Văn Học & Nghệ Thuật
Những cung bậc mùa xuân
Có Những bài thơ xuân trong đó chất chứa không những niềm vui mà còn không ít nỗi buồn của mùa xuân, những mùa xuân xa xứ. Mùa xuân và Tết đang cận kề Mặc Lâm xin giới thiệu một vài bài thơ xuân
Đây cả mùa xuân đã đến rồi
Từng nhà mở cửa đón vui tươi
Từng cô em bé so màu áo
Đôi má hồng lên nhí nhảnh cười.
Và tựa hoa tươi cánh nở dần
Từng hàng thục nữ dậy thì xuân
Đường hương thao thức lòng quân tử
Vó ngựa quen rồi ngõ ái ân.
Từng gã thư sinh biếng chải đầu
Một mình mơ ước chuyện mai sau
Lên kinh thi đỗ làm quan Trạng
Công chúa cài trâm thả tú cầu.
Có những ông già tóc bạc phơ
Rượu đào đôi chén bút đề thơ
Những bà tóc bạc hiền như phật
Sắm sửa hành trang trẩy hội chùa.
Pháo nổ đâu đây khói ngợp trời
Nhà nhà đoàn tựu dưới hoa tươi
Lòng tôi như cánh hoa tiên ấy
Một áng thơ đề nét chẳng phai.
Nguyễn Bính đáng gọi là nhà thơ mới có nhiều bài thơ viết về mùa xuân, về tết nhất trong văn học Việt Nam. Đa số trong các bài thơ ấy là những cái tết ly hương mà nhà thơ trải nghiệm có lẽ bài Thơ Xuân mà chúng ta vừa nghe là bài thơ nguyên vẹn sắc màu mùa xuân vĩnh cửu nhất của nhà thơ.
Không thật thà dịu dàng như Nguyễn Bính, Bùi Giáng có cái chạm khẽ vào Xuân nhưng lại bật ra sự sửng sốt cho người đọc ông. Bùi Giáng vốn nổi tiếng là làm thơ như lão ngoan đồng, chạm vào chữ như người điên nhưng kết quả là chữ của ông làm cho người ta say sóng. Với mùa Xuân cũng thế, Bùi Giáng đứng xa mà quan sát để rồi bất thình lình xô người đọc vào vùng xoáy của thực và mộng, của hư vô và hiện sinh. Bùi Giáng cũng chào và hỏi như thói quen chào hỏi của người Việt trong dịp xuân về, nhưng cái chào hỏi của ông hàm chứa sự biệt ly không tránh được của kiếp người, từ đó nảy sinh câu hỏi: Khi nào thì trùng ngộ?
Bùi Giáng
Chào Nguyên Xuân
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người
Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng: những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau
Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu
Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
Sự trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân mà Bùi Giáng đặt để hình như không xảy ra như nhà thơ dự đoán. Từ mùa xuân năm 1975, mùa xuân định mệnh biến đổi một nửa đất nước và hàng triệu người bỗng đánh mất mùa xuân trên bước đường lưu lạc. Từ thành phố Seatlle của tiếu bang Washington, nhà thơ Thanh Nam thở dài não lòng với bài “Thơ xuân nơi đất khách”. Giọng thơ quay trở lại thời của Nguyễn Bính khi vào Nam nhớ về những mùa xuân đất Bắc. Với Thanh Nam không còn may mắn như Nguyễn Bính còn có nẻo mà về vì ông ở quá xa, xa như từ cõi nào khác không còn có mùa xuân thứ hai trở lại.
Tờ lịch đầu năm rớt hững hờ
Mới hay năm tháng đã thay mùa
Ra đi từ thuở làm ly khách
Sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ
Trôi giạt từ đông sang cõi bắc
Hành trình trơ một gánh ưu tư
Quê người nghĩ xót thân lưu lạc
Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du
Thức ngủ một mình trong tủi nhục
Dặm dài chân mỏi bước bơ vơ
Giống như người lính vừa thua trận
Nằm giữ sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bờ
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa.
