Khoa Học Thực Nghiệm & Tâm Linh
Nghiên Cứu Mới nhất về Tác Động của Fracking Đối Với Sức Khỏe
Một công nhân sử dụng tai nghe và micro để liên lạc với các đồng nghiệp giữa tiếng ồn của chiếc máy bơm, tại công trường phá vỡ và khai thác khí đốt tự nhiên được tiến hành bởi Encana Oil & Gas (USA) Inc, ở ngoài Rifle, phía tây Colorado. (AP Photo/Brennan Linsley)
Trong nhiều năm, các nhà bảo vệ môi trường và ngành công nghiệp khoan khí luôn đụng độ nhau trong cuộc chiến về tác động của fracking lên sức khỏe con người. Nhưng nếu nhìn rộng hơn về cuộc chiến này với những vụ kiện tụng và sự khác biệt trong các luật định được đề xuất bởi các bang – thì chúng đều bị cản trở do thiếu khoa học.
Tuy nhiên, một nghiên cứu dài hạn có hệ thống về những ảnh hưởng bất lợi của hoạt động khoan khí đốt đối với cộng đồng vẫn chưa được thực hiện. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng tình trạng thiếu kinh phí tài trợ cho những nghiên cứu quy mô lớn là yếu tố ngăn trở chính cho việc giải quyết vấn đề.
Một bài tổng quan về những nghiên cứu liên quan đến sức khỏe công bố trên Environmental Science & Technology kết luận rằng các bài báo khoa học hiện nay đề xuất rằng “ cả quan ngại về tài chính và các bất ổn chính yếu đều cần phải giải quyết”
Tuy nhiên, đối với một số người, họ đang chờ đợi khoa học làm rõ thêm những bất ổn đó trước khi việc thông qua giấy chứng nhận an toàn rất hệ trọng trở thành sai lầm và gây nguy hiểm. Từ đó, một số các nhà khoa học và nhà các hoạt động địa phương ngay lập tức đẩy mạnh cuộc vận động cho những giám sát tích cực hơn.
Nghành công nhiệp nhìn chung coi các nghiên cứu được thực hiện cho đến nay như những giai thoại thiếu thuyết phục, một số các nghiên cứu này công bố tình trạng tỉ lệ bệnh tật cao trong vùng cư dân sinh sống gần khu vực giếng khoan.
“Nghành y tế công cộng đã vắng mặt trong cuộc tranh luận này,” Nadia Steinzor, một nhà nghiên cứu thuộc Dự Án Giải trình về Dầu Khí trong hoạt động phi lợi nhuận liên quan đến môi trường, Earthworks.
Bộ y tế chỉ can dự vào các tiểu bang như New York và Maryland, nơi cơ quan quản lý đáp lại những đánh giá chắc chắn về môi trường và sức khỏe cộng đồng của người dân trước khi ngừng hoạt động fracking. Các tiểu bang này hiện nay đang có lệnh đình chỉ tạm thời hoạt động fracking.
Ủy viên y tế Newyorks Nirav Shah trên thực tế đang tiến hành xem xét những nghiên cứu sức khỏe để trình lên thống đốc bang Andrew Cuomo trước khi ông này đưa ra quyết định có hay không cho phép hoạt động fracking diễn ra trong tiểu bang.
Tuy nhiên, các tiểu bang khác như Pennsylvania và Texas người ta ủng hộ nhiều hơn cho ngành công nghiệp khí đốt. Ví dụ, Texas đã cấp giấy phép cho hoạt động fracking với số lượng ngày càng tăng trong khi đó, Ủy Ban Chất Lượng Môi Trường Texas, cơ quan giám sát chất lượng không khí, đã bị cắt giảm ngân sách đáng kể
1. Một nghiên cứu thăm dò chất lượng không khí gần nơi hoạt động khai thác khí gas tự nhiên. Đánh Giá Rủi Ro Sinh Thái và Con người, 2012
Nghiên cứu được thực hiện tại quận Garfield, Colorado, vào giữa tháng 7/2010 và tháng 10/2011, được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu thuộc Endocrine Disruption Exchange, một tổ chức phi lợi nhuận nghiên cứu tác động của phơi nhiễm hóa chất mức độ thấp lên môi trường và sức khỏe con người.
