Sức khỏe và đời sống

SỨC KHỎE GIỮA TUẦN: Mời các bạn xem vài chuyên đề về sức khỏe

BS Hưng cho biết, hiện nay, ăn chay đang ngày càng được quan tâm như một cách sống, một cách ăn uống để bảo vệ sức khỏe. Theo một nghiên cứu, trong 10 năm qua,


 
Chuyên đề 1: Ăn chay ngày càng được quan tâm
BS Nguyễn Thị Kim Hưng - Ảnh: K.CH
 Đó là nhận xét của bác sĩ Nguyễn Thị Kim Hưng, Giám đốc Trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM tại lễ khởi động tháng ăn chay (từ ngày 13-8 đến ngày 14-9) do công ty Saigontourist thực hiện.

BS Hưng cho biết, hiện nay, ăn chay đang ngày càng được quan tâm như một cách sống, một cách ăn uống để bảo vệ sức khỏe. Theo một nghiên cứu, trong 10 năm qua, số người ăn chay ở Anh quốc tăng gấp đôi, một phần tư thanh niên nước này đã không còn ăn thịt. năm 1994, số người ăn chay ở Hoa Kỳ tăng khoảng 12 triệu người và mỗi năm tăng thêm 1 triệu người.
Theo bác sĩ, có nhiều lý do dẫn đến việc ăn chay. Lý do đầu tiên là tín ngưỡng, nhưng càng về sau, những lý do sức khỏe, nhân văn, bảo vệ môi trường, kinh tế và đạo đức đã làm cho người ta thích ăn chay hơn ăn mặn.

Tuy nhiên, vấn đề là khái niệm "ăn chay" được hiểu rất khác nhau. BS Hưng đưa ra 5 kiểu ăn chay phổ biến nhất thế giới:
- Vegan diet: Ăn chay tuyệt đối, loại trừ tất cả thức ăn có nguồn gốc động vật. Trong hình thức này còn có kiểu ăn uống nghiêm ngặt hơn là chỉ dùng trái cây và các loại hạt.
- Lacto - vegetarian: Thực phẩm thực vật kết hợp với sữa động vật.
- Lacto - ovo - vegetarian: Ngoài sữa động vật, người ăn còn được dùng thêm các loại trứng.
- Lacto - ovo - pisto - vegetarian: Thêm vào danh sách thức ăn các loại cá.
- Semi - vegetarian: Không ăn thịt có màu đỏ, vẫn ăn cá, trứng, sản phẩm từ sữa và thịt gia cầm.

Về khía cạnh dinh dưỡng học, BS Hưng đưa ra những yếu tố rất có lợi do việc ăn chay mang lại, đặc biệt là giảm nguy cơ một số bệnh mãn tính như béo phì, tiểu đường type II, cao huyết áp, bệnh mạch vành, một số bệnh ung thư, sỏi mật, táo bón, sa sút trí tuệ, loãng xương...

Trừ cách ăn chay tuyệt đối (dạng 1), các cách ăn chay khác đều có thể cung cấp đủ nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng thiết yếu nếu được tổ chức tốt. Loại ăn chay có trứng, sữa không khác chế độ ăn mặn.

Dù vậy, nếu ăn chay không đúng cách có thể dẫn đến việc thiếu sắt, vitamin B12 ở các nhu cầu cao trẻ em, phụ nữ mang thai và cho con bú, người bệnh... Có thể còn thêm nguy cơ thiếu năng lượng, protein, canxi... Cần lưu ý khi phối hợp đủ lượng thực phẩm và sử dụng các thực phẩm bổ sung vi chất.

Nhưng dù ăn chay hay ăn mặn, BS Hưng nhấn mạnh, cần đảm bảo cung cấp đủ chất dinh dưỡng và tăng cường cho sức khỏe. Có thể dựa trên ba nguyên tắc chính: Ăn đa dạng, ăn chừng mực, ăn thực phẩm gắn với thiên nhiên.
Chuyên đề 2: Những thuốc dễ gây dị tật bẩm sinh

Sứt môi ở trẻ có thể do mẹ dùng thuốc khi mang thai.
Những phụ nữ mang thai nếu dùng vitamin A liều cao thì đứa bé sinh ra có thể bị dị dạng mặt, sọ, tim và cơ quan sinh dục. Nếu dùng quá nhiều vitamin D, trẻ sinh ra có thể bị cao huyết áp, chậm phát triển tâm thần.

Từ lâu, đã có bằng chứng cho thấy thai phụ khi dùng một số thuốc có thể bị sẩy thai, thai chết lưu hoặc dị tật bẩm sinh. Theo nghiên cứu dịch tễ, gần 2% ca dị tật bẩm sinh là do các thuốc đã được bà mẹ sử dụng trong lúc mang thai. Các bác sĩ đã ghi nhận hơn 8.000 trẻ sơ sinh có tay cụt bẩm sinh mà nguyên nhân là mẹ dùng thuốc an thần Thalidomide.

Từ phát hiện trên, các nhà y học đã quan tâm hơn đến tính an toàn của thuốc khi sử dụng cho thai phụ, đặc biệt là về khả năng gây quái thai. Gần 2.000 loại thuốc đã được thử nghiệm trên súc vật, trong đó có 580 loại gây quái thai và 150 loại bị nghi vấn. Tuy nhiên, cần lưu ý là có những loại thuốc gây quái thai cho súc vật nhưng có thể không gây quái thai cho người và ngược lại.

Các thuốc cần cẩn trọng khi dùng cho thai phụ gồm:

Các vitamin: Vitamin B6 nếu dùng kéo dài sẽ gây co giật. Vitamin C liều cao có thể gây dị tật; còn vitamin E nếu bị lạm dụng sẽ khiến trẻ bị tiêu chảy.

Thuốc tiêu hóa: Thuốc Cimetidine gây vàng da ở trẻ sơ sinh.

Corticoid: Gây ức chế vỏ thượng thận, hở môi và khe vòm miệng nếu được dùng kéo dài trong thai kỳ.

Thuốc hô hấp: Salbutamol và Ephedrin làm tim thai nhanh. Aminophyllin làm nhịp tim nhanh, tăng đường huyết.

Thuốc chống ung thư: Methotrexate, Mercaptopurin gây thai chết lưu, dị tật bẩm sinh, não úng thủy, thai vô sọ, sứt môi, dị dạng chi. Cyclophosphamide gây dị dạng chi, tai, sinh non.

Thuốc kháng viêm không steroid: Làm co thắt ống động mạch, viêm ruột hoại tử.

Kháng sinh: Penicillin liều cao có thể làm thai chết lưul; Tetracyclin khiến răng trẻ bị vàng, da vàng, dị hình ở chi. Bactrim tăng nguy cơ vàng da ở trẻ sinh non. Metronidazole ảnh hưởng đến nhiễm sắc thể của thai và gây dị tật bẩm sinh. Tóm lại, hầu hết các loại kháng sinh đều có thể gây tổn thương chot thai.

Thuốc kháng giáp: Methimazole, Carbimazole gây dị dạng ở mặt, hẹp lỗ mũi và thực quản, chậm phát triển trí tuệ.

Thuốc chống động kinh: Carbamazepin, Valproate Natri gây dị dạng ở mặt, nứt đốt sống, lệch lỗ tiểu, dị dạng tim, kẽ hở vùng bụng, chậm nói, cận thị. Trimethadione, Hydantoine gây dị dạng ở hệ thần kinh trung ương, mũi kém phát triển.

Thuốc hạ đường huyết: Hàm lượng glucose huyết thấp ở trẻ sơ sinh.

Thuốc ổn định tâm thần: Lithium gây nguy cơ bệnh tim cho trẻ, rối loạn chức năng tiêu hóa, đái tháo nhạt.

Thuốc an thần: Gây rối loạn chức năng gan, dễ xuất huyết, chậm phát triển tâm thần, dị tật tim bẩm sinh, sinh ngạt, vàng da, bú kém, dị dạng nội tạng, các chi ngắn.

Thuốc huyết học: Gây dị dạng ở bộ xương, đầu nhỏ, thoái hóa thần kinh thị giác, tâm thần phát triển chậm, thai lưu và xuất huyết ở trẻ sơ sinh.

Thuốc giảm đau: Methadone gây suy hô hấp khi sinh. Aspirin gây chảy máu ở trẻ sơ sinh. Na Salicylat có thể làm thai chết lưu. Indomethacin làm suy giảm chức năng thận.
Thuốc tim mạch: Methyldopa làm trẻ sơ sinh có vòng đầu nhỏ. Propanolol gây chậm nhịp tim thai, hạ đường huyết. Reserpin làm trẻ lừ đừ, bú yếu, hạ thân nhiệt.

Chuyên đề 3: VÀI ĐIỀU NÓI THÊM VỀ VIAGRA
Tác giả : BS. ĐÀO XUÂN DŨNG
Được sử dụng từ tháng 3/1998, sildenafil citrate (Viagra) đã nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của hơn 7 triệu nam giới yếu sinh lý và bạn tình của họ; Và được xem như một loại “thần dược” giúp cho nhiều nam giới có tuổi kéo dài đời sống tình dục. Tuy nhiên Viagra không phải là thuốc có hiệu quả 100% cho những người yếu sinh lý, mà khi dùng phải được thầy thuốc chỉ định và theo dõi vì có thể gây ra những tác dụng phụ nghiêm trọng.

