Văn Học & Nghệ Thuật
Nho giáo và những ngộ nhận về Khổng Tử
Ở vào thế kỷ 21 này rất ít người còn muốn nói đến đạo lý Khổng-Mạnh vì cho là:
- Đạo lý Khổng-Mạnh đã lỗi thời, đã thuộc về quá khứ, không còn thích hợp với thời đại văn minh hiện đại nữa.
- Đạo lý Khổng-Mạnh thuộc về văn hoá của Tàu mà Tàu thì đang là kẻ thù của dân Việt vì đã cưỡng chiếm đất và biển của Việt Nam.
- Đạo lý Khổng-Mạnh đã bị rất nhiều tác giả phỉ báng tàn tệ và gán cho không biết
Nhưng tất cả đều chỉ là những ngộ nhận về đạo lý Khổng-Mạnh.
Bài này được viết ra không nhằm bênh vực hay biện hộ cho cá nhân ông Khổng Tử vì thật sự ông không cần ai biện hộ cho ông. Ông đã sống trọn vẹn cuộc đời của ông, những gì đang xảy ra nơi cuộc đời ô trọc này đâu phải là điều ông còn bận tâm. Chúng ta mới là những người phải bận tâm xem có học được gì từ đạo lý Khổng-Mạnh để nâng cao phẩm chất của mình, để được sống một đời người có nhân cách.
Những máy móc, vật dụng, quần áo, giầy dép và đồ trang sức chúng ta dùng hàng ngày đều có ngày bị xem là lỗi thời, là cổ hũ, nhưng những kinh nghiệm giúp chúng ta thay đổi phẩm chất con người chúng ta thì
Khám phá vĩ đại nhất cũa nhân loại không phải là điện, máy bay hay điện toán, khám phá vĩ đại nhất cũa nhân loại là cái mà chúng ta không còn để ý đến trong đời sống hôm nay, đó chính là lửa. Không có lửa thì chúng ta có lẽ vẫn còn đang ăn lông, ở lỗ, tranh giành, ganh đua với khỉ, vượn và một nửa cuộc đời vẫn phải lần mò trong bóng đêm. Lửa đã cho con người thời tiền sử có những phút giây ấm cúng quanh ngọn lửa hồng, làm nảy sinh tình cảm, làm những cơ bắp của lưỡi và quai hàm mềm mại hơn và từ đó đã khai sinh ra ngôn ngữ, v.v. Biết được nguồn cội của mình thì mới biết trân qúy những kinh nghiệm của người xưa giúp cho mình thay đổi và nâng cao phẩm chất của mình.
Bản tính con người lúc sơ sinh hiền lành hay hung ác thì ngay chính Khổng Tử và những người có ảnh hưởng rất lớn vào Nho giáo là Mạnh Tử và Tuân Tử cũng không thống nhất vì Mạnh Tử thì cho rằng “nhân chi sơ tính bổn thiện” trong khi Tuân Tử thi tin là “nhân chi sơ tính bổn ác” và theo Khổng Tử thì “bản tính con người giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau” (“tính tương cận, tập tương viễn”) và trong bài “Dân tộc nào, định mạng đó“, tác giả bài này cũng đã chứng minh con người lúc sơ sinh cũng chỉ là một động vật không có nhân tính và vô cảm.
Chính vì thế mà con người cần phải được “giáo dục” để thành người lương thiện, thành người có nhân, có nghiã. Những xã hội Tây phương đã may mắn sớm có những điều kiện thuận lợi để nâng cao phẩm chầt con người và nhờ đó họ đã tiên phong trong công cuộc giải phóng con người thoát khỏi sự nô lệ để làm người tự do. Nô lệ tự nguyện hay bắt buộc thì cũng đều bi thảm như nhau, đều dẫn đến khổ đau và chết chóc. Nô lệ tự nguyện là sự tôn thờ lãnh tụ (Tôn giáo, Đảng phái, Chủ Nghĩa, Quốc gia, v.v.) mà không nhìn ra một sự thực được phơi bày trong lịch sử loài người là tất cả những cuộc tàn sát con người dã man và tàn bạo trong mọi cuộc chiến tranh (tôn giáo, ý thức hệ, chiếm đóng, v.v.) trong mọi cuộc cách mạng, cải cách, v.v. đều do bọn lãnh tụ chưa gột rửa được bản chất thú vật để thành người có nhân, có nghĩa, mà đã biến đổi thành một giống vật tham lam, quỷ quyệt và ác độc hơn thú dữ, vô cảm trước khổ đau và chết chóc của con người.
Nỗi khao khát quyền lực và lòng ham muốn được thỏa mãn những đòi hỏi đầy thú tính của lãnh tụ đã khiến cho nhân loại đã phải kinh qua những cảnh loạn ly, tang tóc như thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu đã khiến cho Khổng Tử muốn đưa ra những khuôn mẫu về cách đối xử trong mối tương quan giữa “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu” còn gọi là “Ngũ luân” bao gồm đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè, và đào tạo môn sinh thành những mẫu người quân tử để giúp vua chăn dân, giữ nước và mang lại hòa bình, thịnh vượng cho muôn dân. Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải “tu thân” để trở thành người có phẩm chất đạo đức: “Quân tử sở tính Nhân nghĩa lễ trí“, để không ngụp lặn trong đời sống của hạng tiểu nhân, hèn mạt, không đạo đức.
Những lý cớ để bài xích Khổng-Mạnh đã chỉ dựa vào câu: Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung (Vua xử tôi chết, tôi không chết, tôi không trung) để cho rằng Nho giáo đã dậy cho con người làm nô lệ cho vua chúa, nên những dân tộc chịu ảnh hưởng của nho giáo không có sức đề kháng để chống lại giai cấp thống trị.
Đó chỉ là những ngộ nhận về đạo lý Khổng-Mạnh, vì sau khi những kinh sách về đạo lý Khổng-Mạnh đã bị Tần Thủy Hoàng tiêu hủy trong chủ trương chôn nho, đốt sách, Đổng Trọng Thư đã giúp Hán Vũ Đế khôi phục lại Nho giáo với mục đích dung hòa giữa Pháp trị và Lễ trị và bớt đi phần Nhân trị để bảo vệ ngai vàng. Chính vì vậy, quan hệ “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu” trong Nho giáo nguyên thủy đã bị thay đổi thành “tam cương“: “quân thần, phụ tử, phu phụ” và thành mối quan hệ một chiều “trung, hiếu, tiết nghĩa”:
Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.
Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu
Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.
Khổng Tử chủ trương người quân tử phải “tu thân” để thành người có phẩm chất đạo đức, thấm nhuần Ngũ thường là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín và Ngũ luân là những giềng mối, quan hệ giữa “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu“, nhưng là những giềng mối, quan hệ song phương để giữ cho xã hội có tôn ti, trật tự:
1- Phụ tử hữu Thân (Cha con có tình thân)
2- Quân thần hữu Nghiã (Vua tôi có tình nghĩa)
3- Phu phụ hữu Biệt (Vợ chồng có sự phân biệt)
4- Trưởng ấu hữu Tự ( (Anh em) lớn nhỏ có thứ tự)
5- Bằng hữu, hữu Tín (Bạn bè có lòng tin).
và lúc nắm quyền hành đạo thì phải cai tri dân bằng tình người (Nhân trị). Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân – Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác“.
Mạnh Tử chủ trương “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” nghĩa là trong nước dân là quan trọng nhất, thứ đến mới là quốc gia (xã tắc), vua là thứ bậc xem nhẹ nhất.
Đạo lý Khổng-Mạnh coi sự lạm quyền, bạo lực hại dân của kẻ ở vị trí lãnh đạo thì cũng như tên vũ phu đê hèn mà thôi, khi nó xúc phạm đến nhân phẩm mình, tác hại quần chúng xã hội, đất nước, thì chẳng ngại gì mà không loại bỏ nó. Theo quan niệm của Mạnh Tử thì “Thị thích vạn thặng chi quân, nhược thích hạt phu – Giết một ông vua có vạn chiến xa thì cũng không khác việc giết một kẻ hèn mạt (xúc phạm, làm nhục mình)”
Mạnh tử được hỏi: “Bầy tôi mà giết vua (Trụ Vương) ? Như vậy được không?” Mạnh Tử đáp: “Kẻ làm hại lòng nhân, gọi là tặc; Kẻ làm hại nghĩa gọi là tàn. Kẻ tàn tặc chỉ là một đưá hèn mạt. Ta chỉ nghe nói tru diệt một đứa hèn mạt tên Trụ thôi, chứ không nghe nói giết vua bao giờ“.
Trong những triều đại phong kiến, ngôi vua chỉ được truyền lại cho con chứ không truyền lại cho người tài đức nên đa số vua chúa từ xưa đến nay chỉ toàn là hạng ngưòi hoang dâm, tàn bạo thì cái đạo lý Khổng Mạnh quả là cao vời vợi làm sao mà các ông vua thời đó dám dùng những người tài giỏi như thày trò Khổng Tử, thế nên Khổng Tử và các môn đệ đi chu du khắp nơi để mong mang cái sở học của mình giúp cho các nước trong thời Xuân Thu làm cho quốc thái dân an, mà chẳng ông vua nào dám dùng, phần vì vua chẳng ra gì, phần vì đám nịnh thần dèm pha, nên Khổng Tử đã dành gần cả cuộc đời ông để mở trường dạy học.
Tất cả những gì đã tạo nên phong cách của con người chúng ta ngày hôm nay là kết quả của những kinh nghiệm được sàng lọc và tích lũy từ hàng trăm ngàn năm.
Vậy thì nếu những kinh nghiệm ngày xưa có điều nào không còn thích hợp với cuộc sống hôm nay thì ta thay đổi cho phù hợp với đời sống hôm nay, đâu cần phải vứt bỏ cả một nền đạo lý tốt đẹp được xây dựng từ hơn 2000 năm trước chỉ vì một vài điều không còn thích hợp với ngày hôm nay … và ngay chính Mạnh Tử cũng đã khuyên ta: “Tận tín thư, bất như vô thư.” nghĩa là: “Quá tin vào sách, thà không có sách còn hơn”
Xã hội loài người đã mất cả mấy trăm ngàn năm mà cũng chỉ mới tiến đến đuợc một thế giới còn đầy rẫy bất an và đau khỗ vì loài người vẫn còn bị bọn lãnh tụ lừa gạt, giáo dục để mà tôn thờ chúng, mà đa số lãnh tụ đều là những kẻ đầy tham vọng, gian tham, xảo quyệt và bất nhân. Có được một lãnh tụ có đạo đức, có nhân nghĩa là điều may mắn cho dân tộc đó.
Trong các triều đại quân chủ, con đường công danh để tiến thân là phải đi qua các trường thi (Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình) nên các nho sinh phải tinh thông Tứ thư (Luận Ngữ, Đại Học, Trung Dung và Mạnh Tử) , Ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu), là 9 bộ sách chủ yếu của Ngo giáo. Nếu không được may mắn trúng tuyển để ra làm quan thì cũng trở thành những nho sĩ có một nhân cách cao quý (Nhân – Trí – Dũng) với phương châm sống “Phú quý bất năng dâm, Bần tiện bất năng di, Uy vũ bất năng khuất” (Giàu sang không thể cám dỗ, Nghèo khó không thể chuyển lay, Quyền uy không thể khuất phục.) nên họ thường mở trường dậy học và sống trong cảnh an bần, lạc đạo.
Nho giáo đã bị đào thải trong thời Pháp thuộc, số người thấm nhuần đạo lý Khổng-Mạnh không còn được bao nhiêu, và cũng không ít nhà nho ra hợp tác với Pháp đã bị các nhà nho khác chê bai. dè bỉu:
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông Cử ngẩng đầu rồng.
Đến khi chế độ cộng sản được áp đặt lên miền Bắc thì nho gíáo coi như đã đi vào tuyệt lộ.
Xã hội đồi trụy, đạo đức con người suy thoái vì những kẻ lãnh đạo phi nhân, vô đạo và đểu cáng nên những người sinh sống trong xã hội đó không được giáo dục ( trong trường học hay trường đời) để trở thành người có phẩm chất tốt. Đó chính là kết quả đào xới, hủy diệt đến tận gốc rễ một nền văn hoá nho giáo của chế độ phi nhân, vô đạo cộng sản. Chế độ cộng sản là một đảo ngược mọi giá trị trong đạo lý Khổng-Mạnh, những giá trị cốt lõi của đạo lý Khổng-Mạnh là Ngũ thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) đã được chôn vùi thật kỹ trong cuộc “cải cách ruộng đất” long trời, lở đất, trong cuộc tàn sát man rợ Tết Mậu Thân và lòng Trung-Hiếu cũng đã được Hồ Chí Minh và Tố Hữu làm gương cho cả nước vất vào sọt rác.
Chế độ phi nhân cộng sản chỉ có thể so sánh với chế độ bạo tàn Tần Thủy Hoàng. Hành động chôn nho, đốt sách của Tần Thủy Hoàng thì cũng như cuộc đàn áp phong trào Nhân văn giai phẩm của chế độ cộng sản và sau khi cưỡng chiếm miền Nam, cộng sản Việt Nam lại tịch thu, đốt sách và đưa các văn nghệ sĩ, quân, dân, cán chính miền Nam vào trại tù cải tạo.
Một nền văn hoá mang nặng ảnh hưởng đạo lý Khổng-Mạnh đã được cạo rửa thật sạch sẽ để thay vào bằng một nền “văn hoá bất nhân và đểu giả”.
Bây giờ mà vẫn còn lập luận cho rằng văn hoá Khổng-Mạnh đã ăn sâu vào xương tủy nên người Việt nam đã mất hết sức đề kháng vì chữ “Trung” trong Tam cương, Ngũ thường thì thử hỏi những chữ Hiếu, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín nó ở đâu trong xương tủy mà đạo đức Việt Nam bị suy đồi khủng khiếp đến như hôm nay?
Ngay cả khi được có cơ hội tiếp cận với đạo lý Khổng-Mạnh thì cũng không phải ai cũng có đủ tư chất lĩnh hội được những điều hay lẽ phải để thành người có phẩm chất tốt, huống chi là khi cơ hội và phương tiện đều không còn nữa.
Tổng thống Ngô Đình Diệm là người theo Tây học nhưng đã có một nền giáo dục gia đình rất nặng ảnh hưởng Nho giáo và đã từng làm nhiều chức quan trong triều đại vua nhà Nguyễn.
Năm 1933, ông được bổ nhiệm làm Thượng thư Bộ Lại dưới triều vua Bảo Đại và là vị thượng thư trẻ tuổi nhất trong triều Nguyễn lúc bấy giờ. Dầu vậy khi ông đụng phải sự ngoan cố của nhà cầm quyền thực dân, ông cũng “rũ áo từ quan”, dứt khoát rời bỏ chức quyền không luyến tiếc.
Khi đất nước sắp sửa bị chia đôi, vua Bảo Đại lại khẩn thiết yêu cầu ông ra lãnh đạo đất nước, mặc dù ông không thiết tha với viêc tham chính vì ông vẫn chỉ muốn đi tu, ông đã nhận lời uỷ thác của vua Bảo Đại và thề trước chân dung Chúa là sẽ giữ vững đất nước và bảo vệ nó để chống lại bọn cộng sản.
Chỉ trong một thời gian rất ngắn sau khi chấp chính, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã xây dựng lên một nền Đệ Nhất Cộng Hoà với một cơ chế chính quyền trung ương vững mạnh, huy động mọi tiềm năng quốc gia vào công cuộc phát triển kinh tế, canh tân xã hội và kiến tạo một đất nước dân chủ tiến bộ trong ổn định và thanh bình, biến một quân đội lệ thuộc ngoại bang thành một quân đội hùng mạnh có tổ chức qui củ, có kỷ luật, với một tinh thần chiến đấu rất anh dũng và đặt nền móng xây dựng một nền giáo dục vẫn còn chuyên chở đạo lý Khổng-Mạnh vào xã hội qua những môn học về những tấm gương sáng ngời của kẻ sĩ trong lịch sử.
Khi người Mỹ ngỏ ý muốn đưa quân vào tham chiến tại Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã nhiều lần cương quyết khước từ vì biết rằng sự hiện diện của quân đội ngoại bang sẽ làm mất chính nghĩa và dẫn đến mất chủ quyền quốc gia. Nhưng chẳng may cho ông, và chẳng may cho nền dân chủ còn phôi thai Việt Nam Cộng Hoà, đám tướng lãnh bất trung, bất nghĩa đã vâng lời Henry Cabot Lodge, dưới sự chỉ đạo của tên điệp viên
Lucien Emile Conein để làm cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Đình Diệm. Vào giờ phút quyết liệt cuối cùng đó Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn khước từ lời đề nghị của Lodge bảo đảm an toàn sinh mạng cho ông nếu ông chấp nhận sống lưu vong, bởi vì ông đâu thể tham sinh úy tử mà coi thường lời thề giữ nước chống lại sự xâm lăng của cộng sản. Đám tướng lãnh phản phúc, bất trung, bất nghĩa đã ra tay giết cả 3 anh em nhà ông và chia nhau túi bạc tương đương với 40 ngàn đô la mà Conein mang đến. Thật là một lũ bất nhân. Không phải là điều bất ngờ khi mà tất cả đám tướng lãnh bất trung, phản phúc đều đã được thực dân Pháp đào tạo, thì nửa chữ thánh hiền cũng chưa có được nói gì đến câu Trung-Nghĩa. Sau khi giết ông, đám tướng lãnh bất trung, phản phúc và bọn cộng sản đã bới lông tìm vết, dựng nên biết bao chuyện hoang đường nhằm bôi nhọ thanh danh ông, nhưng chúng không thể nào bôi nhọ được sự liêm khiết của ông trong suốt 9 năm cầm quyền. Sau này có nhiều người chê trách ông sao dại thế, Mỹ nó đã muốn vào thì để cho nó vào, chống làm gì để phải chết oan uổng. Lý luận như vậy là lấy cái khôn của kẻ tiểu nhân mà sánh với cái dại của người quân tử.
Sau khi lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, đám tướng lãnh bất trung, phản phúc đã tranh nhau xâu xé quyền lực và bổng lộc làm cho tình hình của miền Nam trở nên tồi tệ hơn rất nhiều đã khiến cho TT Lyndon B. Johnson phải bộc lộ sự tức giận về cái quyết định sai lầm của TT John F. Kennedy và gọi đám tướng lãnh bất trung, phản phúc lá “một bọn ác ôn côn đồ, đáng nguyền rủa” (a goddamn bunch of thugs). Sau 10 năm sai lầm thì đám tướng lãnh bất trung, phản phúc lại được tên điếm chính trị Henry Kissinger tặng cho một quả lừa lịch sử là Hiệp Đình Paris năm 1973. Số phận hẩm hiu của miền Nam Việt Nam coi như đã được định đoạt từ đó rồi.
Sự chiến thắng của đoàn quân bất nhân, man rợ cộng sản năm 1975 đã reo rắc không biết bao nhiêu tang tóc, chia lìa, đau khổ và mất mát cho người miền Nam qua những hành vi cướp của, giết người rất tinh vi và gian xảo như đưa tất cả quân-dân-cán chính của Việt Nam Cộng Hoà vào tù cải tạo, đẩy vợ con họ ra vùng kinh tế mới, tich thu, chiếm đoạt tài sản của người miền Nam qua các cuộc đánh tư bản, mại sản và đổi tiền khiến cho hàng triệu người Việt Nam phải liều chết bỏ nước ra đi, tạo thành một cuộc vượt biên lớn nhất trong lịch sử loài người, cho dù một nửa số người ra đi đã phải vùi thây trong biển cả.
Nếu ngày 30 tháng 4 là ngày đau buồn của người dân miền Nam, ngày đánh dấu sự thất thủ một tiền đồn chống cộng của quân đội Việt Nam Cộng Hoà, và bắt đầu sự thống trị của cộng sản trên cả nước Việt Nam, thì trong ngày 30 tháng 4 lịch sử Việt Nam cũng viết lên những nét son vô cùng đẹp đẽ là từ cổ chí kim chưa từng có một quân đội nào mà có đến 5 vị tướng và mấy chục sỉ quan các cấp tuẫn tiết trong ngày thất thủ. Không phải là điều ngẫu nhiên mà cả 5 vị tướng và mấy chục sỉ quan các cấp của quân lực VNCH tuẫn tiết trong ngày thất thủ cũng như Thiếu tá Ngụy Văn Thà đều là những người đã được tôi luyện trong những mái trường còn mang nặng ảnh hưởng đạo lý Khổng-Mạnh.
Nhưng cho dù những người quân tử như Tổng thống Ngô Đình Diệm, các Tướng Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ và các sĩ quan các cấp khác cũng như Thiếu tá Ngụy Văn Thà có bị bức tử để bảo toàn tấm lòng trung trinh ái quốc, vị quốc vong thân thì họ vẫn còn sống mãi trong sự tiếc thương của cả dân tộc, còn những hạng tiểu nhân như Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, v.v thì đã chết trong sự nguyền rủa ngay khi chúng còn đang sống.
Có kẻ nào cũng đã khắc lên mộ bia của vua Lê Chiêu Thống hai câu thơ:
Bác rước quân Thanh giày mả tổ
Tôi dâng Tàu khựa ải Nam Quan.
Thật là một dân tộc bất hạnh !
(Tháng 04 năm 2013)
© Bạch Tường Nguyên
© Đàn Chim Việt
Bàn ra tán vào (0)
Nho giáo và những ngộ nhận về Khổng Tử
Ở vào thế kỷ 21 này rất ít người còn muốn nói đến đạo lý Khổng-Mạnh vì cho là:
- Đạo lý Khổng-Mạnh đã lỗi thời, đã thuộc về quá khứ, không còn thích hợp với thời đại văn minh hiện đại nữa.
- Đạo lý Khổng-Mạnh thuộc về văn hoá của Tàu mà Tàu thì đang là kẻ thù của dân Việt vì đã cưỡng chiếm đất và biển của Việt Nam.
- Đạo lý Khổng-Mạnh đã bị rất nhiều tác giả phỉ báng tàn tệ và gán cho không biết
Nhưng tất cả đều chỉ là những ngộ nhận về đạo lý Khổng-Mạnh.
Bài này được viết ra không nhằm bênh vực hay biện hộ cho cá nhân ông Khổng Tử vì thật sự ông không cần ai biện hộ cho ông. Ông đã sống trọn vẹn cuộc đời của ông, những gì đang xảy ra nơi cuộc đời ô trọc này đâu phải là điều ông còn bận tâm. Chúng ta mới là những người phải bận tâm xem có học được gì từ đạo lý Khổng-Mạnh để nâng cao phẩm chất của mình, để được sống một đời người có nhân cách.
Những máy móc, vật dụng, quần áo, giầy dép và đồ trang sức chúng ta dùng hàng ngày đều có ngày bị xem là lỗi thời, là cổ hũ, nhưng những kinh nghiệm giúp chúng ta thay đổi phẩm chất con người chúng ta thì
Khám phá vĩ đại nhất cũa nhân loại không phải là điện, máy bay hay điện toán, khám phá vĩ đại nhất cũa nhân loại là cái mà chúng ta không còn để ý đến trong đời sống hôm nay, đó chính là lửa. Không có lửa thì chúng ta có lẽ vẫn còn đang ăn lông, ở lỗ, tranh giành, ganh đua với khỉ, vượn và một nửa cuộc đời vẫn phải lần mò trong bóng đêm. Lửa đã cho con người thời tiền sử có những phút giây ấm cúng quanh ngọn lửa hồng, làm nảy sinh tình cảm, làm những cơ bắp của lưỡi và quai hàm mềm mại hơn và từ đó đã khai sinh ra ngôn ngữ, v.v. Biết được nguồn cội của mình thì mới biết trân qúy những kinh nghiệm của người xưa giúp cho mình thay đổi và nâng cao phẩm chất của mình.
Bản tính con người lúc sơ sinh hiền lành hay hung ác thì ngay chính Khổng Tử và những người có ảnh hưởng rất lớn vào Nho giáo là Mạnh Tử và Tuân Tử cũng không thống nhất vì Mạnh Tử thì cho rằng “nhân chi sơ tính bổn thiện” trong khi Tuân Tử thi tin là “nhân chi sơ tính bổn ác” và theo Khổng Tử thì “bản tính con người giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau” (“tính tương cận, tập tương viễn”) và trong bài “Dân tộc nào, định mạng đó“, tác giả bài này cũng đã chứng minh con người lúc sơ sinh cũng chỉ là một động vật không có nhân tính và vô cảm.
Chính vì thế mà con người cần phải được “giáo dục” để thành người lương thiện, thành người có nhân, có nghiã. Những xã hội Tây phương đã may mắn sớm có những điều kiện thuận lợi để nâng cao phẩm chầt con người và nhờ đó họ đã tiên phong trong công cuộc giải phóng con người thoát khỏi sự nô lệ để làm người tự do. Nô lệ tự nguyện hay bắt buộc thì cũng đều bi thảm như nhau, đều dẫn đến khổ đau và chết chóc. Nô lệ tự nguyện là sự tôn thờ lãnh tụ (Tôn giáo, Đảng phái, Chủ Nghĩa, Quốc gia, v.v.) mà không nhìn ra một sự thực được phơi bày trong lịch sử loài người là tất cả những cuộc tàn sát con người dã man và tàn bạo trong mọi cuộc chiến tranh (tôn giáo, ý thức hệ, chiếm đóng, v.v.) trong mọi cuộc cách mạng, cải cách, v.v. đều do bọn lãnh tụ chưa gột rửa được bản chất thú vật để thành người có nhân, có nghĩa, mà đã biến đổi thành một giống vật tham lam, quỷ quyệt và ác độc hơn thú dữ, vô cảm trước khổ đau và chết chóc của con người.
Nỗi khao khát quyền lực và lòng ham muốn được thỏa mãn những đòi hỏi đầy thú tính của lãnh tụ đã khiến cho nhân loại đã phải kinh qua những cảnh loạn ly, tang tóc như thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu đã khiến cho Khổng Tử muốn đưa ra những khuôn mẫu về cách đối xử trong mối tương quan giữa “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu” còn gọi là “Ngũ luân” bao gồm đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè, và đào tạo môn sinh thành những mẫu người quân tử để giúp vua chăn dân, giữ nước và mang lại hòa bình, thịnh vượng cho muôn dân. Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải “tu thân” để trở thành người có phẩm chất đạo đức: “Quân tử sở tính Nhân nghĩa lễ trí“, để không ngụp lặn trong đời sống của hạng tiểu nhân, hèn mạt, không đạo đức.
Những lý cớ để bài xích Khổng-Mạnh đã chỉ dựa vào câu: Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung (Vua xử tôi chết, tôi không chết, tôi không trung) để cho rằng Nho giáo đã dậy cho con người làm nô lệ cho vua chúa, nên những dân tộc chịu ảnh hưởng của nho giáo không có sức đề kháng để chống lại giai cấp thống trị.
Đó chỉ là những ngộ nhận về đạo lý Khổng-Mạnh, vì sau khi những kinh sách về đạo lý Khổng-Mạnh đã bị Tần Thủy Hoàng tiêu hủy trong chủ trương chôn nho, đốt sách, Đổng Trọng Thư đã giúp Hán Vũ Đế khôi phục lại Nho giáo với mục đích dung hòa giữa Pháp trị và Lễ trị và bớt đi phần Nhân trị để bảo vệ ngai vàng. Chính vì vậy, quan hệ “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu” trong Nho giáo nguyên thủy đã bị thay đổi thành “tam cương“: “quân thần, phụ tử, phu phụ” và thành mối quan hệ một chiều “trung, hiếu, tiết nghĩa”:
Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung.
Phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu
Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.
Khổng Tử chủ trương người quân tử phải “tu thân” để thành người có phẩm chất đạo đức, thấm nhuần Ngũ thường là Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín và Ngũ luân là những giềng mối, quan hệ giữa “quân thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu“, nhưng là những giềng mối, quan hệ song phương để giữ cho xã hội có tôn ti, trật tự:
1- Phụ tử hữu Thân (Cha con có tình thân)
2- Quân thần hữu Nghiã (Vua tôi có tình nghĩa)
3- Phu phụ hữu Biệt (Vợ chồng có sự phân biệt)
4- Trưởng ấu hữu Tự ( (Anh em) lớn nhỏ có thứ tự)
5- Bằng hữu, hữu Tín (Bạn bè có lòng tin).
và lúc nắm quyền hành đạo thì phải cai tri dân bằng tình người (Nhân trị). Khi Trọng Cung hỏi thế nào là nhân thì Khổng Tử nói: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân – Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác“.
Mạnh Tử chủ trương “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” nghĩa là trong nước dân là quan trọng nhất, thứ đến mới là quốc gia (xã tắc), vua là thứ bậc xem nhẹ nhất.
Đạo lý Khổng-Mạnh coi sự lạm quyền, bạo lực hại dân của kẻ ở vị trí lãnh đạo thì cũng như tên vũ phu đê hèn mà thôi, khi nó xúc phạm đến nhân phẩm mình, tác hại quần chúng xã hội, đất nước, thì chẳng ngại gì mà không loại bỏ nó. Theo quan niệm của Mạnh Tử thì “Thị thích vạn thặng chi quân, nhược thích hạt phu – Giết một ông vua có vạn chiến xa thì cũng không khác việc giết một kẻ hèn mạt (xúc phạm, làm nhục mình)”
Mạnh tử được hỏi: “Bầy tôi mà giết vua (Trụ Vương) ? Như vậy được không?” Mạnh Tử đáp: “Kẻ làm hại lòng nhân, gọi là tặc; Kẻ làm hại nghĩa gọi là tàn. Kẻ tàn tặc chỉ là một đưá hèn mạt. Ta chỉ nghe nói tru diệt một đứa hèn mạt tên Trụ thôi, chứ không nghe nói giết vua bao giờ“.
Trong những triều đại phong kiến, ngôi vua chỉ được truyền lại cho con chứ không truyền lại cho người tài đức nên đa số vua chúa từ xưa đến nay chỉ toàn là hạng ngưòi hoang dâm, tàn bạo thì cái đạo lý Khổng Mạnh quả là cao vời vợi làm sao mà các ông vua thời đó dám dùng những người tài giỏi như thày trò Khổng Tử, thế nên Khổng Tử và các môn đệ đi chu du khắp nơi để mong mang cái sở học của mình giúp cho các nước trong thời Xuân Thu làm cho quốc thái dân an, mà chẳng ông vua nào dám dùng, phần vì vua chẳng ra gì, phần vì đám nịnh thần dèm pha, nên Khổng Tử đã dành gần cả cuộc đời ông để mở trường dạy học.
Tất cả những gì đã tạo nên phong cách của con người chúng ta ngày hôm nay là kết quả của những kinh nghiệm được sàng lọc và tích lũy từ hàng trăm ngàn năm.
Vậy thì nếu những kinh nghiệm ngày xưa có điều nào không còn thích hợp với cuộc sống hôm nay thì ta thay đổi cho phù hợp với đời sống hôm nay, đâu cần phải vứt bỏ cả một nền đạo lý tốt đẹp được xây dựng từ hơn 2000 năm trước chỉ vì một vài điều không còn thích hợp với ngày hôm nay … và ngay chính Mạnh Tử cũng đã khuyên ta: “Tận tín thư, bất như vô thư.” nghĩa là: “Quá tin vào sách, thà không có sách còn hơn”
Xã hội loài người đã mất cả mấy trăm ngàn năm mà cũng chỉ mới tiến đến đuợc một thế giới còn đầy rẫy bất an và đau khỗ vì loài người vẫn còn bị bọn lãnh tụ lừa gạt, giáo dục để mà tôn thờ chúng, mà đa số lãnh tụ đều là những kẻ đầy tham vọng, gian tham, xảo quyệt và bất nhân. Có được một lãnh tụ có đạo đức, có nhân nghĩa là điều may mắn cho dân tộc đó.
Trong các triều đại quân chủ, con đường công danh để tiến thân là phải đi qua các trường thi (Thi Hương, Thi Hội, Thi Đình) nên các nho sinh phải tinh thông Tứ thư (Luận Ngữ, Đại Học, Trung Dung và Mạnh Tử) , Ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu), là 9 bộ sách chủ yếu của Ngo giáo. Nếu không được may mắn trúng tuyển để ra làm quan thì cũng trở thành những nho sĩ có một nhân cách cao quý (Nhân – Trí – Dũng) với phương châm sống “Phú quý bất năng dâm, Bần tiện bất năng di, Uy vũ bất năng khuất” (Giàu sang không thể cám dỗ, Nghèo khó không thể chuyển lay, Quyền uy không thể khuất phục.) nên họ thường mở trường dậy học và sống trong cảnh an bần, lạc đạo.
Nho giáo đã bị đào thải trong thời Pháp thuộc, số người thấm nhuần đạo lý Khổng-Mạnh không còn được bao nhiêu, và cũng không ít nhà nho ra hợp tác với Pháp đã bị các nhà nho khác chê bai. dè bỉu:
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân ông Cử ngẩng đầu rồng.
Đến khi chế độ cộng sản được áp đặt lên miền Bắc thì nho gíáo coi như đã đi vào tuyệt lộ.
Xã hội đồi trụy, đạo đức con người suy thoái vì những kẻ lãnh đạo phi nhân, vô đạo và đểu cáng nên những người sinh sống trong xã hội đó không được giáo dục ( trong trường học hay trường đời) để trở thành người có phẩm chất tốt. Đó chính là kết quả đào xới, hủy diệt đến tận gốc rễ một nền văn hoá nho giáo của chế độ phi nhân, vô đạo cộng sản. Chế độ cộng sản là một đảo ngược mọi giá trị trong đạo lý Khổng-Mạnh, những giá trị cốt lõi của đạo lý Khổng-Mạnh là Ngũ thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) đã được chôn vùi thật kỹ trong cuộc “cải cách ruộng đất” long trời, lở đất, trong cuộc tàn sát man rợ Tết Mậu Thân và lòng Trung-Hiếu cũng đã được Hồ Chí Minh và Tố Hữu làm gương cho cả nước vất vào sọt rác.
Chế độ phi nhân cộng sản chỉ có thể so sánh với chế độ bạo tàn Tần Thủy Hoàng. Hành động chôn nho, đốt sách của Tần Thủy Hoàng thì cũng như cuộc đàn áp phong trào Nhân văn giai phẩm của chế độ cộng sản và sau khi cưỡng chiếm miền Nam, cộng sản Việt Nam lại tịch thu, đốt sách và đưa các văn nghệ sĩ, quân, dân, cán chính miền Nam vào trại tù cải tạo.
Một nền văn hoá mang nặng ảnh hưởng đạo lý Khổng-Mạnh đã được cạo rửa thật sạch sẽ để thay vào bằng một nền “văn hoá bất nhân và đểu giả”.
Bây giờ mà vẫn còn lập luận cho rằng văn hoá Khổng-Mạnh đã ăn sâu vào xương tủy nên người Việt nam đã mất hết sức đề kháng vì chữ “Trung” trong Tam cương, Ngũ thường thì thử hỏi những chữ Hiếu, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín nó ở đâu trong xương tủy mà đạo đức Việt Nam bị suy đồi khủng khiếp đến như hôm nay?
Ngay cả khi được có cơ hội tiếp cận với đạo lý Khổng-Mạnh thì cũng không phải ai cũng có đủ tư chất lĩnh hội được những điều hay lẽ phải để thành người có phẩm chất tốt, huống chi là khi cơ hội và phương tiện đều không còn nữa.
Tổng thống Ngô Đình Diệm là người theo Tây học nhưng đã có một nền giáo dục gia đình rất nặng ảnh hưởng Nho giáo và đã từng làm nhiều chức quan trong triều đại vua nhà Nguyễn.
Năm 1933, ông được bổ nhiệm làm Thượng thư Bộ Lại dưới triều vua Bảo Đại và là vị thượng thư trẻ tuổi nhất trong triều Nguyễn lúc bấy giờ. Dầu vậy khi ông đụng phải sự ngoan cố của nhà cầm quyền thực dân, ông cũng “rũ áo từ quan”, dứt khoát rời bỏ chức quyền không luyến tiếc.
Khi đất nước sắp sửa bị chia đôi, vua Bảo Đại lại khẩn thiết yêu cầu ông ra lãnh đạo đất nước, mặc dù ông không thiết tha với viêc tham chính vì ông vẫn chỉ muốn đi tu, ông đã nhận lời uỷ thác của vua Bảo Đại và thề trước chân dung Chúa là sẽ giữ vững đất nước và bảo vệ nó để chống lại bọn cộng sản.
Chỉ trong một thời gian rất ngắn sau khi chấp chính, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã xây dựng lên một nền Đệ Nhất Cộng Hoà với một cơ chế chính quyền trung ương vững mạnh, huy động mọi tiềm năng quốc gia vào công cuộc phát triển kinh tế, canh tân xã hội và kiến tạo một đất nước dân chủ tiến bộ trong ổn định và thanh bình, biến một quân đội lệ thuộc ngoại bang thành một quân đội hùng mạnh có tổ chức qui củ, có kỷ luật, với một tinh thần chiến đấu rất anh dũng và đặt nền móng xây dựng một nền giáo dục vẫn còn chuyên chở đạo lý Khổng-Mạnh vào xã hội qua những môn học về những tấm gương sáng ngời của kẻ sĩ trong lịch sử.
Khi người Mỹ ngỏ ý muốn đưa quân vào tham chiến tại Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã nhiều lần cương quyết khước từ vì biết rằng sự hiện diện của quân đội ngoại bang sẽ làm mất chính nghĩa và dẫn đến mất chủ quyền quốc gia. Nhưng chẳng may cho ông, và chẳng may cho nền dân chủ còn phôi thai Việt Nam Cộng Hoà, đám tướng lãnh bất trung, bất nghĩa đã vâng lời Henry Cabot Lodge, dưới sự chỉ đạo của tên điệp viên
Lucien Emile Conein để làm cuộc đảo chánh Tổng thống Ngô Đình Diệm. Vào giờ phút quyết liệt cuối cùng đó Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn khước từ lời đề nghị của Lodge bảo đảm an toàn sinh mạng cho ông nếu ông chấp nhận sống lưu vong, bởi vì ông đâu thể tham sinh úy tử mà coi thường lời thề giữ nước chống lại sự xâm lăng của cộng sản. Đám tướng lãnh phản phúc, bất trung, bất nghĩa đã ra tay giết cả 3 anh em nhà ông và chia nhau túi bạc tương đương với 40 ngàn đô la mà Conein mang đến. Thật là một lũ bất nhân. Không phải là điều bất ngờ khi mà tất cả đám tướng lãnh bất trung, phản phúc đều đã được thực dân Pháp đào tạo, thì nửa chữ thánh hiền cũng chưa có được nói gì đến câu Trung-Nghĩa. Sau khi giết ông, đám tướng lãnh bất trung, phản phúc và bọn cộng sản đã bới lông tìm vết, dựng nên biết bao chuyện hoang đường nhằm bôi nhọ thanh danh ông, nhưng chúng không thể nào bôi nhọ được sự liêm khiết của ông trong suốt 9 năm cầm quyền. Sau này có nhiều người chê trách ông sao dại thế, Mỹ nó đã muốn vào thì để cho nó vào, chống làm gì để phải chết oan uổng. Lý luận như vậy là lấy cái khôn của kẻ tiểu nhân mà sánh với cái dại của người quân tử.
Sau khi lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, đám tướng lãnh bất trung, phản phúc đã tranh nhau xâu xé quyền lực và bổng lộc làm cho tình hình của miền Nam trở nên tồi tệ hơn rất nhiều đã khiến cho TT Lyndon B. Johnson phải bộc lộ sự tức giận về cái quyết định sai lầm của TT John F. Kennedy và gọi đám tướng lãnh bất trung, phản phúc lá “một bọn ác ôn côn đồ, đáng nguyền rủa” (a goddamn bunch of thugs). Sau 10 năm sai lầm thì đám tướng lãnh bất trung, phản phúc lại được tên điếm chính trị Henry Kissinger tặng cho một quả lừa lịch sử là Hiệp Đình Paris năm 1973. Số phận hẩm hiu của miền Nam Việt Nam coi như đã được định đoạt từ đó rồi.
Sự chiến thắng của đoàn quân bất nhân, man rợ cộng sản năm 1975 đã reo rắc không biết bao nhiêu tang tóc, chia lìa, đau khổ và mất mát cho người miền Nam qua những hành vi cướp của, giết người rất tinh vi và gian xảo như đưa tất cả quân-dân-cán chính của Việt Nam Cộng Hoà vào tù cải tạo, đẩy vợ con họ ra vùng kinh tế mới, tich thu, chiếm đoạt tài sản của người miền Nam qua các cuộc đánh tư bản, mại sản và đổi tiền khiến cho hàng triệu người Việt Nam phải liều chết bỏ nước ra đi, tạo thành một cuộc vượt biên lớn nhất trong lịch sử loài người, cho dù một nửa số người ra đi đã phải vùi thây trong biển cả.
Nếu ngày 30 tháng 4 là ngày đau buồn của người dân miền Nam, ngày đánh dấu sự thất thủ một tiền đồn chống cộng của quân đội Việt Nam Cộng Hoà, và bắt đầu sự thống trị của cộng sản trên cả nước Việt Nam, thì trong ngày 30 tháng 4 lịch sử Việt Nam cũng viết lên những nét son vô cùng đẹp đẽ là từ cổ chí kim chưa từng có một quân đội nào mà có đến 5 vị tướng và mấy chục sỉ quan các cấp tuẫn tiết trong ngày thất thủ. Không phải là điều ngẫu nhiên mà cả 5 vị tướng và mấy chục sỉ quan các cấp của quân lực VNCH tuẫn tiết trong ngày thất thủ cũng như Thiếu tá Ngụy Văn Thà đều là những người đã được tôi luyện trong những mái trường còn mang nặng ảnh hưởng đạo lý Khổng-Mạnh.
Nhưng cho dù những người quân tử như Tổng thống Ngô Đình Diệm, các Tướng Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ và các sĩ quan các cấp khác cũng như Thiếu tá Ngụy Văn Thà có bị bức tử để bảo toàn tấm lòng trung trinh ái quốc, vị quốc vong thân thì họ vẫn còn sống mãi trong sự tiếc thương của cả dân tộc, còn những hạng tiểu nhân như Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, v.v thì đã chết trong sự nguyền rủa ngay khi chúng còn đang sống.
Có kẻ nào cũng đã khắc lên mộ bia của vua Lê Chiêu Thống hai câu thơ:
Bác rước quân Thanh giày mả tổ
Tôi dâng Tàu khựa ải Nam Quan.
Thật là một dân tộc bất hạnh !
(Tháng 04 năm 2013)
© Bạch Tường Nguyên
© Đàn Chim Việt