Trong nghiên cứu, các chuyên viên khảo sát đã thiết lập một trạm lấy mẫu gần một giếng khoan và thu thập mẫu không khí hàng tuần trong 11 tháng, từ khi khoan giếng khí đốt cho đến sau khi bắt đầu khai thác. Các mẫu thu được cho thấy có 57 chất hóa học khác nhau, 45 trong số đó có khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Trong 75% tổng số các mẫu thu được, các nhà nghiên cứu phát hiện ra methyl clorua, một loại dung môi độc hại mà nghành công nghiệp khoan khí đã không công bố trước về sự tồn tại của nó. Các nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng trong giai đoan khoan ban đầu hàm lượng hóa chất đạt cao nhất.
Mặc dù nghiên cứu đã lập nên danh mục hóa chất khác nhau được tìm thấy trong không khí tại nơi khoan khí đốt, nhưng lại không chú tâm đến mức độ phơi nhiễm và hệ quả tiềm ẩn của chúng. Hàm lượng đo được không vượt quá tiêu chuẩn an toàn hiện hành, nhưng đã có nhiều tranh cãi về việc liệu các tiêu chuẩn hiện hành này có nhìn nhận một cách toàn diện các mối đe dọa tiềm tàng đối với sức khỏe của phụ nữ, trẻ em và người cao tuổi hay chưa.
Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận công trình của họ không trọn vẹn vì chưa tiếp cận toàn bộ khu vực khoan khí. Những mẫu không khí thu thập được từ trạm gần với nơi được gọi là giếng khoan, chứ không phải là chính trên giếng khoan đó.
Ngành công nghiệp khoan khí đã tìm cách hạn chế tiết lộ thông tin về hoạt động của mình cho các nhà nghiên cứu. Họ từ chối công khai các hóa chất sử dụng trong hoạt động fracking và giành được lệnh hạn chế công khai trong một vụ kiện, giới hạn khả năng tiếp cận nơi khoan khí của các nhà khoa học. Trong một vụ kiện được công bố rộng rãi, một lệnh hạn chế công khai suốt đời đã được áp dụng với 2 trẻ em bên nguyên đơn tố cáo một công ty khí đốt tổ chức hoạt động fracking không an toàn khiến 2 đứa trẻ ngã bệnh
Năm 2009, Hiệp Hội Dầu Khí độc lập của Mỹ lập nên Energy In Depth, một blog đối đầu với các nhà hoạt động đang đấu tranh chống lại fracking đồng thời thách thức các nghiên cứu chứng minh fracking là không an toàn.
Energy In Depth đáp lại nghiên cứu này của quận Garfield và chỉ trích nghiên cứu có phương pháp tiến hành chưa phù hợp. Bài viết trên blog cũng đặt câu hỏi về tính khách quan của các nhà nghiên cứu, quả quyết rằng “tâm trí của họ đã được định hình”.
Các nhà hoạt động công nghiệp cũng trình làng những nghiên cứu của riêng mình.
Ví dụ, vào năm ngoái, nghành công nghiệp tài trợ cho một nghiên cứu về thải khí metan từ các giếng fracking, nghiên cứu được công bố trên tạp chí có uy tín, Proceedings of the National Academy of Sciences. Trong đó kết luận rằng chỉ một lượng rất khiêm tốn khí metan – được cho là góp phần vào biến đổi khí hậu – được thải vào không khí trong hoạt động fracking
Nghiên cứu vấp phải chỉ trích nặng nề từ Robert Howarth thuộc đại học Cornell , người 2 năm trước đã xuất bản công trình trong đó tuyên bố lượng khí thải metan từ hoạt động khai thác khí là rất đáng kể.
“Nghiên cứu này chỉ dựa trên đánh giá tại các địa điểm và thời gian đã được ngành công nghiệp chỉ định,” ông nói.