Viagra có phải là thuốc kích dục?

Đây là sự hiểu lầm thường gặp nhất. Thuốc làm tăng sự cương cứng nhưng không ảnh hưởng đến dục năng hay ham muốn tình dục ở người bình thường, nghĩa là không có tác dụng kích dục. Nếu nam giới có thể duy trì được sự cương cứng lâu thì dù có uống Viagra cũng không thấy tác dụng gì hơn. Còn với những nam giới tự nhận là không có vấn đề gì trong sinh hoạt tình dục, thậm chí còn nói có thể thực hành vài ba lần mỗi tuần nhưng trong thực tế chỉ cương cứng được 50%, nghĩa là chỉ có thể duy trì tình trạng cương cứng khoảng 2-3 phút thì Viagra thực sự có tác dụng.

Điều kiện để sử dụng Viagra

Tùy thuộc thời gian và tình trạng kích thích của người sử dụng. Viagra chỉ tác dụng trong vòng 30 phút và có thể kéo dài 4 giờ. Người sử dụng cần trong tình trạng tâm lý và thể chất đã được kích thích; Nếu là người “lạnh băng”, không quan tâm đến tình dục thì dù uống Viagra cũng không có tác dụng.

Cơ chế tác dụng của Viagra
Viagra có hiệu quả cho những trường hợp yếu sinh lý vì lý do thực thể, tâm lý hay phối hợp. Cơ chế làm tăng sự cương cứng là do thuốc điều hòa sự vận mạch ở dương vật, ức chế men phosphodiesteraza 5 (PDE 5) chủ yếu thấy ở dương vật, do đó làm chất GMP (tiết ra trong lúc hứng khởi tình dục) tồn tại lâu, giúp máu tới dương vật nhiều hơn. Hiệu quả của Viagra đạt tới 80%.

Những ai nên sử dụng Viagra?
Viagra có hiệu quả cho mọi thể yếu sinh lý. Những người bị tổn thương cột sống (ống tủy) hoặc yếu sinh lý do nguyên nhân tâm lý có đáp ứng tốt nhất với Viagra. Nam giới tuổi ngoài 65 cũng có đáp ứng tốt như thanh niên.

Liều lượng bao nhiêu là đủ?
Nên bắt đầu từ 50mg, nếu có tác dụng thì thử với 25mg. Nếu 50mg không có tác dụng thì thử với 100mg (1 viên). Viagra có thể cho tác dụng trong một ngày, không có tác dụng cho ngày hôm sau và không nên dùng 2 viên trong cùng một ngày. Ở Mỹ, nhiều công ty bảo hiểm không thanh toán cho việc dùng Viagra, một số công ty khác có thanh toán nhưng chỉ giới hạn từ 6-8 viên mỗi tháng.

Tác dụng phụ của Viagra

Thường gặp nhất là nhức đầu, nóng bừng mặt hay khó tiêu. Mờ mắt cũng là tác dụng phụ hay gặp.

Có thể dùng Viagra cho người bi bệnh tim?
Không được dùng Viagra cho người bị bệnh tim và đang dùng thuốc có nitrate, vì có thể gây giảm lưu lượng máu kéo dài và nghiêm trọng ở các động mạch vành vốn đã hẹp nhiều. Người bị huyết áp cao hay thấp, bị viêm võng mạc sắc thì cần hỏi ý kiến thầy thuốc trước khi dùng Viarga. Tác dụng của Viagra trên những bệnh này chưa được nghiên cứu đầy đủ.

Có thể dùng Viagra cho người bệnh tiểu đường?
Những người bị bệnh tiểu đường có đáp ứng kém hơn vì có thể bị tổn thương thần kinh và giảm lưu lượng máu tới các thể hang. Tuy bệnh tiểu đường gây nhiều biến chứng, trong đó có rối loạn chức năng cương dương nhưng khi tình trạng yếu sinh lý đã xảy ra thì vẫn có thể điều trị bằng Viagra hay nhiều biện pháp khác.

Bị cắt tuyến tiền liệt có thể dùng Viagra?
Người bị cắt tuyến tiền liệt cũng có thể bị tổn thương thần kinh và không đáp ứng với Viagra.

Có thể dùng Viagra cho nữ?
Viagra làm tăng tính thư giãn của cơ âm vật và âm đạo để máu dồn đến vùng cơ quan sinh dục nhiều hơn. Viagra tỏ ra có tác dụng khi dùng đơn độc hay phối hợp với các chất gây co mạch khác để điều trị rối loạn về hưng phấn ở phụ nữ. Hiện nay đang có những nghiên cứu về lâm sàng để đánh giá tác dụng của thuốc với trạng thái rối loạn hưng phấn tình dục. Cũng đã có những công bố về hiệu quả của thuốc trong điều trị các biến đổi chức năng tình dục ở phụ nữ nói chung và phụ nữ mãn kinh nói riêng.

Phụ nữ trẻ có bị yếu sinh lý như nam giới không?

Phụ nữ trẻ cũng có thể bị yếu sinh lý, nghĩa là có vấn đề liên quan đến lưu lượng máu đi đến cơ quan sinh dục, tương tự như bệnh liệt dương ở nam giới. Khi đó họ sẽ bị giảm bài tiết chất nhờn và phải mất nhiều thời gian hơn mới có cảm giác hưng phấn ở âm đạo, cảm xúc tình dục và khoái cực cũng giảm đi. Kinh nghiệm điều trị ở những phụ nữ đã mãn kinh có tiền sử hút thuốc lá, có bệnh tiểu đường và cholesterol cao cho thấy họ cũng gặp những rối loạn chức năng tình dục như nam giới, có bệnh liên quan đến tuần hoàn máu. Người ta nhận thấy lưu lượng máu đi tới âm vật và âm đạo giảm đi (đo bằng phương pháp siêu âm) ở những phụ nữ yếu sinh lý - điều đó chứng minh nguyên nhân giảm chức năng tình dục ở phụ nữ. Tới nay phương pháp tăng sự tưới máu cho khu vực cơ quan sinh dục nữ vẫn là dùng Viagra, những nghiên cứu bước đầu ở châu Âu đã cho thấy có kết quả tốt.

Phụ nữ tuổi tiền mãn kinh cũng bị “vạ lây” vì Viagra?
Viagra ngày càng được sử dụng nhiều ở các cặp vợ chồng có tuổi. Trong số đó, một số phụ nữ tuổi mãn kinh đã bị một trạng thái bệnh lý lẽ ra chỉ gặp ở những phụ nữ trẻ, đó là bệnh viêm bàng quang “tuần trăng mật” hay nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Phụ nữ dễ bị bệnh lý này hơn nam giới do có niệu đạo ngắn, khi quan hệ tình dục nhiều, vi khuẩn sẽ dễ lây lan lên bàng quang hơn. 

Chuyên đề 4: Tại sao cần bổ sung canxi?
Canxi có nhiều trong sữa.
Xương chiếm tới 99% lượng canxi của cơ thể. Khi chế độ ăn uống hằng ngày không cung cấp đủ, canxi sẽ được chuyển từ xương vào máu để duy trì nồng độ canxi hằng định trong máu. Do đó xương sẽ bị thưa và yếu.
Việc cung cấp canxi suốt đời rất cần thiết nhằm đạt được đỉnh khối lượng xương và duy trì sức khỏe xương. Dưới đây là một số câu hỏi thường gặp về bổ sung canxi.

1. Tại sao cần ăn uống đủ canxi?
Canxi là thành phần khoáng chất chủ yếu của bộ xương. Việc ăn uống đầy đủ canxi sẽ giúp hình thành bộ xương khỏe mạnh lúc trẻ và phòng ngừa bệnh loãng xương khi về già. Đỉnh khối lượng xương sẽ suy giảm nếu chế độ ăn uống thiếu canxi kéo dài. Nhiều bằng chứng khoa học cho thấy, ăn uống thiếu hụt canxi sẽ gây nên tình trạng giảm khối lượng xương, mật độ xương thấp và gia tăng tỷ lệ gãy xương.

2. Bữa ăn thường ngày cung cấp bao nhiêu canxi?
Theo nghiên cứu của Viện dinh dưỡng Việt Nam, lượng canxi từ bữa ăn hằng ngày của người Việt Nam trung bình là 482 mg. Ngay cả ở Mỹ, phần lớn người dân cũng không ăn uống đầy đủ canxi. Ở người trên 65 tuổi, lượng canxi ăn vào chỉ khoảng 600 mg/ngày, trong khi cần bổ sung ít nhất 1.200 mg/ngày, thậm chí lớn hơn trong một số trường hợp cần thiết. Lưu ý rằng không phải cứ ăn bao nhiêu canxi thì cơ thể hấp thu được ngần ấy. Canxi trong thức ăn được hấp thu hoàn toàn.

3. Cơ thể cần bao nhiều canxi mỗi ngày?
Người trưởng thành cần khoảng 1.000 mg canxi mỗi ngày. Trong một số giai đoạn nhất định, cơ thể có nhu cầu nhiều canxi hơn mức bình thường:
- Tuổi thanh thiếu niên, nhất là nữ, cần khoảng 1.200-1.500 mg/ngày.
- Phụ nữ có thai và cho con bú cũng cần 1.200-1.500 mg/ngày để tạo xương cho thai nhi và cung cấp canxi qua sữa mẹ cho bé.
- Phụ nữ mãn kinh cần 1.000-1.500 mg/ngày do buồng trứng ngừng sản xuất oestrogen, làm giảm hấp thu canxi và tăng tình trạng mất xương.
- Người già trên 65 tuổi cần 1.500 mg/ngày vì khả năng hấp thu canxi giảm.

4. Mỗi ngày cần bổ sung bao nhiêu canxi là đủ?
Với khẩu phần ăn thông thường của người Việt Nam , cần bổ sung mỗi ngày khoảng 500-1.000 mg canxi. Việc này bắt buộc nếu cơ thể đang trong giai đoạn cần nhiều canxi.

5. Tại sao nữ thanh thiếu niên lại hay bị thiếu canxi hơn nam cùng tuổi?
Người ta thấy rằng tình trạng thiếu canxi ở nữ thanh thiếu niên nghiêm trọng hơn nam. Một lý do là cô gái ít hoặc không dùng các sản phẩm sữa vì sợ béo, trong khi đây là nguồn cung cấp canxi phong phú. Hơn nữa, giới nữ thường thích uống soda giàu caffeine và chất đường - những yếu tố làm tăng thải trừ canxi qua đường tiểu.

6. Có thể uống vitamin hằng ngày để bổ sung canxi không?
Không thể, vì viên vitamin hằng ngày không chứa đủ lượng canxi cần thiết. Hơn nữa, canxi trong viên vitamin thường ở dạng canxi photphat có độ hấp thu thấp.

7. Có nên uống viên canxi hằng ngày không? Dùng dài ngày có gây sỏi thận?
Khi chế độ dinh dưỡng hằng ngày không cung cấp đủ lượng canxi cần thiết thì hoàn toàn có thể uống viên canxi 500 mg, từ 1 đến 2 lần/ngày để phòng tránh thiếu hụt canxi. Theo báo cáo từ một hội nghị chuyên đề về canxi của Viện Sức khỏe quốc gia Mỹ, liều canxi 2.000 mg/ngày là an toàn đối với người bình thường. Chưa có bằng chứng khoa học cho thấy liều canxi dưới 1.500 mg/ngày ảnh hưởng tới thận. Giới hạn an toàn của tổng lượng canxi đưa vào cơ thể mỗi ngày là 2.500 mg.

8. Xin cho biết hàm lượng canxi trong một số loại viên canxi thông thường?
Hàm lượng canxi nguyên tố có trong mỗi viên thuốc là liều lượng chính của viên thuốc. Liều canxi nguyên tố của một số viên thuốc thông dụng như sau:
- Calci Sandos: 500 mg/viên
- Calci Vita: 200 mg/viên
- Calcino viên nhai: 180 mg/viên
- Ossopan: 129 mg/viên
- Calcium Corbière dung dịch uống: 10 ml (90 mg/ống).
- Calcium Corbière viên sủi: 82 mg/viên

9. Cấm chỉ định uống viên canxi trong trường hợp nào? Không được dùng viên thuốc canxi khi:
- Bị tăng canxi máu
- Tăng canxi nước tiểu nặng
- Có tiền sử hoặc đang bị sỏi canxi (sỏi thận, sỏi mật, sỏi tụy...)
- Bị suy thận nặng.
- Tránh sử dụng vitamin D liều cao khi đang dùng canxi, trừ trường hợp đặc biệt.
Mặc dù riêng canxi không đủ làm nên cả khung xương và ngăn ngừa bệnh loãng xương, song việc cung cấp đầy đủ loại vi chất này cho cơ thể là bước đầu thiết yếu giúp xương vững chắc khỏe. Chế độ ăn uống đầy đủ canxi là quan trọng ở mọi lứa tuổi.
 
Chuyên đề 5: LỢI ÍCH VÀ NGUY CƠ CỦA ASPIRIN TRONG ĐIỀU TRỊ VÀ DỰ PHÒNG CÁC BỆNH TIM MẠCH
Tác giả : DS. BÙI VĂN UY
Những thông tin quá ngắn gọn, đôi khi tản mạn về aspirin trong việc điều trị và dự phòng bệnh tim mạch nhiều lúc đã gây ra sự lẫn lộn, ngộ nhận về vai trò của nó, dẫn đến việc một số người dùng rất tùy tiện. VẬy nên hiểu thế nào cho đúng về cơ chế và tác dụng của aspirin?

CƠ CHẾ CỦA ASPIRIN TRONG VIỆC BẢO TOÀN CÂN BẰNG ĐỘNG HỌC CỦA TIỂU CẦU

Cyclo-oxygenase-1 (COX-1) có trong tiểu cầu. Cyclo-oxygenase-2 (COX-2) có trong tế bào nội mô. Thông qua sự kích hoạt COX1. Thromboxan A2 được tạo ra đóng vai trò tập kết tiểu cầu, làm co mạch. Thông qua sự kích hoạt của COX2, prostacyclin được tạo thành ngăn ngừa sự tập kết tiểu cầu, làm giãn mạch. Sự cân bằng giữa prostacyclin và thromboxan-A2 tạo nên yếu tố điều hòa hằng định nội mô của hệ thống tuần hoàn. Các thuốc ức chế chọn lọc COX2 chỉ ức chế sự tạo thành prostacyclin nhưng lại không ngăn được sự tạo thành thromboxan-A2, nên không ngăn ngừa được sự tập kết tiểu cầu, sự co mạch, do đó không ngăn ngừa được các tai biến về tim mạch. Trong khi đó aspirin vừa ức chế COX2 vừa ức chế COX1 nên có thể vừa hạn chế sự tạo thành prostacyclin vừa hạn chế sự tạo thành thromboxan-A2, đảm bảo được sự bảo toàn cân bằng động học của tiểu cầu, cụ thể là ngăn ngừa sự tạo thành huyết khối, làm giảm các tai biến về tim mạch. Tác dụng này của aspirin đã được Vane nêu ra (vào năm 1997) và sau này được minh chứng thêm bởi Cheng (2002) là cơ sở để người ta dùng nó trong việc điều trị bệnh tim mạch.

VAI TRÒ CỦA ASPIRIN TRONG ĐIỀU TRỊ CÁC BỆNH VỀ TIM MẠCH

Nghiên cứu điều trị cho 17.187 người bị nhồi máu cơ tim cấp, theo 3 cách dùng thuốc khác nhau đã đưa lại các kết quả khác nhau, trong đó cho thấy sự vượt trội của cách dùng aspirin. Nhóm dùng aspirin (với liều mỗi ngày 162,5mg x 30 ngày), kết quả tỷ lệ tử vong giảm 23%, nguy cơ tái nhồi máu cơ tim giảm 50%, không làm gia tăng các biến chứng chảy máu nghiêm trọng; Nhóm dùng streptokinase (với liều 1,5MU truyền tĩnh mạch) có giảm tỷ lệ tử vong khá hơn một chút (25%) nhưng có lẽ do streptokinase hoạt hóa tiểu cầu cảm ứng với plasmin nên làm vượt trội nguy cơ tái nhồi máu cơ tim; Nhóm dùng kết hợp streptokinase và aspirin cho hiệu quả mỹ mãn hơn, giảm 42% tỷ lệ tử vong do nguyên nhân mạch máu (second international study of infact survival; Lancet 1998).

Phân tích 32 thử nghiệm lâm sàng dùng aspirin với vai trò hỗ trợ làm tan huyết khối, người ta cũng nhận thấy aspirin làm giảm đáng kể sự tái tắc nghẽn (25% xuống 11%), đồng thời cũng làm giảm các biến cố thiếu máu tái phát (từ 41% xuống 25%). Trong trường hợp này, việc phối hợp với heparin không có ý nghĩa (không làm giảm rõ tỷ lệ tử vong, giảm tái nhồi máu cơ tim) mà trái lại làm tăng thêm các biến cố xuất huyết (Roux S; J Am Coll Cardiol - 1992).

Aspirin còn phòng ngừa được các tai biến thứ phát sau nhồi máu cơ tim. Nghiên cứu trên 100.000 người, trong đó 70.000 người có nguy cơ cao; Người ta nhận thấy dùng aspirin thì các nguy cơ tử vong, nguy cơ nhồi máu cơ tim không gây tử vong, nguy cơ tử vong do nguyên nhân mạch máu đều cùng giảm 33%, (Antiplatelet trialitis; BMJ - 1994). Tuy nhiên việc phòng ngừa các tai biến thứ phát sau nhồi máu cơ tim lại đòi hỏi kéo dài. Trong trường hợp này, ở một số bệnh nhân xuất hiện hiện tượng kháng aspirin; với liều aspirin điều trị như những người bệnh khác thì thromboxan - A2 vẫn được giải phóng ra nhiều làm tăng nguy cơ tạo ra huyết khối, dẫn đến gia tăng các tai biến tim mạch (Johon Eikelban, Eric Topol 2002).

Khi tái thông mạch vành bằng phẫu thuật sẽ làm chấn thương tại chỗ mạch máu, làm cho lớp dưới nội mạc bị phơi bày ra trong khoang. Đây là cơ hội thuận lợi gây ra huyết khối làm tắc nghẽn cấp hoặc bán cấp mạch máu với tỷ lệ thường gặp là 3,5-8,6%. Dùng aspirin phối hợp với pyridamol làm giảm các biến chứng cấp, nhưng nếu dùng một mình aspirin cũng cho kết quả tương tự. Phối hợp aspirin và warfarin đem lại kết quả cao hơn. Nếu dùng aspirin ngay sau phẫu thuật 6 giờ sẽ làm giảm 50% các tắc nghẽn do mảnh ghép huyết khối và nếu điều trị thêm 1 năm sẽ làm giảm hẳn biến cố này (Schwartz L. 1998).

Đối với bệnh đau thắt ngực không ổn định dùng aspirin, thì cả nguy cơ đột quỵ không tử vong, nhồi máu cơ tim hoặc tử vong do nguyên nhân mạch máu đều giảm 5% (9% so với 4% trước đó). Dùng aspirin (với liều mỗi ngày 75mg) cũng làm giảm 40% các tiến triển đến cơn đau thắt ngực nặng bắt buộc phải thông tim vào tháng thứ 3 và tương tự giảm 29% vào tháng thứ 12 (Research group on instability coronary disease in South East Sweeden = RISC).

Như vậy trong điều trị, aspirin thực sự có hiệu quả đối với trường hợp nhồi máu cơ tim cấp trong việc ngăn ngừa các biến cố thứ phát sau nhồi máu cơ tim, làm giảm tái tắc nghẽn sau phẫu thuật thông mạch vành, giảm sự tiến triển nặng hơn cơn đau thắt ngực không ổn định cùng các biến cố do bệnh này gây ra.
TÁC DỤNG HẠN CHẾ CỦA ASPIRIN TRONG VIỆC DỰ PHÒNG

Nghiên cứu 22.071 người 40-84 tuổi “có nguy cơ bệnh tim mạch thấp” sau 5 năm dùng aspirin (325mg, dùng cách ngày) có làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim từ 0,44% xuống 0,26%, nhưng không làm giảm tỷ lệ tử vong do tim mạch, trong khi đó lại làm tăng không đáng kể xuất huyết não và làm tăng đáng kể xuất huyết đường tiêu hóa. Nếu so sánh giữa lợi ích và nguy cơ thì trong trường hợp này dùng aspirin là có hại (Physicans Health Study, N Engl J Med - 1989).

Nghiên cứu trên những người có nguy cơ bị bệnh tim mạch cao; dùng aspirin sau 5 năm cũng không thấy ảnh hưởng gì đến tỷ lệ tử vong nhưng có làm giảm 32% biến cố không tử vong, do đó dẫn đến làm giảm 20% biến cố thiếu máu cơ tim. Dùng warfarin cũng cho kết quả tương tự. Khi phối hợp aspirin với warfarin sẽ làm giảm được tối đa các biến cố thiếu máu cơ tim nhưng lại làm tăng đột quỵ tử vong và xuất huyết. Trong trường hợp này, nếu so sánh giữa lợi ích và nguy cơ thì lợi ích có cao hơn, nhưng không phải là tuyệt đối (British Physicans study; BMJ - 1988).

Đối với cơn đau thắt ngực ổn định, aspirin làm giảm 87% nguy cơ nhồi máu cơ tim (Ridker; Physicans Health Study - 1991). Tương tự đối với cơn đau thắt ngực không ổn định, tỷ lệ giảm này là 34% (Swedish Angina Pectoris Aspirin Trial; Juul Muller 1992).

Như vậy trong dự phòng, aspirin có mang lại một số kết quả hạn chế trong những trường hợp nhất định, kèm theo việc gia tăng một vài biến cố có hại, vì vậy việc dùng aspirin cần được cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ một cách cẩn thận.

Ngày nay cũng đã có nhiều thuốc chống huyết khối tốt khác để dự phòng các biến cố thứ phát sau tai biến nhồi máu cơ tim như clopidogrel. Thuốc này chống lại sự hình thành huyết khối bằng cách chống lại sự kết dính tiểu cầu. Dùng clopidogrel (với liều 75mg/ngày) sẽ làm giảm tử vong, giảm nhồi máu cơ tim và đột quỵ do thiếu máu cục bộ tốt hơn dùng aspirin (với liều 325mg/ngày). Độ an toàn của hai thuốc không có sự khác biệt (Clopidogrel versus Aspirin in patients at Risk of Ischemic Events = CARIE). Đối với người bệnh đau thắt ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim thì việc dùng aspirin kết hợp với clopidogrel cũng cho kết quả giảm biến cố tim mạch hơn là dùng aspirin đơn thuần (Clopidogrel in Unstable Angina to prevent Recurrent Events = CURE). Tuy nhiên một khảo cứu khác lại cho thấy rằng việc dùng aspirin đơn thuần sẽ giúp chi phí giảm hơn nhiều. Nhất là khi bệnh tim mạch đang khá phổ biến trong cộng đồng thì đây chính là điều hấp dẫn và có nhiều lợi thế. Người ta khuyên chỉ nên dùng clopidogrel khi người bệnh có chống chỉ định với aspirin (N Engl J Med - 2002).

Như vậy việc cân nhắc dùng aspirin còn dựa vào cả yếu tố giá thành.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA ASPIRIN VÀ CÁCH HẠN CHẾ

Aspirin ức chế COX-1 ngăn ngừa việc giải phóng TXA2 nên có tác dụng chống huyết khối. Song chính vì ức chế COX-1 mà nó làm mất đi tác dụng bảo vệ niêm mạc dạ dày của PGE-2. Misprotol là một đồng đẳng của PGE-2 có tác dụng bảo vệ niêm mạc dạ dày tương tự như PGE-2. Nếu phối hợp aspirin và misprotol thì sẽ tận dụng được khả năng chống huyết khối mà vẫn giảm được sự độc hại đối với dạ dày.

Một cách hạn chế tác hại nữa là tạo ra viên aspirin bao tan trong đường ruột. Khi dùng viên bao tan trong ruột thì nó không kích ứng trực tiếp lên niêm mạc dạ dày nên có phần ít gây hại cho niêm mạc dạ dày hơn.

Việc tạo ra viên bao tan trong ruột không làm mất đặc tính cố hữu của nó là ức chế COX-1 nên nó không làm giảm đi biến cố xuất huyết đường tiêu hóa. Biến cố này ở viên bao tan trong ruột và viên thường không có sự khác nhau đáng kể.

Vì viên bao tan trong ruột có tác dụng chậm trong khi việc điều trị các bệnh về tim mạch có trường hợp đòi hỏi phải đạt tác dụng nhanh, cho nên xét về mặt sinh khả dụng trong trường hợp cụ thể này thì sinh khả dụng của viên bao tan trong ruột kém hơn của viên bao thường. Do đó nếu dùng dạng viên bao tan trong ruột, để có đủ lượng aspirin cần thiết ức chế sự tạo thành huyết khối thì phải tăng liều.

Liều lượng của aspirin thay đổi tùy từng trường hợp cụ thể (tùy theo bệnh, độ nặng và dùng đơn độc hay kết hợp). Trường hợp dùng sớm và lâu dài cho người bị nhồi máu cơ tim cấp được khuyến cáo là 300mg cho ngày đầu và 50-81mg cho những ngày tiếp theo, hoặc 162mg không đổi cho mỗi ngày.

Với người hen suyễn, aspirin làm tăng co thắt phế quản và làm cho bệnh trầm trọng thêm. Trường hợp này nên chọn một loại thuốc khác.

Trong điều trị bệnh tim mạch, aspirin được dùng trong một thời gian dài. Cần tìm cách để hạn chế tác hại, đồng thời cần chọn một liều lượng thích hợp tùy theo dạng bào chế. Bằng cách này sẽ làm cho việc dùng nó hữu ích và an toàn.
LỜI KẾT

Aspirin có hiệu quả cao trong điều trị nhưng lại có tác dụng hạn chế trong dự phòng các bệnh tim mạch tiên phát. Bên cạnh đó, aspirin còn có những tác dụng không mong muốn. Chẩn đoán lượng giá đúng nguy cơ để đề ra một chiến lược dùng thuốc thích hợp cho từng bệnh nhân là một việc khó đòi hỏi phải có sự cân nhắc quyết định của thầy thuốc chuyên khoa. Việc dựa vào một vài thông tin tản mạn hoặc tham khảo ý kiến chưa hoàn hảo của thầy thuốc không chuyên khoa rồi tự ý dùng aspirin dự phòng các bệnh về tim mạch là không nên, vì không những không mang lại lợi ích mà có thể gây tai biến.
Chú thích ảnh:
- Aspirin có vai trò rất quan trọng trong điều trị bệnh tim mạch.
- Aspirin có thể làm tan huyết khối trong lòng mạch máu.
   Chúc các bạn luôn vui-khỏe...NDD
( Truong Kim Anh chuyển )

Bàn ra tán vào (0)

Comment




  • Input symbols

SỨC KHỎE GIỮA TUẦN: Mời các bạn xem vài chuyên đề về sức khỏe

BS Hưng cho biết, hiện nay, ăn chay đang ngày càng được quan tâm như một cách sống, một cách ăn uống để bảo vệ sức khỏe. Theo một nghiên cứu, trong 10 năm qua,


 
Chuyên đề 1: Ăn chay ngày càng được quan tâm
BS Nguyễn Thị Kim Hưng - Ảnh: K.CH
 Đó là nhận xét của bác sĩ Nguyễn Thị Kim Hưng, Giám đốc Trung tâm Dinh dưỡng TP.HCM tại lễ khởi động tháng ăn chay (từ ngày 13-8 đến ngày 14-9) do công ty Saigontourist thực hiện.

BS Hưng cho biết, hiện nay, ăn chay đang ngày càng được quan tâm như một cách sống, một cách ăn uống để bảo vệ sức khỏe. Theo một nghiên cứu, trong 10 năm qua, số người ăn chay ở Anh quốc tăng gấp đôi, một phần tư thanh niên nước này đã không còn ăn thịt. năm 1994, số người ăn chay ở Hoa Kỳ tăng khoảng 12 triệu người và mỗi năm tăng thêm 1 triệu người.
Theo bác sĩ, có nhiều lý do dẫn đến việc ăn chay. Lý do đầu tiên là tín ngưỡng, nhưng càng về sau, những lý do sức khỏe, nhân văn, bảo vệ môi trường, kinh tế và đạo đức đã làm cho người ta thích ăn chay hơn ăn mặn.

Tuy nhiên, vấn đề là khái niệm "ăn chay" được hiểu rất khác nhau. BS Hưng đưa ra 5 kiểu ăn chay phổ biến nhất thế giới:
- Vegan diet: Ăn chay tuyệt đối, loại trừ tất cả thức ăn có nguồn gốc động vật. Trong hình thức này còn có kiểu ăn uống nghiêm ngặt hơn là chỉ dùng trái cây và các loại hạt.
- Lacto - vegetarian: Thực phẩm thực vật kết hợp với sữa động vật.
- Lacto - ovo - vegetarian: Ngoài sữa động vật, người ăn còn được dùng thêm các loại trứng.
- Lacto - ovo - pisto - vegetarian: Thêm vào danh sách thức ăn các loại cá.
- Semi - vegetarian: Không ăn thịt có màu đỏ, vẫn ăn cá, trứng, sản phẩm từ sữa và thịt gia cầm.

Về khía cạnh dinh dưỡng học, BS Hưng đưa ra những yếu tố rất có lợi do việc ăn chay mang lại, đặc biệt là giảm nguy cơ một số bệnh mãn tính như béo phì, tiểu đường type II, cao huyết áp, bệnh mạch vành, một số bệnh ung thư, sỏi mật, táo bón, sa sút trí tuệ, loãng xương...

Trừ cách ăn chay tuyệt đối (dạng 1), các cách ăn chay khác đều có thể cung cấp đủ nhu cầu năng lượng và các chất dinh dưỡng thiết yếu nếu được tổ chức tốt. Loại ăn chay có trứng, sữa không khác chế độ ăn mặn.

Dù vậy, nếu ăn chay không đúng cách có thể dẫn đến việc thiếu sắt, vitamin B12 ở các nhu cầu cao trẻ em, phụ nữ mang thai và cho con bú, người bệnh... Có thể còn thêm nguy cơ thiếu năng lượng, protein, canxi... Cần lưu ý khi phối hợp đủ lượng thực phẩm và sử dụng các thực phẩm bổ sung vi chất.

Nhưng dù ăn chay hay ăn mặn, BS Hưng nhấn mạnh, cần đảm bảo cung cấp đủ chất dinh dưỡng và tăng cường cho sức khỏe. Có thể dựa trên ba nguyên tắc chính: Ăn đa dạng, ăn chừng mực, ăn thực phẩm gắn với thiên nhiên.
Chuyên đề 2: Những thuốc dễ gây dị tật bẩm sinh

Sứt môi ở trẻ có thể do mẹ dùng thuốc khi mang thai.
Những phụ nữ mang thai nếu dùng vitamin A liều cao thì đứa bé sinh ra có thể bị dị dạng mặt, sọ, tim và cơ quan sinh dục. Nếu dùng quá nhiều vitamin D, trẻ sinh ra có thể bị cao huyết áp, chậm phát triển tâm thần.

Từ lâu, đã có bằng chứng cho thấy thai phụ khi dùng một số thuốc có thể bị sẩy thai, thai chết lưu hoặc dị tật bẩm sinh. Theo nghiên cứu dịch tễ, gần 2% ca dị tật bẩm sinh là do các thuốc đã được bà mẹ sử dụng trong lúc mang thai. Các bác sĩ đã ghi nhận hơn 8.000 trẻ sơ sinh có tay cụt bẩm sinh mà nguyên nhân là mẹ dùng thuốc an thần Thalidomide.

Từ phát hiện trên, các nhà y học đã quan tâm hơn đến tính an toàn của thuốc khi sử dụng cho thai phụ, đặc biệt là về khả năng gây quái thai. Gần 2.000 loại thuốc đã được thử nghiệm trên súc vật, trong đó có 580 loại gây quái thai và 150 loại bị nghi vấn. Tuy nhiên, cần lưu ý là có những loại thuốc gây quái thai cho súc vật nhưng có thể không gây quái thai cho người và ngược lại.

Các thuốc cần cẩn trọng khi dùng cho thai phụ gồm:

Các vitamin: Vitamin B6 nếu dùng kéo dài sẽ gây co giật. Vitamin C liều cao có thể gây dị tật; còn vitamin E nếu bị lạm dụng sẽ khiến trẻ bị tiêu chảy.

Thuốc tiêu hóa: Thuốc Cimetidine gây vàng da ở trẻ sơ sinh.

Corticoid: Gây ức chế vỏ thượng thận, hở môi và khe vòm miệng nếu được dùng kéo dài trong thai kỳ.

Thuốc hô hấp: Salbutamol và Ephedrin làm tim thai nhanh. Aminophyllin làm nhịp tim nhanh, tăng đường huyết.

Thuốc chống ung thư: Methotrexate, Mercaptopurin gây thai chết lưu, dị tật bẩm sinh, não úng thủy, thai vô sọ, sứt môi, dị dạng chi. Cyclophosphamide gây dị dạng chi, tai, sinh non.

Thuốc kháng viêm không steroid: Làm co thắt ống động mạch, viêm ruột hoại tử.

Kháng sinh: Penicillin liều cao có thể làm thai chết lưul; Tetracyclin khiến răng trẻ bị vàng, da vàng, dị hình ở chi. Bactrim tăng nguy cơ vàng da ở trẻ sinh non. Metronidazole ảnh hưởng đến nhiễm sắc thể của thai và gây dị tật bẩm sinh. Tóm lại, hầu hết các loại kháng sinh đều có thể gây tổn thương chot thai.

Thuốc kháng giáp: Methimazole, Carbimazole gây dị dạng ở mặt, hẹp lỗ mũi và thực quản, chậm phát triển trí tuệ.

Thuốc chống động kinh: Carbamazepin, Valproate Natri gây dị dạng ở mặt, nứt đốt sống, lệch lỗ tiểu, dị dạng tim, kẽ hở vùng bụng, chậm nói, cận thị. Trimethadione, Hydantoine gây dị dạng ở hệ thần kinh trung ương, mũi kém phát triển.

Thuốc hạ đường huyết: Hàm lượng glucose huyết thấp ở trẻ sơ sinh.

Thuốc ổn định tâm thần: Lithium gây nguy cơ bệnh tim cho trẻ, rối loạn chức năng tiêu hóa, đái tháo nhạt.

Thuốc an thần: Gây rối loạn chức năng gan, dễ xuất huyết, chậm phát triển tâm thần, dị tật tim bẩm sinh, sinh ngạt, vàng da, bú kém, dị dạng nội tạng, các chi ngắn.

Thuốc huyết học: Gây dị dạng ở bộ xương, đầu nhỏ, thoái hóa thần kinh thị giác, tâm thần phát triển chậm, thai lưu và xuất huyết ở trẻ sơ sinh.

Thuốc giảm đau: Methadone gây suy hô hấp khi sinh. Aspirin gây chảy máu ở trẻ sơ sinh. Na Salicylat có thể làm thai chết lưu. Indomethacin làm suy giảm chức năng thận.
Thuốc tim mạch: Methyldopa làm trẻ sơ sinh có vòng đầu nhỏ. Propanolol gây chậm nhịp tim thai, hạ đường huyết. Reserpin làm trẻ lừ đừ, bú yếu, hạ thân nhiệt.

Chuyên đề 3: VÀI ĐIỀU NÓI THÊM VỀ VIAGRA
Tác giả : BS. ĐÀO XUÂN DŨNG
Được sử dụng từ tháng 3/1998, sildenafil citrate (Viagra) đã nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của hơn 7 triệu nam giới yếu sinh lý và bạn tình của họ; Và được xem như một loại “thần dược” giúp cho nhiều nam giới có tuổi kéo dài đời sống tình dục. Tuy nhiên Viagra không phải là thuốc có hiệu quả 100% cho những người yếu sinh lý, mà khi dùng phải được thầy thuốc chỉ định và theo dõi vì có thể gây ra những tác dụng phụ nghiêm trọng.

Viagra có phải là thuốc kích dục?

Đây là sự hiểu lầm thường gặp nhất. Thuốc làm tăng sự cương cứng nhưng không ảnh hưởng đến dục năng hay ham muốn tình dục ở người bình thường, nghĩa là không có tác dụng kích dục. Nếu nam giới có thể duy trì được sự cương cứng lâu thì dù có uống Viagra cũng không thấy tác dụng gì hơn. Còn với những nam giới tự nhận là không có vấn đề gì trong sinh hoạt tình dục, thậm chí còn nói có thể thực hành vài ba lần mỗi tuần nhưng trong thực tế chỉ cương cứng được 50%, nghĩa là chỉ có thể duy trì tình trạng cương cứng khoảng 2-3 phút thì Viagra thực sự có tác dụng.

Điều kiện để sử dụng Viagra

Tùy thuộc thời gian và tình trạng kích thích của người sử dụng. Viagra chỉ tác dụng trong vòng 30 phút và có thể kéo dài 4 giờ. Người sử dụng cần trong tình trạng tâm lý và thể chất đã được kích thích; Nếu là người “lạnh băng”, không quan tâm đến tình dục thì dù uống Viagra cũng không có tác dụng.

Cơ chế tác dụng của Viagra
Viagra có hiệu quả cho những trường hợp yếu sinh lý vì lý do thực thể, tâm lý hay phối hợp. Cơ chế làm tăng sự cương cứng là do thuốc điều hòa sự vận mạch ở dương vật, ức chế men phosphodiesteraza 5 (PDE 5) chủ yếu thấy ở dương vật, do đó làm chất GMP (tiết ra trong lúc hứng khởi tình dục) tồn tại lâu, giúp máu tới dương vật nhiều hơn. Hiệu quả của Viagra đạt tới 80%.

Những ai nên sử dụng Viagra?
Viagra có hiệu quả cho mọi thể yếu sinh lý. Những người bị tổn thương cột sống (ống tủy) hoặc yếu sinh lý do nguyên nhân tâm lý có đáp ứng tốt nhất với Viagra. Nam giới tuổi ngoài 65 cũng có đáp ứng tốt như thanh niên.

Liều lượng bao nhiêu là đủ?
Nên bắt đầu từ 50mg, nếu có tác dụng thì thử với 25mg. Nếu 50mg không có tác dụng thì thử với 100mg (1 viên). Viagra có thể cho tác dụng trong một ngày, không có tác dụng cho ngày hôm sau và không nên dùng 2 viên trong cùng một ngày. Ở Mỹ, nhiều công ty bảo hiểm không thanh toán cho việc dùng Viagra, một số công ty khác có thanh toán nhưng chỉ giới hạn từ 6-8 viên mỗi tháng.

Tác dụng phụ của Viagra

Thường gặp nhất là nhức đầu, nóng bừng mặt hay khó tiêu. Mờ mắt cũng là tác dụng phụ hay gặp.

Có thể dùng Viagra cho người bi bệnh tim?
Không được dùng Viagra cho người bị bệnh tim và đang dùng thuốc có nitrate, vì có thể gây giảm lưu lượng máu kéo dài và nghiêm trọng ở các động mạch vành vốn đã hẹp nhiều. Người bị huyết áp cao hay thấp, bị viêm võng mạc sắc thì cần hỏi ý kiến thầy thuốc trước khi dùng Viarga. Tác dụng của Viagra trên những bệnh này chưa được nghiên cứu đầy đủ.

Có thể dùng Viagra cho người bệnh tiểu đường?
Những người bị bệnh tiểu đường có đáp ứng kém hơn vì có thể bị tổn thương thần kinh và giảm lưu lượng máu tới các thể hang. Tuy bệnh tiểu đường gây nhiều biến chứng, trong đó có rối loạn chức năng cương dương nhưng khi tình trạng yếu sinh lý đã xảy ra thì vẫn có thể điều trị bằng Viagra hay nhiều biện pháp khác.

Bị cắt tuyến tiền liệt có thể dùng Viagra?
Người bị cắt tuyến tiền liệt cũng có thể bị tổn thương thần kinh và không đáp ứng với Viagra.

Có thể dùng Viagra cho nữ?
Viagra làm tăng tính thư giãn của cơ âm vật và âm đạo để máu dồn đến vùng cơ quan sinh dục nhiều hơn. Viagra tỏ ra có tác dụng khi dùng đơn độc hay phối hợp với các chất gây co mạch khác để điều trị rối loạn về hưng phấn ở phụ nữ. Hiện nay đang có những nghiên cứu về lâm sàng để đánh giá tác dụng của thuốc với trạng thái rối loạn hưng phấn tình dục. Cũng đã có những công bố về hiệu quả của thuốc trong điều trị các biến đổi chức năng tình dục ở phụ nữ nói chung và phụ nữ mãn kinh nói riêng.

Phụ nữ trẻ có bị yếu sinh lý như nam giới không?

Phụ nữ trẻ cũng có thể bị yếu sinh lý, nghĩa là có vấn đề liên quan đến lưu lượng máu đi đến cơ quan sinh dục, tương tự như bệnh liệt dương ở nam giới. Khi đó họ sẽ bị giảm bài tiết chất nhờn và phải mất nhiều thời gian hơn mới có cảm giác hưng phấn ở âm đạo, cảm xúc tình dục và khoái cực cũng giảm đi. Kinh nghiệm điều trị ở những phụ nữ đã mãn kinh có tiền sử hút thuốc lá, có bệnh tiểu đường và cholesterol cao cho thấy họ cũng gặp những rối loạn chức năng tình dục như nam giới, có bệnh liên quan đến tuần hoàn máu. Người ta nhận thấy lưu lượng máu đi tới âm vật và âm đạo giảm đi (đo bằng phương pháp siêu âm) ở những phụ nữ yếu sinh lý - điều đó chứng minh nguyên nhân giảm chức năng tình dục ở phụ nữ. Tới nay phương pháp tăng sự tưới máu cho khu vực cơ quan sinh dục nữ vẫn là dùng Viagra, những nghiên cứu bước đầu ở châu Âu đã cho thấy có kết quả tốt.

Phụ nữ tuổi tiền mãn kinh cũng bị “vạ lây” vì Viagra?
Viagra ngày càng được sử dụng nhiều ở các cặp vợ chồng có tuổi. Trong số đó, một số phụ nữ tuổi mãn kinh đã bị một trạng thái bệnh lý lẽ ra chỉ gặp ở những phụ nữ trẻ, đó là bệnh viêm bàng quang “tuần trăng mật” hay nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Phụ nữ dễ bị bệnh lý này hơn nam giới do có niệu đạo ngắn, khi quan hệ tình dục nhiều, vi khuẩn sẽ dễ lây lan lên bàng quang hơn. 

Chuyên đề 4: Tại sao cần bổ sung canxi?
Canxi có nhiều trong sữa.
Xương chiếm tới 99% lượng canxi của cơ thể. Khi chế độ ăn uống hằng ngày không cung cấp đủ, canxi sẽ được chuyển từ xương vào máu để duy trì nồng độ canxi hằng định trong máu. Do đó xương sẽ bị thưa và yếu.
Việc cung cấp canxi suốt đời rất cần thiết nhằm đạt được đỉnh khối lượng xương và duy trì sức khỏe xương. Dưới đây là một số câu hỏi thường gặp về bổ sung canxi.

1. Tại sao cần ăn uống đủ canxi?
Canxi là thành phần khoáng chất chủ yếu của bộ xương. Việc ăn uống đầy đủ canxi sẽ giúp hình thành bộ xương khỏe mạnh lúc trẻ và phòng ngừa bệnh loãng xương khi về già. Đỉnh khối lượng xương sẽ suy giảm nếu chế độ ăn uống thiếu canxi kéo dài. Nhiều bằng chứng khoa học cho thấy, ăn uống thiếu hụt canxi sẽ gây nên tình trạng giảm khối lượng xương, mật độ xương thấp và gia tăng tỷ lệ gãy xương.

2. Bữa ăn thường ngày cung cấp bao nhiêu canxi?
Theo nghiên cứu của Viện dinh dưỡng Việt Nam, lượng canxi từ bữa ăn hằng ngày của người Việt Nam trung bình là 482 mg. Ngay cả ở Mỹ, phần lớn người dân cũng không ăn uống đầy đủ canxi. Ở người trên 65 tuổi, lượng canxi ăn vào chỉ khoảng 600 mg/ngày, trong khi cần bổ sung ít nhất 1.200 mg/ngày, thậm chí lớn hơn trong một số trường hợp cần thiết. Lưu ý rằng không phải cứ ăn bao nhiêu canxi thì cơ thể hấp thu được ngần ấy. Canxi trong thức ăn được hấp thu hoàn toàn.

3. Cơ thể cần bao nhiều canxi mỗi ngày?
Người trưởng thành cần khoảng 1.000 mg canxi mỗi ngày. Trong một số giai đoạn nhất định, cơ thể có nhu cầu nhiều canxi hơn mức bình thường:
- Tuổi thanh thiếu niên, nhất là nữ, cần khoảng 1.200-1.500 mg/ngày.
- Phụ nữ có thai và cho con bú cũng cần 1.200-1.500 mg/ngày để tạo xương cho thai nhi và cung cấp canxi qua sữa mẹ cho bé.
- Phụ nữ mãn kinh cần 1.000-1.500 mg/ngày do buồng trứng ngừng sản xuất oestrogen, làm giảm hấp thu canxi và tăng tình trạng mất xương.
- Người già trên 65 tuổi cần 1.500 mg/ngày vì khả năng hấp thu canxi giảm.

4. Mỗi ngày cần bổ sung bao nhiêu canxi là đủ?
Với khẩu phần ăn thông thường của người Việt Nam , cần bổ sung mỗi ngày khoảng 500-1.000 mg canxi. Việc này bắt buộc nếu cơ thể đang trong giai đoạn cần nhiều canxi.

5. Tại sao nữ thanh thiếu niên lại hay bị thiếu canxi hơn nam cùng tuổi?
Người ta thấy rằng tình trạng thiếu canxi ở nữ thanh thiếu niên nghiêm trọng hơn nam. Một lý do là cô gái ít hoặc không dùng các sản phẩm sữa vì sợ béo, trong khi đây là nguồn cung cấp canxi phong phú. Hơn nữa, giới nữ thường thích uống soda giàu caffeine và chất đường - những yếu tố làm tăng thải trừ canxi qua đường tiểu.

6. Có thể uống vitamin hằng ngày để bổ sung canxi không?
Không thể, vì viên vitamin hằng ngày không chứa đủ lượng canxi cần thiết. Hơn nữa, canxi trong viên vitamin thường ở dạng canxi photphat có độ hấp thu thấp.

7. Có nên uống viên canxi hằng ngày không? Dùng dài ngày có gây sỏi thận?
Khi chế độ dinh dưỡng hằng ngày không cung cấp đủ lượng canxi cần thiết thì hoàn toàn có thể uống viên canxi 500 mg, từ 1 đến 2 lần/ngày để phòng tránh thiếu hụt canxi. Theo báo cáo từ một hội nghị chuyên đề về canxi của Viện Sức khỏe quốc gia Mỹ, liều canxi 2.000 mg/ngày là an toàn đối với người bình thường. Chưa có bằng chứng khoa học cho thấy liều canxi dưới 1.500 mg/ngày ảnh hưởng tới thận. Giới hạn an toàn của tổng lượng canxi đưa vào cơ thể mỗi ngày là 2.500 mg.

8. Xin cho biết hàm lượng canxi trong một số loại viên canxi thông thường?
Hàm lượng canxi nguyên tố có trong mỗi viên thuốc là liều lượng chính của viên thuốc. Liều canxi nguyên tố của một số viên thuốc thông dụng như sau:
- Calci Sandos: 500 mg/viên
- Calci Vita: 200 mg/viên
- Calcino viên nhai: 180 mg/viên
- Ossopan: 129 mg/viên
- Calcium Corbière dung dịch uống: 10 ml (90 mg/ống).
- Calcium Corbière viên sủi: 82 mg/viên

9. Cấm chỉ định uống viên canxi trong trường hợp nào? Không được dùng viên thuốc canxi khi:
- Bị tăng canxi máu
- Tăng canxi nước tiểu nặng
- Có tiền sử hoặc đang bị sỏi canxi (sỏi thận, sỏi mật, sỏi tụy...)
- Bị suy thận nặng.
- Tránh sử dụng vitamin D liều cao khi đang dùng canxi, trừ trường hợp đặc biệt.
Mặc dù riêng canxi không đủ làm nên cả khung xương và ngăn ngừa bệnh loãng xương, song việc cung cấp đầy đủ loại vi chất này cho cơ thể là bước đầu thiết yếu giúp xương vững chắc khỏe. Chế độ ăn uống đầy đủ canxi là quan trọng ở mọi lứa tuổi.
 
Chuyên đề 5: LỢI ÍCH VÀ NGUY CƠ CỦA ASPIRIN TRONG ĐIỀU TRỊ VÀ DỰ PHÒNG CÁC BỆNH TIM MẠCH
Tác giả : DS. BÙI VĂN UY
Những thông tin quá ngắn gọn, đôi khi tản mạn về aspirin trong việc điều trị và dự phòng bệnh tim mạch nhiều lúc đã gây ra sự lẫn lộn, ngộ nhận về vai trò của nó, dẫn đến việc một số người dùng rất tùy tiện. VẬy nên hiểu thế nào cho đúng về cơ chế và tác dụng của aspirin?

CƠ CHẾ CỦA ASPIRIN TRONG VIỆC BẢO TOÀN CÂN BẰNG ĐỘNG HỌC CỦA TIỂU CẦU

Cyclo-oxygenase-1 (COX-1) có trong tiểu cầu. Cyclo-oxygenase-2 (COX-2) có trong tế bào nội mô. Thông qua sự kích hoạt COX1. Thromboxan A2 được tạo ra đóng vai trò tập kết tiểu cầu, làm co mạch. Thông qua sự kích hoạt của COX2, prostacyclin được tạo thành ngăn ngừa sự tập kết tiểu cầu, làm giãn mạch. Sự cân bằng giữa prostacyclin và thromboxan-A2 tạo nên yếu tố điều hòa hằng định nội mô của hệ thống tuần hoàn. Các thuốc ức chế chọn lọc COX2 chỉ ức chế sự tạo thành prostacyclin nhưng lại không ngăn được sự tạo thành thromboxan-A2, nên không ngăn ngừa được sự tập kết tiểu cầu, sự co mạch, do đó không ngăn ngừa được các tai biến về tim mạch. Trong khi đó aspirin vừa ức chế COX2 vừa ức chế COX1 nên có thể vừa hạn chế sự tạo thành prostacyclin vừa hạn chế sự tạo thành thromboxan-A2, đảm bảo được sự bảo toàn cân bằng động học của tiểu cầu, cụ thể là ngăn ngừa sự tạo thành huyết khối, làm giảm các tai biến về tim mạch. Tác dụng này của aspirin đã được Vane nêu ra (vào năm 1997) và sau này được minh chứng thêm bởi Cheng (2002) là cơ sở để người ta dùng nó trong việc điều trị bệnh tim mạch.

VAI TRÒ CỦA ASPIRIN TRONG ĐIỀU TRỊ CÁC BỆNH VỀ TIM MẠCH

Nghiên cứu điều trị cho 17.187 người bị nhồi máu cơ tim cấp, theo 3 cách dùng thuốc khác nhau đã đưa lại các kết quả khác nhau, trong đó cho thấy sự vượt trội của cách dùng aspirin. Nhóm dùng aspirin (với liều mỗi ngày 162,5mg x 30 ngày), kết quả tỷ lệ tử vong giảm 23%, nguy cơ tái nhồi máu cơ tim giảm 50%, không làm gia tăng các biến chứng chảy máu nghiêm trọng; Nhóm dùng streptokinase (với liều 1,5MU truyền tĩnh mạch) có giảm tỷ lệ tử vong khá hơn một chút (25%) nhưng có lẽ do streptokinase hoạt hóa tiểu cầu cảm ứng với plasmin nên làm vượt trội nguy cơ tái nhồi máu cơ tim; Nhóm dùng kết hợp streptokinase và aspirin cho hiệu quả mỹ mãn hơn, giảm 42% tỷ lệ tử vong do nguyên nhân mạch máu (second international study of infact survival; Lancet 1998).

Phân tích 32 thử nghiệm lâm sàng dùng aspirin với vai trò hỗ trợ làm tan huyết khối, người ta cũng nhận thấy aspirin làm giảm đáng kể sự tái tắc nghẽn (25% xuống 11%), đồng thời cũng làm giảm các biến cố thiếu máu tái phát (từ 41% xuống 25%). Trong trường hợp này, việc phối hợp với heparin không có ý nghĩa (không làm giảm rõ tỷ lệ tử vong, giảm tái nhồi máu cơ tim) mà trái lại làm tăng thêm các biến cố xuất huyết (Roux S; J Am Coll Cardiol - 1992).

Aspirin còn phòng ngừa được các tai biến thứ phát sau nhồi máu cơ tim. Nghiên cứu trên 100.000 người, trong đó 70.000 người có nguy cơ cao; Người ta nhận thấy dùng aspirin thì các nguy cơ tử vong, nguy cơ nhồi máu cơ tim không gây tử vong, nguy cơ tử vong do nguyên nhân mạch máu đều cùng giảm 33%, (Antiplatelet trialitis; BMJ - 1994). Tuy nhiên việc phòng ngừa các tai biến thứ phát sau nhồi máu cơ tim lại đòi hỏi kéo dài. Trong trường hợp này, ở một số bệnh nhân xuất hiện hiện tượng kháng aspirin; với liều aspirin điều trị như những người bệnh khác thì thromboxan - A2 vẫn được giải phóng ra nhiều làm tăng nguy cơ tạo ra huyết khối, dẫn đến gia tăng các tai biến tim mạch (Johon Eikelban, Eric Topol 2002).

Khi tái thông mạch vành bằng phẫu thuật sẽ làm chấn thương tại chỗ mạch máu, làm cho lớp dưới nội mạc bị phơi bày ra trong khoang. Đây là cơ hội thuận lợi gây ra huyết khối làm tắc nghẽn cấp hoặc bán cấp mạch máu với tỷ lệ thường gặp là 3,5-8,6%. Dùng aspirin phối hợp với pyridamol làm giảm các biến chứng cấp, nhưng nếu dùng một mình aspirin cũng cho kết quả tương tự. Phối hợp aspirin và warfarin đem lại kết quả cao hơn. Nếu dùng aspirin ngay sau phẫu thuật 6 giờ sẽ làm giảm 50% các tắc nghẽn do mảnh ghép huyết khối và nếu điều trị thêm 1 năm sẽ làm giảm hẳn biến cố này (Schwartz L. 1998).

Đối với bệnh đau thắt ngực không ổn định dùng aspirin, thì cả nguy cơ đột quỵ không tử vong, nhồi máu cơ tim hoặc tử vong do nguyên nhân mạch máu đều giảm 5% (9% so với 4% trước đó). Dùng aspirin (với liều mỗi ngày 75mg) cũng làm giảm 40% các tiến triển đến cơn đau thắt ngực nặng bắt buộc phải thông tim vào tháng thứ 3 và tương tự giảm 29% vào tháng thứ 12 (Research group on instability coronary disease in South East Sweeden = RISC).

Như vậy trong điều trị, aspirin thực sự có hiệu quả đối với trường hợp nhồi máu cơ tim cấp trong việc ngăn ngừa các biến cố thứ phát sau nhồi máu cơ tim, làm giảm tái tắc nghẽn sau phẫu thuật thông mạch vành, giảm sự tiến triển nặng hơn cơn đau thắt ngực không ổn định cùng các biến cố do bệnh này gây ra.
TÁC DỤNG HẠN CHẾ CỦA ASPIRIN TRONG VIỆC DỰ PHÒNG

Nghiên cứu 22.071 người 40-84 tuổi “có nguy cơ bệnh tim mạch thấp” sau 5 năm dùng aspirin (325mg, dùng cách ngày) có làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim từ 0,44% xuống 0,26%, nhưng không làm giảm tỷ lệ tử vong do tim mạch, trong khi đó lại làm tăng không đáng kể xuất huyết não và làm tăng đáng kể xuất huyết đường tiêu hóa. Nếu so sánh giữa lợi ích và nguy cơ thì trong trường hợp này dùng aspirin là có hại (Physicans Health Study, N Engl J Med - 1989).

Nghiên cứu trên những người có nguy cơ bị bệnh tim mạch cao; dùng aspirin sau 5 năm cũng không thấy ảnh hưởng gì đến tỷ lệ tử vong nhưng có làm giảm 32% biến cố không tử vong, do đó dẫn đến làm giảm 20% biến cố thiếu máu cơ tim. Dùng warfarin cũng cho kết quả tương tự. Khi phối hợp aspirin với warfarin sẽ làm giảm được tối đa các biến cố thiếu máu cơ tim nhưng lại làm tăng đột quỵ tử vong và xuất huyết. Trong trường hợp này, nếu so sánh giữa lợi ích và nguy cơ thì lợi ích có cao hơn, nhưng không phải là tuyệt đối (British Physicans study; BMJ - 1988).

Đối với cơn đau thắt ngực ổn định, aspirin làm giảm 87% nguy cơ nhồi máu cơ tim (Ridker; Physicans Health Study - 1991). Tương tự đối với cơn đau thắt ngực không ổn định, tỷ lệ giảm này là 34% (Swedish Angina Pectoris Aspirin Trial; Juul Muller 1992).

Như vậy trong dự phòng, aspirin có mang lại một số kết quả hạn chế trong những trường hợp nhất định, kèm theo việc gia tăng một vài biến cố có hại, vì vậy việc dùng aspirin cần được cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ một cách cẩn thận.

Ngày nay cũng đã có nhiều thuốc chống huyết khối tốt khác để dự phòng các biến cố thứ phát sau tai biến nhồi máu cơ tim như clopidogrel. Thuốc này chống lại sự hình thành huyết khối bằng cách chống lại sự kết dính tiểu cầu. Dùng clopidogrel (với liều 75mg/ngày) sẽ làm giảm tử vong, giảm nhồi máu cơ tim và đột quỵ do thiếu máu cục bộ tốt hơn dùng aspirin (với liều 325mg/ngày). Độ an toàn của hai thuốc không có sự khác biệt (Clopidogrel versus Aspirin in patients at Risk of Ischemic Events = CARIE). Đối với người bệnh đau thắt ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim thì việc dùng aspirin kết hợp với clopidogrel cũng cho kết quả giảm biến cố tim mạch hơn là dùng aspirin đơn thuần (Clopidogrel in Unstable Angina to prevent Recurrent Events = CURE). Tuy nhiên một khảo cứu khác lại cho thấy rằng việc dùng aspirin đơn thuần sẽ giúp chi phí giảm hơn nhiều. Nhất là khi bệnh tim mạch đang khá phổ biến trong cộng đồng thì đây chính là điều hấp dẫn và có nhiều lợi thế. Người ta khuyên chỉ nên dùng clopidogrel khi người bệnh có chống chỉ định với aspirin (N Engl J Med - 2002).

Như vậy việc cân nhắc dùng aspirin còn dựa vào cả yếu tố giá thành.
TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA ASPIRIN VÀ CÁCH HẠN CHẾ

Aspirin ức chế COX-1 ngăn ngừa việc giải phóng TXA2 nên có tác dụng chống huyết khối. Song chính vì ức chế COX-1 mà nó làm mất đi tác dụng bảo vệ niêm mạc dạ dày của PGE-2. Misprotol là một đồng đẳng của PGE-2 có tác dụng bảo vệ niêm mạc dạ dày tương tự như PGE-2. Nếu phối hợp aspirin và misprotol thì sẽ tận dụng được khả năng chống huyết khối mà vẫn giảm được sự độc hại đối với dạ dày.

Một cách hạn chế tác hại nữa là tạo ra viên aspirin bao tan trong đường ruột. Khi dùng viên bao tan trong ruột thì nó không kích ứng trực tiếp lên niêm mạc dạ dày nên có phần ít gây hại cho niêm mạc dạ dày hơn.

Việc tạo ra viên bao tan trong ruột không làm mất đặc tính cố hữu của nó là ức chế COX-1 nên nó không làm giảm đi biến cố xuất huyết đường tiêu hóa. Biến cố này ở viên bao tan trong ruột và viên thường không có sự khác nhau đáng kể.

Vì viên bao tan trong ruột có tác dụng chậm trong khi việc điều trị các bệnh về tim mạch có trường hợp đòi hỏi phải đạt tác dụng nhanh, cho nên xét về mặt sinh khả dụng trong trường hợp cụ thể này thì sinh khả dụng của viên bao tan trong ruột kém hơn của viên bao thường. Do đó nếu dùng dạng viên bao tan trong ruột, để có đủ lượng aspirin cần thiết ức chế sự tạo thành huyết khối thì phải tăng liều.

Liều lượng của aspirin thay đổi tùy từng trường hợp cụ thể (tùy theo bệnh, độ nặng và dùng đơn độc hay kết hợp). Trường hợp dùng sớm và lâu dài cho người bị nhồi máu cơ tim cấp được khuyến cáo là 300mg cho ngày đầu và 50-81mg cho những ngày tiếp theo, hoặc 162mg không đổi cho mỗi ngày.

Với người hen suyễn, aspirin làm tăng co thắt phế quản và làm cho bệnh trầm trọng thêm. Trường hợp này nên chọn một loại thuốc khác.

Trong điều trị bệnh tim mạch, aspirin được dùng trong một thời gian dài. Cần tìm cách để hạn chế tác hại, đồng thời cần chọn một liều lượng thích hợp tùy theo dạng bào chế. Bằng cách này sẽ làm cho việc dùng nó hữu ích và an toàn.
LỜI KẾT

Aspirin có hiệu quả cao trong điều trị nhưng lại có tác dụng hạn chế trong dự phòng các bệnh tim mạch tiên phát. Bên cạnh đó, aspirin còn có những tác dụng không mong muốn. Chẩn đoán lượng giá đúng nguy cơ để đề ra một chiến lược dùng thuốc thích hợp cho từng bệnh nhân là một việc khó đòi hỏi phải có sự cân nhắc quyết định của thầy thuốc chuyên khoa. Việc dựa vào một vài thông tin tản mạn hoặc tham khảo ý kiến chưa hoàn hảo của thầy thuốc không chuyên khoa rồi tự ý dùng aspirin dự phòng các bệnh về tim mạch là không nên, vì không những không mang lại lợi ích mà có thể gây tai biến.
Chú thích ảnh:
- Aspirin có vai trò rất quan trọng trong điều trị bệnh tim mạch.
- Aspirin có thể làm tan huyết khối trong lòng mạch máu.
   Chúc các bạn luôn vui-khỏe...NDD
( Truong Kim Anh chuyển )

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm