Tham Khảo
Nick Davies - Sau chiến thắng, 'mọc' ra ngày càng nhiều 'Tư bản Đỏ'
Sau chiến thắng quân sự, mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa của Việt Nam bắt đầu sụp đổ. Bị Hoa Kỳ cấm vận thương mại và từ chối viện trợ tái thiết, Việt Nam rơi vào tình trạng nghèo đói.
Sau chiến thắng quân sự, mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam bắt đầu sụp đổ. Bị Hoa Kỳ cấm vận thương mại và từ chối viện trợ tái
thiết, Việt Nam rơi vào tình trạng nghèo đói. Hiện nay, nền kinh tế
đang bùng nổ, cũng như tình trạng bất bình đẳng và nạn tham nhũng.
Vào
một buổi sáng sớm tháng 2 năm 1968, khi cuộc chiến ở miền Trung Việt
Nam đạt đến mức độ điên rồ mới, một nhóm các binh sĩ Hàn Quốc tràn vào
một ngôi làng có tên là Hà My, là một tập hợp những căn nhà lá nằm rải
rác với ruộng lúa cách thành phố Đà Nẵng khoảng một giờ lái xe. Họ đến
từ đơn vị gọi là Rồng Xanh, cùng chiến đấu bên cạnh người Mỹ, và đang cố
gắng để ngăn chặn cuộc nổi dậy của cộng sản. Trong nhiều tuần, họ đã
dồn các gia đình nông dân vào trong một khu vực đông đúc mà người Mỹ gọi
là “ấp chiến lược”. Bằng cách đưa nông dân ra khỏi làng, họ hy vọng có
thể cắt đứt nguồn thực phẩm và nơi trú ẩn cho du kích cộng sản.
Và trong nhiều tuần, nông dân và gia đình của họ đã tìm cách thoát ra
ngoài. Họ tìm về Hà My, chán ghét cảnh bị giam cầm trong ấp chiến lược
và cần phải cày cấy. Tới lúc này, những người lính Rồng Xanh (Blue
Dragon) đã mất kiên nhẫn. Sau khi đến nơi, binh sĩ Nam Hàn đã lùa dân
làng theo thành từng nhóm nhỏ và sau đó, một cách có phương pháp, khai
hỏa. Một giờ sau đó, họ đã giết chết 135 người. Rồi họ đốt nhà và xác,
và ủi toàn bộ vụ việc xuống những ngôi mộ tập thể. Qua nhiều năm, sự
thật cũng bị chôn vùi.
Hiện nay có một đài tưởng niệm về vụ thảm sát đó, được xây dựng 30 năm
sau với sự trang trải của các binh sĩ Rồng Xanh, trở lại để tỏ lòng hối
hận sâu xa. Nhưng có một điều gì đó không đúng. Đài tưởng niệm đứng sừng
sững, lớn như một ngôi nhà, với mái nhà trang trí công phu chứa hai
ngôi mộ tập thể và một bia đá lớn ghi tên người lớn và trẻ em đã chết.
Nhưng không có lời giải thích về cái chết của họ. Dân làng nói rằng khi
tượng đài bắt đầu được xây, mặt sau của mộ bia diễn tả cảnh tượng sống
động về những gì đã xảy ra ngày hôm đó. Một người thậm chí còn có một
bản sao của bài viết, là một bài thơ hùng hồn nhắc lại cảnh máu lửa,
thịt cháy, xác chết vùi trong cát: “Thật hãi hùng khi thấy trẻ em và trẻ
sơ sinh la khóc, hai tay vươn ra, miệng vẫn còn ngậm vú mẹ đã chết…”
Nhưng dân làng nói rằng, một số nhà ngoại giao Nam Hàn đã đến thăm trước
buổi khai mạc chính thức và than phiền về bài thơ; thay vì phản ứng
lại, viên chức Việt Nam đã ra lệnh che phủ bài thơ bằng một bức tranh
hoa sen. Một nhà nhân chủng học Nam Hàn, Heonik Kwon, người đang khảo
cứu tại Hà My vào thời điểm đó, ghi lại lời một dân làng nói rằng sự
chối bỏ sự thật này giống như một vụ thảm sát thứ hai, “giết chết ký ức
về vụ thảm sát”.
Binh lính Đại Hàn giết quá nhiều người Việt Nam, nhưng chẳng có người lính Đại Hàn nào thú nhận
là có sự tham dự của họ trong những cuộc chém giết này.
Tại sao người Việt Nam lại thỏa hiệp như thế? Tại sao những người thắng
cuộc chiến này lại cho phép những kẻ thua cuộc định nghĩa câu chuyện
chiến tranh? Những người dân làng nói câu trả lời rất đơn giản: Nam Hàn
đã trở thành một trong những nhà đầu tư kinh tế nước ngoài lớn nhất ở
Việt Nam và đã đề nghị chi trả cho một bệnh viện địa phương nếu bài thơ
thảm sát được che giấu. Vì thế, nhà chức trách Việt Nam đã đồng ý; họ
không thể từ chối được.
Và đó là tâm điểm của những gì đã xảy ra với Việt Nam kể từ khi chiến
tranh kết thúc 40 năm trước, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Một tháng đi
du lịch đó đây vào đầu năm nay – nói chuyện với nông dân, trí thức,
chuyên gia học thuật và các cựu chiến binh của cả hai bên – đã làm lộ
diện nhiều sai lầm và thỏa hiệp, được những kẻ quyền thế áp đặt lên
người dân Việt trong quá trình theo đuổi lợi nhuận. Mỹ đã thành công
trong việc thúc đẩy một câu chuyện sai lạc về nguyên nhân và cách thức
tiến hành chiến tranh của họ.
Mặc dù thua trong cuộc xung đột quân sự, Mỹ và các đồng minh của họ đã
trở lại với vũ khí tài chánh còn mạnh hơn, ép buộc người Việt đi xuống
con đường mà họ không chọn. Bây giờ, chính những người lãnh đạo của họ
là những kẻ nói dối nhiều hơn cả. Nguyễn Hào Thu, 90 tuổi, đang sống
trong một căn hộ đẹp và sáng sủa tại Hà Nội. Bà nói tiếng Pháp trôi chảy
như chim hót và bập bẹ với tiếng Anh, mô tả, khi còn là một người phụ
nữ trẻ, bà đã nhìn thấy đất nước bị nghiền nát giữa hai kẻ thù to lớn
như thế nào. Đầu tiên, người Pháp đã từ chối không nhả thuộc địa của họ
ra vào cuối Đệ Nhị Thế chiến. Năm 1946, ở tuổi 21, bà Thu đã đi vào rừng
và tham gia chiến tranh du kích, chuyên về trộn axit, hỏa tiêu và cồn
để làm thuốc súng: “Tôi rất vui khi ở trong rừng. Với bột trong quả bom,
bạn có thể – đùng! – thấy được giấc mơ của chúng tôi”. Và giấc mơ đó
không phải chỉ đơn giản là chủ nghĩa dân tộc hay đánh đuổi quân xâm
lược.
Đó chính là cộng sản và cách mạng. Bà Thu nhớ lại thời thơ ấu khi người
Pháp bắt cha bà, một giáo viên mầm non; bà thường mang thức ăn vào tù
cho ông khi chỉ mới bảy tuổi. Bà nói: “Tôi ghét tất cả những người muốn
chiến đấu và chiếm Việt Nam. Trong tâm trí của tôi, tôi đã trở thành
người cộng sản”.
Gia đình bà yên ổn trong tầng lớp trung lưu, nhưng trong thập niên 1930,
bà cho biết, nhà của gia đình bà được sử dụng làm nơi hội họp cho Đảng
Cộng sản Việt Nam hoạt động ngầm. Vào năm 16 tuổi, bà nhớ đã đọc Marx –
Lenin và cách thức người Pháp tử hình một trong những người bạn của bà
như thế nào. “Thực tình, tôi là người cộng sản”. Ông Lê Nam Phong là
người cũng lớn tuổi như bà Thu. Ông 17 tuổi khi đăng ký đi lính chống
Pháp vào năm 1945. Ông đã trải qua 30 năm sau đó trong chiến tranh,
thăng cấp dần để trở thành một thiếu tướng trong quân đội Bắc Việt và
một nhân vật chủ chốt trong việc phá hủy sau cùng bộ máy quân sự của Mỹ.
Ngồi bên ngoài căn nhà tiện nghi của mình, cắt một miếng xoài vào một
buổi tối ấm áp, ông nhớ đến động lực cách mạng của riêng ông: “Chủ nghĩa
xã hội? Vâng, lẽ tất nhiên. Mục đích của tất cả sự chiến đấu là để xây
dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa, để đạt được tự do, độc lập và hạnh
phúc.
Trong những ngày đầu chống Pháp và chống Mỹ, chúng tôi đã có trong tâm
trí một xã hội mà chúng tôi muốn tạo ra – một xã hội không có người bóc
lột người; công bằng, độc lập, bình đẳng”. Đây là nơi mà sự giải thích
riêng của Mỹ về hành vi của họ bắt đầu sụp đổ. Các phiên bản Mỹ về các
sự kiện kể rằng khi người Pháp bị đánh bại vào năm 1954, quân đội Mỹ
khởi sự tham gia bảo vệ quốc gia của miền Nam Việt Nam khỏi mối đe dọa
cộng sản từ miền Bắc Việt Nam xâm chiếm. Thực tế là người Pháp đã đánh
mất cảm tình của người dân trên khắp Việt Nam, đẩy họ vào vòng tay Đảng
Cộng sản của Hồ Chí Minh. Và, quan trọng hơn, [thời đó] không có hai
quốc gia riêng biệt.
Năm 1954, mặc dù với chiến thắng của quân đội Việt Nam, Pháp và các đồng
minh phương Tây cố bám lấy quyền lực tại cứ điểm phía nam. Tại hội nghị
quốc tế ở Geneva, tất cả các bên sau đó đã đồng ý rằng đất nước nên
được chia cắt tạm thời – thành miền Nam Việt Nam và Bắc Việt Nam, cho
đến tháng 7 năm 1956, một cuộc bầu cử sẽ đưa tới một chính phủ mới trên
toàn quốc. Dwight Eisenhower, Tổng thống Mỹ khi đó, sau này thừa nhận
rằng nếu cuộc bầu cử đó được phép xảy ra, khoảng 80% người dân Việt Nam
sẽ bầu cho Hồ Chí Minh và xã hội xã hội chủ nghĩa mới – và những người
Việt mà chúng tôi tiếp xúc đều đồng ý. Tuy nhiên, Mỹ không cho phép
chuyện đó xảy ra. Thay vào đó, họ quay sang một nhân viên CIA khét
tiếng, Edward Lansdale, người đã tiến hành sử dụng một sự kết hợp khéo
léo giữa hối lộ và bạo lực để dựng nên một chính phủ mới ở Sài Gòn, do
chính trị gia Công giáo Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Ông là người chuyên
quyền và gia đình trị, nhưng chống cộng sản và ủng hộ Mỹ.