2. Phát triển khí đốt tự nhiên và hệ quả sinh sản. Những nhận định về sức khỏe môi trường, 2014.
Nghiên cứu đã kiểm tra những đứa trẻ sinh từ 1996 đến 2009 tại vùng nông thôn Colorado – một tiểu bang là trung tâm của hoạt đông fracking trong hơn một thập kỷ. Nghiên cứu được thực hiện bởi Trường Y tế Công cộng Colorado và Đại học Brown.
Nghiên cứu khẳng định những phụ nữ sinh sống gần giếng khí có nhiều khả năng sinh con đa dạng dị tật, từ chẻ vòm hầu đến các vấn đề tim mạch. Ví dụ, nghiên cứu cho rằng những bà mẹ sống gần khu vực mật độ giếng khí cao có con sinh ra mắc bệnh tim bẩm sinh chiếm 30%.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu không thể tính đến dữ liệu về sức khỏe bà mẹ, chế độ chăm sóc trước khi sinh, gen di truyền và hàng loạt những yếu tố khác có thể tăng nguy cơ mắc bệnh tim bẩm sinh, nguyên nhân là vì những thông tin đó không được phép công khai. Một chỉ trích chung cho những nghiên cứu này là họ không phân tích toàn diện khả năng tác động của các yếu tố khác.
Do đó nghiên cứu đã chịu sự công kích từ cả ngành công nghiệp lẫn quan chức y tế công cộng của tiểu bang. Trong một phát biểu, giám đốc y tế tiểu bang, tiến sĩ Larry Wolk nói “mọi người không nên vội vàng phán xét” vì “nhiều yếu tố góp phần gây di tật bẩm sinh đã bị bỏ qua” trong nghiên cứu.
Nhưng Lisa McKenzie, một trong những tác giả chính của nghiên cứu, cho rằng công trình này có giá trị. “Điều tôi nghĩ là công trình này nói cho mọi người biết rằng chúng ta cần nhiều nghiên cứu hơn để gỡ rối các vấn đề đang diễn ra và để xem những nghiên cứu đi đầu này có đứng vững trước những nghiên cứu chính xác hơn hay không.” Cô nói.
Ở Pennsylvania, Elaine Hill, một nghiên cứu sinh sau đại học tại trường đại học Cornell , đã thu được dữ liệu về giếng khí và các ca sinh giữa năm 2003 và 2010. Sau đó cô so sánh với trọng lượng trẻ sơ sinh tại khu vực diễn ra hoạt đông khoan khí với những nơi không có hoạt động này như Pennsylvia. Hill nhận thấy con của các bà mẹ sinh sống trong phạm vi 2.5 km của vùng khoan khí có 25% là nhẹ cân hơn so với những bé sơ sinh ở những vùng khác. Những đứa trẻ có cân nặng dưới 2.5 kg khi mới sinh được coi là nhẹ cân
Công trình của Hill hiện đang được thẩm định bởi một tạp chí khoa học có uy tín, quá trình thẩm định này phải mất 3 – 4 năm.
3. Nguy cơ sức khỏe và nguồn khí gas tự nhiên bất quy ước. Khoa học tổng quan môi trường, 2012.
Giữa tháng 01 năm 2008 và tháng 11 năm 2010, các nhà nghiên cứu thuộc Trường Y tế Công cộng Colorado đã thu thập mẫu không khí tại quận Garfield, Colorado, nơi diễn ra các hoạt động khoan khí mạnh mẽ. Các nhà nghiên cứu nhận thấy sự hiện diện một lượng mớn hydrocacbon bao gồm cả benzen, trimethylbenzene và xylene, tất cả cho thấy sự nguy hại đối với sức khỏe ở những mức độ nhất định.
Các nhà nghiên cứu xác nhận rằng những người sống gần giếng khí hơn nửa dặm có nguy cơ cao về các vấn đề sức khỏe. Nghiên cứu cũng tìm thấy sự tăng nhẹ nguy cơ mắc bệnh ung thư và cho rằng phơi nhiễm với benzen là yếu tố góp phần làm tăng nguy cơ.
“Từ các dữ liệu mà chúng tôi có, dường như giai đoạn hoàn thành giếng khoan phát sinh nhiều khí thải nhất.”
