vậy. Và bi đát hơn nhiều. Bơ vơ, ngơ ngác. Dường như chấp nhận. Dường như buông xuôi. Nếu việc mất nước hồi nửa cuối thế kỷ XIX còn có phần tất yếu thì hôm nay hoàn toàn “lỗi tại ta”, là “nước tự mình đánh mình trước, sau mới bị người ta đánh”.
Trong câu chuyện cũng nhiều lúc bật lên những tiếng cười, nhưng là cười những tình huống trớ trêu, dị hợm mà ai cũng đã từng gặp phải khi đối diện với lực lượng chức năng, với côn đồ, với “quần chúng tự phát” các kiểu.
Sắp chia tay, tôi hỏi Từ Huy: “Sau ba năm học xong, nếu lúc ấy nước đã mất (hoàn toàn), em có trở về nữa không?”.
Từ Huy: “Khó quá! Em chưa biết làm thế nào!”. Một nụ cười mà phần héo nhiều hơn phần tươi.
Chia tay. Từ Huy lần lượt ôm lấy từng người bạn. Hình như chúng tôi đều sắp khóc. Không phải khóc vì sắp chia tay mà khóc vì buồn cho đất nước.
Trở về, tôi băng qua chặng đường gần 20 cây số dưới cái nắng nóng 37 – 38 độ. Đã qua tiết hạ chí được mấy hôm, nhưng có lẽ hôm nay mới đích thực là hạ chí. Thế nhưng tôi không thấy ghê nắng như cái bệnh ghê nắng vốn có của tôi. Trái lại, tôi cảm thấy nẻo về lành lạnh. Đội ngũ chúng tôi vẫn bên nhau, nhưng để chia sẻ nỗi niềm hơn là bàn phương kế cứu nước. Kể từ mùa hè 2011, ba mùa hè trước là ba mùa hè rực lửa đấu tranh chống Trung Cộng xâm lược. Mùa hè này đáng lẽ phải rực lửa hơn tất cả thì lại nguội lạnh làm sao!
Về nhà vào Bauxite VN thấy có bài Quốc thổ trầm luân của nhà giáo Nguyễn Thượng Long, đọc lại càng buồn não ruột. Gọi điện luôn cho bác Long, lấy cớ sửa giúp bác một chữ cho đỡ buồn:
Tôi: “Bài viết của bác lâm ly, thống thiết quá”.
Bác Long: “Buồn lắm ông ạ, đành than một tiếng, chứ chả biết làm thế nào”.
Tôi: “Anh à, nhiều bản chép “Quốc thổ trầm luân dân tộc luỵ” là nhầm chữ tuỵ thành chữ luỵ. Tuỵ ở đây là “khốn khổ”.
Bác Long: “Có phải tuỵ như trong chữ tiều tuỵ không?”.
Tôi: “Dạ phải. Hán Việt tự điển của cụ Thiều Chửu còn chú thêm: “Người vì khó nhọc mà gầy gò đi gọi là nhan sắc tiều tuỵ”. Dân tộc mình cũng thế anh ạ. Mấy nghìn năm hiển hách, rực rỡ một cõi trời Nam nay thành một dân tộc tiều tuỵ…”.
Ngoài kia, trời vẫn đang đổ lửa xuống phố phường Hà Nội, xuống khắp cả đồng quê, rừng núi Việt Nam. Tiết hạ chí mà lại! Nếu đi bộ lúc 12 giờ trưa, ta giẫm lên đầu bóng nắng của ta. Nghĩa là những ngày này ánh sáng mặt trời chiếu vuông góc xuống mặt phẳng trái đất khu vực chúng ta đang sống. Nghĩa là chúng ta đang nhận được nhiều lửa trời nhất. Chỉ có lửa trong lòng người dân Việt thì vẫn chưa cháy lên.
Đ.T.T
Đây là thịnh tình của Khánh Trâm. Chị muốn có một cuộc hàn huyên để chia tay Từ Huy, người sắp lên đường sang Pháp học tiến sỹ triết học.
Nhưng suốt hai giờ đồng hồ, chẳng ai quan tâm gì đến việc học sắp tới của Từ Huy. Câu chuyện chỉ xoay quanh về thảm trạng đất nước. Không còn cái không khí sôi nổi như trước kia trong những cuộc tụ họp tương tự. Thỉnh thoảng lại đặt ra một câu hỏi: Đất nước đi về đâu? Câu hỏi không lời đáp, nhưng ai cũng linh cảm phần nhiều nó không đi về hướng tươi sáng. Nó vẫn đang đi về hướng Tàu Cộng, ngày càng cột chặt vào Tàu Cộng. Thỉnh thoảng lại vang lên một tiếng thở dài: “Mất nước thật rồi”. Cách đây ít ngày, bạn Thuý Hạnh (Hạnh Tây Hồ), sau khi công an trả tự do trong cuộc biểu tình chiều 19-6 cũng nhắn cho tôi: “Anh ơi, buồn lắm, mất nước thật rồi, em thấy không còn hy vọng gì nữa”. Tôi đọc câu ấy mà ứa nước mắt. Tôi thương đất nước bao nhiêu lại thương Thuý Hạnh bấy nhiêu. Người phụ nữ bé nhỏ ấy, một người phụ nữ bình dân, nghề nghiệp chẳng liên quan gì đến tư tưởng, học thuật mà lại có tấm lòng yêu nước thương đời đến thế. Trong khi ấy hàng chục nghìn giáo sư, tiến sỹ, hàng nghìn văn nhân, thi sỹ, danh hiệu đầy mình, nhà lầu ô tô rầm rộ, xúng xính trên các diễn đàn mây mây gió gió, nhưng đến tận giờ này vẫn ngoảnh mặt làm thinh trước thực trạng thê thảm của đất nước.