Ơi hỡi quê hương, bè bạn cũ
Những ai còn mất giữa sa mù
Mất nhau từ buổi tàn xuân đó
Không một tin nhà, một cánh thư
Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi
Rối bời tâm sự tuyết đan tơ
Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn năm dài Một Tháng Tư!
Chấp nhận hai đời trong một kiếp
Đành cho giông bão phũ phàng đưa
Đầu thai lần nữa trên trần thế
Kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ
Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt
Học làm con trẻ nói ngu ngơ
Vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi
Thân phận không bằng đứa mãng phu
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua
Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng
Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do!
Bằng hữu qua đây dăm bẩy kẻ
Đứa nuôi cừu hận, đứa phong ba
Đứa nằm yên phận vui êm ấm
Đứa nhục nhằn lê kiếp sống thừa .
Mây nước có phen còn hội ngộ
Thâm tình viễn xứ lại như xa
Xuân này đón tuổi gần năm chục
Đối bóng mình ta say với ta.
Cách Seattle không xa là Portland, Oregon nhà thơ Hoàng Phố trong một chiểu cuối năm đi ngang sở thú Tiểu bang, anh bắt gặp hình dáng một con vượn bạc má ngồi ủ rủ trong chấn song khi đất trời thay đổi. Nỗi cảm hoài đã làm nhà thơ tự hỏi không biết giữa mình và con vượn bạc má ấy ai trong, ai ngoài cái chắn song kia, chắn song mà anh gọi là chắn song cách biệt giữa rừng và phố, giữa Mỹ và quê nhà xa lắc xa lơ…
Chiều ba mươi trong sở thú với con bạc má.
chớm xuân không đủ cho lòng ấm
khóc lời hỗn mang mù đất trời
ngươi, con bạc má hú tiếng nhớ
chắc gì ta chẳng buồn hơn ngươi?
chấn song cách biệt rừng và phố
ngươi ngồi chồm hổm mắt lạc loài
nhìn ngươi ta thốt lời nghẹn ứa
trời cao biển rộng biết đâu về?
ta lục mỏi mòn trong trí nhớ
bao lâu? không biết, ở nơi này
chỉ chắc một điều không bàn cãi
nhớ quê như lửa dụi vào tay
nếu ta hú được như ngươi vậy
rồi ngươi sẽ ngẩn mặt ra nhìn
ngoài ngươi trái đất còn ta nữa
buồn quê đầy ứ đến vô cùng
ta đi một đỗi còn quay lại
ngươi vẫn bên trong ta bên ngoài
ngoài, trong nỗi nhớ không ngơi nghỉ
ngươi nhớ bầy đàn ta nhớ ai?
Rồi như chợt nhớ ra bây giờ đang là những ngày chuẩn bị đón Tết, nhà thơ lại bâng khuâng với khúc phim cũ từ cuộc đời Việt Nam, nơi anh đã rời xa, hút mắt:
Canh cánh
pháo có còn thơm sân áo mới
xuân có còn tươi nụ hôn đời
em có còn xinh đôi gót mỏng
ngõ vẫn buồn hiu vàng lá rơi?
ta nhớ miệt mài con đường đất
thoáng dăm đứa bé dắt nhau đi
ai vấp vào lòng ai tội nghiệp
ba mươi năm tim vẫn thầm thì
lại nhớ dăm căn chòi hiu quạnh
tựa vào nhau xiêu đổ vào nhau
người họp rồi tan bao nhiêu bận
có ai nán lại giữa chợ chiều?
tiếng xe mì gõ đêm mù mịt
cuối xóm mờ câm lạc ánh đèn
ai đứng chờ ai lòng quên mỏi
ầu ơ tiếng mẹ nghe rất quen
nỗi nhớ quẩn quanh không nơi thoát
tụ lại trong tim đầy chỗ nằm
vói tay vặn thử thời gian nguội
vô ích như trò chơi trăm năm
Hoàng Phố buồn và dĩ nhiên trong nỗi buồn mang chữ Việt Nam ấy vẫn là bóng dáng người mẹ cho bất cứ ai còn mẹ ở lại trong nước. Anh nhờ người bạn ghé nhà thăm bà. Có lẽ anh sợ những giọt nước mắt, những lời trách thân yêu mà anh lâu lắm chưa một lần nghe qua:
Thư gửi bạn
mày có đi làm ghé chơi thăm má
mua một tô mì cho má giùm tao
nhớ thêm bột nêm vào trong hoành thánh
tánh má từ xưa vẫn thích ngọt ngào
nếu má hỏi mày làm ăn có khá
cũng ráng mà cười nói “được” nghe chưa
tánh má hay buồn nghe ai thất bại
bốn chục năm rồi má vẫn như xưa
khi mày ra về cũng nên hẹn lại
sẽ đến thăm khi rảnh rỗi việc nhà
má như trẻ thơ thích ngồi nói mãi
những chuyện ngày xưa hồi còn có ba
ừ mà tao quên, mày đốt cho ba
một nén nhang thơm cho má mát lòng
bởi tao đi rồi là hai hình bóng
nay đã mất tăm vừa con vừa chồng
Mẹ của Hoàng Phố có lẽ may mắn hơn mẹ của Trần Trung Đạo, vì bà được bạn của tác giả ghé nhà thăm hỏi trong khi Trần Trung Đạo lại cứ dối quanh ngày về của mình. Sự cách biệt mẹ con vì chiếc cầu về nước đã bị chặt gãy, đại dương mênh mông đối với nhiều người đã được san bằng chỉ còn lại một con lạch cỏn con, nhưng với Trần Trung Đạo thì đại dương ấy vẫn lạnh lùng, bao la, và tàn nhẫn.
Mỗi mùa xuân thêm một lần dối mẹ
Nhớ năm ngoái mẹ có lần đã hỏi
Về chưa con sao vẫn thấy chưa về
Con lại phải thêm một lần nói dối
Chờ sang năm con hứa sẽ về quê
Nếu chẳng phải vì thay tờ lịch mới
Chắc là con không biết có Xuân sang
Ðời nước Mỹ tháng ngày trôi qua chóng
Chưa kịp xoay đã hết một năm tròn
Bỗng sực nhớ đến lời ai đã nhắc
Lại lo tìm câu nói dối cho xong
Mười một mùa xuân miệt mài đất khách
Con dối đi dối lại biết bao lần
Căn nhà cũ chắc năm nay mục nát
Tiền gởi về không đủ mẹ nuôi thân
Con gái lớn theo chồng đi nơi khác
Con trai đầu biền biệt chốn xa xăm
Cây mai nhỏ ba đã trồng năm trước
Mấy xuân rồi có nở nụ nào không
Hay đã chết theo ba từ dạo ấy
Ðể mùa Xuân hoa trắng nở trong lòng
Năm mới đến mẹ già thêm một tuổi
Tóc bạc hơn nhiều, má hóp răng long
Sao giấc ngủ chập chờn con thấy mẹ
Người đàn bà đẹp nhất ở trần gian
Năm mới đến con cũng già thêm tuổi
Xa mẹ hiền một tuổi nặng bằng hai
Tuổi nước Việt chất chồng lên quá khứ
Tuổi xứ người quần quật với tương lai
Con chẳng biết nói thế nào mẹ hiểu
Chẳng còn ai hiểu hết chuyện đời con
Non nước đó vẫn còn đầy dâu biển
Núi sông đây sao giữ được vuông tròn.
Qua một mùa xuân là một lần con người thay đổi mặc dù đất trời chẳng khi nào đổi thay. Những bài thơ cũng từ đó mà lột da, có thể buồn hơn hay ngậm ngùi hơn trong từng mùa xuân riêng lẻ. Chỉ có mùa xuân quê hương, mùa xuân dân tộc là luôn luôn diễm lệ và tưng bừng để từ đó đất nước hít thở sinh khí mới và chia sẻ cho sinh linh niềm hy vọng mà người tha hương chắc chắn sẽ tiếp nhận trong một ngày về…
Bàn ra tán vào (0)
Những cung bậc mùa xuân
Có Những bài thơ xuân trong đó chất chứa không những niềm vui mà còn không ít nỗi buồn của mùa xuân, những mùa xuân xa xứ. Mùa xuân và Tết đang cận kề Mặc Lâm xin giới thiệu một vài bài thơ xuân
Đây cả mùa xuân đã đến rồi
Từng nhà mở cửa đón vui tươi
Từng cô em bé so màu áo
Đôi má hồng lên nhí nhảnh cười.
Và tựa hoa tươi cánh nở dần
Từng hàng thục nữ dậy thì xuân
Đường hương thao thức lòng quân tử
Vó ngựa quen rồi ngõ ái ân.
Từng gã thư sinh biếng chải đầu
Một mình mơ ước chuyện mai sau
Lên kinh thi đỗ làm quan Trạng
Công chúa cài trâm thả tú cầu.
Có những ông già tóc bạc phơ
Rượu đào đôi chén bút đề thơ
Những bà tóc bạc hiền như phật
Sắm sửa hành trang trẩy hội chùa.
Pháo nổ đâu đây khói ngợp trời
Nhà nhà đoàn tựu dưới hoa tươi
Lòng tôi như cánh hoa tiên ấy
Một áng thơ đề nét chẳng phai.
Nguyễn Bính đáng gọi là nhà thơ mới có nhiều bài thơ viết về mùa xuân, về tết nhất trong văn học Việt Nam. Đa số trong các bài thơ ấy là những cái tết ly hương mà nhà thơ trải nghiệm có lẽ bài Thơ Xuân mà chúng ta vừa nghe là bài thơ nguyên vẹn sắc màu mùa xuân vĩnh cửu nhất của nhà thơ.
Không thật thà dịu dàng như Nguyễn Bính, Bùi Giáng có cái chạm khẽ vào Xuân nhưng lại bật ra sự sửng sốt cho người đọc ông. Bùi Giáng vốn nổi tiếng là làm thơ như lão ngoan đồng, chạm vào chữ như người điên nhưng kết quả là chữ của ông làm cho người ta say sóng. Với mùa Xuân cũng thế, Bùi Giáng đứng xa mà quan sát để rồi bất thình lình xô người đọc vào vùng xoáy của thực và mộng, của hư vô và hiện sinh. Bùi Giáng cũng chào và hỏi như thói quen chào hỏi của người Việt trong dịp xuân về, nhưng cái chào hỏi của ông hàm chứa sự biệt ly không tránh được của kiếp người, từ đó nảy sinh câu hỏi: Khi nào thì trùng ngộ?
Bùi Giáng
Chào Nguyên Xuân
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên bờ nước có bóng ta bên người
Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng: những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau
Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu
Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân
Sự trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân mà Bùi Giáng đặt để hình như không xảy ra như nhà thơ dự đoán. Từ mùa xuân năm 1975, mùa xuân định mệnh biến đổi một nửa đất nước và hàng triệu người bỗng đánh mất mùa xuân trên bước đường lưu lạc. Từ thành phố Seatlle của tiếu bang Washington, nhà thơ Thanh Nam thở dài não lòng với bài “Thơ xuân nơi đất khách”. Giọng thơ quay trở lại thời của Nguyễn Bính khi vào Nam nhớ về những mùa xuân đất Bắc. Với Thanh Nam không còn may mắn như Nguyễn Bính còn có nẻo mà về vì ông ở quá xa, xa như từ cõi nào khác không còn có mùa xuân thứ hai trở lại.
Tờ lịch đầu năm rớt hững hờ
Mới hay năm tháng đã thay mùa
Ra đi từ thuở làm ly khách
Sầu xứ hai xuân chẳng đợi chờ
Trôi giạt từ đông sang cõi bắc
Hành trình trơ một gánh ưu tư
Quê người nghĩ xót thân lưu lạc
Đất lạ đâu ngờ buổi viễn du
Thức ngủ một mình trong tủi nhục
Dặm dài chân mỏi bước bơ vơ
Giống như người lính vừa thua trận
Nằm giữ sa trường nát gió mưa
Khép mắt cố quên đời chiến sĩ
Làm thân cây cỏ gục ven bờ
Chợt nghe từ đáy hồn thương tích
Vẳng tiếng kèn truy điệu mộng xưa.
Ơi hỡi quê hương, bè bạn cũ
Những ai còn mất giữa sa mù
Mất nhau từ buổi tàn xuân đó
Không một tin nhà, một cánh thư
Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi
Rối bời tâm sự tuyết đan tơ
Một năm người có mười hai tháng
Ta trọn năm dài Một Tháng Tư!
Chấp nhận hai đời trong một kiếp
Đành cho giông bão phũ phàng đưa
Đầu thai lần nữa trên trần thế
Kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ
Đổi ngược họ tên cha mẹ đặt
Học làm con trẻ nói ngu ngơ
Vùi sâu dĩ vãng vào tro bụi
Thân phận không bằng đứa mãng phu
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn
Cờ còn nước đánh phải đành thua
Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng
Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do!
Bằng hữu qua đây dăm bẩy kẻ
Đứa nuôi cừu hận, đứa phong ba
Đứa nằm yên phận vui êm ấm
Đứa nhục nhằn lê kiếp sống thừa .
Mây nước có phen còn hội ngộ
Thâm tình viễn xứ lại như xa
Xuân này đón tuổi gần năm chục
Đối bóng mình ta say với ta.
Cách Seattle không xa là Portland, Oregon nhà thơ Hoàng Phố trong một chiểu cuối năm đi ngang sở thú Tiểu bang, anh bắt gặp hình dáng một con vượn bạc má ngồi ủ rủ trong chấn song khi đất trời thay đổi. Nỗi cảm hoài đã làm nhà thơ tự hỏi không biết giữa mình và con vượn bạc má ấy ai trong, ai ngoài cái chắn song kia, chắn song mà anh gọi là chắn song cách biệt giữa rừng và phố, giữa Mỹ và quê nhà xa lắc xa lơ…
Chiều ba mươi trong sở thú với con bạc má.
chớm xuân không đủ cho lòng ấm
khóc lời hỗn mang mù đất trời
ngươi, con bạc má hú tiếng nhớ
chắc gì ta chẳng buồn hơn ngươi?
chấn song cách biệt rừng và phố
ngươi ngồi chồm hổm mắt lạc loài
nhìn ngươi ta thốt lời nghẹn ứa
trời cao biển rộng biết đâu về?
ta lục mỏi mòn trong trí nhớ
bao lâu? không biết, ở nơi này
chỉ chắc một điều không bàn cãi
nhớ quê như lửa dụi vào tay
nếu ta hú được như ngươi vậy
rồi ngươi sẽ ngẩn mặt ra nhìn
ngoài ngươi trái đất còn ta nữa
buồn quê đầy ứ đến vô cùng
ta đi một đỗi còn quay lại
ngươi vẫn bên trong ta bên ngoài
ngoài, trong nỗi nhớ không ngơi nghỉ
ngươi nhớ bầy đàn ta nhớ ai?
Rồi như chợt nhớ ra bây giờ đang là những ngày chuẩn bị đón Tết, nhà thơ lại bâng khuâng với khúc phim cũ từ cuộc đời Việt Nam, nơi anh đã rời xa, hút mắt:
Canh cánh
pháo có còn thơm sân áo mới
xuân có còn tươi nụ hôn đời
em có còn xinh đôi gót mỏng
ngõ vẫn buồn hiu vàng lá rơi?
ta nhớ miệt mài con đường đất
thoáng dăm đứa bé dắt nhau đi
ai vấp vào lòng ai tội nghiệp
ba mươi năm tim vẫn thầm thì
lại nhớ dăm căn chòi hiu quạnh
tựa vào nhau xiêu đổ vào nhau
người họp rồi tan bao nhiêu bận
có ai nán lại giữa chợ chiều?