Trong giai đoạn hoàn thành công đoạn khoan, hỗn hợp gồm nước, cát và hóa chất được ép xuống giếng khoan dưới áp suất cao sau đó được đưa lên trở lại. Hỗn hợp trở lên, chứa nhiều chất phóng xạ và khí gas tự nhiên của quá trình kiến tạo địa chất, mà người ta cho là đã được thu gom hết. Nhưng vào những thời điểm hỗn hợp trở lên trên với áp suất cao hơn áp suất hệ thống thì một lượng lớn khí gas trực tiếp thải vào không khí
“Tôi nghĩ chúng ta nên tập trung vào mọi thứ từ đầu đến cuối vì rất nhiều nguy cơ tiềm tàng không chỉ xoay quanh bước làm phá vỡ bằng thủy lực,” theo lời của John Adgate, Trưởng khoa môi trường và sức khỏe nghề nghiệp thuộc Trường Y tế cộng đồng Colorado, đồng tác giả của nghiên cứu
Energy In Depth, blog của nghành công nghiệp khai khí, đáp lại từng chi tiết của nghiên cứu này và trích dẫn một số “đầu vào xấu” tác động đến kết quả nghiên cứu. Giả định và số liệu của các nhà nghiên cứu đã bị chỉ trích. Ví dụ các nhà nghiên cứu đã cho rằng cư dân Garfield sẽ ở mãi trong quận cho đến 70 tuổi để ước lượng khoảng thời gian phơi nhiễm khí thải.
“Trừ khi thành phố là một nhà tù, đây là một giả định thiếu sót cơ bản về cả khoảng thời gian lẫn phạm vi tiếp xúc,” Energy In Depth viết.
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Sinh thái học dưới góc nhìn của Tam giáo" - Gs Thái Công Tụng / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Chuyện Ukraine : Mặt trận không tiếng súng Cyberwar (Chiến tranh mạng) – Trần Lý ( TVQ chuyển )
- Tàu thăm dò Perseverance hạ cánh sao Hỏa sau '7 phút kinh hoàng'
- Các nhà nghiên cứu tìm ra công nghệ mới cho phép sạc điện thoại thông qua sóng Wi-Fi
- Các nhà nghiên cứu tìm ra công nghệ mới cho phép sạc điện thoại thông qua sóng Wi-Fi
Nghiên Cứu Mới nhất về Tác Động của Fracking Đối Với Sức Khỏe
Một công nhân sử dụng tai nghe và micro để liên lạc với các đồng nghiệp giữa tiếng ồn của chiếc máy bơm, tại công trường phá vỡ và khai thác khí đốt tự nhiên được tiến hành bởi Encana Oil & Gas (USA) Inc, ở ngoài Rifle, phía tây Colorado. (AP Photo/Brennan Linsley)
Trong nhiều năm, các nhà bảo vệ môi trường và ngành công nghiệp khoan khí luôn đụng độ nhau trong cuộc chiến về tác động của fracking lên sức khỏe con người. Nhưng nếu nhìn rộng hơn về cuộc chiến này với những vụ kiện tụng và sự khác biệt trong các luật định được đề xuất bởi các bang – thì chúng đều bị cản trở do thiếu khoa học.
Tuy nhiên, một nghiên cứu dài hạn có hệ thống về những ảnh hưởng bất lợi của hoạt động khoan khí đốt đối với cộng đồng vẫn chưa được thực hiện. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng tình trạng thiếu kinh phí tài trợ cho những nghiên cứu quy mô lớn là yếu tố ngăn trở chính cho việc giải quyết vấn đề.
Một bài tổng quan về những nghiên cứu liên quan đến sức khỏe công bố trên Environmental Science & Technology kết luận rằng các bài báo khoa học hiện nay đề xuất rằng “ cả quan ngại về tài chính và các bất ổn chính yếu đều cần phải giải quyết”
Tuy nhiên, đối với một số người, họ đang chờ đợi khoa học làm rõ thêm những bất ổn đó trước khi việc thông qua giấy chứng nhận an toàn rất hệ trọng trở thành sai lầm và gây nguy hiểm. Từ đó, một số các nhà khoa học và nhà các hoạt động địa phương ngay lập tức đẩy mạnh cuộc vận động cho những giám sát tích cực hơn.
Nghành công nhiệp nhìn chung coi các nghiên cứu được thực hiện cho đến nay như những giai thoại thiếu thuyết phục, một số các nghiên cứu này công bố tình trạng tỉ lệ bệnh tật cao trong vùng cư dân sinh sống gần khu vực giếng khoan.
“Nghành y tế công cộng đã vắng mặt trong cuộc tranh luận này,” Nadia Steinzor, một nhà nghiên cứu thuộc Dự Án Giải trình về Dầu Khí trong hoạt động phi lợi nhuận liên quan đến môi trường, Earthworks.
Bộ y tế chỉ can dự vào các tiểu bang như New York và Maryland, nơi cơ quan quản lý đáp lại những đánh giá chắc chắn về môi trường và sức khỏe cộng đồng của người dân trước khi ngừng hoạt động fracking. Các tiểu bang này hiện nay đang có lệnh đình chỉ tạm thời hoạt động fracking.
Ủy viên y tế Newyorks Nirav Shah trên thực tế đang tiến hành xem xét những nghiên cứu sức khỏe để trình lên thống đốc bang Andrew Cuomo trước khi ông này đưa ra quyết định có hay không cho phép hoạt động fracking diễn ra trong tiểu bang.
Tuy nhiên, các tiểu bang khác như Pennsylvania và Texas người ta ủng hộ nhiều hơn cho ngành công nghiệp khí đốt. Ví dụ, Texas đã cấp giấy phép cho hoạt động fracking với số lượng ngày càng tăng trong khi đó, Ủy Ban Chất Lượng Môi Trường Texas, cơ quan giám sát chất lượng không khí, đã bị cắt giảm ngân sách đáng kể
1. Một nghiên cứu thăm dò chất lượng không khí gần nơi hoạt động khai thác khí gas tự nhiên. Đánh Giá Rủi Ro Sinh Thái và Con người, 2012
Nghiên cứu được thực hiện tại quận Garfield, Colorado, vào giữa tháng 7/2010 và tháng 10/2011, được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu thuộc Endocrine Disruption Exchange, một tổ chức phi lợi nhuận nghiên cứu tác động của phơi nhiễm hóa chất mức độ thấp lên môi trường và sức khỏe con người.
Trong nghiên cứu, các chuyên viên khảo sát đã thiết lập một trạm lấy mẫu gần một giếng khoan và thu thập mẫu không khí hàng tuần trong 11 tháng, từ khi khoan giếng khí đốt cho đến sau khi bắt đầu khai thác. Các mẫu thu được cho thấy có 57 chất hóa học khác nhau, 45 trong số đó có khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Trong 75% tổng số các mẫu thu được, các nhà nghiên cứu phát hiện ra methyl clorua, một loại dung môi độc hại mà nghành công nghiệp khoan khí đã không công bố trước về sự tồn tại của nó. Các nhà nghiên cứu cũng lưu ý rằng trong giai đoan khoan ban đầu hàm lượng hóa chất đạt cao nhất.
Mặc dù nghiên cứu đã lập nên danh mục hóa chất khác nhau được tìm thấy trong không khí tại nơi khoan khí đốt, nhưng lại không chú tâm đến mức độ phơi nhiễm và hệ quả tiềm ẩn của chúng. Hàm lượng đo được không vượt quá tiêu chuẩn an toàn hiện hành, nhưng đã có nhiều tranh cãi về việc liệu các tiêu chuẩn hiện hành này có nhìn nhận một cách toàn diện các mối đe dọa tiềm tàng đối với sức khỏe của phụ nữ, trẻ em và người cao tuổi hay chưa.
Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận công trình của họ không trọn vẹn vì chưa tiếp cận toàn bộ khu vực khoan khí. Những mẫu không khí thu thập được từ trạm gần với nơi được gọi là giếng khoan, chứ không phải là chính trên giếng khoan đó.
