Trong ngày tết của trẻ con ấy, người
ta làm những “ông” tiến sỹ bằng giấy cho chúng chơi, với hàm ý mong sau
này lớn lên chúng cũng học hành, cũng đỗ ông cử ông nghè, được vua ban
cờ biển, rồi hoạn lộ thênh thang, trở thành “cha mẹ dân” (phụ mẫu chi
dân), một đời sang giầu phú quý...
Viết đến đây tôi chợt giật mình: Thì
ra cái bệnh sính khoa danh, trọng bằng cấp không chỉ bây giờ mới có, mà
đã ăn vào máu của dân ta từ lâu lắm rồi, ngày nay chỉ là giai đoạn trầm
kha nhất, là “đỉnh cao” nhất của căn bệnh đó mà thôi.
Lấy cảm hứng từ những “ông” tiến sỹ
giấy này, cụ Tam nguyên làng Yên Đổ (Nguyễn Khuyến) đã sáng tác nên bài
thơ nổi tiếng ấy. Bài thơ bằng chữ Nôm, có hai khổ. Cả hai đều hay (thơ
của cụ Tam nguyên thì bài nào chả hay?), nhưng trang báo có hạn, nên tôi
chỉ xin được hầu bạn đọc đôi điều về khổ hai, vì nó được phổ biến rộng
rãi hơn (được đưa vào sách giáo khoa phổ thông). Nguyên văn khổ thơ như
sau:
“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè, có kém ai
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son
điểm rõ mặt văn khôi
Tấm thân xiêm áo, sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh,
ấy mới hời
Ghế chéo, lọng xanh, ngồi bảnh choẹ
Nghĩ rằng đồ thật, hoá
đồ chơi”.
Một người như cụ Tam nguyên, làm thơ
về đồ chơi chắc chắn không phải chỉ để nói về đồ chơi. Đúng vậy, xin hãy
chú ý đến 4 chữ “cũng” ở hai câu đầu. Đọc hai câu ấy, có lẽ ai cũng
hình dung ra một anh chàng đang vênh mặt, đang vỗ ngực bành bạch, đang
gân cổ rằng ta cũng có cái này, cũng có cái kia, cũng được người đời gọi
là ông này, ông kia chứ “có kém ai” đâu?
Nhưng chính những cái “cũng” liên
tiếp, xưng xưng ấy lại tố cáo rằng những thứ anh ta có, cái danh anh ta
được gọi đó có cái gì không bình thường. Người học thật, có tài thật, đỗ
thật thường thâm trầm, khiêm tốn, bởi hơn ai hết, họ hiểu rằng “học hải
vô nhai” (biển học không có bờ).
Giàu chữ nghĩa đến như cụ Tam nguyên, mà đến tận cuối đời vẫn “Cúi xuống hổ đất, ngửa lên thẹn trời”
(di chúc) nữa là. Vả lại, những thứ họ có là của thật. Học thật, đỗ
thật thì cờ, biển vua ban, và cái danh ông nghè là điều đương nhiên,
việc gì phải “cũng”?
Vênh váo, kiêu ngạo là cách hành xử
của những kẻ dốt nát, học giả, bằng giả, danh giả. Dốt nát, học giả,
bằng giả, danh giả nên sinh tự ti. Càng tự ti bao nhiêu càng lu loa,
càng “cũng” với người đời bấy nhiêu. Nói khác đi, tự ti và tự kiêu chính
là hai mặt của những kẻ dốt nát, giả dối.
Những “ông” tiến sỹ giấy, tất nhiên là
làm bằng... giấy, mặt “ông” được các chú hoa man (người làm đồ hàng mã)
vẽ bằng bút son. Ngày xưa, sau thi Hội là thi Đình. Bài thi Đình thường
do vua trực tiếp chấm, phê bằng bút son (châu phê). Hoặc nếu là giám
khảo (do vua cử) chấm thì sau khi chấm, những bài được chấm đỗ dứt khoát
phải dâng lên để nhà vua ngự lãm, phê duyệt lại lần cuối cùng.
Những người đỗ Đình thí được đề tên
vào tờ giấy màu vàng có nền rồng, giấy ấy dán vào cái bảng cũng màu
vàng, có chạm hình rồng, rồi treo lên. Ngày treo bảng bao giờ cũng là
ngày được sỹ tử chờ đợi với niềm khát khao nhất, hồi hộp nhất. Một dòng
tên trên tờ giấy dán vào bảng vàng, thế là một anh khoá vô danh trở
thành một “văn khôi”, tiếng tăm lừng lẫy cả nước, là từ đó cuộc đời
ngoặt hẳn sang một hướng khác.
Ý nghĩa của câu 3 và câu 4 trong bài thơ là thế (Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng/ Nét son điểm rõ mặt văn khôi). Hai câu 5 và 6 tuyệt hay, vừa hay vừa thâm trầm, sâu sắc “Tấm thân xiêm áo, sao mà nhẹ/ Cái giá khoa danh, ấy mới hời”.
Nhẹ thật đấy chứ! Nhẹ đến mức đứa trẻ con nào cũng nắm thắt lưng các
“ông” đưa đi tùng dinh tùng dinh khắp làng được. Hời thật đấy chứ!
Các bậc cao niên kể, thời trước, giá
một “ông” tiến sỹ giấy chỉ vài chinh Bảo Đại (đơn vị tiền tệ nhỏ nhất,
có thể mua được một cái kẹo bột hay một bát nước chè xanh ở quán nước
làng). Còn ngày nay?
Chị Nguyễn Thị Tuyến, chủ một “lò
chuyên đào tạo (tức là sản xuất)” tiến sỹ giấy ở Vân Canh (Hoài Đức, Hà
Nội), cũng là người duy nhất trong làng còn cố giữ cái nghề của một làng
ngày trước chuyên sản xuất tiến sỹ giấy, cho biết, sau vài chục công
đoạn từ chẻ nan, đan cốt, phết hồ, cắt giấy dán giấy, làm mũ, làm cờ làm
lọng cho đến dùng nét son “điểm rõ mặt văn khôi”... giá thành một “ông”
tiến sỹ giấy xấp xỉ hai chục ngàn, bán cho người đời được một bát phở
bình dân (25.000 đồng), “nhà lò đào tạo tiến sỹ” lãi mỗi “ông” năm, sáu
ngàn.
“Lò đào tạo tiến sỹ” của chị Nguyễn Thị Tuyến ở Vân Canh, Hoài Đức, Hà Nội
Vài chinh Bảo Đại một ông tiến sỹ, hai
mươi lăm ngàn một ông tiến sỹ, đúng như hai câu 3 và 4 trong khổ thơ
đầu bài thơ của cụ Tam nguyên (Mày râu mặt ấy chừng bao tuổi/ Giấy má nhà bay đáng mấy xu). Đó
là nghĩa đen, nhưng ngoài nghĩa đen, bài thơ của cụ Tam nguyên câu nào
cũng mang nghĩa bóng, cũng “ý tại ngôn ngoại (ý ở ngoài lời)” .
Đọc hai câu 5 và 6 của khổ thơ thứ
hai, tôi cứ ngỡ như cụ Tam nguyên nói về thời bây giờ. Một trường đại
học ở tận... nước Mỹ, dù đã đóng cửa cả chục năm trước nhưng giờ vẫn cứ
bán bằng tiến sỹ với giá 17.000 USD. Tất nhiên là những tấm bằng ấy
chẳng có một tý giá trị nào, nó chỉ đơn thuần là một tờ giấy, y như tờ
giấy mà những chú hoa man ngày xưa hay chị Tuyến ngày nay dùng để làm
những “ông” tiến sỹ giấy vậy.
17.000 USD là món tiền to, rất to. Với
số tiền ấy, có thể ăn phở bình dân cả đời. Nhưng với nhiều ông “quan”
ngày nay, thì một bát phở bình dân các ông cũng không mất tiền túi mà
vẫn có được tấm bằng ấy. Đơn giản, vì các ông (hay cấp trên cho phép các
ông) lấy 17.000 USD tiền thuế của dân ra để mua.
Vậy nên một ông Giám đốc Sở Văn hoá -
Thể thao & Du lịch của một tỉnh, một ông Phó Bí thư của một tỉnh (và
còn nhiều ông khác nữa chưa bị lộ), chỉ có tấm bằng cử nhân tại chức,
một từ tiếng Anh không biết, có xuất ngoại thì cũng chỉ là đi du hí bằng
tiền thuế của dân chứ không phải để học, nhưng vẫn có được tấm bằng ấy.
Một ông ở ngành kinh tế cũng có bằng
ấy, khi bị nhà báo truy riết, thì lại “bật mí” rằng mình “học tiến sỹ...
từ xa”. Nghĩa là ông nghĩ làm một luận án tiến sỹ cũng như làm một bài
thi ở bậc đại học, mà học đại học “từ xa” là một “đặc sản” của nền giáo
dục chỉ có ở Việt Nam.
Một ngày không học, một xu không mất
mà vẫn thành tiến sỹ. So với những chú hoa man ngày xưa hay với chị
Tuyến ngày nay, phải bỏ ra hai mươi ngàn, phải đổ mồ hôi hì hục chẻ nan,
đan cốt, cắt giấy phết hồ... thì “hời” quá đi chứ.
Nhưng với những ông “quan” trên, thì
cái “hời” thực sự còn lớn hơn rất nhiều, cái “hời” mà những người như
chị Tuyến có nghĩ cả đời cũng không ra, đó là: Cái tấm bằng tiến sỹ mua
bằng tiền thuế của dân ấy, đích thực chỉ là thứ đồ chơi. Nhưng khổ thay,
với những người là cấp trên của các ông, thì nó lại là đồ thật. Và
chính nhờ có thứ đồ chơi được lộn sòng thành đồ thật ấy, mà các ông có
cơ hội thăng tiến lên cao hơn nữa, hưởng lương, hưởng “lậu” và nhất là
hưởng bổng lộc còn nhiều hơn nữa...