Văn Học & Nghệ Thuật
Những bài thơ khắc trên bia mộ
Cuối năm, tảo mộ. Thời tiết lạnh lạnh của những cơn gió thổi qua nhắc đến những ý tưởng nào tưởng đã xa xôi nhưng có lúc lại gần gũi. Câu thơ “Những người muôn năm cũ/
Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên qua nét bút Đinh Cường.
Cuối năm, tảo mộ. Thời tiết lạnh lạnh của những cơn gió thổi qua nhắc đến những ý tưởng nào tưởng đã xa xôi nhưng có lúc lại gần gũi. Câu thơ “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ” như nhắc lại một thời văn chương đã qua, những chân dung văn học đã vắng bóng. Buổi trưa, vào thăm từng ngôi mộ cũa những nhà văn nhà thơ vừa đi khuất, đọc những vần thơ ghi khắc trên bia mộ, chột thấy lòng bâng khuâng. Hình ảnh còn đây, ngôn ngữ còn đây. Nhưng người thì đã đi vào cõi vô thủy vô chung. Cái còn để lại, là những tác phẩm để đời, là những câu thơ vẫn cứ hoài trong trí nhớ của những người yêu mến.
Nghĩa trang cuối đường Bolsa là nơi an nghỉ của nhiều tác giả của văn học Việt Nam. Phía đông con đường thì ồn ào nhịp sống trong khi phía tây con đường thì tĩnh mịch lặng lẽ. Hình như cái tương phản giữa cõi của người sống và cõi của người chết chỉ một dặm đường như gọi lại bao nhiêu sắc thái của người tị nạn. Vòm cây xanh ngát của nghĩa trang, màu xanh thẳm của cỏ, màu xanh lam của nắng và màu xanh nhớ ngút ngàn của gió, làm sự phân chia của sống và chết chỉ trong thế giới mơ hồ...
Đến mộ thi sĩ Nguyên Sa, dường như nghe thấy thầm thầm một câu hỏi dù câu thơ ấy đã được ghi khắc trên ngôi mộ một thi sĩ lớn:
Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau?
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?
Vâng, biết đâu! Phải biết đâu chuyện ba trăm năm sau khi tấc lòng thi sĩ vẫn còn mãi mãi qua thăm thẳm thời gian những kiếp người?
Lúc còn sinh tiền, thi sĩ cũng đã có lúc làm thơ để nghĩ về chuyến ra đi của mình. Bài thơ “Lúc Chết”:
Anh cúi mặt hôn lên lòng đất
sáng ngày mai giường ngủ lạnh côn trùng
mười ngón tay sờ saong giữa hư không
đôi mắt đã trũng sâu buồn ảo ảnh
ở trên ấy mây mùa thu có lạnh
anh nhìn lên mái cỏ kín chân trời
em có ngồi mà nghe gió thu phai
và em có thắp hương bằng mắt sáng
lúc ra đi hai chân anh đằng trước
mắt đi sau còn vướng vất cuộc đời
hai mươi năm, buồn ở đấy, trên vai
thân thể nặng đóng đinh bằng tội lỗi
đôi mắt ấy đột nhiên buồn không nói
đột nhiên buồn chaỵ đến đứng trên mi
anh chợt nghe mưa gió ở trên kia
thân thể lạnh thu mình trong gỗ mục
anh chợt ngứa nơi bàn chân cỏ mọc
anh chợt đau vầng trán nặng đêm khuya
trên tay dài giun dế rủ nhau đi
anh lặng yên một mình nghe tóc ướt
nằm ở đây hai bàn tay thấm mệt
ngón buông xuôi cho nhẹ bớt hình hài
những bài thơ anh đã viết trên môi
lửa trái đất sẽ nung thành ảo ảnh”
Có một đoạn thơ, đã được khắc trên bia mộ một nhà thơ, thi sĩ Long Ân:
Nay ta trở lại dòng sông cũ
Rượu đã nhạt trong chai nhẹ không
Ta thấy sông im nằm say ngủ
Còn chính ta là sông mênh mông.
Sông là người. Sông là ta. Ta với người, người với ta chia sẻ cùng nhau những nỗi niềm của một thời đại lịch sử đầy biến động. Dòng sông cũ chảy về biển lớn như bước trở lại cội nguồn. Câu thơ, như một kiếp người trôi đi từ lưu lạc, của một tiền kiếp hoang sơ trong số phận Việt Nam nào...