Vào tháng 10 năm 1955, Lansdale gian lận trong cuộc bầu cử ở miền Nam để
cho ông Diệm làm Tổng Thống. Cuộc bầu cử toàn quốc bị hủy bỏ. Sự phân
chia “tạm thời” bây giờ trở thành một giả dụ kéo dài rằng Việt Nam thực
sự là hai quốc gia khác nhau, miền Nam là nạn nhân thụ động của cuộc xâm
lược từ miền Bắc.
Lúc đầu, Mỹ, vốn tài trợ cho cuộc chiến tranh của Pháp, bằng lòng đổ
tiền vào quân đội của miền Nam Việt Nam, và chỉ gửi quân đội tới dưới
chiêu bài “cố vấn” – 16.300 người. Đến tháng 3 năm 1965, Mỹ đã gửi người
vào chiến trường. Ở cao điểm của cuộc chiến, năm 1969, Mỹ đã sử dụng
550.000 nhân viên quân sự, cộng với 897.000 từ quân đội của Nam Việt Nam
và hàng ngàn người khác đến từ Nam Hàn và các đồng minh khác.
Vào thời điểm chiến tranh kết thúc, số người chết, đã không thể đếm nổi,
có thể lên tới 3,8 triệu người, theo một nghiên cứu của Đại học Y khoa
Harvard và Đại học Washington. Phóng viên nước ngoài người Anh James
Cameron mô tả hành động của Mỹ như là “một sự xúc phạm đến danh dự cộng
đồng quốc tế, vừa kinh tởm vừa vô lý”. Viết vào năm 1965, ông quay lại
nhìn con đường dẫn đến chiến tranh: “Thật là vụng về, độc ác, thiếu suy
nghĩ và không suy xét. Từng bước, phương Tây gây thêm lỗi lầm và loạng
choạng đi vào một tình thế khó xử mà họ không bao giờ hiểu hoàn toàn và
chưa bao giờ thực sự đi tìm: ngay từ đầu, họ chỉ tranh luận trên lý
thuyết”. Bạo lực của những năm đó vẫn còn tồn tại với những người bị
thiệt hại nặng.
Trong một căn nhà nhỏ ở Sài Gòn, như nhiều người Việt Nam vẫn gọi là
thành phố Hồ Chí Minh, một cựu du kích quân cộng sản nhớ lại máy bay ném
bom Mỹ gầm thét xuống trên căn cứ trong rừng của họ, và cách thức ông
và các đồng chí của ông ẩn trốn trong các hố cá nhân nông cạn: “Chúng
tôi có rượu đế rất mạnh. Nếu bạn uống, nó sẽ làm bạn chảy nước mắt.
Chúng tôi thường gọi là ‘nước mắt quê hương’. Nó làm cho chúng tôi hết
sợ hãi”. Mỹ đã đổ nhiều bom xuống Việt Nam hơn các đồng minh đã dùng ở
cả Đức và Nhật cộng lại trong thế chiến thứ hai.
Họ cũng đã thả bom napan, là chất dẻo dính vào nạn nhân trong khi thiêu
cháy da của họ; phốt pho trắng sẽ đốt cháy đến tận xương; bom bi là loại
bom tung ra những viên bi và mảnh thép khắp các hướng; và 73 triệu lít
hóa chất độc hại, bao gồm 43 triệu lít chất độc da cam, đã giết chết
thảm thực vật và gây bệnh tật cho những người tiếp xúc với nó. Xấu hổ
thay, Mỹ còn ném bom Hà Nội – một thành phố đầy dân thường không có lực
lượng không quân phòng vệ. Một phụ nữ mà lúc đó khoảng tám tuổi nhớ phải
mang một nhánh lá trên vai như một vật ngụy trang mong manh chống máy
bay ném bom F-111 bay với hai lần vận tốc âm thanh.
Một người đàn ông làm việc trên một dàn súng phòng không nói rằng anh ấy
về nhà sau một đêm phòng thủ không có kết quả để tìm thấy khu phố của
mình bị san bằng: dấu hiệu duy nhất của đứa con trai của ông là một cái
chân bị đứt, mà ông nhận ra nhờ một vết thẹo. Trên mặt đất, các cuộc tấn
công của Mỹ cũng khốc liệt như thế.
Trong một ngôi làng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, một bà nông dân cỡ
tuổi 60 ngồi yên bình trong ngôi nhà với sàn nhà bằng đất sét. Bà nhớ
lại cái ngày mẹ chồng bà, người đang làm việc ở cánh đồng gần đó, đã
phạm phải sai lầm là bỏ chạy khi một máy bay trực thăng Mỹ đổ xuống phía
bà: một quả tên lửa đuổi theo và đè nát bà thành mảnh vụn tựa vào một
cây dừa. “Chúng tôi đã phải đi thu lượm thi thể của bà. Chúng tôi đã
phải nhặt răng của bà”. Bà nói, các trực thăng vũ trang đã giết chết ba
người anh em của bà. Bà nói thêm, tất cả những năm sau đó, bà vẫn khó
ngủ và hoảng hốt khi nghe thấy bất kỳ âm thanh nào giống máy bay trực
thăng. (vietinfo.eu).
Nhiều người Mỹ hiện nay tin rằng vụ thảm sát khét tiếng dân làng tại Mỹ
Lai là một sự kiện duy nhất, hiếm có, nhưng nhà báo Nick Turse tìm thấy
một hình ảnh khác ở Trung tâm Lưu trữ quốc gia Hoa Kỳ vào tháng 6 năm
2001. Ông phát hiện hồ sơ ghi chép những khám phá của lực lượng đặc
nhiệm Mỹ, Nhóm Điều tra Tội ác Chiến tranh Việt Nam. Họ cho thấy rằng
quân đội đã chứng thực hơn 300 tố cáo về thảm sát, giết người, hãm hiếp
và tra tấn bởi lính Mỹ. Ông Turse sau đó đã đến thăm Việt Nam. Trong
cuốn sách của mình, Giết bất cứ gì di động, ông mô tả cố gắng tìm địa
điểm của một sự cố từ các tập hồ sơ về 20 phụ nữ và trẻ em được cho là
đã bị giết chết trong một ngôi làng ở Tây Nguyên. Ông nói, theo chân
người dân địa phương, ông tình cờ gặp phải bia tưởng niệm của năm vụ
thảm sát khác trong cùng khu vực nhỏ: “Tôi đã nghĩ rằng tôi đang tìm
kiếm một cây kim trong đống cỏ khô; những gì tôi thấy thực sự là một
đống những cây kim”. Ông kết luận rằng sự kết hợp của sự vô cảm chủng
tộc đối với đời sống của người dân Việt Nam, áp lực chính thức để nâng
cao con số ‘giết’ và chỉ định các khu vực nông thôn là ‘vùng bắn tự do’
có nghĩa là ‘các cuộc sát hại dân thường trở nên phổ biến, thường xuyên
và trực tiếp liên quan đến chính sách hành quân của Mỹ’.” Những người
sống sót đôi khi bị bắt làm tù binh và bị nhục hình.
Năm 1970, một nhóm các nghị sĩ Mỹ đi thăm nhà tù Côn Đảo khét tiếng. Ở
đó, họ tìm thấy đàn ông và phụ nữ bị xích trong “chuồng cọp”, bị bỏ đói,
bị đánh đập, tra tấn và bị bắt ăn côn trùng. Mặc dù có sự phản đối khi
điều này được thuật lại, nhà tù vẫn hoạt động.
Cho tới vài năm trước đây, các nhà báo từ một trong những nhóm báo lớn ở
Sài Gòn thường dừng lại để mua cà phê từ một người phụ nữ dễ thương,
người từng trải qua mỗi ngày trên vỉa hè trước văn phòng của họ. Ít
người trong số họ biết tên của cô ta. Họ thường gọi cô là cô Cà Phê. Cô
có câu chuyện nhỏ của riêng mình về chiến tranh, nhưng trên hết là cô có
một câu chuyện về những gì đã xảy ra kể từ khi hòa bình trở lại. Đây là
bối cảnh mà đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay nói những điều dối trá. Cô
nhớ lại ngày giải phóng: niềm hân hoan vô bờ bởi vì chiến tranh đã qua;
niềm tự hào tuyệt đối rằng lực lượng cộng sản đã đánh bại những gì mọi
người nói là quân đội lớn nhất trong lịch sử thế giới; niềm hy vọng cho
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Cũng vẫn có sợ hãi. Có những tin đồn về sự
trừng phạt bạo lực và cướp bóc. Cô Cà Phê lo lắng về những người điên
khùng nhặt những khẩu súng cô thấy nằm trên đường phố. Và cô buồn, vì
một lý do rất cá nhân. Vài năm trước, cô làm bồi bàn trong một căn cứ Mỹ
tại Vũng Tàu, trên bờ biển gần Sài Gòn, và tại đó cô đã gặp một người
lính tên là Ronald. Ông đến từ New York và ông bay các phi vụ thám thính
trên bầu trời Việt Nam và Campuchia. Họ đã yêu nhau. Bất thình lình,
ông được phái trở lại Mỹ, nhưng trong một thời gian ông tiếp tục viết
thư, và ông nói với cô rằng ông sẽ bảo lãnh cô để đoàn tụ với ông. Sau
đó, ông biệt tăm, và cô hiểu rằng không thể có cơ hội để ông quay lại
với cô. Sợ rằng chế độ mới có thể tức giận, cô đốt thư từ của Ronald và
không bao giờ được biết tin về ông nữa.
Nhiều năm sau, bây giờ đã 64 tuổi, tóc muối tiêu và bình lặng, ngồi lặng
lẽ bên ngoài một ngôi chùa, cô vẫn còn cảm nhận nỗi buồn. Cô Cà Phê
không thuộc về bên nào trong cuộc xung đột. Cô chỉ đơn giản là một người
phụ nữ Việt Nam, yêu một người đàn ông Mỹ và tìm kiếm một cuộc sống yên
ổn. Ngày giải phóng đã không đưa tới thời kỳ thoải mái. Lúc đầu, cô tìm
được việc làm tại một cơ xưởng hợp tác xã mới. Ở đó, cô ngồi cúi đầu
trên máy may 11 tiếng một ngày, thu nhập không nhiều hơn một tem phiếu
cho phép cô có một lượng nhỏ gạo chất lượng kém và một ít thịt nhỏ hơn.
Trong nhiều năm qua, cô chia sẻ ngôi nhà nhỏ với em trai, người trầm
mình cả ngày ở một hãng dệt khác. Nền kinh tế rơi vào một thập niên suy
thoái. Cô nói, “Cuộc sống thật là khó khăn cho người dân bình thường”.