tiếng xe mì gõ đêm mù mịt
cuối xóm mờ câm lạc ánh đèn
ai đứng chờ ai lòng quên mỏi
ầu ơ tiếng mẹ nghe rất quen
nỗi nhớ quẩn quanh không nơi thoát
tụ lại trong tim đầy chỗ nằm
vói tay vặn thử thời gian nguội
vô ích như trò chơi trăm năm
Hoàng Phố buồn và dĩ nhiên trong nỗi buồn mang chữ Việt Nam ấy vẫn là bóng dáng người mẹ cho bất cứ ai còn mẹ ở lại trong nước. Anh nhờ người bạn ghé nhà thăm bà. Có lẽ anh sợ những giọt nước mắt, những lời trách thân yêu mà anh lâu lắm chưa một lần nghe qua:
Thư gửi bạn
mày có đi làm ghé chơi thăm má
mua một tô mì cho má giùm tao
nhớ thêm bột nêm vào trong hoành thánh
tánh má từ xưa vẫn thích ngọt ngào
nếu má hỏi mày làm ăn có khá
cũng ráng mà cười nói “được” nghe chưa
tánh má hay buồn nghe ai thất bại
bốn chục năm rồi má vẫn như xưa
khi mày ra về cũng nên hẹn lại
sẽ đến thăm khi rảnh rỗi việc nhà
má như trẻ thơ thích ngồi nói mãi
những chuyện ngày xưa hồi còn có ba
ừ mà tao quên, mày đốt cho ba
một nén nhang thơm cho má mát lòng
bởi tao đi rồi là hai hình bóng
nay đã mất tăm vừa con vừa chồng
Mẹ của Hoàng Phố có lẽ may mắn hơn mẹ của Trần Trung Đạo, vì bà được bạn của tác giả ghé nhà thăm hỏi trong khi Trần Trung Đạo lại cứ dối quanh ngày về của mình. Sự cách biệt mẹ con vì chiếc cầu về nước đã bị chặt gãy, đại dương mênh mông đối với nhiều người đã được san bằng chỉ còn lại một con lạch cỏn con, nhưng với Trần Trung Đạo thì đại dương ấy vẫn lạnh lùng, bao la, và tàn nhẫn.
Mỗi mùa xuân thêm một lần dối mẹ
Nhớ năm ngoái mẹ có lần đã hỏi
Về chưa con sao vẫn thấy chưa về
Con lại phải thêm một lần nói dối
Chờ sang năm con hứa sẽ về quê
Nếu chẳng phải vì thay tờ lịch mới
Chắc là con không biết có Xuân sang
Ðời nước Mỹ tháng ngày trôi qua chóng
Chưa kịp xoay đã hết một năm tròn
Bỗng sực nhớ đến lời ai đã nhắc
Lại lo tìm câu nói dối cho xong
Mười một mùa xuân miệt mài đất khách
Con dối đi dối lại biết bao lần
Căn nhà cũ chắc năm nay mục nát
Tiền gởi về không đủ mẹ nuôi thân
Con gái lớn theo chồng đi nơi khác
Con trai đầu biền biệt chốn xa xăm
Cây mai nhỏ ba đã trồng năm trước
Mấy xuân rồi có nở nụ nào không
Hay đã chết theo ba từ dạo ấy
Ðể mùa Xuân hoa trắng nở trong lòng
Năm mới đến mẹ già thêm một tuổi
Tóc bạc hơn nhiều, má hóp răng long
Sao giấc ngủ chập chờn con thấy mẹ
Người đàn bà đẹp nhất ở trần gian
Năm mới đến con cũng già thêm tuổi
Xa mẹ hiền một tuổi nặng bằng hai
Tuổi nước Việt chất chồng lên quá khứ
Tuổi xứ người quần quật với tương lai
Con chẳng biết nói thế nào mẹ hiểu
Chẳng còn ai hiểu hết chuyện đời con
Non nước đó vẫn còn đầy dâu biển
Núi sông đây sao giữ được vuông tròn.
Qua một mùa xuân là một lần con người thay đổi mặc dù đất trời chẳng khi nào đổi thay. Những bài thơ cũng từ đó mà lột da, có thể buồn hơn hay ngậm ngùi hơn trong từng mùa xuân riêng lẻ. Chỉ có mùa xuân quê hương, mùa xuân dân tộc là luôn luôn diễm lệ và tưng bừng để từ đó đất nước hít thở sinh khí mới và chia sẻ cho sinh linh niềm hy vọng mà người tha hương chắc chắn sẽ tiếp nhận trong một ngày về…