Ngành công nghiệp khoan khí đã tìm cách hạn chế tiết lộ thông tin về hoạt động của mình cho các nhà nghiên cứu. Họ từ chối công khai các hóa chất sử dụng trong hoạt động fracking và giành được lệnh hạn chế công khai trong một vụ kiện, giới hạn khả năng tiếp cận nơi khoan khí của các nhà khoa học. Trong một vụ kiện được công bố rộng rãi, một lệnh hạn chế công khai suốt đời đã được áp dụng với 2 trẻ em bên nguyên đơn tố cáo một công ty khí đốt tổ chức hoạt động fracking không an toàn khiến 2 đứa trẻ ngã bệnh
Năm 2009, Hiệp Hội Dầu Khí độc lập của Mỹ lập nên Energy In Depth, một blog đối đầu với các nhà hoạt động đang đấu tranh chống lại fracking đồng thời thách thức các nghiên cứu chứng minh fracking là không an toàn.
Energy In Depth đáp lại nghiên cứu này của quận Garfield và chỉ trích nghiên cứu có phương pháp tiến hành chưa phù hợp. Bài viết trên blog cũng đặt câu hỏi về tính khách quan của các nhà nghiên cứu, quả quyết rằng “tâm trí của họ đã được định hình”.
Các nhà hoạt động công nghiệp cũng trình làng những nghiên cứu của riêng mình.
Ví dụ, vào năm ngoái, nghành công nghiệp tài trợ cho một nghiên cứu về thải khí metan từ các giếng fracking, nghiên cứu được công bố trên tạp chí có uy tín, Proceedings of the National Academy of Sciences. Trong đó kết luận rằng chỉ một lượng rất khiêm tốn khí metan – được cho là góp phần vào biến đổi khí hậu – được thải vào không khí trong hoạt động fracking
Nghiên cứu vấp phải chỉ trích nặng nề từ Robert Howarth thuộc đại học Cornell , người 2 năm trước đã xuất bản công trình trong đó tuyên bố lượng khí thải metan từ hoạt động khai thác khí là rất đáng kể.
“Nghiên cứu này chỉ dựa trên đánh giá tại các địa điểm và thời gian đã được ngành công nghiệp chỉ định,” ông nói.
2. Phát triển khí đốt tự nhiên và hệ quả sinh sản. Những nhận định về sức khỏe môi trường, 2014.
Nghiên cứu đã kiểm tra những đứa trẻ sinh từ 1996 đến 2009 tại vùng nông thôn Colorado – một tiểu bang là trung tâm của hoạt đông fracking trong hơn một thập kỷ. Nghiên cứu được thực hiện bởi Trường Y tế Công cộng Colorado và Đại học Brown.
Nghiên cứu khẳng định những phụ nữ sinh sống gần giếng khí có nhiều khả năng sinh con đa dạng dị tật, từ chẻ vòm hầu đến các vấn đề tim mạch. Ví dụ, nghiên cứu cho rằng những bà mẹ sống gần khu vực mật độ giếng khí cao có con sinh ra mắc bệnh tim bẩm sinh chiếm 30%.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu không thể tính đến dữ liệu về sức khỏe bà mẹ, chế độ chăm sóc trước khi sinh, gen di truyền và hàng loạt những yếu tố khác có thể tăng nguy cơ mắc bệnh tim bẩm sinh, nguyên nhân là vì những thông tin đó không được phép công khai. Một chỉ trích chung cho những nghiên cứu này là họ không phân tích toàn diện khả năng tác động của các yếu tố khác.
Do đó nghiên cứu đã chịu sự công kích từ cả ngành công nghiệp lẫn quan chức y tế công cộng của tiểu bang. Trong một phát biểu, giám đốc y tế tiểu bang, tiến sĩ Larry Wolk nói “mọi người không nên vội vàng phán xét” vì “nhiều yếu tố góp phần gây di tật bẩm sinh đã bị bỏ qua” trong nghiên cứu.
Nhưng Lisa McKenzie, một trong những tác giả chính của nghiên cứu, cho rằng công trình này có giá trị. “Điều tôi nghĩ là công trình này nói cho mọi người biết rằng chúng ta cần nhiều nghiên cứu hơn để gỡ rối các vấn đề đang diễn ra và để xem những nghiên cứu đi đầu này có đứng vững trước những nghiên cứu chính xác hơn hay không.” Cô nói.
Ở Pennsylvania, Elaine Hill, một nghiên cứu sinh sau đại học tại trường đại học Cornell , đã thu được dữ liệu về giếng khí và các ca sinh giữa năm 2003 và 2010. Sau đó cô so sánh với trọng lượng trẻ sơ sinh tại khu vực diễn ra hoạt đông khoan khí với những nơi không có hoạt động này như Pennsylvia. Hill nhận thấy con của các bà mẹ sinh sống trong phạm vi 2.5 km của vùng khoan khí có 25% là nhẹ cân hơn so với những bé sơ sinh ở những vùng khác. Những đứa trẻ có cân nặng dưới 2.5 kg khi mới sinh được coi là nhẹ cân
Công trình của Hill hiện đang được thẩm định bởi một tạp chí khoa học có uy tín, quá trình thẩm định này phải mất 3 – 4 năm.
3. Nguy cơ sức khỏe và nguồn khí gas tự nhiên bất quy ước. Khoa học tổng quan môi trường, 2012.
Giữa tháng 01 năm 2008 và tháng 11 năm 2010, các nhà nghiên cứu thuộc Trường Y tế Công cộng Colorado đã thu thập mẫu không khí tại quận Garfield, Colorado, nơi diễn ra các hoạt động khoan khí mạnh mẽ. Các nhà nghiên cứu nhận thấy sự hiện diện một lượng mớn hydrocacbon bao gồm cả benzen, trimethylbenzene và xylene, tất cả cho thấy sự nguy hại đối với sức khỏe ở những mức độ nhất định.
Các nhà nghiên cứu xác nhận rằng những người sống gần giếng khí hơn nửa dặm có nguy cơ cao về các vấn đề sức khỏe. Nghiên cứu cũng tìm thấy sự tăng nhẹ nguy cơ mắc bệnh ung thư và cho rằng phơi nhiễm với benzen là yếu tố góp phần làm tăng nguy cơ.
“Từ các dữ liệu mà chúng tôi có, dường như giai đoạn hoàn thành giếng khoan phát sinh nhiều khí thải nhất.”
Trong giai đoạn hoàn thành công đoạn khoan, hỗn hợp gồm nước, cát và hóa chất được ép xuống giếng khoan dưới áp suất cao sau đó được đưa lên trở lại. Hỗn hợp trở lên, chứa nhiều chất phóng xạ và khí gas tự nhiên của quá trình kiến tạo địa chất, mà người ta cho là đã được thu gom hết. Nhưng vào những thời điểm hỗn hợp trở lên trên với áp suất cao hơn áp suất hệ thống thì một lượng lớn khí gas trực tiếp thải vào không khí
“Tôi nghĩ chúng ta nên tập trung vào mọi thứ từ đầu đến cuối vì rất nhiều nguy cơ tiềm tàng không chỉ xoay quanh bước làm phá vỡ bằng thủy lực,” theo lời của John Adgate, Trưởng khoa môi trường và sức khỏe nghề nghiệp thuộc Trường Y tế cộng đồng Colorado, đồng tác giả của nghiên cứu
Energy In Depth, blog của nghành công nghiệp khai khí, đáp lại từng chi tiết của nghiên cứu này và trích dẫn một số “đầu vào xấu” tác động đến kết quả nghiên cứu. Giả định và số liệu của các nhà nghiên cứu đã bị chỉ trích. Ví dụ các nhà nghiên cứu đã cho rằng cư dân Garfield sẽ ở mãi trong quận cho đến 70 tuổi để ước lượng khoảng thời gian phơi nhiễm khí thải.
“Trừ khi thành phố là một nhà tù, đây là một giả định thiếu sót cơ bản về cả khoảng thời gian lẫn phạm vi tiếp xúc,” Energy In Depth viết.