Quán Bên Đường

THẾ UYÊN - ĐI TÌM NHỮNG HÌNH BÓNG QUÁ KHỨ

Từ giữa thập niên 95, thủ tục xin visa về Việt Nam du lịch và thăm thân (viết tắt từ chữ thăm thân nhân) trở thành dễ dàng hơn, mặt khác Việt kiều hải ngoại đa số đã ổn định cuộc sống, bỗng nhiên không ai bảo ai không ai rủ ai

Từ giữa thập niên 95, thủ tục xin visa về Việt Nam du lịch và thăm thân (viết tắt từ chữ thăm thân nhân) trở thành dễ dàng hơn, mặt khác Việt kiều hải ngoại đa số đã ổn định cuộc sống, bỗng nhiên không ai bảo ai không ai rủ ai nẩy sinh một thứ gần như là phong trào về quê cũ Việt Nam thăm và tìm kiếm mồ mả cha ông, và khi đã thấy thì sửa sang xây cất cho thật đẹp, thật đàng hoàng, theo ý chủ quan của mỗi người, tất nhiên. Một người bạn kể đã kéo tất cả anh chị em ở hải ngoại về Việt Nam làm một chuyến đi dài từ Nam ra Bắc, chỉ để lo nơi an nghỉ cuối cùng của các người thân qua đời đã lâu.

Trước hết là trở về Hội An lo xây một vòng tường chắc chắn bao quanh nghĩa trang riêng của giòng họ. Người bà con nội địa, làm một thứ thủ từ, đã gửi thư cấp báo là không xây mau, với nạn xây cất nhà mới bùng nổ, dân sẽ lấn chiếm nghĩa trang. Sau đó là làm lễ rước hũ tro cốt của bố và mẹ chết ở hải ngoại, các hũ tro còn gửi ở các chùa của các thân nhân Sài Gòn, trở về chôn cất trong những ngôi mộ xây cất hẳn hoi, trong nghĩa trang của giòng họ. Dĩ nhiên mọi phí tổn là do quyên góp của tất cả, không phải do riêng một người nào, dù có những con cháu đủ giầu để bao sân tất cả phí tổn. Vấn đề là tình cảm chung, là cùng tưởng nhớ tới những người thân đã qua, vậy phải để ai cũng đóng góp, dù ít hay nhiều.

Nhưng đến đó chưa phải là xong việc: cả phái đoàn kéo ra Bắc làm một công trình khó khăn là đi tìm mộ của ông nội chết khá sớm, mà vì thế hệ trước đã chết cả (con), thế hệ thứ ba (cháu) không ai còn biết đích xác ở đâu. Phái đoàn đi theo trí nhớ mờ nhạt của những đứa trẻ con hồi đó, đại khái là đi tuyến đường xe lửa Hà Nội – Hải Phòng, xuống tại ga X, nhìn qua đường rầy về phía bên trái, thấy cây đa cổ thụ giữa cánh đồng, đi vào sâu bên trong đến làng Z, tìm đến một cái ao lớn, sẽ thấy một gò cao trên đó có mộ ông nội của mấy đứa cháu, bây giờ đầu cũng điểm bạc như ông nội ngày qua đời. Sau khi đi bộ lang thang cả buổi sáng, cây đa cổ thụ mốc dấu đã biến mất từ bao giờ, tất cả đã bị san bằng thành ruộng, đi hết cánh đồng này sang cánh đồng khác, vừa đi vừa hỏi, phái đoàn cũng đến được làng Z và kiếm ra cái ao lớn, nhưng trên gò đất không có mộ nào mang tên ông nội cả. Dân làng liền mời bà già nhất làng đầu tóc bạc phơ đến hỏi, thì may quá bà già đã hơn 90 tuổi vẫn còn nhớ được là phần mộ ấy trước ở chỗ này, bà chỉ tay. Chỗ này là mặt nước ao phẳng lặng, ngôi mộ lâu quá không ai chăm nom, đã lở dần mỗi năm một chút, sau cùng vào một đêm trời bão, chìm xuống ao mất tăm, mất tích. Người chủ tịch xã thấy phái đoàn buồn thiu bèn hứa sẽ cho phép đóng cọc trong ao rồi đổ đất thành một ngôi mộ không cốt không tro, gọi là ghi dấu người đã khuất hơn nửa thế kỷ trước. Người bạn kể là một phương án dài ngày như thế không ngoài khả năng tài chính của mấy anh em, nhưng phải để lui lại đã. Trời đã về chiều rồi, và trong phái đoàn có cả nữ nhân, không tiện ngủ lại ngôi làng xa lạ thiếu tiện nghi và cũng không quen biết một ai, từ già đến trẻ. Do đó một bia đá tạm thời được dựng lên để đánh dấu chỗ yên nghỉ của người đàn ông mà đứa cháu lớn tuổi nhất cũng không biết mặt. Người bạn còn cho biết mấy anh em dự trù chuyến sau trở về, sẽ rước tro bà nội hiện để ở hậu liêu một ngôi chùa Sài Gòn, trở về đất Bắc, lập mộ chôn cùng chỗ với ông nội. Cho ông và bà sau cùng cũng được “đoàn tụ gia đình”... Đến đó mới kể là xong xuôi, ấm lòng những người tha phương cách quê nhà mười ngàn dậm biển xanh.