Một bài thơ của người viết phiếm “Bỉnh Chúc Dạ Du” trên các báo Việt Nam Hải Ngoại và Thời Luận, của “nắng xế cõi chiều”, của “chưa khuất vết xe”, của “bên lề vẫy tay”, của “hồn vướng sợi mây”, của “bia mộ khắc tên” để nhớ về một người bạn đã “xa bóng trăng khơi” giữa mênh mông cuộc đời:
Một người “bỉnh chúc dạ du”
Gửi vào thiên cổ mịt mù nhân gian
Trăm năm đã vội dặm ngàn
Thoảng cười nụ tưởng hoa vàng còn mơ
Tháng giêng, bước lạ bến bờ
Con sông chảy thuở tình cờ gọi ai
Người rằng “ Thiên hà ngôn tai”
Nhắc riêng đành một cõi ngoài quanh hiu
Tháng giêng, nắng xế cõi chiều
Bạc phai tóc lộng chân xiêu nẻo về
Người đi, chưa khuất vết xe
Ngã tư ngỡ đứng bên lề vẫy tay
Nhớ ai, hồn vướng sợi mây
Vọng đôi mắt của tháng ngày chưa quên
Vẫy tay, bia mộ khắc tên
Chắt giọt rượu giữa vô biên một thời.
Người xa, còn bóng trăng khơi
Còn câu thơ giữa một đời mênh mông...
(Nguyễn Mạnh Trinh)
Nhà thơ Mai Thảo qua nét bút Đinh Cường.
Thuở sinh thời, nhà văn Mai Thảo viết Tháng Giêng Cỏ Non. Từ ngày 10 tháng giêng năm 1998, là ngày ông từ trần, tới nay là mười lăm năm. Cỏ non bây giờ đã phủ đầy mộ chí...
Có một người làm thơ, đã khắc trên bia mộ của mình bài thơ tứ tuyệt:
Thế giới có triệu điều không hiểu
càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.
Bài thơ nhan đề “Không hiểu”. Mở ra với cái hữu hạn của con người và đóng lại với cái vô hạn của cuộc sống. Có mấy ai thông kim bác cổ hiểu được tất cả sự việc? Dù, cả khi cuối đời, khi đã trải đủ ngọt bùi đắng cay của kiếp nhân sinh? Chỉ, khi đã nằm trong ba tấc đất, nhìn ngôi sao sáng để đọc được cái lẽ huyền vi của đất trời. Chữ “chẳng sao” trong câu thơ, ý lạnh lùng, nghĩa thản nhiên, có một chút mặc kệ, biểu lộ cái tâm cảm an nhiên của một người sẽ phải đáp chuyến đi vào vô tận. Cuộc hành trình vô tận ấy, có khi xa xăm như ngôi tinh đẩu kia nhưng lại đôi lúc gũi gần như cái chết dần trước mặt. Thơ như trải ra nỗi niềm của một người thấy được cái hư vô của đời người. Thơ không đóng lại mà mở ra cõi tâm linh của một người có đôi mắt luôn vọng về một cõi xa, của tâm thức muôn đời vời vợi..
Khi còn sống, nhà văn Mai Thảo cũng đã nghĩ đến ngày nằm xuống ba tấc đất cuả mình. Bài thơ “Nghe Đất” trong buổi trưa hôm nay chợt đến để thấy cái tâm của một người thoáng rộng ở giữa cõi tử sinh. Người nằm trong đất còn thoảng nghe tiếng “đời sau thở dài”:
Nằm đây dưới bóng cây xanh
Nhìn qua lá biếc lại xanh sắc trời
Mát thơm đất trải bên người
Nghe trong ấm lạnh da người cũng thơm
Đất lên hương thấm qua hồn
Nghe vui thoảng đến với buồn thoảng di
Giữa giờ trưa nắng uy nghi
Bóng vây vây nhẹ hàng mi cúi đầu
Người nằm nghe đất bao lâu
Tai nương nhẹ tiếng đời sau thở dài
Lung linh sóng nắng đan cài
Cõi Trong điệp điệp Cõi Ngoài mang mang
Chợt đâu rụng tiếng phai tàn
Rơi ngưng nửa ráng nắng chiều trôi qua
Lonh hồn thiếp giữa triều hoa
Bóng hình thôi đã nhạt nhòa quanh thân.
Những câu thơ tiền định ghi khắc trên bia mộ của Nguyễn Tất Nhiên như báo trước một đời tài hoa nhưng chết trẻ:
Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ
phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
phải đau theo từng hớp rượu tàn
phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định
(vì Thượng Đế từ lâu hiện hữu
cầm trong tay sinh tử của muôn loài
tình ta vừa gánh nặng thấu xương vai
thì em hỡi ngai trời ta đạp xuống)
Nhà thơ Nguyên Sa qua nét bút Nguyên Khai.
Những câu thơ ấy cũng như những câu thơ khác được khắc trên bia mộ của các nhà văn Mai Thảo, Nguyên Sa, Long An,... là một chứng tích của thế hệ lưu vong hôm nay để lại cho đời sau. Nhiều người ở xa khi đến thăm little Sài Gòn, đã thường đến nghĩa trang ở cuối đường Bolsa để chiêm ngưỡng những câu thơ đặc biệt ấy...
Có bài thơ viết để tưởng niệm Nguyễn Tất Nhiên sau một ngày thi sĩ qua đời. Buổi trưa hôm nay, khi nhìn di ảnh và đoạn thơ trên mộ, tự nhiên những bài thơ kỷ niệm của riêng tôi thoáng qua trong trí nhớ. “Thà như giọt mưa/vỡ trên tượng đá”. Vỡ tan, vỡ tan...
Ngày hôm qua thi sĩ đã chết
Nắng mùa hạ lửa đốt trong đầu
Mồ hôi đọng long lanh lệ khóc
Mặt thủy mờ kính cuộn nỗi đau
Một mình cơn mộng du không dứt
Xa lộ đông bỗng chẳng còn ai
Mặt nhựa xám đen thẳm ý mực
Vỡ tan tành nghiên bút loay hoay
Ngày hôm qua thơ tình đã hết
“thà giọt mưa trên đá” vỡ tan
cành “trúc đào” nở hoa oan nghiệt
rất yêu em dù nỗi muộn màng
đào mấy tầng tinh tuyền chất quặng
ngôn ngữ ròng cùng tận trái tim
gánh nhân gian đôi vai còn nặng
“Cũng cần cho hạnh phúc” cách riêng
Ngày hôm qua chuyến xe khuất biệt
Hạt bụi nào hành trang đi xa
Này “cô gái Bắc kỳ” mắt biếc
Nước mắt đành giọt nhỏ vỡ òa?
Hát lên đi bản nhạc xưa cũ
Như chiếc lá phơi nền cỏ nâu
Dáng mắt buồn đêm trắng ẩn dụ
Lửa vô minh khói ngút bờ lau
Ngày hôm qua trái đất đứng sững
Chân lao đao thế giới lạ lùng
Tiếng gió bật cuồng điên ngựa chứng
Vài câu thơ đọc giữa muôn trùng.
Sống là chịu vai trò thất ý
Mộng ngàn năm, mơ cũng vạn năm
Đáy tâm cảm loài hoa kỳ dị
Mọc rễ trong da thịt ăn năn
Ngày hôm qua thi sĩ đã chết
Gót chân trần dẫm cõi hư không
Bài thơ tình chẳng có đoạn kết
Ngôn ngữ rơi theo sóng bềnh bồng
Ai đã hỏi thơ bao nhiêu tuổi?
Ba trăm năm, ý nhớ tình quên
Thơ, thiên thu vẫn là tiếng gọi
Dìu dắt ai lạc chốn vô biên!
Nguyễn Mạnh Trinh
Mai Anh chuyển
Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên qua nét bút Đinh Cường.
Cuối năm, tảo mộ. Thời tiết lạnh lạnh của những cơn gió thổi qua nhắc đến những ý tưởng nào tưởng đã xa xôi nhưng có lúc lại gần gũi. Câu thơ “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ” như nhắc lại một thời văn chương đã qua, những chân dung văn học đã vắng bóng. Buổi trưa, vào thăm từng ngôi mộ cũa những nhà văn nhà thơ vừa đi khuất, đọc những vần thơ ghi khắc trên bia mộ, chột thấy lòng bâng khuâng. Hình ảnh còn đây, ngôn ngữ còn đây. Nhưng người thì đã đi vào cõi vô thủy vô chung. Cái còn để lại, là những tác phẩm để đời, là những câu thơ vẫn cứ hoài trong trí nhớ của những người yêu mến.
Nghĩa trang cuối đường Bolsa là nơi an nghỉ của nhiều tác giả của văn học Việt Nam. Phía đông con đường thì ồn ào nhịp sống trong khi phía tây con đường thì tĩnh mịch lặng lẽ. Hình như cái tương phản giữa cõi của người sống và cõi của người chết chỉ một dặm đường như gọi lại bao nhiêu sắc thái của người tị nạn. Vòm cây xanh ngát của nghĩa trang, màu xanh thẳm của cỏ, màu xanh lam của nắng và màu xanh nhớ ngút ngàn của gió, làm sự phân chia của sống và chết chỉ trong thế giới mơ hồ...
Đến mộ thi sĩ Nguyên Sa, dường như nghe thấy thầm thầm một câu hỏi dù câu thơ ấy đã được ghi khắc trên ngôi mộ một thi sĩ lớn:
Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau?
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?
Vâng, biết đâu! Phải biết đâu chuyện ba trăm năm sau khi tấc lòng thi sĩ vẫn còn mãi mãi qua thăm thẳm thời gian những kiếp người?
Lúc còn sinh tiền, thi sĩ cũng đã có lúc làm thơ để nghĩ về chuyến ra đi của mình. Bài thơ “Lúc Chết”:
Anh cúi mặt hôn lên lòng đất
sáng ngày mai giường ngủ lạnh côn trùng
mười ngón tay sờ saong giữa hư không
đôi mắt đã trũng sâu buồn ảo ảnh
ở trên ấy mây mùa thu có lạnh
anh nhìn lên mái cỏ kín chân trời
em có ngồi mà nghe gió thu phai
và em có thắp hương bằng mắt sáng
lúc ra đi hai chân anh đằng trước
mắt đi sau còn vướng vất cuộc đời
hai mươi năm, buồn ở đấy, trên vai
thân thể nặng đóng đinh bằng tội lỗi
đôi mắt ấy đột nhiên buồn không nói
đột nhiên buồn chaỵ đến đứng trên mi
anh chợt nghe mưa gió ở trên kia
thân thể lạnh thu mình trong gỗ mục
anh chợt ngứa nơi bàn chân cỏ mọc
anh chợt đau vầng trán nặng đêm khuya
trên tay dài giun dế rủ nhau đi
anh lặng yên một mình nghe tóc ướt
nằm ở đây hai bàn tay thấm mệt
ngón buông xuôi cho nhẹ bớt hình hài
những bài thơ anh đã viết trên môi
lửa trái đất sẽ nung thành ảo ảnh”
Có một đoạn thơ, đã được khắc trên bia mộ một nhà thơ, thi sĩ Long Ân:
Nay ta trở lại dòng sông cũ
Rượu đã nhạt trong chai nhẹ không
Ta thấy sông im nằm say ngủ
Còn chính ta là sông mênh mông.
Sông là người. Sông là ta. Ta với người, người với ta chia sẻ cùng nhau những nỗi niềm của một thời đại lịch sử đầy biến động. Dòng sông cũ chảy về biển lớn như bước trở lại cội nguồn. Câu thơ, như một kiếp người trôi đi từ lưu lạc, của một tiền kiếp hoang sơ trong số phận Việt Nam nào...
Một bài thơ của người viết phiếm “Bỉnh Chúc Dạ Du” trên các báo Việt Nam Hải Ngoại và Thời Luận, của “nắng xế cõi chiều”, của “chưa khuất vết xe”, của “bên lề vẫy tay”, của “hồn vướng sợi mây”, của “bia mộ khắc tên” để nhớ về một người bạn đã “xa bóng trăng khơi” giữa mênh mông cuộc đời:
Một người “bỉnh chúc dạ du”
Gửi vào thiên cổ mịt mù nhân gian
Trăm năm đã vội dặm ngàn
Thoảng cười nụ tưởng hoa vàng còn mơ
Tháng giêng, bước lạ bến bờ
Con sông chảy thuở tình cờ gọi ai
Người rằng “ Thiên hà ngôn tai”
Nhắc riêng đành một cõi ngoài quanh hiu
Tháng giêng, nắng xế cõi chiều
Bạc phai tóc lộng chân xiêu nẻo về
Người đi, chưa khuất vết xe
Ngã tư ngỡ đứng bên lề vẫy tay
Nhớ ai, hồn vướng sợi mây
Vọng đôi mắt của tháng ngày chưa quên
Vẫy tay, bia mộ khắc tên
Chắt giọt rượu giữa vô biên một thời.
Người xa, còn bóng trăng khơi
Còn câu thơ giữa một đời mênh mông...
(Nguyễn Mạnh Trinh)
Nhà thơ Mai Thảo qua nét bút Đinh Cường.
Thuở sinh thời, nhà văn Mai Thảo viết Tháng Giêng Cỏ Non. Từ ngày 10 tháng giêng năm 1998, là ngày ông từ trần, tới nay là mười lăm năm. Cỏ non bây giờ đã phủ đầy mộ chí...
Có một người làm thơ, đã khắc trên bia mộ của mình bài thơ tứ tuyệt:
Thế giới có triệu điều không hiểu
càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.
Bài thơ nhan đề “Không hiểu”. Mở ra với cái hữu hạn của con người và đóng lại với cái vô hạn của cuộc sống. Có mấy ai thông kim bác cổ hiểu được tất cả sự việc? Dù, cả khi cuối đời, khi đã trải đủ ngọt bùi đắng cay của kiếp nhân sinh? Chỉ, khi đã nằm trong ba tấc đất, nhìn ngôi sao sáng để đọc được cái lẽ huyền vi của đất trời. Chữ “chẳng sao” trong câu thơ, ý lạnh lùng, nghĩa thản nhiên, có một chút mặc kệ, biểu lộ cái tâm cảm an nhiên của một người sẽ phải đáp chuyến đi vào vô tận. Cuộc hành trình vô tận ấy, có khi xa xăm như ngôi tinh đẩu kia nhưng lại đôi lúc gũi gần như cái chết dần trước mặt. Thơ như trải ra nỗi niềm của một người thấy được cái hư vô của đời người. Thơ không đóng lại mà mở ra cõi tâm linh của một người có đôi mắt luôn vọng về một cõi xa, của tâm thức muôn đời vời vợi..
Khi còn sống, nhà văn Mai Thảo cũng đã nghĩ đến ngày nằm xuống ba tấc đất cuả mình. Bài thơ “Nghe Đất” trong buổi trưa hôm nay chợt đến để thấy cái tâm của một người thoáng rộng ở giữa cõi tử sinh. Người nằm trong đất còn thoảng nghe tiếng “đời sau thở dài”:
Nằm đây dưới bóng cây xanh
Nhìn qua lá biếc lại xanh sắc trời
Mát thơm đất trải bên người
Nghe trong ấm lạnh da người cũng thơm
Đất lên hương thấm qua hồn
Nghe vui thoảng đến với buồn thoảng di
Giữa giờ trưa nắng uy nghi
Bóng vây vây nhẹ hàng mi cúi đầu
Người nằm nghe đất bao lâu
Tai nương nhẹ tiếng đời sau thở dài
Lung linh sóng nắng đan cài
Cõi Trong điệp điệp Cõi Ngoài mang mang
Chợt đâu rụng tiếng phai tàn
Rơi ngưng nửa ráng nắng chiều trôi qua
Lonh hồn thiếp giữa triều hoa
Bóng hình thôi đã nhạt nhòa quanh thân.
Những câu thơ tiền định ghi khắc trên bia mộ của Nguyễn Tất Nhiên như báo trước một đời tài hoa nhưng chết trẻ:
Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ
phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
phải đau theo từng hớp rượu tàn
phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định
(vì Thượng Đế từ lâu hiện hữu
cầm trong tay sinh tử của muôn loài
tình ta vừa gánh nặng thấu xương vai
thì em hỡi ngai trời ta đạp xuống)
Nhà thơ Nguyên Sa qua nét bút Nguyên Khai.
Những câu thơ ấy cũng như những câu thơ khác được khắc trên bia mộ của các nhà văn Mai Thảo, Nguyên Sa, Long An,... là một chứng tích của thế hệ lưu vong hôm nay để lại cho đời sau. Nhiều người ở xa khi đến thăm little Sài Gòn, đã thường đến nghĩa trang ở cuối đường Bolsa để chiêm ngưỡng những câu thơ đặc biệt ấy...
Có bài thơ viết để tưởng niệm Nguyễn Tất Nhiên sau một ngày thi sĩ qua đời. Buổi trưa hôm nay, khi nhìn di ảnh và đoạn thơ trên mộ, tự nhiên những bài thơ kỷ niệm của riêng tôi thoáng qua trong trí nhớ. “Thà như giọt mưa/vỡ trên tượng đá”. Vỡ tan, vỡ tan...
Ngày hôm qua thi sĩ đã chết
Nắng mùa hạ lửa đốt trong đầu
Mồ hôi đọng long lanh lệ khóc
Mặt thủy mờ kính cuộn nỗi đau
Một mình cơn mộng du không dứt
Xa lộ đông bỗng chẳng còn ai
Mặt nhựa xám đen thẳm ý mực
Vỡ tan tành nghiên bút loay hoay
Ngày hôm qua thơ tình đã hết
“thà giọt mưa trên đá” vỡ tan
cành “trúc đào” nở hoa oan nghiệt
rất yêu em dù nỗi muộn màng
đào mấy tầng tinh tuyền chất quặng
ngôn ngữ ròng cùng tận trái tim
gánh nhân gian đôi vai còn nặng
“Cũng cần cho hạnh phúc” cách riêng
Ngày hôm qua chuyến xe khuất biệt
Hạt bụi nào hành trang đi xa
Này “cô gái Bắc kỳ” mắt biếc
Nước mắt đành giọt nhỏ vỡ òa?
Hát lên đi bản nhạc xưa cũ
Như chiếc lá phơi nền cỏ nâu
Dáng mắt buồn đêm trắng ẩn dụ
Lửa vô minh khói ngút bờ lau
Ngày hôm qua trái đất đứng sững
Chân lao đao thế giới lạ lùng
Tiếng gió bật cuồng điên ngựa chứng
Vài câu thơ đọc giữa muôn trùng.
Sống là chịu vai trò thất ý
Mộng ngàn năm, mơ cũng vạn năm
Đáy tâm cảm loài hoa kỳ dị
Mọc rễ trong da thịt ăn năn
Ngày hôm qua thi sĩ đã chết
Gót chân trần dẫm cõi hư không
Bài thơ tình chẳng có đoạn kết
Ngôn ngữ rơi theo sóng bềnh bồng
Ai đã hỏi thơ bao nhiêu tuổi?
Ba trăm năm, ý nhớ tình quên
Thơ, thiên thu vẫn là tiếng gọi
Dìu dắt ai lạc chốn vô biên!
Nguyễn Mạnh Trinh
Mai Anh chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Những bài thơ khắc trên bia mộ
Cuối năm, tảo mộ. Thời tiết lạnh lạnh của những cơn gió thổi qua nhắc đến những ý tưởng nào tưởng đã xa xôi nhưng có lúc lại gần gũi. Câu thơ “Những người muôn năm cũ/
Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên qua nét bút Đinh Cường.
Cuối năm, tảo mộ. Thời tiết lạnh lạnh của những cơn gió thổi qua nhắc đến những ý tưởng nào tưởng đã xa xôi nhưng có lúc lại gần gũi. Câu thơ “Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ” như nhắc lại một thời văn chương đã qua, những chân dung văn học đã vắng bóng. Buổi trưa, vào thăm từng ngôi mộ cũa những nhà văn nhà thơ vừa đi khuất, đọc những vần thơ ghi khắc trên bia mộ, chột thấy lòng bâng khuâng. Hình ảnh còn đây, ngôn ngữ còn đây. Nhưng người thì đã đi vào cõi vô thủy vô chung. Cái còn để lại, là những tác phẩm để đời, là những câu thơ vẫn cứ hoài trong trí nhớ của những người yêu mến.
Nghĩa trang cuối đường Bolsa là nơi an nghỉ của nhiều tác giả của văn học Việt Nam. Phía đông con đường thì ồn ào nhịp sống trong khi phía tây con đường thì tĩnh mịch lặng lẽ. Hình như cái tương phản giữa cõi của người sống và cõi của người chết chỉ một dặm đường như gọi lại bao nhiêu sắc thái của người tị nạn. Vòm cây xanh ngát của nghĩa trang, màu xanh thẳm của cỏ, màu xanh lam của nắng và màu xanh nhớ ngút ngàn của gió, làm sự phân chia của sống và chết chỉ trong thế giới mơ hồ...
Đến mộ thi sĩ Nguyên Sa, dường như nghe thấy thầm thầm một câu hỏi dù câu thơ ấy đã được ghi khắc trên ngôi mộ một thi sĩ lớn:
Nằm chơi ở góc rừng này
Chưa thiên thu cũng đã đầy cỏ hoang
Xin em một sợi tóc vàng
Làm hoa khởi sự cho ngàn kiếp sau
Biết đâu thảo mộc bớt đau?
Biết đâu có bản kinh cầu dâng lên?
Vâng, biết đâu! Phải biết đâu chuyện ba trăm năm sau khi tấc lòng thi sĩ vẫn còn mãi mãi qua thăm thẳm thời gian những kiếp người?
Lúc còn sinh tiền, thi sĩ cũng đã có lúc làm thơ để nghĩ về chuyến ra đi của mình. Bài thơ “Lúc Chết”:
Anh cúi mặt hôn lên lòng đất
sáng ngày mai giường ngủ lạnh côn trùng
mười ngón tay sờ saong giữa hư không
đôi mắt đã trũng sâu buồn ảo ảnh
ở trên ấy mây mùa thu có lạnh
anh nhìn lên mái cỏ kín chân trời
em có ngồi mà nghe gió thu phai
và em có thắp hương bằng mắt sáng
lúc ra đi hai chân anh đằng trước
mắt đi sau còn vướng vất cuộc đời
hai mươi năm, buồn ở đấy, trên vai
thân thể nặng đóng đinh bằng tội lỗi
đôi mắt ấy đột nhiên buồn không nói
đột nhiên buồn chaỵ đến đứng trên mi
anh chợt nghe mưa gió ở trên kia
thân thể lạnh thu mình trong gỗ mục
anh chợt ngứa nơi bàn chân cỏ mọc
anh chợt đau vầng trán nặng đêm khuya
trên tay dài giun dế rủ nhau đi
anh lặng yên một mình nghe tóc ướt
nằm ở đây hai bàn tay thấm mệt
ngón buông xuôi cho nhẹ bớt hình hài
những bài thơ anh đã viết trên môi
lửa trái đất sẽ nung thành ảo ảnh”
Có một đoạn thơ, đã được khắc trên bia mộ một nhà thơ, thi sĩ Long Ân:
Nay ta trở lại dòng sông cũ
Rượu đã nhạt trong chai nhẹ không
Ta thấy sông im nằm say ngủ
Còn chính ta là sông mênh mông.
Sông là người. Sông là ta. Ta với người, người với ta chia sẻ cùng nhau những nỗi niềm của một thời đại lịch sử đầy biến động. Dòng sông cũ chảy về biển lớn như bước trở lại cội nguồn. Câu thơ, như một kiếp người trôi đi từ lưu lạc, của một tiền kiếp hoang sơ trong số phận Việt Nam nào...
Một bài thơ của người viết phiếm “Bỉnh Chúc Dạ Du” trên các báo Việt Nam Hải Ngoại và Thời Luận, của “nắng xế cõi chiều”, của “chưa khuất vết xe”, của “bên lề vẫy tay”, của “hồn vướng sợi mây”, của “bia mộ khắc tên” để nhớ về một người bạn đã “xa bóng trăng khơi” giữa mênh mông cuộc đời:
Một người “bỉnh chúc dạ du”
Gửi vào thiên cổ mịt mù nhân gian
Trăm năm đã vội dặm ngàn
Thoảng cười nụ tưởng hoa vàng còn mơ
Tháng giêng, bước lạ bến bờ
Con sông chảy thuở tình cờ gọi ai
Người rằng “ Thiên hà ngôn tai”
Nhắc riêng đành một cõi ngoài quanh hiu
Tháng giêng, nắng xế cõi chiều
Bạc phai tóc lộng chân xiêu nẻo về
Người đi, chưa khuất vết xe
Ngã tư ngỡ đứng bên lề vẫy tay
Nhớ ai, hồn vướng sợi mây
Vọng đôi mắt của tháng ngày chưa quên
Vẫy tay, bia mộ khắc tên
Chắt giọt rượu giữa vô biên một thời.
Người xa, còn bóng trăng khơi
Còn câu thơ giữa một đời mênh mông...
(Nguyễn Mạnh Trinh)
Nhà thơ Mai Thảo qua nét bút Đinh Cường.
Thuở sinh thời, nhà văn Mai Thảo viết Tháng Giêng Cỏ Non. Từ ngày 10 tháng giêng năm 1998, là ngày ông từ trần, tới nay là mười lăm năm. Cỏ non bây giờ đã phủ đầy mộ chí...
Có một người làm thơ, đã khắc trên bia mộ của mình bài thơ tứ tuyệt:
Thế giới có triệu điều không hiểu
càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi.
Bài thơ nhan đề “Không hiểu”. Mở ra với cái hữu hạn của con người và đóng lại với cái vô hạn của cuộc sống. Có mấy ai thông kim bác cổ hiểu được tất cả sự việc? Dù, cả khi cuối đời, khi đã trải đủ ngọt bùi đắng cay của kiếp nhân sinh? Chỉ, khi đã nằm trong ba tấc đất, nhìn ngôi sao sáng để đọc được cái lẽ huyền vi của đất trời. Chữ “chẳng sao” trong câu thơ, ý lạnh lùng, nghĩa thản nhiên, có một chút mặc kệ, biểu lộ cái tâm cảm an nhiên của một người sẽ phải đáp chuyến đi vào vô tận. Cuộc hành trình vô tận ấy, có khi xa xăm như ngôi tinh đẩu kia nhưng lại đôi lúc gũi gần như cái chết dần trước mặt. Thơ như trải ra nỗi niềm của một người thấy được cái hư vô của đời người. Thơ không đóng lại mà mở ra cõi tâm linh của một người có đôi mắt luôn vọng về một cõi xa, của tâm thức muôn đời vời vợi..
Khi còn sống, nhà văn Mai Thảo cũng đã nghĩ đến ngày nằm xuống ba tấc đất cuả mình. Bài thơ “Nghe Đất” trong buổi trưa hôm nay chợt đến để thấy cái tâm của một người thoáng rộng ở giữa cõi tử sinh. Người nằm trong đất còn thoảng nghe tiếng “đời sau thở dài”:
Nằm đây dưới bóng cây xanh
Nhìn qua lá biếc lại xanh sắc trời
Mát thơm đất trải bên người
Nghe trong ấm lạnh da người cũng thơm
Đất lên hương thấm qua hồn
Nghe vui thoảng đến với buồn thoảng di
Giữa giờ trưa nắng uy nghi
Bóng vây vây nhẹ hàng mi cúi đầu
Người nằm nghe đất bao lâu
Tai nương nhẹ tiếng đời sau thở dài
Lung linh sóng nắng đan cài
Cõi Trong điệp điệp Cõi Ngoài mang mang
Chợt đâu rụng tiếng phai tàn
Rơi ngưng nửa ráng nắng chiều trôi qua
Lonh hồn thiếp giữa triều hoa
Bóng hình thôi đã nhạt nhòa quanh thân.
Những câu thơ tiền định ghi khắc trên bia mộ của Nguyễn Tất Nhiên như báo trước một đời tài hoa nhưng chết trẻ:
Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ
phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
phải đau theo từng hớp rượu tàn
phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định
(vì Thượng Đế từ lâu hiện hữu
cầm trong tay sinh tử của muôn loài
tình ta vừa gánh nặng thấu xương vai
thì em hỡi ngai trời ta đạp xuống)
Nhà thơ Nguyên Sa qua nét bút Nguyên Khai.
Những câu thơ ấy cũng như những câu thơ khác được khắc trên bia mộ của các nhà văn Mai Thảo, Nguyên Sa, Long An,... là một chứng tích của thế hệ lưu vong hôm nay để lại cho đời sau. Nhiều người ở xa khi đến thăm little Sài Gòn, đã thường đến nghĩa trang ở cuối đường Bolsa để chiêm ngưỡng những câu thơ đặc biệt ấy...
Có bài thơ viết để tưởng niệm Nguyễn Tất Nhiên sau một ngày thi sĩ qua đời. Buổi trưa hôm nay, khi nhìn di ảnh và đoạn thơ trên mộ, tự nhiên những bài thơ kỷ niệm của riêng tôi thoáng qua trong trí nhớ. “Thà như giọt mưa/vỡ trên tượng đá”. Vỡ tan, vỡ tan...
Ngày hôm qua thi sĩ đã chết
Nắng mùa hạ lửa đốt trong đầu
Mồ hôi đọng long lanh lệ khóc
Mặt thủy mờ kính cuộn nỗi đau
Một mình cơn mộng du không dứt
Xa lộ đông bỗng chẳng còn ai
Mặt nhựa xám đen thẳm ý mực
Vỡ tan tành nghiên bút loay hoay
Ngày hôm qua thơ tình đã hết
“thà giọt mưa trên đá” vỡ tan
cành “trúc đào” nở hoa oan nghiệt
rất yêu em dù nỗi muộn màng
đào mấy tầng tinh tuyền chất quặng
ngôn ngữ ròng cùng tận trái tim
gánh nhân gian đôi vai còn nặng
“Cũng cần cho hạnh phúc” cách riêng
Ngày hôm qua chuyến xe khuất biệt
Hạt bụi nào hành trang đi xa
Này “cô gái Bắc kỳ” mắt biếc
Nước mắt đành giọt nhỏ vỡ òa?
Hát lên đi bản nhạc xưa cũ
Như chiếc lá phơi nền cỏ nâu
Dáng mắt buồn đêm trắng ẩn dụ
Lửa vô minh khói ngút bờ lau
Ngày hôm qua trái đất đứng sững
Chân lao đao thế giới lạ lùng
Tiếng gió bật cuồng điên ngựa chứng
Vài câu thơ đọc giữa muôn trùng.
Sống là chịu vai trò thất ý
Mộng ngàn năm, mơ cũng vạn năm
Đáy tâm cảm loài hoa kỳ dị
Mọc rễ trong da thịt ăn năn
Ngày hôm qua thi sĩ đã chết
Gót chân trần dẫm cõi hư không
Bài thơ tình chẳng có đoạn kết
Ngôn ngữ rơi theo sóng bềnh bồng
Ai đã hỏi thơ bao nhiêu tuổi?
Ba trăm năm, ý nhớ tình quên
Thơ, thiên thu vẫn là tiếng gọi
Dìu dắt ai lạc chốn vô biên!
Nguyễn Mạnh Trinh
Mai Anh chuyển