Chúng tôi, hai người sống ở Hà Nội, hai người sống ở Sài Gòn, hỏi nhau về tinh thần chung hiện nay của lớp sỹ phu ở hai đầu đất nước. Chẳng thấy có xu hướng gì rõ rệt. Rõ ràng là đang bế tắc. Xuân Diện nhắc lại câu thơ của Bế Kiến Quốc mà tôi lấy làm đề từ cho bài viết nhân kỷ niệm 130 năm ngày Hà thành thất thủ lần thứ hai:
Thuở ấy non sông lâm trận giặc
Pháo mã bâng khuâng lạc thế cờ
Vua thì nhu nhược, triều đình nát
Lòng ai trung nghĩa hoá bơ vơ.Tất cả chúng tôi đắng ngắt. Khánh Trâm bảo: “Trung nghĩa với đất nước, không phải với vua, phải không?”. Tôi bảo “Phải. Vua đã nhu nhược mà còn trung thì trung thế nào?”. Tình cảnh đất nước hôm nay sao giống hệt vậy. Sỹ phu hôm nay sao cũng giống hệt vậy. Và bi đát hơn nhiều. Bơ vơ, ngơ ngác. Dường như chấp nhận. Dường như buông xuôi. Nếu việc mất nước hồi nửa cuối thế kỷ XIX còn có phần tất yếu thì hôm nay hoàn toàn “lỗi tại ta”, là “nước tự mình đánh mình trước, sau mới bị người ta đánh”.
Trong câu chuyện cũng nhiều lúc bật lên những tiếng cười, nhưng là cười những tình huống trớ trêu, dị hợm mà ai cũng đã từng gặp phải khi đối diện với lực lượng chức năng, với côn đồ, với “quần chúng tự phát” các kiểu.
Sắp chia tay, tôi hỏi Từ Huy: “Sau ba năm học xong, nếu lúc ấy nước đã mất (hoàn toàn), em có trở về nữa không?”.
Từ Huy: “Khó quá! Em chưa biết làm thế nào!”. Một nụ cười mà phần héo nhiều hơn phần tươi.
Chia tay. Từ Huy lần lượt ôm lấy từng người bạn. Hình như chúng tôi đều sắp khóc. Không phải khóc vì sắp chia tay mà khóc vì buồn cho đất nước.
Trở về, tôi băng qua chặng đường gần 20 cây số dưới cái nắng nóng 37 – 38 độ. Đã qua tiết hạ chí được mấy hôm, nhưng có lẽ hôm nay mới đích thực là hạ chí. Thế nhưng tôi không thấy ghê nắng như cái bệnh ghê nắng vốn có của tôi. Trái lại, tôi cảm thấy nẻo về lành lạnh. Đội ngũ chúng tôi vẫn bên nhau, nhưng để chia sẻ nỗi niềm hơn là bàn phương kế cứu nước. Kể từ mùa hè 2011, ba mùa hè trước là ba mùa hè rực lửa đấu tranh chống Trung Cộng xâm lược. Mùa hè này đáng lẽ phải rực lửa hơn tất cả thì lại nguội lạnh làm sao!
Về nhà vào Bauxite VN thấy có bài Quốc thổ trầm luân của nhà giáo Nguyễn Thượng Long, đọc lại càng buồn não ruột. Gọi điện luôn cho bác Long, lấy cớ sửa giúp bác một chữ cho đỡ buồn:
Tôi: “Bài viết của bác lâm ly, thống thiết quá”.
Bác Long: “Buồn lắm ông ạ, đành than một tiếng, chứ chả biết làm thế nào”.
Tôi: “Anh à, nhiều bản chép “Quốc thổ trầm luân dân tộc luỵ” là nhầm chữ tuỵ thành chữ luỵ. Tuỵ ở đây là “khốn khổ”.
Bác Long: “Có phải tuỵ như trong chữ tiều tuỵ không?”.
Tôi: “Dạ phải. Hán Việt tự điển của cụ Thiều Chửu còn chú thêm: “Người vì khó nhọc mà gầy gò đi gọi là nhan sắc tiều tuỵ”. Dân tộc mình cũng thế anh ạ. Mấy nghìn năm hiển hách, rực rỡ một cõi trời Nam nay thành một dân tộc tiều tuỵ…”.
Ngoài kia, trời vẫn đang đổ lửa xuống phố phường Hà Nội, xuống khắp cả đồng quê, rừng núi Việt Nam. Tiết hạ chí mà lại! Nếu đi bộ lúc 12 giờ trưa, ta giẫm lên đầu bóng nắng của ta. Nghĩa là những ngày này ánh sáng mặt trời chiếu vuông góc xuống mặt phẳng trái đất khu vực chúng ta đang sống. Nghĩa là chúng ta đang nhận được nhiều lửa trời nhất. Chỉ có lửa trong lòng người dân Việt thì vẫn chưa cháy lên.
Đ.T.T
Đề tặng Từ Huy cuốn sách
Ảnh: Nguyễn Thị Khánh Trâm
http://xuandienhannom.blogspot.com/2014/07/a-ay-roi-sang-nay-ong-nguyen-phu-trong.html