Mỹ ra đi để lại hạ tầng cơ sở Việt Nam trong tình trạng suy sụp. Đường
bộ, đường sắt, cầu cống và kinh rạch bị bom đạn tàn phá. Vỏ đạn chưa nổ
và mìn rải rác vùng nông thôn, thường là dưới nước trong ruộng lúa mà
nông dân lội. Năm triệu hecta rừng bị mất sự sống do bom đạn và chất độc
da cam. Chính quyền mới cho rằng, hai phần ba trong số những ngôi làng ở
miền Nam đã bị phá hủy. Tại Sài Gòn, di sản của người Mỹ bao gồm hàng
đàn trẻ mồ côi lang thang trên đường phố và nạn dịch ma túy. Trên toàn
quốc, chính quyền mới dự đoán phải đối phó với 10 triệu người tị nạn; 1
triệu góa phụ chiến tranh; 880.000 trẻ em mồ côi; 362.000 thương binh và
3 triệu người thất nghiệp. Nền kinh tế rơi vào hỗn loạn.
Vào thời điểm ngày giải phóng đến, lạm phát lên tới mức 900%, và Việt
Nam – một đất nước đầy ruộng lúa – đã phải nhập khẩu gạo. Trong các cuộc
đàm phán hòa bình ở Paris, Mỹ đã đồng ý trả 3,5 tỷ USD viện trợ tái
thiết để sửa chữa cơ sở hạ tầng hư hỏng. Họ chưa từng trả một xu. Cộng
thêm sự xúc phạm đến hoàn cảnh khốn cùng, Mỹ tiếp tục đòi chính quyền
cộng sản trả hàng triệu đô la do kẻ thù của họ, chế độ Sài Gòn cũ, vay.
Việt Nam rất cần thế giới cung cấp thương mại và viện trợ để có thể xoay
chuyển nền kinh tế. Mỹ đã làm hết sức mình để bảo đảm rằng họ sẽ không
được bất cứ điều gì.
Ngay sau khi thua cuộc chiến, Mỹ đã áp đặt một lệnh cấm vận thương mại,
cắt đứt đất nước bị chiến tranh tàn phá không chỉ với xuất khẩu và nhập
khẩu từ Mỹ, mà còn từ các quốc gia khác chịu áp lực của Mỹ. Trong cùng
một cách, Mỹ dựa vào các cơ quan đa phương bao gồm IMF, Ngân hàng Thế
giới và Unesco để từ chối viện trợ cho Việt Nam. Mỹ thừa nhận rằng chất
độc da cam có khả năng gây bệnh tật nghiêm trọng và dị tật bẩm sinh và
trả 2 tỷ USD bồi thường – nhưng chỉ trả cho các cựu chiến binh của mình.
Các nạn nhân Việt Nam – hơn 2 triệu người – không được gì.
Không rõ bằng cách nào một mô hình kinh tế có thể sống sót trong cảnh bị
bao vây thù địch này. Không thể tránh khỏi, mô hình xã hội chủ nghĩa
của Việt Nam bắt đầu sụp đổ. Việt Nam đã thông qua chính sách thô thiển
của Liên Xô ép buộc người nông dân giao lại hoa màu của họ để đổi lấy
tem phiếu. Với tình trạng không có động lực để sản xuất, sản lượng bị
suy sụp, lạm phát tăng trở lại mức thời chiến, và đất nước một lần nữa
lại phải nhập khẩu gạo. Vào đầu thập niên 1980, giới lãnh đạo đã bị buộc
phải cho phép những người nông dân bán sản phẩm dư thừa, và như thế chủ
nghĩa tư bản bắt đầu trở lại. Vào cuối thập niên 1980, đảng cộng sản
chính thức chấp thuận các ý tưởng của “kinh tế thị trường với định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Chính sự thay đổi này đã cho phép cô Cà Phê rời khỏi
xưởng dệt vào năm 1988 để trở thành một người buôn bán. Cô cho biết,
mỗi buổi sáng cô thức dậy từ 4 giờ sáng chuẩn bị cà phê để đủ thời gian
đi vào thành phố. Lúc 5:00 giờ, cô đã ngồi trên một chiếc ghế nhỏ bên
ngoài tòa báo. Thay đổi đã xảy ra chung quanh cô trong suốt thập niên
90. Các nhà đầu tư nước ngoài được phép đi vào và các doanh nghiệp tư
nhân được khuyến khích – thương mại tự do, thị trường tự do, một số
người có lợi nhuận, một số người có lương bổng.
Đằng sau hậu trường, chính quyền gửi tín hiệu muốn bang giao với
Washington. Họ không còn đòi hỏi 3,4 tỷ USD viện trợ tái thiết hoặc bồi
thường cho nạn nhân chất độc da cam và các tội ác chiến tranh. Họ thậm
chí đồng ý trả nợ chiến tranh 146 triệu USD của chế độ Sài Gòn cũ. Năm
1994, Mỹ hòa dịu dần và dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đã bóp cổ Việt Nam
trong gần 20 năm. Ngân hàng Thế giới, IMF và các nhà tài trợ khác bắt
đầu trợ giúp. Kinh tế bắt đầu tăng tiến lên đến 8,4% một năm, và chẳng
bao lâu Việt Nam là một trong những nhà xuất khẩu gạo nhiều nhất thế
giới. Điều quan trọng, trong suốt thập niên 90, vẫn còn có những phe
phái mạnh mẽ trong nội bộ Đảng Cộng sản bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống
lại trào lưu mới của chủ nghĩa tư bản. Cho dù với sự hỗn loạn kinh tế,
họ đã thành công trong việc làm giảm đáng kể đói nghèo. Khi chiến tranh
kết thúc, 70% người Việt sống dưới mức nghèo chính thức. Đến năm 1992,
con số là 58% và năm 2000 là 32%.
Trong khi đó, chính quyền đã xây dựng một hệ thống các trường tiểu học ở
các cộng đồng địa phương và trường học trung cấp ở khắp nơi; họ cũng
xây dựng một cấu trúc cơ bản về chương trình chăm sóc sức khỏe miễn phí.
Trong một thời gian, các phe phái xã hội chủ nghĩa vẫn có đủ cơ bắp
chính trị để điều khiển con tàu tư bản mới. Ba lần trong cuối thập niên
90, Ngân hàng Thế giới đề nghị các khoản vay phụ trội trị giá hàng trăm
triệu đô la nếu Việt Nam đồng ý bán các công ty nhà nước và cắt giảm
thuế quan thương mại. Mỗi đề nghị đều đã bị từ chối. Nhưng từ năm 2000,
tốc độ thay đổi tăng nhanh và cán cân chính trị thay đổi. Phản ánh áp
lực liên tục từ các nhà tài trợ quốc tế và các nhà đầu tư nước ngoài,
Việt Nam hiện nay chấp thuận việc bán công ty nhà nước. Họ cũng đạt được
thỏa thuận thương mại với Mỹ, và cuối cùng đạt tới đỉnh cao vào năm
2006 khi Việt Nam được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, có nghĩa là
Việt Nam có thể thu nhận nhiều đầu tư nước ngoài và viện trợ hơn nữa.
Ba thập niên sau khi những người cộng sản nổi lên như kẻ chiến thắng
trong chiến tranh, giờ đây họ là một thành viên đầy đủ của nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa toàn cầu. Cuối cùng Phương Tây đã thắng. Trên vỉa hè ở
Sài Gòn, cô Cà Phê đã chứng kiến tất cả sự kiện này xảy ra, nhưng cô
không thấy có sự thay đổi trong cuộc sống của cô. Cô nói, “Tôi kiếm tiền
vẫn như thế, vẫn sống trong cùng một phòng. Cửa tiệm có nhiều hàng hóa
hơn, nhưng giá cả tiếp tục gia tăng. Đất nước này đã thay đổi, nhưng
không phải cho những người như tôi. Những kẻ có các mối quan hệ trở nên
giàu có hơn”. Trong suốt những năm này, cô vẫn vướng mắc với cùng một
thương hiệu cà phê do Việt Nam sản xuất, Trung Nguyên. Trong khi cô vẫn
nghèo, người chủ công ty, kẻ cưỡi cơn thủy triều tự do kinh doanh mới và
hiện có tài sản lên tới 100 triệu USD.
Trong một văn phòng bên kia thành phố có mặt ông Nguyễn Công Khế. Trong
nhiều năm, ông làm tổng biên tập báo Thanh Niên, tờ báo có trụ sở trong
tòa nhà mà cô Cà Phê buôn bán ở bên ngoài. Dưới quyền biên tập của mình,
ông Khế bất bình với một số người quyền thế, ông Khế tiết lộ mối liên
hệ giữa một băng xã hội đen Sài Gòn và các quan chức cao cấp, sau đó cho
xuất bản câu chuyện về một vụ bê bối rộng lớn về trộm cắp tài sản công
dính líu tới một số gia đình có liên hệ chặt chẽ. Đây là điều nguy hiểm.
Việt Nam có một hệ thống kiểm duyệt vụng về, bằng cách gọi các biên tập
viên lên mỗi tuần – vào các ngày thứ Ba ở Hà Nội và thứ Năm tại Sài Gòn
– để nói cho họ biết những gì phải đăng tải và những gì phải che giấu.
Do những việc làm của ông, trong năm 2008, ông Khế đã bị sa thải.
Vào
tháng 11 năm ngoái, một lần nữa ông Khế mạo hiểm bằng cách thông qua tờ
New York Times để kêu gọi chính quyền cho phép tự do báo chí. Ngồi
trong văn phòng, bây giờ là nơi ông điều hành một trang web tin tức, ông
đi xa hơn. Nhấn mạnh rằng tên của ông được gắn liền với lời kêu gọi
này, ông nói ra những điều mà người khác chỉ dám nói qua trung gian: đó
là lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành kẻ phản bội với chính
nguyên lý của họ. “Ngay từ lúc khởi đầu, những người cách mạng dựng nên
một chính quyền với ý hướng trung thực phát triển đất nước và tạo nên
thịnh vượng một cách công bằng nhất, nhưng mọi thứ đã đi sai đường ở đâu
đó. Những người tham gia cách mạng, kẻ thề phải minh bạch – cuối cùng
đã phản bội sự cam kết và lý tưởng của họ”. Ông Khế tự là một phần cách
mạng. Là một sinh viên vào đầu thập niên 70, ông khuấy động chống Mỹ và
đã phải trải qua ba năm tù. Ông là một đảng viên lâu năm. Ông hiểu lý do
tại sao các nhà lãnh đạo đã phải quay sang các công cụ của chủ nghĩa tư
bản để khởi động nền kinh tế, nhưng ông đã nhìn thấy mặt tối của đồng
tiền tự do mới – đó là tham nhũng và bất bình đẳng.
Bạn có thể thấy điều đó trên các đường phố. Mặc dù quá khứ đen tối, Sài
Gòn đã bùng nổ thành một khối thể sôi sục với các hoạt động thương mại.
Nhưng dù sao, đó cũng là một thành phố trong thế giới đang phát triển,
với dấu hiệu đói nghèo trên mọi mặt. Và kia, đường Đồng Khởi – một hòn
đảo của sự giàu có sa đọa, nơi giới đại gia mới có thể mua một chiếc áo
thun hiệu Hermes với giá 500 USD, một chiếc đồng hồ Versace giá 15.000
USD, hoặc một cái bàn ăn với bốn chiếc ghế bọc da bê điểm lá cây bằng
vàng và bên trong nhồi lông ngỗng với giá 65.000 USD.
Và ở góc phố, khách sạn Continental bán các phần ăn với giá bằng tiền
lương một tuần của một công nhân, trong một nhà hàng gọi là – như một
cái tát vào mặt của Hồ Chí Minh – Le Bourgeois. Ông Khế cho rằng, với
mỗi 10 USD phê chuẩn cho bất kỳ dự án nào, 7 USD sẽ vào túi của ai đó.
Thật hả? Như thế, 70% ngân sách nhà nước ở Việt Nam đang bị ăn cắp? Đó
thật là một sự trộm cắp với tỷ lệ chóng mặt. Chúng tôi đã nói chuyện qua
một người phiên dịch. Ông gật đầu và xoắn một tay trong không khí.
“Giữa 50 và 70%”. Tổ chức Minh bạch Quốc tế năm ngoái tường trình rằng
Việt Nam được coi là một trong những nước tham nhũng nhất thế giới, tệ
hơn 118 nước khác và chỉ có 31 điểm trên chỉ số 100 điểm tốt.
"Bà chủ" nhặt phế thải kiếm sống bên xe "Đày tớ"
Không ai cho rằng tham nhũng là mới. Có một truyền thống lâu đời của các
công chức ở Việt Nam là bán sự ảnh hưởng của họ và thiên vị cho gia
đình họ. Nhưng những lời cáo buộc này đã chạm đến tầng lớp mới của lãnh
đạo hiện nay. Người ta nói rằng tham nhũng gia tăng chính là do việc tư
nhân hóa các công ty lớn của nhà nước Việt Nam và các cơ hội tạo ra, đã
đưa tới sự việc một số chính trị gia và các quan chức đề cử bản thân và
gia đình của họ là các giám đốc điều hành. Học giả người Anh, Martin
Gainsborough, là người đã ở Việt Nam nhiều năm làm công việc thực nghiệm
cho công trình nghiên cứu của ông về sự phát triển ở Đông Nam Á, đã
viết: “Thay vì lấy cảm hứng từ những tư tưởng cải cách, các quan chức
được thúc đẩy bởi ham muốn tham nhũng … Những gì chúng tôi thường đề cập
tới như “cải cách” chỉ nhiều lắm là những nỗ lực của đối thủ của các
lợi ích chính trị-kinh doanh để giành quyền kiểm soát tài chính và các
nguồn lực khác”.
Trong ba tháng gần đây, một trang web bất thường công bố chi tiết những
cáo buộc về hành vi của những thành viên bị nêu tên của tầng lớp quyền
thế thượng lưu Việt Nam. Trang web có tên là Chân Dung Quyền Lực và hỗ
trợ cho các tuyên bố của họ bằng các văn bản, băng ghi âm và đoạn phim.
Trang web chưa bao giờ được xác minh, nhưng giới quan sát cho rằng đó là
công việc của một chính trị gia rất quyền thế sử dụng thông tin nội bộ
để cố gắng làm phương hại các đối thủ. Trang web tuyên bố sẽ đưa ra ánh
sáng một thế giới trộm cắp bí mật. Trang web tấn công một nhân vật rất
cao cấp, tuyên bố rằng một quan chức địa phương đã giao một vali chứa 1
triệu USD tiền mặt tới nhà, như là kết quả của việc ông đồng ý không thu
150 triệu USD tiền thuế do một công ty bất động sản thiếu, là công ty
dự phần vào một dự án “phát triển khổng lồ”. Sau đó công ty này đã tặng
ông và các quan chức địa phương những biệt thự miễn phí. Trang web tiếp
tục chỉ ra hai chính trị gia hàng đầu, tuyên bố rằng một người đã ngăn
chặn việc truy tố một viên chức ngân hàng tham nhũng và hiện tại đang
nhận lãnh tiền lại quả khả quan; và người thứ hai đã chuyển 1 tỷ USD từ
một công ty nhà nước qua tài khoản ngân hàng của em gái, là người đang
nắm giữ 20 doanh nghiệp khác. Trang web cũng cáo buộc một nhân vật quân
sự cao cấp đã sử dụng công ty của con trai để bán đất quân đội cho lợi
ích cá nhân. Trong trường hợp của ông, trang web trưng ra một bức thư
của nhân viên ngân hàng, cho biết ông là một phần của một “mạng lưới
tham nhũng có quy mô cực kỳ to lớn”, với các tài khoản ngân hàng trị giá
hàng triệu đô la. Dần dần, nhà nước thừa nhận có tham nhũng và [bắt
đầu] bài trừ tham nhũng.
Trong các phiên tòa xử các nhân vật cao cấp hồi cuối năm ngoái, bốn giám
đốc điều hành của các công ty nhà nước trước đây đã bị kết án tử hình
vì tội hối lộ và gian lận; hai người khác bị kết án tù chung thân. Ông
Khế không tin những phiên tòa này xứng với tầm mức của vấn đề. Ông nhún
vai: “Chúng tôi đã đánh đổi hàng triệu sinh mạng cho độc lập và bình
đẳng. Khi tôi còn ở trong tù, tôi tưởng tượng đất nước sẽ không còn tham
nhũng sau chiến tranh, nhưng điều đó đã không xảy ra. Sự phát triển của
đất nước nên tiếp tục, vì vậy chúng tôi không chống lại những người
kiếm tiền chính đáng. Nhưng chúng tôi không thể cho phép những kẻ làm
giàu bất chính để tiếp tục làm cho những người nghèo càng nghèo hơn”.
Tại đây, ông chạm phải nỗi đau đớn nhất. Mặc dù hồ sơ ghi nhận trước đó
về sự phân phối thành quả kinh tế tương đối đồng đều, Việt Nam bây giờ
không còn bênh vực người nghèo như họ đã từng làm. Báo cáo năm 2012 của
Ngân hàng Thế giới ghi nhận rằng “sự bất bình đẳng đã trở lại”. Báo cáo
tìm thấy, giữa năm 2004 và 2010, thu nhập của 10% dân số nghèo nhất đã
giảm một phần năm trong khi 5% giàu nhất của Việt Nam hiện nay chiếm gần
một phần tư tổng thu nhập. Trình trạng bất bình đẳng tệ hại nhất là ở
các vùng nông thôn. Hàng triệu nông dân đã bị đẩy ra khỏi mảnh đất của
họ để nhường chỗ cho các cơ xưởng hay đường xá. Đầu thập niên 90, gần
như tất cả các gia đình nông dân (91,8%) sở hữu đất. Đến năm 2010, gần
một phần tư trong số họ (22,5%) không còn đất. Một đợt thủy triều vô tận
của những nông dân nghèo đã đổ về các thành phố, nơi họ sẽ nhập bọn với
hàng hàng trăm ngàn người lao động bị sa thải do những người chủ tư
nhân của công ty nhà nước cũ bắt đầu cắt giảm chi phí. Làn sóng người đã
quyện vào “khu vực phi chính thức” – được che giấu trong những cơ xưởng
tại nhà riêng hoặc ngồi buôn bán trên vỉa hè – và gia nhập vào mạng
lưới trải dài của các khu chế xuất và khu công nghiệp mới. Trong lĩnh
vực phi chính thức, không hề có sự bảo vệ gì cả. Trong lãnh vực công
nghiệp, sự bảo vệ đã trở nên yếu ớt đáng kể.
Giáo sư Trần Ngọc Angie là một chuyên gia nghiên cứu lao động ở Việt
Nam. Trong cuốn sách của mình, Ties That Bind [tạm dịch: Nút thắt vững
chắc], bà giải thích cách thức luật lao động của nước này – một thời nổi
tiếng tiến bộ – bị lỏng lẻo đi, một phần do kết quả vận động hành lang
của các nhóm như Phòng Thương mại Hoa Kỳ. Các nghiệp đoàn do nhà nước
tài trợ thì yếu ớt và chưa bao giờ kêu gọi một cuộc đình công. Giáo sư
Angie kết luận: “Với sự gia tăng vốn vào Việt Nam qua ngã đầu tư nước
ngoài và tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, nhà nước trở nên ngày
càng ít phục vụ dân chúng hơn. Đôi khi, một số cơ quan và các tổ chức
nhà nước liên kết với các nhà tư bản”. Mọi nhân công được bảo đảm một
mức lương tối thiểu. Ban đầu, vào năm 1990, điều này đã được thiết lập ở
một mức độ tương xứng với “tiền lương sinh hoạt” – nghĩa là nó đáp ứng
các nhu cầu cần thiết của cuộc sống.
Nhưng qua nhiều năm, vì sợ mất vốn nước ngoài, chính quyền đã cho phép
mức lương tối thiểu bị cắt giảm, đông cứng và bị lạm phát qua mặt, với
kết quả là vào tháng 4 năm 2013, các công đoàn nhà nước đã phản đối rằng
mức lương hiện nay chỉ đáp ứng được 50% các chi phí thiết yếu. Liên
đoàn lao động cho biết, hầu hết công nhân thành phố là “người nghèo khổ
và lãng phí thể chất … Họ thuê phòng trọ giá rẻ, tồi tàn và cắt giảm chi
phí thường nhật đến mức tối thiểu … bị suy dinh dưỡng trầm trọng và các
nguy cơ sức khỏe khác”. Trong khi đó, y tế và giáo dục không còn được
miễn phí.
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới cho rằng “thu nhập đang trở nên quan
trọng hơn trong việc xác định quyền tiếp cận các dịch vụ căn bản”, và
rằng chính quyền đang chi ra nhiều hơn chi phí bệnh viện cho người khá
giả so với các trung tâm y tế cộng đồng cho người nghèo. Việt Nam không
phải là một đất nước yếu kém. Sự phục hồi của Việt Nam từ cuộc chiến
tranh gần như là kỳ diệu, đặc biệt là trong việc cắt giảm nghèo đói,
trong khi mức nghèo đói tại các nước phát triển như Anh đang gia tăng.
Nhưng thực tế bây giờ Việt Nam kết thúc với thứ tồi tệ nhất của hai hệ
thống: nhà nước xã hội chủ nghĩa độc tài và lý tưởng không thể ngăn cản
của chủ nghĩa tân tự do; hai thứ này kết hợp lại để tước đoạt tiền của
và nhân quyền của người dân Việt Nam trong khi một nhóm nhỏ thượng tầng
thu góp đầy túi và ẩn núp đằng sau những lời hô hào cách mạng.
Cuối cùng, đó là sự dối gạt lớn nhất. Vinh quang trong chiến tranh nhưng
bị đánh bại trong hòa bình, tuyên bố xã hội chủ nghĩa của lãnh đạo Việt
Nam giống như khẩu hiệu tuyên truyền rỗng tuếch. Theo lời của một cựu
du kích, là người đã không tiếc mạng sống của mình cho cách mạng: “Họ là
những nhà tư bản đỏ”.
Nick Davies
Trần Văn Minh dịch
(Vietinfo.eu.tinfo.eu)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Nick Davies - Sau chiến thắng, 'mọc' ra ngày càng nhiều 'Tư bản Đỏ'
Sau chiến thắng quân sự, mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa của Việt Nam bắt đầu sụp đổ. Bị Hoa Kỳ cấm vận thương mại và từ chối viện trợ tái thiết, Việt Nam rơi vào tình trạng nghèo đói.
Sau chiến thắng quân sự, mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam bắt đầu sụp đổ. Bị Hoa Kỳ cấm vận thương mại và từ chối viện trợ tái
thiết, Việt Nam rơi vào tình trạng nghèo đói. Hiện nay, nền kinh tế
đang bùng nổ, cũng như tình trạng bất bình đẳng và nạn tham nhũng.
Vào
một buổi sáng sớm tháng 2 năm 1968, khi cuộc chiến ở miền Trung Việt
Nam đạt đến mức độ điên rồ mới, một nhóm các binh sĩ Hàn Quốc tràn vào
một ngôi làng có tên là Hà My, là một tập hợp những căn nhà lá nằm rải
rác với ruộng lúa cách thành phố Đà Nẵng khoảng một giờ lái xe. Họ đến
từ đơn vị gọi là Rồng Xanh, cùng chiến đấu bên cạnh người Mỹ, và đang cố
gắng để ngăn chặn cuộc nổi dậy của cộng sản. Trong nhiều tuần, họ đã
dồn các gia đình nông dân vào trong một khu vực đông đúc mà người Mỹ gọi
là “ấp chiến lược”. Bằng cách đưa nông dân ra khỏi làng, họ hy vọng có
thể cắt đứt nguồn thực phẩm và nơi trú ẩn cho du kích cộng sản.
Và trong nhiều tuần, nông dân và gia đình của họ đã tìm cách thoát ra
ngoài. Họ tìm về Hà My, chán ghét cảnh bị giam cầm trong ấp chiến lược
và cần phải cày cấy. Tới lúc này, những người lính Rồng Xanh (Blue
Dragon) đã mất kiên nhẫn. Sau khi đến nơi, binh sĩ Nam Hàn đã lùa dân
làng theo thành từng nhóm nhỏ và sau đó, một cách có phương pháp, khai
hỏa. Một giờ sau đó, họ đã giết chết 135 người. Rồi họ đốt nhà và xác,
và ủi toàn bộ vụ việc xuống những ngôi mộ tập thể. Qua nhiều năm, sự
thật cũng bị chôn vùi.
Hiện nay có một đài tưởng niệm về vụ thảm sát đó, được xây dựng 30 năm
sau với sự trang trải của các binh sĩ Rồng Xanh, trở lại để tỏ lòng hối
hận sâu xa. Nhưng có một điều gì đó không đúng. Đài tưởng niệm đứng sừng
sững, lớn như một ngôi nhà, với mái nhà trang trí công phu chứa hai
ngôi mộ tập thể và một bia đá lớn ghi tên người lớn và trẻ em đã chết.
Nhưng không có lời giải thích về cái chết của họ. Dân làng nói rằng khi
tượng đài bắt đầu được xây, mặt sau của mộ bia diễn tả cảnh tượng sống
động về những gì đã xảy ra ngày hôm đó. Một người thậm chí còn có một
bản sao của bài viết, là một bài thơ hùng hồn nhắc lại cảnh máu lửa,
thịt cháy, xác chết vùi trong cát: “Thật hãi hùng khi thấy trẻ em và trẻ
sơ sinh la khóc, hai tay vươn ra, miệng vẫn còn ngậm vú mẹ đã chết…”
Nhưng dân làng nói rằng, một số nhà ngoại giao Nam Hàn đã đến thăm trước
buổi khai mạc chính thức và than phiền về bài thơ; thay vì phản ứng
lại, viên chức Việt Nam đã ra lệnh che phủ bài thơ bằng một bức tranh
hoa sen. Một nhà nhân chủng học Nam Hàn, Heonik Kwon, người đang khảo
cứu tại Hà My vào thời điểm đó, ghi lại lời một dân làng nói rằng sự
chối bỏ sự thật này giống như một vụ thảm sát thứ hai, “giết chết ký ức
về vụ thảm sát”.
Binh lính Đại Hàn giết quá nhiều người Việt Nam, nhưng chẳng có người lính Đại Hàn nào thú nhận
là có sự tham dự của họ trong những cuộc chém giết này.
Tại sao người Việt Nam lại thỏa hiệp như thế? Tại sao những người thắng
cuộc chiến này lại cho phép những kẻ thua cuộc định nghĩa câu chuyện
chiến tranh? Những người dân làng nói câu trả lời rất đơn giản: Nam Hàn
đã trở thành một trong những nhà đầu tư kinh tế nước ngoài lớn nhất ở
Việt Nam và đã đề nghị chi trả cho một bệnh viện địa phương nếu bài thơ
thảm sát được che giấu. Vì thế, nhà chức trách Việt Nam đã đồng ý; họ
không thể từ chối được.
Và đó là tâm điểm của những gì đã xảy ra với Việt Nam kể từ khi chiến
tranh kết thúc 40 năm trước, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Một tháng đi
du lịch đó đây vào đầu năm nay – nói chuyện với nông dân, trí thức,
chuyên gia học thuật và các cựu chiến binh của cả hai bên – đã làm lộ
diện nhiều sai lầm và thỏa hiệp, được những kẻ quyền thế áp đặt lên
người dân Việt trong quá trình theo đuổi lợi nhuận. Mỹ đã thành công
trong việc thúc đẩy một câu chuyện sai lạc về nguyên nhân và cách thức
tiến hành chiến tranh của họ.
Mặc dù thua trong cuộc xung đột quân sự, Mỹ và các đồng minh của họ đã
trở lại với vũ khí tài chánh còn mạnh hơn, ép buộc người Việt đi xuống
con đường mà họ không chọn. Bây giờ, chính những người lãnh đạo của họ
là những kẻ nói dối nhiều hơn cả. Nguyễn Hào Thu, 90 tuổi, đang sống
trong một căn hộ đẹp và sáng sủa tại Hà Nội. Bà nói tiếng Pháp trôi chảy
như chim hót và bập bẹ với tiếng Anh, mô tả, khi còn là một người phụ
nữ trẻ, bà đã nhìn thấy đất nước bị nghiền nát giữa hai kẻ thù to lớn
như thế nào. Đầu tiên, người Pháp đã từ chối không nhả thuộc địa của họ
ra vào cuối Đệ Nhị Thế chiến. Năm 1946, ở tuổi 21, bà Thu đã đi vào rừng
và tham gia chiến tranh du kích, chuyên về trộn axit, hỏa tiêu và cồn
để làm thuốc súng: “Tôi rất vui khi ở trong rừng. Với bột trong quả bom,
bạn có thể – đùng! – thấy được giấc mơ của chúng tôi”. Và giấc mơ đó
không phải chỉ đơn giản là chủ nghĩa dân tộc hay đánh đuổi quân xâm
lược.
Đó chính là cộng sản và cách mạng. Bà Thu nhớ lại thời thơ ấu khi người
Pháp bắt cha bà, một giáo viên mầm non; bà thường mang thức ăn vào tù
cho ông khi chỉ mới bảy tuổi. Bà nói: “Tôi ghét tất cả những người muốn
chiến đấu và chiếm Việt Nam. Trong tâm trí của tôi, tôi đã trở thành
người cộng sản”.
Gia đình bà yên ổn trong tầng lớp trung lưu, nhưng trong thập niên 1930,
bà cho biết, nhà của gia đình bà được sử dụng làm nơi hội họp cho Đảng
Cộng sản Việt Nam hoạt động ngầm. Vào năm 16 tuổi, bà nhớ đã đọc Marx –
Lenin và cách thức người Pháp tử hình một trong những người bạn của bà
như thế nào. “Thực tình, tôi là người cộng sản”. Ông Lê Nam Phong là
người cũng lớn tuổi như bà Thu. Ông 17 tuổi khi đăng ký đi lính chống
Pháp vào năm 1945. Ông đã trải qua 30 năm sau đó trong chiến tranh,
thăng cấp dần để trở thành một thiếu tướng trong quân đội Bắc Việt và
một nhân vật chủ chốt trong việc phá hủy sau cùng bộ máy quân sự của Mỹ.
Ngồi bên ngoài căn nhà tiện nghi của mình, cắt một miếng xoài vào một
buổi tối ấm áp, ông nhớ đến động lực cách mạng của riêng ông: “Chủ nghĩa
xã hội? Vâng, lẽ tất nhiên. Mục đích của tất cả sự chiến đấu là để xây
dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa, để đạt được tự do, độc lập và hạnh
phúc.
Trong những ngày đầu chống Pháp và chống Mỹ, chúng tôi đã có trong tâm
trí một xã hội mà chúng tôi muốn tạo ra – một xã hội không có người bóc
lột người; công bằng, độc lập, bình đẳng”. Đây là nơi mà sự giải thích
riêng của Mỹ về hành vi của họ bắt đầu sụp đổ. Các phiên bản Mỹ về các
sự kiện kể rằng khi người Pháp bị đánh bại vào năm 1954, quân đội Mỹ
khởi sự tham gia bảo vệ quốc gia của miền Nam Việt Nam khỏi mối đe dọa
cộng sản từ miền Bắc Việt Nam xâm chiếm. Thực tế là người Pháp đã đánh
mất cảm tình của người dân trên khắp Việt Nam, đẩy họ vào vòng tay Đảng
Cộng sản của Hồ Chí Minh. Và, quan trọng hơn, [thời đó] không có hai
quốc gia riêng biệt.
Năm 1954, mặc dù với chiến thắng của quân đội Việt Nam, Pháp và các đồng
minh phương Tây cố bám lấy quyền lực tại cứ điểm phía nam. Tại hội nghị
quốc tế ở Geneva, tất cả các bên sau đó đã đồng ý rằng đất nước nên
được chia cắt tạm thời – thành miền Nam Việt Nam và Bắc Việt Nam, cho
đến tháng 7 năm 1956, một cuộc bầu cử sẽ đưa tới một chính phủ mới trên
toàn quốc. Dwight Eisenhower, Tổng thống Mỹ khi đó, sau này thừa nhận
rằng nếu cuộc bầu cử đó được phép xảy ra, khoảng 80% người dân Việt Nam
sẽ bầu cho Hồ Chí Minh và xã hội xã hội chủ nghĩa mới – và những người
Việt mà chúng tôi tiếp xúc đều đồng ý. Tuy nhiên, Mỹ không cho phép
chuyện đó xảy ra. Thay vào đó, họ quay sang một nhân viên CIA khét
tiếng, Edward Lansdale, người đã tiến hành sử dụng một sự kết hợp khéo
léo giữa hối lộ và bạo lực để dựng nên một chính phủ mới ở Sài Gòn, do
chính trị gia Công giáo Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Ông là người chuyên
quyền và gia đình trị, nhưng chống cộng sản và ủng hộ Mỹ.
Vào tháng 10 năm 1955, Lansdale gian lận trong cuộc bầu cử ở miền Nam để
cho ông Diệm làm Tổng Thống. Cuộc bầu cử toàn quốc bị hủy bỏ. Sự phân
chia “tạm thời” bây giờ trở thành một giả dụ kéo dài rằng Việt Nam thực
sự là hai quốc gia khác nhau, miền Nam là nạn nhân thụ động của cuộc xâm
lược từ miền Bắc.
Lúc đầu, Mỹ, vốn tài trợ cho cuộc chiến tranh của Pháp, bằng lòng đổ
tiền vào quân đội của miền Nam Việt Nam, và chỉ gửi quân đội tới dưới
chiêu bài “cố vấn” – 16.300 người. Đến tháng 3 năm 1965, Mỹ đã gửi người
vào chiến trường. Ở cao điểm của cuộc chiến, năm 1969, Mỹ đã sử dụng
550.000 nhân viên quân sự, cộng với 897.000 từ quân đội của Nam Việt Nam
và hàng ngàn người khác đến từ Nam Hàn và các đồng minh khác.
Vào thời điểm chiến tranh kết thúc, số người chết, đã không thể đếm nổi,
có thể lên tới 3,8 triệu người, theo một nghiên cứu của Đại học Y khoa
Harvard và Đại học Washington. Phóng viên nước ngoài người Anh James
Cameron mô tả hành động của Mỹ như là “một sự xúc phạm đến danh dự cộng
đồng quốc tế, vừa kinh tởm vừa vô lý”. Viết vào năm 1965, ông quay lại
nhìn con đường dẫn đến chiến tranh: “Thật là vụng về, độc ác, thiếu suy
nghĩ và không suy xét. Từng bước, phương Tây gây thêm lỗi lầm và loạng
choạng đi vào một tình thế khó xử mà họ không bao giờ hiểu hoàn toàn và
chưa bao giờ thực sự đi tìm: ngay từ đầu, họ chỉ tranh luận trên lý
thuyết”. Bạo lực của những năm đó vẫn còn tồn tại với những người bị
thiệt hại nặng.
Trong một căn nhà nhỏ ở Sài Gòn, như nhiều người Việt Nam vẫn gọi là
thành phố Hồ Chí Minh, một cựu du kích quân cộng sản nhớ lại máy bay ném
bom Mỹ gầm thét xuống trên căn cứ trong rừng của họ, và cách thức ông
và các đồng chí của ông ẩn trốn trong các hố cá nhân nông cạn: “Chúng
tôi có rượu đế rất mạnh. Nếu bạn uống, nó sẽ làm bạn chảy nước mắt.
Chúng tôi thường gọi là ‘nước mắt quê hương’. Nó làm cho chúng tôi hết
sợ hãi”. Mỹ đã đổ nhiều bom xuống Việt Nam hơn các đồng minh đã dùng ở
cả Đức và Nhật cộng lại trong thế chiến thứ hai.
Họ cũng đã thả bom napan, là chất dẻo dính vào nạn nhân trong khi thiêu
cháy da của họ; phốt pho trắng sẽ đốt cháy đến tận xương; bom bi là loại
bom tung ra những viên bi và mảnh thép khắp các hướng; và 73 triệu lít
hóa chất độc hại, bao gồm 43 triệu lít chất độc da cam, đã giết chết
thảm thực vật và gây bệnh tật cho những người tiếp xúc với nó. Xấu hổ
thay, Mỹ còn ném bom Hà Nội – một thành phố đầy dân thường không có lực
lượng không quân phòng vệ. Một phụ nữ mà lúc đó khoảng tám tuổi nhớ phải
mang một nhánh lá trên vai như một vật ngụy trang mong manh chống máy
bay ném bom F-111 bay với hai lần vận tốc âm thanh.
Một người đàn ông làm việc trên một dàn súng phòng không nói rằng anh ấy
về nhà sau một đêm phòng thủ không có kết quả để tìm thấy khu phố của
mình bị san bằng: dấu hiệu duy nhất của đứa con trai của ông là một cái
chân bị đứt, mà ông nhận ra nhờ một vết thẹo. Trên mặt đất, các cuộc tấn
công của Mỹ cũng khốc liệt như thế.
Trong một ngôi làng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, một bà nông dân cỡ
tuổi 60 ngồi yên bình trong ngôi nhà với sàn nhà bằng đất sét. Bà nhớ
lại cái ngày mẹ chồng bà, người đang làm việc ở cánh đồng gần đó, đã
phạm phải sai lầm là bỏ chạy khi một máy bay trực thăng Mỹ đổ xuống phía
bà: một quả tên lửa đuổi theo và đè nát bà thành mảnh vụn tựa vào một
cây dừa. “Chúng tôi đã phải đi thu lượm thi thể của bà. Chúng tôi đã
phải nhặt răng của bà”. Bà nói, các trực thăng vũ trang đã giết chết ba
người anh em của bà. Bà nói thêm, tất cả những năm sau đó, bà vẫn khó
ngủ và hoảng hốt khi nghe thấy bất kỳ âm thanh nào giống máy bay trực
thăng. (vietinfo.eu).
Nhiều người Mỹ hiện nay tin rằng vụ thảm sát khét tiếng dân làng tại Mỹ
Lai là một sự kiện duy nhất, hiếm có, nhưng nhà báo Nick Turse tìm thấy
một hình ảnh khác ở Trung tâm Lưu trữ quốc gia Hoa Kỳ vào tháng 6 năm
2001. Ông phát hiện hồ sơ ghi chép những khám phá của lực lượng đặc
nhiệm Mỹ, Nhóm Điều tra Tội ác Chiến tranh Việt Nam. Họ cho thấy rằng
quân đội đã chứng thực hơn 300 tố cáo về thảm sát, giết người, hãm hiếp
và tra tấn bởi lính Mỹ. Ông Turse sau đó đã đến thăm Việt Nam. Trong
cuốn sách của mình, Giết bất cứ gì di động, ông mô tả cố gắng tìm địa
điểm của một sự cố từ các tập hồ sơ về 20 phụ nữ và trẻ em được cho là
đã bị giết chết trong một ngôi làng ở Tây Nguyên. Ông nói, theo chân
người dân địa phương, ông tình cờ gặp phải bia tưởng niệm của năm vụ
thảm sát khác trong cùng khu vực nhỏ: “Tôi đã nghĩ rằng tôi đang tìm
kiếm một cây kim trong đống cỏ khô; những gì tôi thấy thực sự là một
đống những cây kim”. Ông kết luận rằng sự kết hợp của sự vô cảm chủng
tộc đối với đời sống của người dân Việt Nam, áp lực chính thức để nâng
cao con số ‘giết’ và chỉ định các khu vực nông thôn là ‘vùng bắn tự do’
có nghĩa là ‘các cuộc sát hại dân thường trở nên phổ biến, thường xuyên
và trực tiếp liên quan đến chính sách hành quân của Mỹ’.” Những người
sống sót đôi khi bị bắt làm tù binh và bị nhục hình.
Năm 1970, một nhóm các nghị sĩ Mỹ đi thăm nhà tù Côn Đảo khét tiếng. Ở
đó, họ tìm thấy đàn ông và phụ nữ bị xích trong “chuồng cọp”, bị bỏ đói,
bị đánh đập, tra tấn và bị bắt ăn côn trùng. Mặc dù có sự phản đối khi
điều này được thuật lại, nhà tù vẫn hoạt động.
Cho tới vài năm trước đây, các nhà báo từ một trong những nhóm báo lớn ở
Sài Gòn thường dừng lại để mua cà phê từ một người phụ nữ dễ thương,
người từng trải qua mỗi ngày trên vỉa hè trước văn phòng của họ. Ít
người trong số họ biết tên của cô ta. Họ thường gọi cô là cô Cà Phê. Cô
có câu chuyện nhỏ của riêng mình về chiến tranh, nhưng trên hết là cô có
một câu chuyện về những gì đã xảy ra kể từ khi hòa bình trở lại. Đây là
bối cảnh mà đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay nói những điều dối trá. Cô
nhớ lại ngày giải phóng: niềm hân hoan vô bờ bởi vì chiến tranh đã qua;
niềm tự hào tuyệt đối rằng lực lượng cộng sản đã đánh bại những gì mọi
người nói là quân đội lớn nhất trong lịch sử thế giới; niềm hy vọng cho
một cuộc sống tốt đẹp hơn. Cũng vẫn có sợ hãi. Có những tin đồn về sự
trừng phạt bạo lực và cướp bóc. Cô Cà Phê lo lắng về những người điên
khùng nhặt những khẩu súng cô thấy nằm trên đường phố. Và cô buồn, vì
một lý do rất cá nhân. Vài năm trước, cô làm bồi bàn trong một căn cứ Mỹ
tại Vũng Tàu, trên bờ biển gần Sài Gòn, và tại đó cô đã gặp một người
lính tên là Ronald. Ông đến từ New York và ông bay các phi vụ thám thính
trên bầu trời Việt Nam và Campuchia. Họ đã yêu nhau. Bất thình lình,
ông được phái trở lại Mỹ, nhưng trong một thời gian ông tiếp tục viết
thư, và ông nói với cô rằng ông sẽ bảo lãnh cô để đoàn tụ với ông. Sau
đó, ông biệt tăm, và cô hiểu rằng không thể có cơ hội để ông quay lại
với cô. Sợ rằng chế độ mới có thể tức giận, cô đốt thư từ của Ronald và
không bao giờ được biết tin về ông nữa.
Nhiều năm sau, bây giờ đã 64 tuổi, tóc muối tiêu và bình lặng, ngồi lặng
lẽ bên ngoài một ngôi chùa, cô vẫn còn cảm nhận nỗi buồn. Cô Cà Phê
không thuộc về bên nào trong cuộc xung đột. Cô chỉ đơn giản là một người
phụ nữ Việt Nam, yêu một người đàn ông Mỹ và tìm kiếm một cuộc sống yên
ổn. Ngày giải phóng đã không đưa tới thời kỳ thoải mái. Lúc đầu, cô tìm
được việc làm tại một cơ xưởng hợp tác xã mới. Ở đó, cô ngồi cúi đầu
trên máy may 11 tiếng một ngày, thu nhập không nhiều hơn một tem phiếu
cho phép cô có một lượng nhỏ gạo chất lượng kém và một ít thịt nhỏ hơn.
Trong nhiều năm qua, cô chia sẻ ngôi nhà nhỏ với em trai, người trầm
mình cả ngày ở một hãng dệt khác. Nền kinh tế rơi vào một thập niên suy
thoái. Cô nói, “Cuộc sống thật là khó khăn cho người dân bình thường”.
Mỹ ra đi để lại hạ tầng cơ sở Việt Nam trong tình trạng suy sụp. Đường
bộ, đường sắt, cầu cống và kinh rạch bị bom đạn tàn phá. Vỏ đạn chưa nổ
và mìn rải rác vùng nông thôn, thường là dưới nước trong ruộng lúa mà
nông dân lội. Năm triệu hecta rừng bị mất sự sống do bom đạn và chất độc
da cam. Chính quyền mới cho rằng, hai phần ba trong số những ngôi làng ở
miền Nam đã bị phá hủy. Tại Sài Gòn, di sản của người Mỹ bao gồm hàng
đàn trẻ mồ côi lang thang trên đường phố và nạn dịch ma túy. Trên toàn
quốc, chính quyền mới dự đoán phải đối phó với 10 triệu người tị nạn; 1
triệu góa phụ chiến tranh; 880.000 trẻ em mồ côi; 362.000 thương binh và
3 triệu người thất nghiệp. Nền kinh tế rơi vào hỗn loạn.
Vào thời điểm ngày giải phóng đến, lạm phát lên tới mức 900%, và Việt
Nam – một đất nước đầy ruộng lúa – đã phải nhập khẩu gạo. Trong các cuộc
đàm phán hòa bình ở Paris, Mỹ đã đồng ý trả 3,5 tỷ USD viện trợ tái
thiết để sửa chữa cơ sở hạ tầng hư hỏng. Họ chưa từng trả một xu. Cộng
thêm sự xúc phạm đến hoàn cảnh khốn cùng, Mỹ tiếp tục đòi chính quyền
cộng sản trả hàng triệu đô la do kẻ thù của họ, chế độ Sài Gòn cũ, vay.
Việt Nam rất cần thế giới cung cấp thương mại và viện trợ để có thể xoay
chuyển nền kinh tế. Mỹ đã làm hết sức mình để bảo đảm rằng họ sẽ không
được bất cứ điều gì.
Ngay sau khi thua cuộc chiến, Mỹ đã áp đặt một lệnh cấm vận thương mại,
cắt đứt đất nước bị chiến tranh tàn phá không chỉ với xuất khẩu và nhập
khẩu từ Mỹ, mà còn từ các quốc gia khác chịu áp lực của Mỹ. Trong cùng
một cách, Mỹ dựa vào các cơ quan đa phương bao gồm IMF, Ngân hàng Thế
giới và Unesco để từ chối viện trợ cho Việt Nam. Mỹ thừa nhận rằng chất
độc da cam có khả năng gây bệnh tật nghiêm trọng và dị tật bẩm sinh và
trả 2 tỷ USD bồi thường – nhưng chỉ trả cho các cựu chiến binh của mình.
Các nạn nhân Việt Nam – hơn 2 triệu người – không được gì.
Không rõ bằng cách nào một mô hình kinh tế có thể sống sót trong cảnh bị
bao vây thù địch này. Không thể tránh khỏi, mô hình xã hội chủ nghĩa
của Việt Nam bắt đầu sụp đổ. Việt Nam đã thông qua chính sách thô thiển
của Liên Xô ép buộc người nông dân giao lại hoa màu của họ để đổi lấy
tem phiếu. Với tình trạng không có động lực để sản xuất, sản lượng bị
suy sụp, lạm phát tăng trở lại mức thời chiến, và đất nước một lần nữa
lại phải nhập khẩu gạo. Vào đầu thập niên 1980, giới lãnh đạo đã bị buộc
phải cho phép những người nông dân bán sản phẩm dư thừa, và như thế chủ
nghĩa tư bản bắt đầu trở lại. Vào cuối thập niên 1980, đảng cộng sản
chính thức chấp thuận các ý tưởng của “kinh tế thị trường với định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Chính sự thay đổi này đã cho phép cô Cà Phê rời khỏi
xưởng dệt vào năm 1988 để trở thành một người buôn bán. Cô cho biết,
mỗi buổi sáng cô thức dậy từ 4 giờ sáng chuẩn bị cà phê để đủ thời gian
đi vào thành phố. Lúc 5:00 giờ, cô đã ngồi trên một chiếc ghế nhỏ bên
ngoài tòa báo. Thay đổi đã xảy ra chung quanh cô trong suốt thập niên
90. Các nhà đầu tư nước ngoài được phép đi vào và các doanh nghiệp tư
nhân được khuyến khích – thương mại tự do, thị trường tự do, một số
người có lợi nhuận, một số người có lương bổng.
Đằng sau hậu trường, chính quyền gửi tín hiệu muốn bang giao với
Washington. Họ không còn đòi hỏi 3,4 tỷ USD viện trợ tái thiết hoặc bồi
thường cho nạn nhân chất độc da cam và các tội ác chiến tranh. Họ thậm
chí đồng ý trả nợ chiến tranh 146 triệu USD của chế độ Sài Gòn cũ. Năm
1994, Mỹ hòa dịu dần và dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đã bóp cổ Việt Nam
trong gần 20 năm. Ngân hàng Thế giới, IMF và các nhà tài trợ khác bắt
đầu trợ giúp. Kinh tế bắt đầu tăng tiến lên đến 8,4% một năm, và chẳng
bao lâu Việt Nam là một trong những nhà xuất khẩu gạo nhiều nhất thế
giới. Điều quan trọng, trong suốt thập niên 90, vẫn còn có những phe
phái mạnh mẽ trong nội bộ Đảng Cộng sản bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống
lại trào lưu mới của chủ nghĩa tư bản. Cho dù với sự hỗn loạn kinh tế,
họ đã thành công trong việc làm giảm đáng kể đói nghèo. Khi chiến tranh
kết thúc, 70% người Việt sống dưới mức nghèo chính thức. Đến năm 1992,
con số là 58% và năm 2000 là 32%.
Trong khi đó, chính quyền đã xây dựng một hệ thống các trường tiểu học ở
các cộng đồng địa phương và trường học trung cấp ở khắp nơi; họ cũng
xây dựng một cấu trúc cơ bản về chương trình chăm sóc sức khỏe miễn phí.
Trong một thời gian, các phe phái xã hội chủ nghĩa vẫn có đủ cơ bắp
chính trị để điều khiển con tàu tư bản mới. Ba lần trong cuối thập niên
90, Ngân hàng Thế giới đề nghị các khoản vay phụ trội trị giá hàng trăm
triệu đô la nếu Việt Nam đồng ý bán các công ty nhà nước và cắt giảm
thuế quan thương mại. Mỗi đề nghị đều đã bị từ chối. Nhưng từ năm 2000,
tốc độ thay đổi tăng nhanh và cán cân chính trị thay đổi. Phản ánh áp
lực liên tục từ các nhà tài trợ quốc tế và các nhà đầu tư nước ngoài,
Việt Nam hiện nay chấp thuận việc bán công ty nhà nước. Họ cũng đạt được
thỏa thuận thương mại với Mỹ, và cuối cùng đạt tới đỉnh cao vào năm
2006 khi Việt Nam được gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, có nghĩa là
Việt Nam có thể thu nhận nhiều đầu tư nước ngoài và viện trợ hơn nữa.
Ba thập niên sau khi những người cộng sản nổi lên như kẻ chiến thắng
trong chiến tranh, giờ đây họ là một thành viên đầy đủ của nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa toàn cầu. Cuối cùng Phương Tây đã thắng. Trên vỉa hè ở
Sài Gòn, cô Cà Phê đã chứng kiến tất cả sự kiện này xảy ra, nhưng cô
không thấy có sự thay đổi trong cuộc sống của cô. Cô nói, “Tôi kiếm tiền
vẫn như thế, vẫn sống trong cùng một phòng. Cửa tiệm có nhiều hàng hóa
hơn, nhưng giá cả tiếp tục gia tăng. Đất nước này đã thay đổi, nhưng
không phải cho những người như tôi. Những kẻ có các mối quan hệ trở nên
giàu có hơn”. Trong suốt những năm này, cô vẫn vướng mắc với cùng một
thương hiệu cà phê do Việt Nam sản xuất, Trung Nguyên. Trong khi cô vẫn
nghèo, người chủ công ty, kẻ cưỡi cơn thủy triều tự do kinh doanh mới và
hiện có tài sản lên tới 100 triệu USD.
Trong một văn phòng bên kia thành phố có mặt ông Nguyễn Công Khế. Trong
nhiều năm, ông làm tổng biên tập báo Thanh Niên, tờ báo có trụ sở trong
tòa nhà mà cô Cà Phê buôn bán ở bên ngoài. Dưới quyền biên tập của mình,
ông Khế bất bình với một số người quyền thế, ông Khế tiết lộ mối liên
hệ giữa một băng xã hội đen Sài Gòn và các quan chức cao cấp, sau đó cho
xuất bản câu chuyện về một vụ bê bối rộng lớn về trộm cắp tài sản công
dính líu tới một số gia đình có liên hệ chặt chẽ. Đây là điều nguy hiểm.
Việt Nam có một hệ thống kiểm duyệt vụng về, bằng cách gọi các biên tập
viên lên mỗi tuần – vào các ngày thứ Ba ở Hà Nội và thứ Năm tại Sài Gòn
– để nói cho họ biết những gì phải đăng tải và những gì phải che giấu.
Do những việc làm của ông, trong năm 2008, ông Khế đã bị sa thải.
Vào
tháng 11 năm ngoái, một lần nữa ông Khế mạo hiểm bằng cách thông qua tờ
New York Times để kêu gọi chính quyền cho phép tự do báo chí. Ngồi
trong văn phòng, bây giờ là nơi ông điều hành một trang web tin tức, ông
đi xa hơn. Nhấn mạnh rằng tên của ông được gắn liền với lời kêu gọi
này, ông nói ra những điều mà người khác chỉ dám nói qua trung gian: đó
là lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành kẻ phản bội với chính
nguyên lý của họ. “Ngay từ lúc khởi đầu, những người cách mạng dựng nên
một chính quyền với ý hướng trung thực phát triển đất nước và tạo nên
thịnh vượng một cách công bằng nhất, nhưng mọi thứ đã đi sai đường ở đâu
đó. Những người tham gia cách mạng, kẻ thề phải minh bạch – cuối cùng
đã phản bội sự cam kết và lý tưởng của họ”. Ông Khế tự là một phần cách
mạng. Là một sinh viên vào đầu thập niên 70, ông khuấy động chống Mỹ và
đã phải trải qua ba năm tù. Ông là một đảng viên lâu năm. Ông hiểu lý do
tại sao các nhà lãnh đạo đã phải quay sang các công cụ của chủ nghĩa tư
bản để khởi động nền kinh tế, nhưng ông đã nhìn thấy mặt tối của đồng
tiền tự do mới – đó là tham nhũng và bất bình đẳng.
Bạn có thể thấy điều đó trên các đường phố. Mặc dù quá khứ đen tối, Sài
Gòn đã bùng nổ thành một khối thể sôi sục với các hoạt động thương mại.
Nhưng dù sao, đó cũng là một thành phố trong thế giới đang phát triển,
với dấu hiệu đói nghèo trên mọi mặt. Và kia, đường Đồng Khởi – một hòn
đảo của sự giàu có sa đọa, nơi giới đại gia mới có thể mua một chiếc áo
thun hiệu Hermes với giá 500 USD, một chiếc đồng hồ Versace giá 15.000
USD, hoặc một cái bàn ăn với bốn chiếc ghế bọc da bê điểm lá cây bằng
vàng và bên trong nhồi lông ngỗng với giá 65.000 USD.
Và ở góc phố, khách sạn Continental bán các phần ăn với giá bằng tiền
lương một tuần của một công nhân, trong một nhà hàng gọi là – như một
cái tát vào mặt của Hồ Chí Minh – Le Bourgeois. Ông Khế cho rằng, với
mỗi 10 USD phê chuẩn cho bất kỳ dự án nào, 7 USD sẽ vào túi của ai đó.
Thật hả? Như thế, 70% ngân sách nhà nước ở Việt Nam đang bị ăn cắp? Đó
thật là một sự trộm cắp với tỷ lệ chóng mặt. Chúng tôi đã nói chuyện qua
một người phiên dịch. Ông gật đầu và xoắn một tay trong không khí.
“Giữa 50 và 70%”. Tổ chức Minh bạch Quốc tế năm ngoái tường trình rằng
Việt Nam được coi là một trong những nước tham nhũng nhất thế giới, tệ
hơn 118 nước khác và chỉ có 31 điểm trên chỉ số 100 điểm tốt.
"Bà chủ" nhặt phế thải kiếm sống bên xe "Đày tớ"
Không ai cho rằng tham nhũng là mới. Có một truyền thống lâu đời của các
công chức ở Việt Nam là bán sự ảnh hưởng của họ và thiên vị cho gia
đình họ. Nhưng những lời cáo buộc này đã chạm đến tầng lớp mới của lãnh
đạo hiện nay. Người ta nói rằng tham nhũng gia tăng chính là do việc tư
nhân hóa các công ty lớn của nhà nước Việt Nam và các cơ hội tạo ra, đã
đưa tới sự việc một số chính trị gia và các quan chức đề cử bản thân và
gia đình của họ là các giám đốc điều hành. Học giả người Anh, Martin
Gainsborough, là người đã ở Việt Nam nhiều năm làm công việc thực nghiệm
cho công trình nghiên cứu của ông về sự phát triển ở Đông Nam Á, đã
viết: “Thay vì lấy cảm hứng từ những tư tưởng cải cách, các quan chức
được thúc đẩy bởi ham muốn tham nhũng … Những gì chúng tôi thường đề cập
tới như “cải cách” chỉ nhiều lắm là những nỗ lực của đối thủ của các
lợi ích chính trị-kinh doanh để giành quyền kiểm soát tài chính và các
nguồn lực khác”.
Trong ba tháng gần đây, một trang web bất thường công bố chi tiết những
cáo buộc về hành vi của những thành viên bị nêu tên của tầng lớp quyền
thế thượng lưu Việt Nam. Trang web có tên là Chân Dung Quyền Lực và hỗ
trợ cho các tuyên bố của họ bằng các văn bản, băng ghi âm và đoạn phim.
Trang web chưa bao giờ được xác minh, nhưng giới quan sát cho rằng đó là
công việc của một chính trị gia rất quyền thế sử dụng thông tin nội bộ
để cố gắng làm phương hại các đối thủ. Trang web tuyên bố sẽ đưa ra ánh
sáng một thế giới trộm cắp bí mật. Trang web tấn công một nhân vật rất
cao cấp, tuyên bố rằng một quan chức địa phương đã giao một vali chứa 1
triệu USD tiền mặt tới nhà, như là kết quả của việc ông đồng ý không thu
150 triệu USD tiền thuế do một công ty bất động sản thiếu, là công ty
dự phần vào một dự án “phát triển khổng lồ”. Sau đó công ty này đã tặng
ông và các quan chức địa phương những biệt thự miễn phí. Trang web tiếp
tục chỉ ra hai chính trị gia hàng đầu, tuyên bố rằng một người đã ngăn
chặn việc truy tố một viên chức ngân hàng tham nhũng và hiện tại đang
nhận lãnh tiền lại quả khả quan; và người thứ hai đã chuyển 1 tỷ USD từ
một công ty nhà nước qua tài khoản ngân hàng của em gái, là người đang
nắm giữ 20 doanh nghiệp khác. Trang web cũng cáo buộc một nhân vật quân
sự cao cấp đã sử dụng công ty của con trai để bán đất quân đội cho lợi
ích cá nhân. Trong trường hợp của ông, trang web trưng ra một bức thư
của nhân viên ngân hàng, cho biết ông là một phần của một “mạng lưới
tham nhũng có quy mô cực kỳ to lớn”, với các tài khoản ngân hàng trị giá
hàng triệu đô la. Dần dần, nhà nước thừa nhận có tham nhũng và [bắt
đầu] bài trừ tham nhũng.
Trong các phiên tòa xử các nhân vật cao cấp hồi cuối năm ngoái, bốn giám
đốc điều hành của các công ty nhà nước trước đây đã bị kết án tử hình
vì tội hối lộ và gian lận; hai người khác bị kết án tù chung thân. Ông
Khế không tin những phiên tòa này xứng với tầm mức của vấn đề. Ông nhún
vai: “Chúng tôi đã đánh đổi hàng triệu sinh mạng cho độc lập và bình
đẳng. Khi tôi còn ở trong tù, tôi tưởng tượng đất nước sẽ không còn tham
nhũng sau chiến tranh, nhưng điều đó đã không xảy ra. Sự phát triển của
đất nước nên tiếp tục, vì vậy chúng tôi không chống lại những người
kiếm tiền chính đáng. Nhưng chúng tôi không thể cho phép những kẻ làm
giàu bất chính để tiếp tục làm cho những người nghèo càng nghèo hơn”.
Tại đây, ông chạm phải nỗi đau đớn nhất. Mặc dù hồ sơ ghi nhận trước đó
về sự phân phối thành quả kinh tế tương đối đồng đều, Việt Nam bây giờ
không còn bênh vực người nghèo như họ đã từng làm. Báo cáo năm 2012 của
Ngân hàng Thế giới ghi nhận rằng “sự bất bình đẳng đã trở lại”. Báo cáo
tìm thấy, giữa năm 2004 và 2010, thu nhập của 10% dân số nghèo nhất đã
giảm một phần năm trong khi 5% giàu nhất của Việt Nam hiện nay chiếm gần
một phần tư tổng thu nhập. Trình trạng bất bình đẳng tệ hại nhất là ở
các vùng nông thôn. Hàng triệu nông dân đã bị đẩy ra khỏi mảnh đất của
họ để nhường chỗ cho các cơ xưởng hay đường xá. Đầu thập niên 90, gần
như tất cả các gia đình nông dân (91,8%) sở hữu đất. Đến năm 2010, gần
một phần tư trong số họ (22,5%) không còn đất. Một đợt thủy triều vô tận
của những nông dân nghèo đã đổ về các thành phố, nơi họ sẽ nhập bọn với
hàng hàng trăm ngàn người lao động bị sa thải do những người chủ tư
nhân của công ty nhà nước cũ bắt đầu cắt giảm chi phí. Làn sóng người đã
quyện vào “khu vực phi chính thức” – được che giấu trong những cơ xưởng
tại nhà riêng hoặc ngồi buôn bán trên vỉa hè – và gia nhập vào mạng
lưới trải dài của các khu chế xuất và khu công nghiệp mới. Trong lĩnh
vực phi chính thức, không hề có sự bảo vệ gì cả. Trong lãnh vực công
nghiệp, sự bảo vệ đã trở nên yếu ớt đáng kể.
Giáo sư Trần Ngọc Angie là một chuyên gia nghiên cứu lao động ở Việt
Nam. Trong cuốn sách của mình, Ties That Bind [tạm dịch: Nút thắt vững
chắc], bà giải thích cách thức luật lao động của nước này – một thời nổi
tiếng tiến bộ – bị lỏng lẻo đi, một phần do kết quả vận động hành lang
của các nhóm như Phòng Thương mại Hoa Kỳ. Các nghiệp đoàn do nhà nước
tài trợ thì yếu ớt và chưa bao giờ kêu gọi một cuộc đình công. Giáo sư
Angie kết luận: “Với sự gia tăng vốn vào Việt Nam qua ngã đầu tư nước
ngoài và tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, nhà nước trở nên ngày
càng ít phục vụ dân chúng hơn. Đôi khi, một số cơ quan và các tổ chức
nhà nước liên kết với các nhà tư bản”. Mọi nhân công được bảo đảm một
mức lương tối thiểu. Ban đầu, vào năm 1990, điều này đã được thiết lập ở
một mức độ tương xứng với “tiền lương sinh hoạt” – nghĩa là nó đáp ứng
các nhu cầu cần thiết của cuộc sống.
Nhưng qua nhiều năm, vì sợ mất vốn nước ngoài, chính quyền đã cho phép
mức lương tối thiểu bị cắt giảm, đông cứng và bị lạm phát qua mặt, với
kết quả là vào tháng 4 năm 2013, các công đoàn nhà nước đã phản đối rằng
mức lương hiện nay chỉ đáp ứng được 50% các chi phí thiết yếu. Liên
đoàn lao động cho biết, hầu hết công nhân thành phố là “người nghèo khổ
và lãng phí thể chất … Họ thuê phòng trọ giá rẻ, tồi tàn và cắt giảm chi
phí thường nhật đến mức tối thiểu … bị suy dinh dưỡng trầm trọng và các
nguy cơ sức khỏe khác”. Trong khi đó, y tế và giáo dục không còn được
miễn phí.
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới cho rằng “thu nhập đang trở nên quan
trọng hơn trong việc xác định quyền tiếp cận các dịch vụ căn bản”, và
rằng chính quyền đang chi ra nhiều hơn chi phí bệnh viện cho người khá
giả so với các trung tâm y tế cộng đồng cho người nghèo. Việt Nam không
phải là một đất nước yếu kém. Sự phục hồi của Việt Nam từ cuộc chiến
tranh gần như là kỳ diệu, đặc biệt là trong việc cắt giảm nghèo đói,
trong khi mức nghèo đói tại các nước phát triển như Anh đang gia tăng.
Nhưng thực tế bây giờ Việt Nam kết thúc với thứ tồi tệ nhất của hai hệ
thống: nhà nước xã hội chủ nghĩa độc tài và lý tưởng không thể ngăn cản
của chủ nghĩa tân tự do; hai thứ này kết hợp lại để tước đoạt tiền của
và nhân quyền của người dân Việt Nam trong khi một nhóm nhỏ thượng tầng
thu góp đầy túi và ẩn núp đằng sau những lời hô hào cách mạng.
Cuối cùng, đó là sự dối gạt lớn nhất. Vinh quang trong chiến tranh nhưng
bị đánh bại trong hòa bình, tuyên bố xã hội chủ nghĩa của lãnh đạo Việt
Nam giống như khẩu hiệu tuyên truyền rỗng tuếch. Theo lời của một cựu
du kích, là người đã không tiếc mạng sống của mình cho cách mạng: “Họ là
những nhà tư bản đỏ”.
Nick Davies
Trần Văn Minh dịch
(Vietinfo.eu.tinfo.eu)