Khu bạn ấy của tôi đa số là trí thức, có ông là tiến sĩ dạy đại học Pháp rồi Mỹ, đã đối xử với phần mộ cha ông, nguồn gốc của mình, ân cần, thân ái, chí tình như vậy. Bây giờ đến một ông bạn khác ít học của tôi, trước kia chỉ là một hạ sĩ quan, sau 75 đi bán cà rem dạo, phơi mình với nắng mưa trồng lúa trồng dưa hấu... có lúc lang thang buôn bán nhỏ ở Cao Mên, để nuôi một bầy con. Nay nhờ một khe hở lịch sử, anh đến được Mỹ với toàn gia đình, anh cám ơn nước Mỹ, dân tộc Mỹ rất nhiều. Không thấy đồng dollars nào mọc trên cây, cũng chẳng thấy cơn mưa dollars lớn nhỏ nào, nhưng công việc chân tay kiếm ra dollar thì nhiều vô số, và anh chăm chỉ làm việc không cần biết weekend là cái gì. Anh sau cùng chọn nghề xén cỏ cưa cây mức thu nhập cao như một tiến sĩ, cho đến khi gặp tai nạn gãy lưng suýt chết, anh chuyển sang lao động nhẹ và cũng vẫn chăm chỉ không ai bằng. Anh thích trồng hoa như tôi nên anh để dành nước rửa để tưới cây cho đỡ tốn, hoa coi bộ còn tươi tốt hơn hoa của tôi tưới nước máy nguyên chất, và cũng như người xưa ở miền quê Việt Nam chẻ một que diêm làm hai hay làm bốn xài cho đỡ tốn, anh cặm cụi cắt giấy khăn ăn làm hai cho đỡ phí. Và khi lang thang đó đây, như một nhà văn già ở Hoa Kỳ, nhà văn nữ trẻ ở Âu Châu đi nhặt rau mọc dại ven đường về nấu món canh ‘tập tàng’ ăn cho đỡ nhớ quê, khi đi qua những cánh đồng có rau dền hoang lên tươi tốt, anh không ngại ngừng lại, thu hoạch đầy một xe truck. Anh kể: Chỉ chịu khó một buổi sáng là đầy xe, về bán cho chợ Á châu được $160 ngon lành... Và khi di chuyển trong thành phố, có qua nơi nào Food Bank đang phát thực phẩm khô miễn phí cho dân nghèo, anh đôi khi ngừng lại xếp hàng lãnh một túi. Anh kể là đồ Food Bank cho rất được, có chuối, có trứng, có gà... tươi ngon như bán ở chợ. Không biết anh ăn uống thế nào, chắc lại là gà kho mặn thịt kho tàu cá kho dưa chua... là chính (ai dám bảo ăn như thế là không ngon cơm), nhưng ngày anh mua nhà, một nhà 4 beds 3 baths mới tinh, anh xách một bao dollar đầy ắp, chắc lấy từ trong hộp bích quy ra (anh ở với Cộng sản đủ lâu để không tin ở bất cứ một ngân hàng nào), đòi thanh toán hết tiền mua nhà một lần cho xong. Công ty bán nhà hoảng hốt, một mặt điện thoại cho security đến gấp để canh số tiền mặt quá lớn, một mặt năn nỉ anh để lại một khoản nợ trả góp, cho nó giống các người Mỹ khác...

Và dĩ nhiên anh đã gửi tiền về Việt Nam xây cất lại tất cả mồ mả ông cha, nội cũng như ngoại, chỉ than phiền có một lần khi đứa con trai nghe lời vợ gửi tiền về cho bố vợ mua một xe hơi mới tinh để đi chơi... Anh chỉ bớt nhăn nhó tiếc tiền khi bà vợ tôi góp ý: Chắc gì bác ấy mua xe để chạy chơi, có thể là để cho khách du lịch thuê chuyến kiếm tiền. Một hôm anh đến thăm tôi than thở: Trận lụt lớn miền Trung làm cho từ đường trôi mất tiêu, lại phải lo vài ngàn gửi về sửa lại, và khi từ đường đã sửa xong, anh đến loan báo cho tôi tin ấy với giọng tươi vui. Cứ thế cứ thế anh cõng trên vai cả gánh nặng quê hương giòng họ mồ mả ở một vùng nghèo ơi là nghèo của vùng cận sơn một tỉnh miền Trung. Tuy là bạn nhưng tôi không hề khuyên can anh hay cười anh là dại dột. Bởi vì rõ ràng anh là một người cư dân Mỹ sung sướng vì đã tìm thấy cho mình một lẽ sống hẳn hoi, một lý do để lao động và tồn tại, cuộc đời có ý nghĩa hẳn lên, không hề biết chữ boring là gì. Chứ đừng nói chi đến những phi lý, những buồn nôn, những cô đơn cô độc này nọ... của mấy ông triết gia Tây phương hiện đại.

Các bạn tôi có những người như thế đấy, còn tôi, người viết bài này, thì sao? Trước hết tôi là người may mắn (!) về phương diện trợ giúp thân nhân quê nhà, lý do tất cả anh em ruột thịt, họ hàng, đã theo nhau kẻ trước người sau ‘dọn tiệm’ ra nước ngoài. Đúng là cả một giòng họ lớn như thế bỏ quê hương ra đi, bằng đường bộ bằng thuyền bằng máy bay, trong một thời gian tương đối ngắn, và có thể nói chỉ có Đảng Cộng sản mới có khả năng tạo ra hiện tượng đồng loạt bỏ quê như vậy. Còn tứ thân phụ mẫu thì trừ bố tôi đã chết từ lâu và hũ tro cải táng đã đưa vào thờ hậu ở một ngôi chùa, những vị còn lại đã ra nước ngoài trước cả tôi. Mẹ tôi vốn đã ghét Cộng sản vì nhiều người thân đã bị Đảng này giết chết, lại sống ở Việt Nam khá lâu sau 75 đủ để thấy chế độ này đáng từ bỏ mà đi thôi. Bởi thế lời dặn dò các con lúc lâm chung: mẹ chết ở đâu chôn ở đó cho gần con gần cháu, nhập quan rồi là đóng quan tài lại luôn, và khi làm mộ bia, hãy làm bia đứng đàng hoàng như ở quê nhà. Đang ở cách xa mẹ một đại dương và một lục địa, tôi nghe đứa em gái kể qua điện thoại lời mẹ dặn, hiểu tại sao lắm. Người Mỹ theo Thiên Chúa giáo, không Tin lành thì cũng Công giáo, tin tưởng rằng khi chết, cái thân xác này vốn từ đất từ cát bụi mà ra, vậy chết đi trở lại thành cát bụi. Vậy không làm mộ cao hơn mặt đất, và găm một tấm bia đặt nằm ngay trên cỏ, là phải, là đủ. Cát bụi lại trở thành cát bụi... có đáng chi đâu. Như lời nhạc thơ của Trịnh Công Sơn: Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi trở thành cát bụi... Mẹ tôi là người Đông Á trong văn minh Trung quốc, tin còn linh hồn quanh quẩn thế gian phù hộ cho con cháu, và sau đó luân hồi nhiều kiếp nữa...

Còn nhạc phụ nhạc mẫu tôi, khi hỏi sao không về thăm Việt Nam một chuyến dối già, cụ bà, nguyên là một nhà giáo, đã buông một câu giản dị: Khi nào đất nước thanh bình, sẽ về... Tôi há miệng toan cãi là Việt Nam thanh bình lâu rồi, nhưng thấy ông cụ liếc nhìn tôi, cười nhẹ nhàng, tôi ngậm miệng lại kịp thời. Cụ ông cũng là một nhà giáo, thông thạo Anh Pháp và Hán văn, đã từng xuất ngoại làm tùy viên văn hóa, đọc sách nhiều hơn tôi. Nụ cười của ông cứ như nhắc nhở Đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mác Lênin, lấy đấu tranh giai cấp là căn bản, lúc nào cũng chỉ nghĩ lấy giai cấp này tiêu diệt giai cấp khác, một thứ nội chiến triền miên, làm sao đất nước có thể thực sự thanh bình cho được... Và như thế, khi ông mất hình hài đã được mai táng êm ả ở một nghĩa trang miền Tây Bắc Hoa Kỳ, xa mồ mả cha ông tổ tiên, xa thật là xa...

Nói như thế có nghĩa là tôi không có gì để lưu luyến quê hương cũ Việt Nam sao? Không phải thế. Tôi là một công dân Mỹ gốc Việt, cái gốc Việt còn đó, không nhớ quê hương cũ sao được, dù nỗi nhớ, tình hoài hương ấy mờ nhạt thôi vì bị hóa giải đi nhiều bởi hình ảnh mấy anh Công an áo vàng khó tính quạu quọ, thường xuyên nhìn nhân dân miền Nam cũ, nhất là Việt kiều, ai cũng là kẻ tội phạm mà Đảng khoan hồng “chưa” bắt... Gần đây, tuổi tác cao dần, tôi thấy nhớ quê hương cũ nhiều hơn, và thích mấy câu thơ của nhà văn Lâm Chương:
Ta, con ngựa già thất thế
Bầm ruột gan không trải được lòng
Thân xiêu tán cõi ngoài muôn dặm
Mùa đông về gió bấc căm căm
Dài cổ ngóng quê nhà con ngựa hí...

Trong tôi bây giờ cũng có một ngựa vùng đại mạc Mông Cổ bị đưa về ở cõi trung nguyên, khi gió bấc thổi cũng dài cổ ngóng quê nhà phương Bắc xa xa, nhưng tiếng hí không to lắm so với những ngựa cùng hoàn cảnh. Nhưng mà “có hí” chứ không phải là không... Bởi thế trong chuyến trở lại Hà Nội đầu tiên, tôi đã dự tính đi tìm ngôi mộ của bà nội thắp mấy nén hương tưởng nhớ, và tìm ngày bà mất để có thể cúng giỗ sau này. Như tôi đã có lần kể, một phần là dân Hà Nội lớp trung niên lớp trẻ không ai biết cái làng Bằng ấy ở đâu, một phần vì cơn bão lớn từ Vịnh Bắc Việt đang xâm nhập đồng bằng, đã cản tôi và người quen có xe gắn máy, đi theo con đường của trí óc trẻ thơ mấy chục năm trước. Đi xuôi Nam trên quốc lộ 1 khoảng 7km, băng qua đường rầy xe lửa ở một địa điểm nửa thế kỷ trước tên gọi là Cầu Tiên, vào con đường nhỏ lát gạch đỏ hai bên là ruộng nước, vào làng Đại Từ, băng qua hết làng ra cánh đồng, một cánh đồng trí óc hồi tưởng của tôi bao giờ cũng là cánh đồng lúa chín vàng xao xác. Đi bộ qua bao giờ cũng làm bay lên rào rào hàng loạt cào cào và châu chấu.

Cánh đồng lúa không có đường, cứ lựa những bờ ruộng mà đi tiếp đến khi đụng một hàng cây dài, sau hàng cây là một con đường đất chạy dọc một con sông nhỏ ở sâu dưới mặt đất, thật sâu trong tầm mức một đứa trẻ là tôi hồi còn trẻ. Cứ theo con đường đất này đi về phía trái, sẽ đến làng bà tôi, có một cái cổng gạch cũ kỹ rêu phong cỏ mọc dẫn vào con đường nhỏ lát gạch đã hư nhiều chỗ, đưa vào nhà bà tôi. Ở phía phải, nhìn ra một cái ao bèo xanh mướt, là một cây nhãn vỏ sần sùi có khắc tên hai anh em tôi. Sau cây nhãn, là nhà tranh vách nan trét đất của bà tôi... Gần nửa thế kỷ của chiến tranh rồi lại chiến tranh trên vùng đất này, nhân mãn làm nhu cầu đất canh tác gia tăng dữ dội, sự phát triển phình to của thủ đô Hà Nội, tốc độ xây cất từ khi có Đổi Mới lại cao, thì một chỉ đường căn cứ trí nhớ ấu thơ như thế, thì Từ Thức cũng đến lạc đường phen nữa thôi... Cầu Tiên có còn gọi là Cầu Tiên không, làng Đại Từ có còn như thế hay đã biến thành một khu phố ngoại thành, con đường với hàng cây xanh đã biến thành đường lộ lớn chưa, chiếc cổng gạch cũ kỹ rêu phong có còn chăng?

Mấy năm sau đó, tôi mới lại đặt ra vấn đề về làng cũ tìm thăm mộ bà, do hai yếu tố mới xuất hiện: bạn cố tri Nguyên đã về hưu và những chuyến về Hà Nội sau đó tôi thường đi cùng vợ. Vì đã về hưu, dư thời giờ, Nguyên đã thay tôi, trong thời kỳ cả hai vợ chồng tôi cùng bận việc túi bụi vì lo xin visa du học Mỹ cho lớp trẻ và nhức đầu vì Công an làm khó dễ, tìm kiếm cái làng Bằng ấy và dò đường về thăm. Anh công bố kết quả: Trước hết làng Bằng năm xưa bây giờ đổi tên là Bằng A, đường xá đã mở mang xe hơi đi được tiện cho Thi đi cùng, nhưng nhân vật chính là mộ bà tôi thì không còn. Chiến tranh đã đảo lộn nhiều thứ và mộ bà tôi cùng các mộ vô thừa nhận khác đã bị hốt cốt chôn chung một ngôi mộ vô danh. Tôi ngỏ ý với Nguyên là nếu mọi sự là thế, thì việc trở về làng xưa, không có gì là gấp. Tôi muốn đợi đến khi hai vợ chồng thu xếp được một chuyến ra Bắc không vì công việc, chỉ để du lịch thôi vì Thi thường than nàng chưa biết mặt mũi chùa Hương, vịnh Hạ Long, Tam Đảo, Chapa... ra sao. Nhưng ông bạn Nguyên này kiên nhẫn lắm, tiếp tục tìm kiếm và một hôm ông vui vẻ loan báo đã kiếm ra “chị Chín,” người con gái thường gánh quà bà nội đi bộ từ làng ra Hànội cho mấy đứa cháu bọn tôi mấy chục năm xưa.

Vào chủ nhật gần nhất, vợ tôi chuẩn bị một bữa ăn đoàn tụ tại quán dễ đến và dễ ăn cho tất cả là quán Việt Hương quen thuộc, bạn Nguyên có nhiệm vụ đón “chị Chín” ở dưới quê lên để gặp bọn tôi. Tôi hơi ngạc nhiên vì cô gái quê mùa nhút nhát, người chắc nịch trong ký ức, bây giờ lại là một phụ nữ tóc bạc đàng hoàng, ăn nói tự nhiên, rõ ràng. Chị cho biết hiện là một công nhân mới về hưu, và đính chính chị không phải là “chị” mà là “dì” của tôi, nếu tính theo họ hàng phía bên bà nội. Tôi cười đề nghị xin hãy làm chị Chín như cũ, như trong ký ức mấy anh em tôi, cho thân tình...

Bữa cơm qua đi trong vui vẻ với hồi ức những kỷ niệm chung đã xa vời. Chị cũng không cung cấp được nhiều tin tức về bà nội vì chỉ ba năm sau khi tôi di cư vào Nam, chị cũng thôi không ở với bà nữa. Và khi bà mất chị có biết tin, nhưng đang làm công nhân khu gang thép Thái Nguyên, xa quá không về đưa đám được. Nhưng chị giới thiệu một ông già trong làng biết rõ hành tung mấy năm chót của bà, và bạn Nguyên sẵn sàng đi kiếm ông già ấy, vào khi nào thuận tiện cho vợ chồng tôi. Hai đứa tôi tiễn chị Chín của quá khứ ấy ra về, dĩ nhiên vợ tôi kín đáo biếu chị một khoản tiền gọn đẹp, gọi là tiền xe pháo và mua quà cho các cháu. Từ lâu rồi bọn tôi biết thói tục tặng tiền cho những người đến với mình như thế, đã trở thành một tục lệ trong một nước xã hội chủ nghĩa mọi người đa số thường nghèo. Hơn thế nữa, lương công chức quá ít nên giới báo chí, cũng lãnh lương hàng tháng như các viên chức khác, nghĩa là không đủ sống nên mỗi lần có tin mới cần công bố về vấn đề du học Mỹ, vợ tôi với tư cách phó đoàn đại diện, tổ chức họp báo, thì mỗi phóng viên tới dự, khi ra về được nhận một bao thư đựng một số tiền “ăn trưa và phí tổn di chuyển.” Ở Việt Nam, từ Nam đến Bắc, không ai coi việc tặng tiền kiểu đó là tham nhũng cả. Luật lệ cũng qui định chỉ coi là tham nhũng khi nào món quà hay tiền tặng ấy “trên mức tình cảm,” còn trị giá bao nhiêu mới là “trên mức tình cảm,” luật lệ không nói đến.

Bọn tôi hẹn với bạn Nguyên để khi nào rảnh, sẽ thuê một chuyến xe hơi về làng Bằng A thăm nấm mộ tập thể vô danh trong có xương cốt người bà quê mùa bán đậu phụ dưới gốc đa già nơi chợ nhỏ miền quê, để dành tiền mua quà cho các cháu vì lúc nào cũng sợ các cháu đói. Lúc đó sẽ gặp ông già làng biết những năm tháng cuối cùng của bà, nhân thể thăm di tích làng xưa nhà cũ... Nhưng bọn tôi sau đó một thời gian bị Công an nhiều ngành làm khó dễ vì nghi cho bọn tôi là đội tiền phong của mũi dùi “diễn tiến hòa bình” của Mỹ, một lãnh đạo cao cấp còn gọi đích danh bọn tôi như vậy. Nhân viên phái đoàn trong có cố vấn giáo dục là tôi, bị gọi đến trụ sở Công an hạch hỏi theo chiều hướng qui bọn tôi vào tội “cố ý làm sai qui định,” một tội nghe như hành chánh, thực tế có thể bị nhốt 12 năm hay 20 năm như một học trò cũ của tôi, Việt kiều ở Canada về đầu tư Việt Nam. Theo lề thói cố hữu của đảng Cộng sản, ở Việt Nam không có tù chính trị, tù vì lương tâm, vậy bất cứ ai bị gọi ra Công an hay truy tố ra tòa, đều bị qui những tội hình sự lớn hay nhỏ. Đến chặng này, Việt kiều nào khôn ngoan thì “bỏ của chạy lấy người,” ai chần chừ sẽ bị giữ passport để điều tra, và có nhờ người quen kẻ thuộc chạy và năn nỉ tứ tung, mới được chi từ 3 đến 5000 dollars để chuộc lấy giấy tờ, lên máy bay ra nước ngoài mà “tạm dung” suốt chặng đời còn lại. Nếu ai dám khiếu nại, với báo chí, với dư luận quốc ngoại, thì có thể bị kết vào tội danh mới là “làm hại an ninh tổ quốc,” và đã dính dáng tới “an ninh tổ quốc,” thì chỉ có đi cải tạo đi tù mút mùa (không dùng tiền mà chạy được).

Vợ tôi ngậm ngùi bàn: Đi thôi anh khi cửa khẩu Tân Sơn Nhất còn rộng mở... Chậm trễ nữa, chúng ta đâu có tiền để chuộc passport, phải không anh? Tôi không còn ý kiến nào khác nữa... Bởi vậy ngôi mộ tập thể trong có chút xương cốt bà tôi, người bà nâu sòng có mái tóc bạc trắng ấy ở một chỗ nào đó, cứ việc ở đó không có mấy đứa cháu phương xa về thắp một nén hương. Hãy để cho lá các cây vải, được trồng rất nhiều ở quê hương cũ, về mùa đông rụng nhiều rụng tiếp trên các ngôi mộ, như đã rụng như thế từ ngàn xưa đến ngàn sau.
http://www.diendantheky.net/2014/10/the-uyen-i-tim-nhung-hinh-bong-qua-khu.html

Bàn ra tán vào (0)

Comment




  • Input symbols

THẾ UYÊN - ĐI TÌM NHỮNG HÌNH BÓNG QUÁ KHỨ

Từ giữa thập niên 95, thủ tục xin visa về Việt Nam du lịch và thăm thân (viết tắt từ chữ thăm thân nhân) trở thành dễ dàng hơn, mặt khác Việt kiều hải ngoại đa số đã ổn định cuộc sống, bỗng nhiên không ai bảo ai không ai rủ ai

Từ giữa thập niên 95, thủ tục xin visa về Việt Nam du lịch và thăm thân (viết tắt từ chữ thăm thân nhân) trở thành dễ dàng hơn, mặt khác Việt kiều hải ngoại đa số đã ổn định cuộc sống, bỗng nhiên không ai bảo ai không ai rủ ai nẩy sinh một thứ gần như là phong trào về quê cũ Việt Nam thăm và tìm kiếm mồ mả cha ông, và khi đã thấy thì sửa sang xây cất cho thật đẹp, thật đàng hoàng, theo ý chủ quan của mỗi người, tất nhiên. Một người bạn kể đã kéo tất cả anh chị em ở hải ngoại về Việt Nam làm một chuyến đi dài từ Nam ra Bắc, chỉ để lo nơi an nghỉ cuối cùng của các người thân qua đời đã lâu.

Trước hết là trở về Hội An lo xây một vòng tường chắc chắn bao quanh nghĩa trang riêng của giòng họ. Người bà con nội địa, làm một thứ thủ từ, đã gửi thư cấp báo là không xây mau, với nạn xây cất nhà mới bùng nổ, dân sẽ lấn chiếm nghĩa trang. Sau đó là làm lễ rước hũ tro cốt của bố và mẹ chết ở hải ngoại, các hũ tro còn gửi ở các chùa của các thân nhân Sài Gòn, trở về chôn cất trong những ngôi mộ xây cất hẳn hoi, trong nghĩa trang của giòng họ. Dĩ nhiên mọi phí tổn là do quyên góp của tất cả, không phải do riêng một người nào, dù có những con cháu đủ giầu để bao sân tất cả phí tổn. Vấn đề là tình cảm chung, là cùng tưởng nhớ tới những người thân đã qua, vậy phải để ai cũng đóng góp, dù ít hay nhiều.

Nhưng đến đó chưa phải là xong việc: cả phái đoàn kéo ra Bắc làm một công trình khó khăn là đi tìm mộ của ông nội chết khá sớm, mà vì thế hệ trước đã chết cả (con), thế hệ thứ ba (cháu) không ai còn biết đích xác ở đâu. Phái đoàn đi theo trí nhớ mờ nhạt của những đứa trẻ con hồi đó, đại khái là đi tuyến đường xe lửa Hà Nội – Hải Phòng, xuống tại ga X, nhìn qua đường rầy về phía bên trái, thấy cây đa cổ thụ giữa cánh đồng, đi vào sâu bên trong đến làng Z, tìm đến một cái ao lớn, sẽ thấy một gò cao trên đó có mộ ông nội của mấy đứa cháu, bây giờ đầu cũng điểm bạc như ông nội ngày qua đời. Sau khi đi bộ lang thang cả buổi sáng, cây đa cổ thụ mốc dấu đã biến mất từ bao giờ, tất cả đã bị san bằng thành ruộng, đi hết cánh đồng này sang cánh đồng khác, vừa đi vừa hỏi, phái đoàn cũng đến được làng Z và kiếm ra cái ao lớn, nhưng trên gò đất không có mộ nào mang tên ông nội cả. Dân làng liền mời bà già nhất làng đầu tóc bạc phơ đến hỏi, thì may quá bà già đã hơn 90 tuổi vẫn còn nhớ được là phần mộ ấy trước ở chỗ này, bà chỉ tay. Chỗ này là mặt nước ao phẳng lặng, ngôi mộ lâu quá không ai chăm nom, đã lở dần mỗi năm một chút, sau cùng vào một đêm trời bão, chìm xuống ao mất tăm, mất tích. Người chủ tịch xã thấy phái đoàn buồn thiu bèn hứa sẽ cho phép đóng cọc trong ao rồi đổ đất thành một ngôi mộ không cốt không tro, gọi là ghi dấu người đã khuất hơn nửa thế kỷ trước. Người bạn kể là một phương án dài ngày như thế không ngoài khả năng tài chính của mấy anh em, nhưng phải để lui lại đã. Trời đã về chiều rồi, và trong phái đoàn có cả nữ nhân, không tiện ngủ lại ngôi làng xa lạ thiếu tiện nghi và cũng không quen biết một ai, từ già đến trẻ. Do đó một bia đá tạm thời được dựng lên để đánh dấu chỗ yên nghỉ của người đàn ông mà đứa cháu lớn tuổi nhất cũng không biết mặt. Người bạn còn cho biết mấy anh em dự trù chuyến sau trở về, sẽ rước tro bà nội hiện để ở hậu liêu một ngôi chùa Sài Gòn, trở về đất Bắc, lập mộ chôn cùng chỗ với ông nội. Cho ông và bà sau cùng cũng được “đoàn tụ gia đình”... Đến đó mới kể là xong xuôi, ấm lòng những người tha phương cách quê nhà mười ngàn dậm biển xanh.

Khu bạn ấy của tôi đa số là trí thức, có ông là tiến sĩ dạy đại học Pháp rồi Mỹ, đã đối xử với phần mộ cha ông, nguồn gốc của mình, ân cần, thân ái, chí tình như vậy. Bây giờ đến một ông bạn khác ít học của tôi, trước kia chỉ là một hạ sĩ quan, sau 75 đi bán cà rem dạo, phơi mình với nắng mưa trồng lúa trồng dưa hấu... có lúc lang thang buôn bán nhỏ ở Cao Mên, để nuôi một bầy con. Nay nhờ một khe hở lịch sử, anh đến được Mỹ với toàn gia đình, anh cám ơn nước Mỹ, dân tộc Mỹ rất nhiều. Không thấy đồng dollars nào mọc trên cây, cũng chẳng thấy cơn mưa dollars lớn nhỏ nào, nhưng công việc chân tay kiếm ra dollar thì nhiều vô số, và anh chăm chỉ làm việc không cần biết weekend là cái gì. Anh sau cùng chọn nghề xén cỏ cưa cây mức thu nhập cao như một tiến sĩ, cho đến khi gặp tai nạn gãy lưng suýt chết, anh chuyển sang lao động nhẹ và cũng vẫn chăm chỉ không ai bằng. Anh thích trồng hoa như tôi nên anh để dành nước rửa để tưới cây cho đỡ tốn, hoa coi bộ còn tươi tốt hơn hoa của tôi tưới nước máy nguyên chất, và cũng như người xưa ở miền quê Việt Nam chẻ một que diêm làm hai hay làm bốn xài cho đỡ tốn, anh cặm cụi cắt giấy khăn ăn làm hai cho đỡ phí. Và khi lang thang đó đây, như một nhà văn già ở Hoa Kỳ, nhà văn nữ trẻ ở Âu Châu đi nhặt rau mọc dại ven đường về nấu món canh ‘tập tàng’ ăn cho đỡ nhớ quê, khi đi qua những cánh đồng có rau dền hoang lên tươi tốt, anh không ngại ngừng lại, thu hoạch đầy một xe truck. Anh kể: Chỉ chịu khó một buổi sáng là đầy xe, về bán cho chợ Á châu được $160 ngon lành... Và khi di chuyển trong thành phố, có qua nơi nào Food Bank đang phát thực phẩm khô miễn phí cho dân nghèo, anh đôi khi ngừng lại xếp hàng lãnh một túi. Anh kể là đồ Food Bank cho rất được, có chuối, có trứng, có gà... tươi ngon như bán ở chợ. Không biết anh ăn uống thế nào, chắc lại là gà kho mặn thịt kho tàu cá kho dưa chua... là chính (ai dám bảo ăn như thế là không ngon cơm), nhưng ngày anh mua nhà, một nhà 4 beds 3 baths mới tinh, anh xách một bao dollar đầy ắp, chắc lấy từ trong hộp bích quy ra (anh ở với Cộng sản đủ lâu để không tin ở bất cứ một ngân hàng nào), đòi thanh toán hết tiền mua nhà một lần cho xong. Công ty bán nhà hoảng hốt, một mặt điện thoại cho security đến gấp để canh số tiền mặt quá lớn, một mặt năn nỉ anh để lại một khoản nợ trả góp, cho nó giống các người Mỹ khác...

Và dĩ nhiên anh đã gửi tiền về Việt Nam xây cất lại tất cả mồ mả ông cha, nội cũng như ngoại, chỉ than phiền có một lần khi đứa con trai nghe lời vợ gửi tiền về cho bố vợ mua một xe hơi mới tinh để đi chơi... Anh chỉ bớt nhăn nhó tiếc tiền khi bà vợ tôi góp ý: Chắc gì bác ấy mua xe để chạy chơi, có thể là để cho khách du lịch thuê chuyến kiếm tiền. Một hôm anh đến thăm tôi than thở: Trận lụt lớn miền Trung làm cho từ đường trôi mất tiêu, lại phải lo vài ngàn gửi về sửa lại, và khi từ đường đã sửa xong, anh đến loan báo cho tôi tin ấy với giọng tươi vui. Cứ thế cứ thế anh cõng trên vai cả gánh nặng quê hương giòng họ mồ mả ở một vùng nghèo ơi là nghèo của vùng cận sơn một tỉnh miền Trung. Tuy là bạn nhưng tôi không hề khuyên can anh hay cười anh là dại dột. Bởi vì rõ ràng anh là một người cư dân Mỹ sung sướng vì đã tìm thấy cho mình một lẽ sống hẳn hoi, một lý do để lao động và tồn tại, cuộc đời có ý nghĩa hẳn lên, không hề biết chữ boring là gì. Chứ đừng nói chi đến những phi lý, những buồn nôn, những cô đơn cô độc này nọ... của mấy ông triết gia Tây phương hiện đại.

Các bạn tôi có những người như thế đấy, còn tôi, người viết bài này, thì sao? Trước hết tôi là người may mắn (!) về phương diện trợ giúp thân nhân quê nhà, lý do tất cả anh em ruột thịt, họ hàng, đã theo nhau kẻ trước người sau ‘dọn tiệm’ ra nước ngoài. Đúng là cả một giòng họ lớn như thế bỏ quê hương ra đi, bằng đường bộ bằng thuyền bằng máy bay, trong một thời gian tương đối ngắn, và có thể nói chỉ có Đảng Cộng sản mới có khả năng tạo ra hiện tượng đồng loạt bỏ quê như vậy. Còn tứ thân phụ mẫu thì trừ bố tôi đã chết từ lâu và hũ tro cải táng đã đưa vào thờ hậu ở một ngôi chùa, những vị còn lại đã ra nước ngoài trước cả tôi. Mẹ tôi vốn đã ghét Cộng sản vì nhiều người thân đã bị Đảng này giết chết, lại sống ở Việt Nam khá lâu sau 75 đủ để thấy chế độ này đáng từ bỏ mà đi thôi. Bởi thế lời dặn dò các con lúc lâm chung: mẹ chết ở đâu chôn ở đó cho gần con gần cháu, nhập quan rồi là đóng quan tài lại luôn, và khi làm mộ bia, hãy làm bia đứng đàng hoàng như ở quê nhà. Đang ở cách xa mẹ một đại dương và một lục địa, tôi nghe đứa em gái kể qua điện thoại lời mẹ dặn, hiểu tại sao lắm. Người Mỹ theo Thiên Chúa giáo, không Tin lành thì cũng Công giáo, tin tưởng rằng khi chết, cái thân xác này vốn từ đất từ cát bụi mà ra, vậy chết đi trở lại thành cát bụi. Vậy không làm mộ cao hơn mặt đất, và găm một tấm bia đặt nằm ngay trên cỏ, là phải, là đủ. Cát bụi lại trở thành cát bụi... có đáng chi đâu. Như lời nhạc thơ của Trịnh Công Sơn: Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi trở thành cát bụi... Mẹ tôi là người Đông Á trong văn minh Trung quốc, tin còn linh hồn quanh quẩn thế gian phù hộ cho con cháu, và sau đó luân hồi nhiều kiếp nữa...

Còn nhạc phụ nhạc mẫu tôi, khi hỏi sao không về thăm Việt Nam một chuyến dối già, cụ bà, nguyên là một nhà giáo, đã buông một câu giản dị: Khi nào đất nước thanh bình, sẽ về... Tôi há miệng toan cãi là Việt Nam thanh bình lâu rồi, nhưng thấy ông cụ liếc nhìn tôi, cười nhẹ nhàng, tôi ngậm miệng lại kịp thời. Cụ ông cũng là một nhà giáo, thông thạo Anh Pháp và Hán văn, đã từng xuất ngoại làm tùy viên văn hóa, đọc sách nhiều hơn tôi. Nụ cười của ông cứ như nhắc nhở Đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mác Lênin, lấy đấu tranh giai cấp là căn bản, lúc nào cũng chỉ nghĩ lấy giai cấp này tiêu diệt giai cấp khác, một thứ nội chiến triền miên, làm sao đất nước có thể thực sự thanh bình cho được... Và như thế, khi ông mất hình hài đã được mai táng êm ả ở một nghĩa trang miền Tây Bắc Hoa Kỳ, xa mồ mả cha ông tổ tiên, xa thật là xa...

Nói như thế có nghĩa là tôi không có gì để lưu luyến quê hương cũ Việt Nam sao? Không phải thế. Tôi là một công dân Mỹ gốc Việt, cái gốc Việt còn đó, không nhớ quê hương cũ sao được, dù nỗi nhớ, tình hoài hương ấy mờ nhạt thôi vì bị hóa giải đi nhiều bởi hình ảnh mấy anh Công an áo vàng khó tính quạu quọ, thường xuyên nhìn nhân dân miền Nam cũ, nhất là Việt kiều, ai cũng là kẻ tội phạm mà Đảng khoan hồng “chưa” bắt... Gần đây, tuổi tác cao dần, tôi thấy nhớ quê hương cũ nhiều hơn, và thích mấy câu thơ của nhà văn Lâm Chương:
Ta, con ngựa già thất thế
Bầm ruột gan không trải được lòng
Thân xiêu tán cõi ngoài muôn dặm
Mùa đông về gió bấc căm căm
Dài cổ ngóng quê nhà con ngựa hí...

Trong tôi bây giờ cũng có một ngựa vùng đại mạc Mông Cổ bị đưa về ở cõi trung nguyên, khi gió bấc thổi cũng dài cổ ngóng quê nhà phương Bắc xa xa, nhưng tiếng hí không to lắm so với những ngựa cùng hoàn cảnh. Nhưng mà “có hí” chứ không phải là không... Bởi thế trong chuyến trở lại Hà Nội đầu tiên, tôi đã dự tính đi tìm ngôi mộ của bà nội thắp mấy nén hương tưởng nhớ, và tìm ngày bà mất để có thể cúng giỗ sau này. Như tôi đã có lần kể, một phần là dân Hà Nội lớp trung niên lớp trẻ không ai biết cái làng Bằng ấy ở đâu, một phần vì cơn bão lớn từ Vịnh Bắc Việt đang xâm nhập đồng bằng, đã cản tôi và người quen có xe gắn máy, đi theo con đường của trí óc trẻ thơ mấy chục năm trước. Đi xuôi Nam trên quốc lộ 1 khoảng 7km, băng qua đường rầy xe lửa ở một địa điểm nửa thế kỷ trước tên gọi là Cầu Tiên, vào con đường nhỏ lát gạch đỏ hai bên là ruộng nước, vào làng Đại Từ, băng qua hết làng ra cánh đồng, một cánh đồng trí óc hồi tưởng của tôi bao giờ cũng là cánh đồng lúa chín vàng xao xác. Đi bộ qua bao giờ cũng làm bay lên rào rào hàng loạt cào cào và châu chấu.

Cánh đồng lúa không có đường, cứ lựa những bờ ruộng mà đi tiếp đến khi đụng một hàng cây dài, sau hàng cây là một con đường đất chạy dọc một con sông nhỏ ở sâu dưới mặt đất, thật sâu trong tầm mức một đứa trẻ là tôi hồi còn trẻ. Cứ theo con đường đất này đi về phía trái, sẽ đến làng bà tôi, có một cái cổng gạch cũ kỹ rêu phong cỏ mọc dẫn vào con đường nhỏ lát gạch đã hư nhiều chỗ, đưa vào nhà bà tôi. Ở phía phải, nhìn ra một cái ao bèo xanh mướt, là một cây nhãn vỏ sần sùi có khắc tên hai anh em tôi. Sau cây nhãn, là nhà tranh vách nan trét đất của bà tôi... Gần nửa thế kỷ của chiến tranh rồi lại chiến tranh trên vùng đất này, nhân mãn làm nhu cầu đất canh tác gia tăng dữ dội, sự phát triển phình to của thủ đô Hà Nội, tốc độ xây cất từ khi có Đổi Mới lại cao, thì một chỉ đường căn cứ trí nhớ ấu thơ như thế, thì Từ Thức cũng đến lạc đường phen nữa thôi... Cầu Tiên có còn gọi là Cầu Tiên không, làng Đại Từ có còn như thế hay đã biến thành một khu phố ngoại thành, con đường với hàng cây xanh đã biến thành đường lộ lớn chưa, chiếc cổng gạch cũ kỹ rêu phong có còn chăng?

Mấy năm sau đó, tôi mới lại đặt ra vấn đề về làng cũ tìm thăm mộ bà, do hai yếu tố mới xuất hiện: bạn cố tri Nguyên đã về hưu và những chuyến về Hà Nội sau đó tôi thường đi cùng vợ. Vì đã về hưu, dư thời giờ, Nguyên đã thay tôi, trong thời kỳ cả hai vợ chồng tôi cùng bận việc túi bụi vì lo xin visa du học Mỹ cho lớp trẻ và nhức đầu vì Công an làm khó dễ, tìm kiếm cái làng Bằng ấy và dò đường về thăm. Anh công bố kết quả: Trước hết làng Bằng năm xưa bây giờ đổi tên là Bằng A, đường xá đã mở mang xe hơi đi được tiện cho Thi đi cùng, nhưng nhân vật chính là mộ bà tôi thì không còn. Chiến tranh đã đảo lộn nhiều thứ và mộ bà tôi cùng các mộ vô thừa nhận khác đã bị hốt cốt chôn chung một ngôi mộ vô danh. Tôi ngỏ ý với Nguyên là nếu mọi sự là thế, thì việc trở về làng xưa, không có gì là gấp. Tôi muốn đợi đến khi hai vợ chồng thu xếp được một chuyến ra Bắc không vì công việc, chỉ để du lịch thôi vì Thi thường than nàng chưa biết mặt mũi chùa Hương, vịnh Hạ Long, Tam Đảo, Chapa... ra sao. Nhưng ông bạn Nguyên này kiên nhẫn lắm, tiếp tục tìm kiếm và một hôm ông vui vẻ loan báo đã kiếm ra “chị Chín,” người con gái thường gánh quà bà nội đi bộ từ làng ra Hànội cho mấy đứa cháu bọn tôi mấy chục năm xưa.

Vào chủ nhật gần nhất, vợ tôi chuẩn bị một bữa ăn đoàn tụ tại quán dễ đến và dễ ăn cho tất cả là quán Việt Hương quen thuộc, bạn Nguyên có nhiệm vụ đón “chị Chín” ở dưới quê lên để gặp bọn tôi. Tôi hơi ngạc nhiên vì cô gái quê mùa nhút nhát, người chắc nịch trong ký ức, bây giờ lại là một phụ nữ tóc bạc đàng hoàng, ăn nói tự nhiên, rõ ràng. Chị cho biết hiện là một công nhân mới về hưu, và đính chính chị không phải là “chị” mà là “dì” của tôi, nếu tính theo họ hàng phía bên bà nội. Tôi cười đề nghị xin hãy làm chị Chín như cũ, như trong ký ức mấy anh em tôi, cho thân tình...

Bữa cơm qua đi trong vui vẻ với hồi ức những kỷ niệm chung đã xa vời. Chị cũng không cung cấp được nhiều tin tức về bà nội vì chỉ ba năm sau khi tôi di cư vào Nam, chị cũng thôi không ở với bà nữa. Và khi bà mất chị có biết tin, nhưng đang làm công nhân khu gang thép Thái Nguyên, xa quá không về đưa đám được. Nhưng chị giới thiệu một ông già trong làng biết rõ hành tung mấy năm chót của bà, và bạn Nguyên sẵn sàng đi kiếm ông già ấy, vào khi nào thuận tiện cho vợ chồng tôi. Hai đứa tôi tiễn chị Chín của quá khứ ấy ra về, dĩ nhiên vợ tôi kín đáo biếu chị một khoản tiền gọn đẹp, gọi là tiền xe pháo và mua quà cho các cháu. Từ lâu rồi bọn tôi biết thói tục tặng tiền cho những người đến với mình như thế, đã trở thành một tục lệ trong một nước xã hội chủ nghĩa mọi người đa số thường nghèo. Hơn thế nữa, lương công chức quá ít nên giới báo chí, cũng lãnh lương hàng tháng như các viên chức khác, nghĩa là không đủ sống nên mỗi lần có tin mới cần công bố về vấn đề du học Mỹ, vợ tôi với tư cách phó đoàn đại diện, tổ chức họp báo, thì mỗi phóng viên tới dự, khi ra về được nhận một bao thư đựng một số tiền “ăn trưa và phí tổn di chuyển.” Ở Việt Nam, từ Nam đến Bắc, không ai coi việc tặng tiền kiểu đó là tham nhũng cả. Luật lệ cũng qui định chỉ coi là tham nhũng khi nào món quà hay tiền tặng ấy “trên mức tình cảm,” còn trị giá bao nhiêu mới là “trên mức tình cảm,” luật lệ không nói đến.

Bọn tôi hẹn với bạn Nguyên để khi nào rảnh, sẽ thuê một chuyến xe hơi về làng Bằng A thăm nấm mộ tập thể vô danh trong có xương cốt người bà quê mùa bán đậu phụ dưới gốc đa già nơi chợ nhỏ miền quê, để dành tiền mua quà cho các cháu vì lúc nào cũng sợ các cháu đói. Lúc đó sẽ gặp ông già làng biết những năm tháng cuối cùng của bà, nhân thể thăm di tích làng xưa nhà cũ... Nhưng bọn tôi sau đó một thời gian bị Công an nhiều ngành làm khó dễ vì nghi cho bọn tôi là đội tiền phong của mũi dùi “diễn tiến hòa bình” của Mỹ, một lãnh đạo cao cấp còn gọi đích danh bọn tôi như vậy. Nhân viên phái đoàn trong có cố vấn giáo dục là tôi, bị gọi đến trụ sở Công an hạch hỏi theo chiều hướng qui bọn tôi vào tội “cố ý làm sai qui định,” một tội nghe như hành chánh, thực tế có thể bị nhốt 12 năm hay 20 năm như một học trò cũ của tôi, Việt kiều ở Canada về đầu tư Việt Nam. Theo lề thói cố hữu của đảng Cộng sản, ở Việt Nam không có tù chính trị, tù vì lương tâm, vậy bất cứ ai bị gọi ra Công an hay truy tố ra tòa, đều bị qui những tội hình sự lớn hay nhỏ. Đến chặng này, Việt kiều nào khôn ngoan thì “bỏ của chạy lấy người,” ai chần chừ sẽ bị giữ passport để điều tra, và có nhờ người quen kẻ thuộc chạy và năn nỉ tứ tung, mới được chi từ 3 đến 5000 dollars để chuộc lấy giấy tờ, lên máy bay ra nước ngoài mà “tạm dung” suốt chặng đời còn lại. Nếu ai dám khiếu nại, với báo chí, với dư luận quốc ngoại, thì có thể bị kết vào tội danh mới là “làm hại an ninh tổ quốc,” và đã dính dáng tới “an ninh tổ quốc,” thì chỉ có đi cải tạo đi tù mút mùa (không dùng tiền mà chạy được).

Vợ tôi ngậm ngùi bàn: Đi thôi anh khi cửa khẩu Tân Sơn Nhất còn rộng mở... Chậm trễ nữa, chúng ta đâu có tiền để chuộc passport, phải không anh? Tôi không còn ý kiến nào khác nữa... Bởi vậy ngôi mộ tập thể trong có chút xương cốt bà tôi, người bà nâu sòng có mái tóc bạc trắng ấy ở một chỗ nào đó, cứ việc ở đó không có mấy đứa cháu phương xa về thắp một nén hương. Hãy để cho lá các cây vải, được trồng rất nhiều ở quê hương cũ, về mùa đông rụng nhiều rụng tiếp trên các ngôi mộ, như đã rụng như thế từ ngàn xưa đến ngàn sau.
http://www.diendantheky.net/2014/10/the-uyen-i-tim-nhung-hinh-bong-qua-khu.html

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm