Quán Bên Đường
Người Chết Dưới Chân Chúa
Tôi ngồi trên mui tầu thả từng mẩu giấy vụn xuống giòng nước, trí não lãng đãng như bọt sóng.
Đoàn xe rời Quốc Lộ 4 rẽ về phía phải theo con đường đỏ hướng phi trường Trúc Giang qua ngôi trường tiểu học quận, một dẫy quan tài sắp lớp, mùi thây chết bốc lên ngây ngất. Biệt Động Quân (BĐQ), Tiểu Đoàn 41, nghe nói hình như tiểu đoàn trưởng hay tiểu đoàn phó bị chết. Lính ở trên xe xì xầm bàn tán với một vẻ thản nhiên. Họ không biết chiến trận đã đến hồi khốc liệt, nên chiến đoàn dù gồm có tiểu đoàn chúng tôi và một tiểu đoàn bạn đã có mặt tại vùng hành quân từ ngày trước.
Đến phi trường, nơi đặt bộ chỉ huy của khu chiến thuật Tiền Giang, trung tâm của cuộc hành quân, chúng tôi được lệnh ngủ tại đây để chờ ngày mai trực thăng vận vào vùng hành quân. Tôi chưa được dự trận lớn, nên không có ý niệm về những gay go sắp đến trong ngày mai, bình thản ngủ một giấc yên lặng với kết luận: trực thăng vận đối với Nhảy Dù chỉ là trò đùa, không có gì mới lạ.
Ngày 22, lúc 8 giờ hai pháo đội đặt ở phi trường hướng súng về bãi đáp nhả đạn liên hồi để dọn bãi. Lấy cái chết của phe địch để làm an toàn cho phe mình, nguyên lý của chiến tranh quả thật tàn khốc. Tiếng súng dọn bãi vừa dứt, ba mươi chiếc trực thăng đồng bốc lên một lượt mang hai đại đội 71 và 72 vào trận địa.
Báo cáo xuống bãi tốt, bình yên. Phần còn lại của tiểu đoàn được trực thăng vận tiếp theo. Toàn bộ tiểu đoàn đã xuống đủ, hai đại đội 71 và 73 dẫn đầu cho đơn vị, di chuyển được mười lăm phút. Súng nổ. Đụng rồi, đụng rồi… Lính dáo dác, máy truyền tin chuyển lệnh nghe loạn xạ. Phía trước của tiểu đoàn súng nổ lẫn lộn, tiếng khô và cứng của ta, sắc nhọn của địch. Đại Đội 72 rút lên bố trí về phía phải của Đại Đội 73.
Lệnh cho đại đội chúng tôi lên thật nhanh. Ngang qua chỗ của thiếu tá tiểu đoàn trưởng, một tiếng nổ thật lớn nháng lửa ngay trước mặt, quả đạn 57 ly vừa nổ khi ra ngay khỏi nòng, người phụ xạ thủ bắn tung ra đằng sau, một bàn tay bị đứt. Ông tiểu đoàn trưởng hét lớn qua màu khói. Trung đội anh
chạy ra cái nhà tranh…
Như vậy là đụng lớn, người bị thương nằm la liệt ở dưới các rãnh dừa nước, Toàn đang đứng trong một giao thông hao chỉ trỏ quát tháo. Phía tay trái nơi xa có tiếng lựu đạn nổ và tiếng hô xung phong. Trung đội tôi ép phải, hướng tiến bây giờ thẳng góc với các con kinh nhỏ, nên chúng tôi chỉ có thể nhảy từng bước thật dài trên bờ kinh, một cái nhảy hụt tôi rơi vào đường mương vùng với hai người khinh binh. Bám cỏ bò lên, xác hai cán binh Việt Cộng nằm tênh hênh, một xác bị banh nát ngực, xác kia nằm xấp, không rõ. Người chết, lần đầu tiên tôi chạm phải một thây chết của đối phương.
- Lên đi tụi mày, thằng nào trốn đàng sau, tao bắn gãy giò… Tôi quát tháo cũng ra gì, mấy tên lính đi chậm dớn dác tìm lối qua rạch họ không nhảy qua được vì mang đồ quá nặng. Đ.m. có nhảy qua được không? Thường ngày sao liến xáo quá cỡ, hôm nay lại chậm như rùa.
Tôi chửi mắng om sòm. Trung đội đến bờ làng dừng lại bố trí trông ra cánh đồng trống. Ngồi dựa vào một gốc dừa, tôi thấy mệt vì phải quát tháo quá nhiều, nhớ lại lời chửi tục. Tôi đã thành một người lạ nào đấy. Địch từ phía trái chạy vọt qua, bóng áo đen ẩn hiện đàng sau rặng dừa xanh bên kia cánh đồng. Bắn. Bắn. Trung đội tôi khai hỏa ròn rã. Một vài bóng áo đen ngã xuống. Hơi thuốc súng, hơi bùn lầy, máu người chết xông lên ngây ngấy.
Sáu giờ chiều, tiếng súng phía bên trái, hướng Đại Đội 71 hoàn toàn chấm dứt, trực thăng tải thương bắt đầu đến, khói mầu xanh làm dấu bãi đáp bốc lên mờ mịt làm đặc không gian đang ngã vào đêm, rừng dừa xanh thẩm lại. Tiếng súng vu vơ của địch bắn lên máy bay khi tháo lui. Tôi ngồi dựa gốc dừa, mệt mỏi đến tột độ, một tên lính mò lại bên cạnh.
- Thiếu úy ăn cháo gà.
- Cháo gà?
- Dạ, gà em bắt được, nó còn ấp trứng…
- Thôi mầy cho tao quả trứng, tao ăn cháo không nổi.
Khi lính trong trung đội xịt xoạt ăn cháo, tôi đi lui về phía xác hai cán binh Việt Cộng. Người nằm sấp bây giờ lật ngược lại, có lẽ đấy là cử động cuối cùng của anh ta trước khi chết. Tôi đặt tay lên một xác chết, da người chết lạnh tanh. Đêm xuống, chúng tôi trải Poncho nằm trên bờ rạch, không cởi giày, địch có ý tấn công lại nên phải đề phòng.
Tiểu đoàn tiếp tục truy kích, hôm nay đại đội tôi đi đầu, trung đội tôi dẫn đầu đại đội, chúng tôi đi dọc một con kinh lớn, rừng dừa xanh ngút tầm mắt, thôn xóm trù phú nhưng không một bóng người. Chúng tôi dè dặt từng bước đi.
- Hầm có dấu chân người. Tản rộng ra chung quanh, một người đến xem mà thôi. Tôi ra lệnh.
- Ai ở dưới, đi lên! Im lặng…
- Lên không tao ném lựu đạn xuống! Thiếu úy, cho em ném lựu đạn xuống. Người lính hỏi ý kiến.
- Không, mầy bắn xuống mà thôi.
Tên lính lanh lẹ bắn một tràng Thompson, có tiếng rên khe khẽ.
- Lên không bắn nữa. Đưa tay lên trước.
Tôi nín thở, một chiếc đầu bạc phơ từ từ nhô lên khỏi miệng hầm, ông lão bế một bà lão lên theo. Vừa ra khỏi hầm ông lão chấp tay xá bốn hướng xụt xùi khóc lóc, bà lão nằm vật xuống, ở đầu có một vết thương.
Đến buổi trưa, tôi hoàn toàn kiệt lực như một mũi tên rơi xuống khỏi cuối đường bay. Hình ảnh hai mái tóc bạc nhô lên từ miệng hầm, nét mặt hốt hoảng của hai cán binh Việt Cộng chưa quá mười sáu tuổi lôi lên từ một đám bèo, một người còn đang ngậm một búng cơm. Những hình ảnh đó bây giờ cộng thêm cảnh chết của hai vợ chồng và ba đứa con trước mắt tôi. Họ chết từ ngày hôm kia, khi địch đặt bộ chỉ huy ở khu nhà thờ, người chống là ông Từ giữ nhà thờ đã đem cả gia đình vào trốn dưới cái bệ thờ Chúa.
Tượng Đức Chúa ngả nghiêng, tượng hai thiên thần rơi tung tóe, hai bàn tay trắng bằng đất nung lăn lóc trên sàn nhà. Khi tôi cúi xuống nhặt hai bàn tay nầy thì khám phá ra năm xác chết trên. Họ chết ngồi, hai vợ chồng ngồi sát nhau ôm ba người con trước ngực. Họ chết vì bị sức ép nên thân thể vẫn còn nguyên vẹn, nét mặt in vẻ hốt hoảng. Tôi ra lệnh kéo xác họ ra sân.
Giáo đường bây giờ im vắng, tượng Chúa linh động trong vị thế nghiêng ngả, nắng ở ngoài không rọi vào, không khí nặng nề lạnh ngắt. Tôi ngồi xuống trên chiếc ghế, hỏi thầm: Thượng đế, ngài có thật đấy chăng?
Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà của những người chết, một chiếc áo tím chắc hẳn của cô con gái còn phơi phới bay trong gió. Nhìn ra xa, xác cô gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng thật sáng, rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan nghiệt vào tim, thật buồn.
Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái chết quả là một bi thảm, nhưng hình ảnh của cô gái nằm chết trong khi chiếc áo còn bay trong gió vang vang trong trí náo tôi như một tiếng kêu thê thảm không biên giới. Hai ông bà cụ già, người Việt Cộng trẻ, người cha và người mẹ, họ đã sống, đã chết dù sao cũng có chủ đích, có chọn lựa, cũng đã qua gần hết cảnh sống. Cô gái chết bất ngờ không báo trước, yêu đời như màu tươi của chiếc áo. Tôi choáng váng ngộp thở, người lao đao trong một niềm giận dỗi và sầu muộn mênh mông.
Đụng lớn. Tiểu đoàn lấy được một lô súng đạn, thừa thắng xông lên truy kích địch để lùa họ về Quốc lộ Bốn. Bên trái là sông Tiền Giang. Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù bên phải làm thành phần chận bít. Tiểu đoàn tôi lùa địch từ đông sang tây. Việt cộng phân tán thành từng toán nhỏ để trốn. Ba đại đội tác chiến được xử dụng để lục soát không chừa một hốc nhỏ. Việt Cộng được moi lên từ các ao bèo, bờ lúa, đun rơm, cuộc truy kích vừa khôi hài vừa hào hứng như trò chơi.
Tôi lầm lì đi giữa hàng quân, trận đánh ngày hôm qua, một đêm mất ngủ, cái chết hàng loạt của Việt Cộng, những thây ma tênh hênh lăn lóc, tất cả đổ ào xuống một lượt trên linh hồn còn hồn nhiên. Tôi ngất ngư như lần đầu tiên uống rượu như đây là cơn say đen. Xua quân đi vào một vườn dừa rộng, tiểu đội bên trái, tiểu đội bên phải, lục soát dọc theo hai con rạch nhỏ bao quanh khu vườn. Tôi đi vào ngôi nhà đang âm ỉ cháy, những chiếc cột lớn lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xanh ngắt.
Một người đàn bà áo trắng quần đen tay ôm chiếc lẳng mây trước ngực ngồi im trên nền gạch đôi mắt nhìn thẳng ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy, đứng thẳng người như pho tượng, như thân cây chết với đôi mắt không phản ứng. Thằng bé theo tôi cùng tên Hiệu thính viên lẻn ngay vào bếp kiếm thức ăn. Tôi đi đến trước chị đàn bà.
- Làm gì chị ngồi đây, không biết đang đánh nhau sao? Im lặng, đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nhìn sợ hãi. Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng chiếc lẳng mây vào mặt tôi, động tác nhanh và gọn như một người tập thể dục. Sau thoáng ngạc nhiên tôi đưa tay đón lấy. Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu, gói giấy nhỏ buộc chặt bằng dây cao su. Mở gói, hai sợi dây chuyền vàng một đôi bông tai.
- Của chị đây hả? Vẫn im lặng, nỗi im lặng ngột ngạt lạnh lùng.
- Con mẹ này điên rồi thiếu úy, chắc sợ quá hóa điên.
Tên hiệu thính viên thì thầm sau lưng tôi, mắt nó sáng lên khi nhìn vào những miếng vàng chói trên giấy. Vàng, chắc cũng hơn một lượng, lấy đi thiếu úy. Ê! Đi đi. Tên lính xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước đi như xác chết nhập tràng.
Chị kia quay lại đây tôi trả cái này. Tôi nói vọng theo. Người đàn bà xoay lại, cũng với những bước chân im lặng, trở về đứng trước mặt tôi nhưng đôi mắt bây giờ chứa đầy sợ hãi, một vẻ hốt hoảng thảm hại làm răn rúm khuôn mặt và run đôi môi. Chị ta còn trẻ lắm, khoảng trên dưới 27, 28 tuổi, da trắng mát tự nhiên, một ít tóc xõa xuống trán làm nét mặt thêm thanh tú.
Tôi đưa trả chiếc lẳng mây, chị đàn bà đưa tay đón lấy, cánh tay run rẩy như tiếng khóc bị dồn xuống. Chiếc lẳng rơi xuống đất, hai cánh tay thả xuống mệt nhọc song song với thân thể. Dòng nước mắt chảy dài trên má. Tôi hươi mũi súng trước mặt chị ta. Ngồi đây. Tôi chỉ nòng súng vào bực tam cấp. Khi nào tụi tui đi thì chị đi theo. Tại sao khóc, nhặt vàng lên chứ. Im lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ quái, thân thể người đàn bà cứ run lên bần bật, nước mắt ràn rụa.
Từ từ chị đưa bàn tay lên hàng nút áo trước ngực. Không! Không thể như thế được, tôi muốn nắm bàn tay kia để ngăn những ngón tay run rẩy đang mở dần những hàng nút bóp để phơi dưới nắng một phần ngực trắng hồng. Không phải như thế chị ơi. Người đàn bà đã hiểu lầm vì tôi không lấy vàng và bắt đứng lại, chị ta không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị ta tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm. Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan 21 tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hờn đến ngần này.
Tôi đi lính đánh giặc chỉ vì một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến trang bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu với ngộ nhận tủi hổ này. Thê thảm cho tôi, cho những người lính chung quanh vì lính chúng tôi có thể tàn bạo trong khoảnh khắc, tham lam trong lén lút nhưng chúng tôi đâu phải là một thứ lính tẩy trên quê hương.
Người ngoại cuộc của những tàn phá kinh tởm do chiến tranh này gây nên. Chúng tôi có lòng nào hưởng cảm giác trên xác thân của một người đàn bà Việt Nam trong cơn vỡ nát kinh hoàng đau đớn. Khổ lắm, người đàn bà của tỉnh Kiến Hoà đâu có biết rằng chúng tôi không bao giờ muốn huênh hoang, hung bạo trong vườn xanh bóng mát này, chúng tôi đâu có muốn tạo những ngọn lửa oan uổng thiêu đốt căn nhà bình yên như giấc mơ của chị. Và những mảnh vàng đó, thân thể chị đây ai có can đảm để giang tay cướp phá và xâm phạm!
Tôi muốn đưa tay lên gài những nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị nhưng chân tay cứng ngắc hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp, đời sống nào đã đưa chị và cơn sợ hãi mê muội để dẫn dắt cho những ngón tay cởi tung hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước mắt chan hòa trên khuôn mặt đôn hậu đầy kinh hãi.
Quân rút ra khỏi làng, chị đàn bà đi theo chúng tôi, vẫn với những bước đi ngượn ngập cứng nhắc, vẫn đôi mắt nhìn vào khoảng trống không cảm giác. Người đàn bà Việt Nam bước đi trong ngỡ ngàng với hạnh phúc khốn nạn: hạnh phúc đến chót sau những đau khổ rời rã, hạnh phúc lạ lùng như chiêm bao thấy thân thể chưa bao giờ bị xúc phạm.
Quân rút ra gần đến Quốc lộ, con sông đầy thuyền, hỗn loạn bóng người chen chúc, dân của vùng hành quân trốn ra từ ngày trước. Tiếng người kêu la vang dội một khoảng sông. Họ hỏi thăm tình trạng nhà cửa, người thân thích người kẹt trong vùng hành quân. Có tiếng khóc vang lên: “Trời ơi nhà ông Năm bị chết hết cả nhà rồi bà con cô bác ơi!” Tiếng kêu thê thảm như một kẻ đắm đò.
“Lai! Mày đó Lai ơi!” Bà già dưới sông mồm kêu tay ngoắc chị đàn bà theo chúng tôi. Chị ta dừng lại như để nhớ một dĩ vãng, như nhớ một đời sống đã đi qua. “Lai! Lai ơi, má đây con…” chị đàn bà đứng lại xoay người về phía dòng sông… “Má! Má!” Tôi thấy đôi môi run rẩy thì thầm: “Nhà cháy rồi, nhà cháy rồi.” Chị ta đi lần ra phía bờ sông, cũng với những bước chân của người mất hồn, bóng áo trắng nổi hẳn trên đám dừa xanh…
Tôi cúi đầu đi thẳng, mắng mấy thằng lính đứng tần ngần nhìn theo người đàn bà. “Tiên sư, đi lẹ còn qua phà sớm.” Lòng ngập một niềm ăn năn kỳ lạ…
Chiếc phà đưa tiểu đoàn chúng tôi về Mỹ Tho, dân chúng ta ra đứng nhìn cảm phục. Tôi đóng quân ở sân vận động. Tôi đi lên chiếc cầu hướng về phía Gò Công dòng nước đen thấp thoáng ánh đèn chảy siết dưới chân cầu đục ngầu như linh hồn tôi. Đêm tỉnh lẻ đỏm dáng tội nghiệp, tôi đi lang thang, thật lạ ngay với chính mình. Gặp Bang ở Biệt Động Quân, anh chàng nhỏ người nhưng ồn ào nhất trong số mười lăm anh Khóa 15 Thủ Đức về Biệt Động Quân. Bang đãi tôi cơm, tôi chỉ uống đượi chai bia, xong chúng tôi đi coi ciné, phim The Sun Also Rises, phục Hemingway thì có khi đọc sách, nhưng phim dửng dưng và nhạt nhẽo.
Tôi đi về trong đêm khuya, thành phố ngủ sớm, chiếc lá khô bay trước mặt như tà áo của cô con gái. Tội nghiệp thay cho một tuổi trẻ, tôi cũng đáng tội nghiệp nữa. Ngày mai chúng tôi về Sài Gòn, ao ước được cởi áo nhà binh trong vài ngày, nhưng đó chỉ là ao ước vì chúng tôi biết rằng Sài Gòn đang có biến động, Phật Giáo và Công Giáo xua tín đồ ra đường phố. Lần đầu tiên trong đời, tôi biết thế nào là thù hận khi về đến Sài Gòn, đóng cửa Tổng Nha Cảnh Sát, lãnh một cái mặt nạ để sẵn sàng dẹp biểu tình.
Phan Nhật Nam
Kiến Hòa, 8/1964
Người Chết Dưới Chân Chúa
Tôi ngồi trên mui tầu thả từng mẩu giấy vụn xuống giòng nước, trí não lãng đãng như bọt sóng.
Đoàn xe rời Quốc Lộ 4 rẽ về phía phải theo con đường đỏ hướng phi trường Trúc Giang qua ngôi trường tiểu học quận, một dẫy quan tài sắp lớp, mùi thây chết bốc lên ngây ngất. Biệt Động Quân (BĐQ), Tiểu Đoàn 41, nghe nói hình như tiểu đoàn trưởng hay tiểu đoàn phó bị chết. Lính ở trên xe xì xầm bàn tán với một vẻ thản nhiên. Họ không biết chiến trận đã đến hồi khốc liệt, nên chiến đoàn dù gồm có tiểu đoàn chúng tôi và một tiểu đoàn bạn đã có mặt tại vùng hành quân từ ngày trước.
Đến phi trường, nơi đặt bộ chỉ huy của khu chiến thuật Tiền Giang, trung tâm của cuộc hành quân, chúng tôi được lệnh ngủ tại đây để chờ ngày mai trực thăng vận vào vùng hành quân. Tôi chưa được dự trận lớn, nên không có ý niệm về những gay go sắp đến trong ngày mai, bình thản ngủ một giấc yên lặng với kết luận: trực thăng vận đối với Nhảy Dù chỉ là trò đùa, không có gì mới lạ.
Ngày 22, lúc 8 giờ hai pháo đội đặt ở phi trường hướng súng về bãi đáp nhả đạn liên hồi để dọn bãi. Lấy cái chết của phe địch để làm an toàn cho phe mình, nguyên lý của chiến tranh quả thật tàn khốc. Tiếng súng dọn bãi vừa dứt, ba mươi chiếc trực thăng đồng bốc lên một lượt mang hai đại đội 71 và 72 vào trận địa.
Báo cáo xuống bãi tốt, bình yên. Phần còn lại của tiểu đoàn được trực thăng vận tiếp theo. Toàn bộ tiểu đoàn đã xuống đủ, hai đại đội 71 và 73 dẫn đầu cho đơn vị, di chuyển được mười lăm phút. Súng nổ. Đụng rồi, đụng rồi… Lính dáo dác, máy truyền tin chuyển lệnh nghe loạn xạ. Phía trước của tiểu đoàn súng nổ lẫn lộn, tiếng khô và cứng của ta, sắc nhọn của địch. Đại Đội 72 rút lên bố trí về phía phải của Đại Đội 73.
Lệnh cho đại đội chúng tôi lên thật nhanh. Ngang qua chỗ của thiếu tá tiểu đoàn trưởng, một tiếng nổ thật lớn nháng lửa ngay trước mặt, quả đạn 57 ly vừa nổ khi ra ngay khỏi nòng, người phụ xạ thủ bắn tung ra đằng sau, một bàn tay bị đứt. Ông tiểu đoàn trưởng hét lớn qua màu khói. Trung đội anh
chạy ra cái nhà tranh…
Như vậy là đụng lớn, người bị thương nằm la liệt ở dưới các rãnh dừa nước, Toàn đang đứng trong một giao thông hao chỉ trỏ quát tháo. Phía tay trái nơi xa có tiếng lựu đạn nổ và tiếng hô xung phong. Trung đội tôi ép phải, hướng tiến bây giờ thẳng góc với các con kinh nhỏ, nên chúng tôi chỉ có thể nhảy từng bước thật dài trên bờ kinh, một cái nhảy hụt tôi rơi vào đường mương vùng với hai người khinh binh. Bám cỏ bò lên, xác hai cán binh Việt Cộng nằm tênh hênh, một xác bị banh nát ngực, xác kia nằm xấp, không rõ. Người chết, lần đầu tiên tôi chạm phải một thây chết của đối phương.
- Lên đi tụi mày, thằng nào trốn đàng sau, tao bắn gãy giò… Tôi quát tháo cũng ra gì, mấy tên lính đi chậm dớn dác tìm lối qua rạch họ không nhảy qua được vì mang đồ quá nặng. Đ.m. có nhảy qua được không? Thường ngày sao liến xáo quá cỡ, hôm nay lại chậm như rùa.
Tôi chửi mắng om sòm. Trung đội đến bờ làng dừng lại bố trí trông ra cánh đồng trống. Ngồi dựa vào một gốc dừa, tôi thấy mệt vì phải quát tháo quá nhiều, nhớ lại lời chửi tục. Tôi đã thành một người lạ nào đấy. Địch từ phía trái chạy vọt qua, bóng áo đen ẩn hiện đàng sau rặng dừa xanh bên kia cánh đồng. Bắn. Bắn. Trung đội tôi khai hỏa ròn rã. Một vài bóng áo đen ngã xuống. Hơi thuốc súng, hơi bùn lầy, máu người chết xông lên ngây ngấy.
Sáu giờ chiều, tiếng súng phía bên trái, hướng Đại Đội 71 hoàn toàn chấm dứt, trực thăng tải thương bắt đầu đến, khói mầu xanh làm dấu bãi đáp bốc lên mờ mịt làm đặc không gian đang ngã vào đêm, rừng dừa xanh thẩm lại. Tiếng súng vu vơ của địch bắn lên máy bay khi tháo lui. Tôi ngồi dựa gốc dừa, mệt mỏi đến tột độ, một tên lính mò lại bên cạnh.
- Thiếu úy ăn cháo gà.
- Cháo gà?
- Dạ, gà em bắt được, nó còn ấp trứng…
- Thôi mầy cho tao quả trứng, tao ăn cháo không nổi.
Khi lính trong trung đội xịt xoạt ăn cháo, tôi đi lui về phía xác hai cán binh Việt Cộng. Người nằm sấp bây giờ lật ngược lại, có lẽ đấy là cử động cuối cùng của anh ta trước khi chết. Tôi đặt tay lên một xác chết, da người chết lạnh tanh. Đêm xuống, chúng tôi trải Poncho nằm trên bờ rạch, không cởi giày, địch có ý tấn công lại nên phải đề phòng.
Tiểu đoàn tiếp tục truy kích, hôm nay đại đội tôi đi đầu, trung đội tôi dẫn đầu đại đội, chúng tôi đi dọc một con kinh lớn, rừng dừa xanh ngút tầm mắt, thôn xóm trù phú nhưng không một bóng người. Chúng tôi dè dặt từng bước đi.
- Hầm có dấu chân người. Tản rộng ra chung quanh, một người đến xem mà thôi. Tôi ra lệnh.
- Ai ở dưới, đi lên! Im lặng…
- Lên không tao ném lựu đạn xuống! Thiếu úy, cho em ném lựu đạn xuống. Người lính hỏi ý kiến.
- Không, mầy bắn xuống mà thôi.
Tên lính lanh lẹ bắn một tràng Thompson, có tiếng rên khe khẽ.
- Lên không bắn nữa. Đưa tay lên trước.
Tôi nín thở, một chiếc đầu bạc phơ từ từ nhô lên khỏi miệng hầm, ông lão bế một bà lão lên theo. Vừa ra khỏi hầm ông lão chấp tay xá bốn hướng xụt xùi khóc lóc, bà lão nằm vật xuống, ở đầu có một vết thương.
Đến buổi trưa, tôi hoàn toàn kiệt lực như một mũi tên rơi xuống khỏi cuối đường bay. Hình ảnh hai mái tóc bạc nhô lên từ miệng hầm, nét mặt hốt hoảng của hai cán binh Việt Cộng chưa quá mười sáu tuổi lôi lên từ một đám bèo, một người còn đang ngậm một búng cơm. Những hình ảnh đó bây giờ cộng thêm cảnh chết của hai vợ chồng và ba đứa con trước mắt tôi. Họ chết từ ngày hôm kia, khi địch đặt bộ chỉ huy ở khu nhà thờ, người chống là ông Từ giữ nhà thờ đã đem cả gia đình vào trốn dưới cái bệ thờ Chúa.
Tượng Đức Chúa ngả nghiêng, tượng hai thiên thần rơi tung tóe, hai bàn tay trắng bằng đất nung lăn lóc trên sàn nhà. Khi tôi cúi xuống nhặt hai bàn tay nầy thì khám phá ra năm xác chết trên. Họ chết ngồi, hai vợ chồng ngồi sát nhau ôm ba người con trước ngực. Họ chết vì bị sức ép nên thân thể vẫn còn nguyên vẹn, nét mặt in vẻ hốt hoảng. Tôi ra lệnh kéo xác họ ra sân.
Giáo đường bây giờ im vắng, tượng Chúa linh động trong vị thế nghiêng ngả, nắng ở ngoài không rọi vào, không khí nặng nề lạnh ngắt. Tôi ngồi xuống trên chiếc ghế, hỏi thầm: Thượng đế, ngài có thật đấy chăng?
Khi tôi bước ra đàng sau nhà thờ, qua khu nhà của những người chết, một chiếc áo tím chắc hẳn của cô con gái còn phơi phới bay trong gió. Nhìn ra xa, xác cô gái nằm thẳng trên sàn gạch, nắng thật sáng, rọi lên rực rỡ. Người tôi ai cắm một lưỡi dao oan nghiệt vào tim, thật buồn.
Tôi loay hoay đốt một điếu thuốc. Cái chết quả là một bi thảm, nhưng hình ảnh của cô gái nằm chết trong khi chiếc áo còn bay trong gió vang vang trong trí náo tôi như một tiếng kêu thê thảm không biên giới. Hai ông bà cụ già, người Việt Cộng trẻ, người cha và người mẹ, họ đã sống, đã chết dù sao cũng có chủ đích, có chọn lựa, cũng đã qua gần hết cảnh sống. Cô gái chết bất ngờ không báo trước, yêu đời như màu tươi của chiếc áo. Tôi choáng váng ngộp thở, người lao đao trong một niềm giận dỗi và sầu muộn mênh mông.
Đụng lớn. Tiểu đoàn lấy được một lô súng đạn, thừa thắng xông lên truy kích địch để lùa họ về Quốc lộ Bốn. Bên trái là sông Tiền Giang. Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù bên phải làm thành phần chận bít. Tiểu đoàn tôi lùa địch từ đông sang tây. Việt cộng phân tán thành từng toán nhỏ để trốn. Ba đại đội tác chiến được xử dụng để lục soát không chừa một hốc nhỏ. Việt Cộng được moi lên từ các ao bèo, bờ lúa, đun rơm, cuộc truy kích vừa khôi hài vừa hào hứng như trò chơi.
Tôi lầm lì đi giữa hàng quân, trận đánh ngày hôm qua, một đêm mất ngủ, cái chết hàng loạt của Việt Cộng, những thây ma tênh hênh lăn lóc, tất cả đổ ào xuống một lượt trên linh hồn còn hồn nhiên. Tôi ngất ngư như lần đầu tiên uống rượu như đây là cơn say đen. Xua quân đi vào một vườn dừa rộng, tiểu đội bên trái, tiểu đội bên phải, lục soát dọc theo hai con rạch nhỏ bao quanh khu vườn. Tôi đi vào ngôi nhà đang âm ỉ cháy, những chiếc cột lớn lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xanh ngắt.
Một người đàn bà áo trắng quần đen tay ôm chiếc lẳng mây trước ngực ngồi im trên nền gạch đôi mắt nhìn thẳng ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy, đứng thẳng người như pho tượng, như thân cây chết với đôi mắt không phản ứng. Thằng bé theo tôi cùng tên Hiệu thính viên lẻn ngay vào bếp kiếm thức ăn. Tôi đi đến trước chị đàn bà.
- Làm gì chị ngồi đây, không biết đang đánh nhau sao? Im lặng, đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nhìn sợ hãi. Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng chiếc lẳng mây vào mặt tôi, động tác nhanh và gọn như một người tập thể dục. Sau thoáng ngạc nhiên tôi đưa tay đón lấy. Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu, gói giấy nhỏ buộc chặt bằng dây cao su. Mở gói, hai sợi dây chuyền vàng một đôi bông tai.
- Của chị đây hả? Vẫn im lặng, nỗi im lặng ngột ngạt lạnh lùng.
- Con mẹ này điên rồi thiếu úy, chắc sợ quá hóa điên.
Tên hiệu thính viên thì thầm sau lưng tôi, mắt nó sáng lên khi nhìn vào những miếng vàng chói trên giấy. Vàng, chắc cũng hơn một lượng, lấy đi thiếu úy. Ê! Đi đi. Tên lính xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước đi như xác chết nhập tràng.
Chị kia quay lại đây tôi trả cái này. Tôi nói vọng theo. Người đàn bà xoay lại, cũng với những bước chân im lặng, trở về đứng trước mặt tôi nhưng đôi mắt bây giờ chứa đầy sợ hãi, một vẻ hốt hoảng thảm hại làm răn rúm khuôn mặt và run đôi môi. Chị ta còn trẻ lắm, khoảng trên dưới 27, 28 tuổi, da trắng mát tự nhiên, một ít tóc xõa xuống trán làm nét mặt thêm thanh tú.
Tôi đưa trả chiếc lẳng mây, chị đàn bà đưa tay đón lấy, cánh tay run rẩy như tiếng khóc bị dồn xuống. Chiếc lẳng rơi xuống đất, hai cánh tay thả xuống mệt nhọc song song với thân thể. Dòng nước mắt chảy dài trên má. Tôi hươi mũi súng trước mặt chị ta. Ngồi đây. Tôi chỉ nòng súng vào bực tam cấp. Khi nào tụi tui đi thì chị đi theo. Tại sao khóc, nhặt vàng lên chứ. Im lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ quái, thân thể người đàn bà cứ run lên bần bật, nước mắt ràn rụa.
Từ từ chị đưa bàn tay lên hàng nút áo trước ngực. Không! Không thể như thế được, tôi muốn nắm bàn tay kia để ngăn những ngón tay run rẩy đang mở dần những hàng nút bóp để phơi dưới nắng một phần ngực trắng hồng. Không phải như thế chị ơi. Người đàn bà đã hiểu lầm vì tôi không lấy vàng và bắt đứng lại, chị ta không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị ta tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm. Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan 21 tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hờn đến ngần này.
Tôi đi lính đánh giặc chỉ vì một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến trang bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu với ngộ nhận tủi hổ này. Thê thảm cho tôi, cho những người lính chung quanh vì lính chúng tôi có thể tàn bạo trong khoảnh khắc, tham lam trong lén lút nhưng chúng tôi đâu phải là một thứ lính tẩy trên quê hương.
Người ngoại cuộc của những tàn phá kinh tởm do chiến tranh này gây nên. Chúng tôi có lòng nào hưởng cảm giác trên xác thân của một người đàn bà Việt Nam trong cơn vỡ nát kinh hoàng đau đớn. Khổ lắm, người đàn bà của tỉnh Kiến Hoà đâu có biết rằng chúng tôi không bao giờ muốn huênh hoang, hung bạo trong vườn xanh bóng mát này, chúng tôi đâu có muốn tạo những ngọn lửa oan uổng thiêu đốt căn nhà bình yên như giấc mơ của chị. Và những mảnh vàng đó, thân thể chị đây ai có can đảm để giang tay cướp phá và xâm phạm!
Tôi muốn đưa tay lên gài những nút áo bật tung, muốn lau nước mắt trên mặt chị nhưng chân tay cứng ngắc hổ thẹn. Và chị nữa, người đàn bà quê thật tội nghiệp, đời sống nào đã đưa chị và cơn sợ hãi mê muội để dẫn dắt cho những ngón tay cởi tung hàng nút áo, sẵn sàng hiến thân cho một tên lính trẻ, tuổi chỉ bằng em út, trong khi nước mắt chan hòa trên khuôn mặt đôn hậu đầy kinh hãi.
Quân rút ra khỏi làng, chị đàn bà đi theo chúng tôi, vẫn với những bước đi ngượn ngập cứng nhắc, vẫn đôi mắt nhìn vào khoảng trống không cảm giác. Người đàn bà Việt Nam bước đi trong ngỡ ngàng với hạnh phúc khốn nạn: hạnh phúc đến chót sau những đau khổ rời rã, hạnh phúc lạ lùng như chiêm bao thấy thân thể chưa bao giờ bị xúc phạm.
Quân rút ra gần đến Quốc lộ, con sông đầy thuyền, hỗn loạn bóng người chen chúc, dân của vùng hành quân trốn ra từ ngày trước. Tiếng người kêu la vang dội một khoảng sông. Họ hỏi thăm tình trạng nhà cửa, người thân thích người kẹt trong vùng hành quân. Có tiếng khóc vang lên: “Trời ơi nhà ông Năm bị chết hết cả nhà rồi bà con cô bác ơi!” Tiếng kêu thê thảm như một kẻ đắm đò.
“Lai! Mày đó Lai ơi!” Bà già dưới sông mồm kêu tay ngoắc chị đàn bà theo chúng tôi. Chị ta dừng lại như để nhớ một dĩ vãng, như nhớ một đời sống đã đi qua. “Lai! Lai ơi, má đây con…” chị đàn bà đứng lại xoay người về phía dòng sông… “Má! Má!” Tôi thấy đôi môi run rẩy thì thầm: “Nhà cháy rồi, nhà cháy rồi.” Chị ta đi lần ra phía bờ sông, cũng với những bước chân của người mất hồn, bóng áo trắng nổi hẳn trên đám dừa xanh…
Tôi cúi đầu đi thẳng, mắng mấy thằng lính đứng tần ngần nhìn theo người đàn bà. “Tiên sư, đi lẹ còn qua phà sớm.” Lòng ngập một niềm ăn năn kỳ lạ…
Chiếc phà đưa tiểu đoàn chúng tôi về Mỹ Tho, dân chúng ta ra đứng nhìn cảm phục. Tôi đóng quân ở sân vận động. Tôi đi lên chiếc cầu hướng về phía Gò Công dòng nước đen thấp thoáng ánh đèn chảy siết dưới chân cầu đục ngầu như linh hồn tôi. Đêm tỉnh lẻ đỏm dáng tội nghiệp, tôi đi lang thang, thật lạ ngay với chính mình. Gặp Bang ở Biệt Động Quân, anh chàng nhỏ người nhưng ồn ào nhất trong số mười lăm anh Khóa 15 Thủ Đức về Biệt Động Quân. Bang đãi tôi cơm, tôi chỉ uống đượi chai bia, xong chúng tôi đi coi ciné, phim The Sun Also Rises, phục Hemingway thì có khi đọc sách, nhưng phim dửng dưng và nhạt nhẽo.
Tôi đi về trong đêm khuya, thành phố ngủ sớm, chiếc lá khô bay trước mặt như tà áo của cô con gái. Tội nghiệp thay cho một tuổi trẻ, tôi cũng đáng tội nghiệp nữa. Ngày mai chúng tôi về Sài Gòn, ao ước được cởi áo nhà binh trong vài ngày, nhưng đó chỉ là ao ước vì chúng tôi biết rằng Sài Gòn đang có biến động, Phật Giáo và Công Giáo xua tín đồ ra đường phố. Lần đầu tiên trong đời, tôi biết thế nào là thù hận khi về đến Sài Gòn, đóng cửa Tổng Nha Cảnh Sát, lãnh một cái mặt nạ để sẵn sàng dẹp biểu tình.
Phan Nhật Nam
Kiến Hòa, 8/1964