Đoạn Đường Chiến Binh
TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA - HỒ VĂN KỲ THOẠI
TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA
*
(Tài liệu lịch sử sau đây trích một phần từ chương 16, từ ngày 18/1/1974 tức một ngày trước khi xảy ra cuộc hải chiến Hoàng Sa, trong sách “CAN TRƯỜNG TRONG CHIẾN BẠI” của tác giả Hồ Văn Kỳ-Thoại xuất bản năm 2007. Ông nguyên là Phó Đề Đốc Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên Hải, Quân khu I, Việt Nam Cộng Hoà, từ năm 1970 đến năm 1975.)
Mười giờ sáng ngày 18 tháng 1, trung tá San, hạm trưởng khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ 4) cho toán đổ bộ lên bờ gồm một trung úy và mười ba đoàn viên để thám sát đảo Cam Tuyền vì thấy có chiến hạm Trung Cộng thả trôi gần đó.Toán này cắm cờ Việt Nam khi lên tới đảo.
Khi hải đội của đại tá Ngạc đến Hoàng Sa thì tôi được biết là có ít nhứt bốn chiến hạm của Trung Cộng đã có mặt tại vùng đảo. Các chiến hạm của Trung Cộng và Việt Nam hải hành rất gần nhau. Chiến hạm Việt Nam ra dấu hiệu đuổi chiến hạm Trung Cộng ra ngoài lãnh hải. Trên chiến hạm Trung Cộng thì các thủy thủ của họ cũng ra dấu yêu cầu chiến hạm Việt Nam phải ra xa các đảo.
Chiều ngày hôm đó, tình hình tại Hoàng Sa càng thêm căng thẳng. Các chiến hạm hai bên chạy kế bên nhau và chĩa súng vào nhau. Ngày hôm sau, tôi liên lạc điện thoại về Bộ Tư Lịnh Hải Quân tại Sàigòn để hỏi vị trí các đơn vị của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ. Đại tá Kiểm, giám đốc Trung tâm hành quân Hải Quân, theo dõi và thông báo cho tôi kịp thời mọi tin tức về phía Hoa Kỳ và xác nhân rằng các chiến hạm Hoa Kỳ ở rất gần các vị trí chiến hạm Việt Nam. Ông nói với tôi: “Cứ yên trí.” Tôi nói với đại tá Kiểm rằng tôi không biết việc gì sắp xảy ra, có lẽ chỉ yêu cầu chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội cứu vớt thủy thủ Việt Nam nếu có tổn thất. Tôi không nghĩ rằng họ sẽ can thiệp vào chiến trận.
Đại tá Ngạc báo cáo tiếp theo là các chiến hạm Trung Cộng đến quá gần chiến hạm Việt Nam, có ý khiêu khích và đôi khi làm cho các chiến hạm Việt Nam vận chuyển khó khăn vì chung quanh các đảo lại có rất nhiều đá san hô. Tôi gọi máy về Sàigòn thì đô đốc Chơn đang trên phi cơ trên đường ra Đà Nẵng, nhưng không biết lúc nào ông sẽ đến Đà Nẵng. Tôi nói chuyện âm thoại với đại tá Ngạc và ông nói rằng việc chạm súng chắc là không sao tránh khỏi. Tôi và đại tá Ngạc rất khó xử. Nếu Trung Cộng nổ súng trước thì chúng tôi không có gì phải tính toán và phải nổ súng tự vệ. Nhưng lúc ấy tổn thất sẽ rất nặng nề về phía Hải Quân Việt Nam. Không còn ai có thể giúp tôi quyết định. Tôi nghĩ là nếu Hải Quân Việt Nam nổ súng trước thì rất có lợi vì địch bị bất ngờ và ta làm chủ được tình hình. Trong đêm đại tá Ngạc và tôi nói chuyện với nhau rất nhiều vì cả hai đều lo âu, dù không nói ra, cả hai đều đoán là Trung Cộng sẽ không nhượng bộ như mấy lần trước khi chiến hạm ta đuổi tàu đánh cá của họ.
Sáng ngày 19, tôi và đại tá Ngạc ở thường xuyên trên hệ thống âm thoại. Đến khoảng 10 giờ sáng, các chiến hạm Trung Cộng vẫn không thay đổi vị trí và bám sát chiến hạm Việt Nam. Tôi nhắc đại tá Ngạc chỉ thị là nếu dùng tín hiệu mà chiến hạm Trung Cộng không thi hành thì nhớ bắn trước mũi tàu họ trước chớ đừng bắn trúng họ. Đại tá Ngạc trả lời với tôi là không thể bắn dọa được vì các chiến hạm đôi bên đang ở vị trí quá gần nhau và ở thế “cài răng lược” tức là bạn địch ở vị trí xen kẻ với nhau, nếu tác xạ có thể trúng bạn.
Toán đổ bộ của chiến hạm HQ 16 được lịnh trở ra chiến hạm. Nhân viên xuống xuồng cao su, nhưng xử dụng được có một chiếc cho nên nhân viên bơi giỏi, hy sinh và níu vào bè mà bơi theo.
Tôi cảm thấy là không còn giải pháp nào khác, hoặc tấn công trước hoặc rời khỏi lãnh hải của mình để tránh đụng chạm. Lúc ấy tôi lại nghĩ ngay đến thủ bút của Tổng Thống. Nếu rời lãnh hải quốc gia bỏ đi là lịnh Tổng Thống sẽ không được thi hành. Rồi tôi sẽ trả lời ra sao với thượng cấp?
Tôi với đại tá Ngạc bàn đi bàn lại nhưng không biết phải làm thế nào và rồi tôi chỉ nói với đại tá Ngạc là khi tình hình quá căng thẳng thì mình phải khai hỏa trước để giảm thiểu thiệt hại. Đại tá Ngạc đồng ý với tôi là chiến hạm Việt Nam phải khai hỏa trước. Tôi nhắc thêm đại tá Ngạc: “Anh nhớ hãy chỉ thị cho tất cả chiến hạm khai hoả cùng một lúc khi anh bắt đầu khai hoả!” với mục đích phân tán sự phản pháo của địch. Đại tá Ngạc trả lời: “Nhận rõ 5 trên 5.” Tâm trạng bồi hồi, một cảm giác mà tôi không bao giờ quên, nhưng vì không rõ vị trí của từng chiến hạm, qua máy âm thoại, tôi nói tiếp: “Tùy nghi khai hỏa khi nào anh sẵn sàng!”
Vài phút sau, tiếng nổ chát chúa của các hải pháo vang dội trong máy truyền tin, dường như đại tá Ngạc hoặc nhân viên truyền tin cố tình bấm nút “on” để tôi có thể nghe, làm tôi vừa hãnh diện cho Hải Quân Việt Nam vừa lo sợ cho Hải Đội của đại tá Ngạc. Giọng đại tá Ngạc rất là bình tĩnh và nhà binh: “Báo cáo đã bắt đầu khai hoả!” Tôi trả lời ngay: “Tôi nghe tiếng súng rồi anh Ngạc”, và sau đó là một sự yên lặng trong khoảng năm mười phút, nhưng đối với tôi nó kéo dài như hằng giờ.
Toán đổ bộ của HQ 16 trên xuồng cao su đang chèo ra khơi thì trận hải chiến bắt đầu, thình lình một tiếng nổ lớn vang rền, nhìn kỹ thì họ thấy đó là một tàu Trung Cộng bị trúng đạn của chiến hạm Việt Nam. Cả toán reo lên và vị trung úy chỉ huy kêu gọi cả toán cùng hát bài: “Việt Nam, Việt Nam!”
Tôi không kể lại chi tiết trận hải chiến vì có những nhân chứng tại chỗ như trung tá Vũ Hữu San, Phạm Trọng Quỳnh, Lê Văn Thự, Ủy Ban Hải Sử cùng chiến sĩ Hải Quân khác đã kể chi tiết trong những tài liệu khác.
Sau một thời gian mất liên lạc vô tuyến, đại tá Ngạc bắt đầu báo cáo tổn thất cả đôi bên. Về phía tàu Trung Cộng thì một chiến hạm bị bốc cháy và khi bỏ chạy bị rướn lên đá san hô. Về phần Hải Quân Việt Nam thì chiếc hộ tống hạm Nhựt Tảo bị trúng đạn ngay đài chỉ huy. Hạm trưởng bị tử thương và chiến hạm đang bốc cháy. Chiếc Lý Thường Kiệt cũng bị trúng đạn hải pháo bắt đầu nghiêng một bên. Đại tá Ngạc cho biết tình trạng chiếc Nhựt Tảo rất nguy ngập. Tôi chỉ thị nếu có thể được thì cho chiếc nầy chạy thẳng và ủi vào bờ để ít nhứt xác tàu là một chứng cớ chúng ta bảo vệ hải đảo. Tại chỗ chiếc Nhựt Tảo chìm thì một số thủy thủ đang lềnh bềnh trên mặt nước, người thì đeo phao, người thì bám vào tất cả những gì đang nổi trên mặt nước. Dã man nhứt là khi một số thủy thủ thuộc chiến hạm Nhựt Tảo đa số bị thương, bị tàu Trung Công bất chấp quy lệ về hải chiến tiếp tục bắn xối xả vào các chiếc bè, rất may chỉ có một nhân viên bị thương nhờ tất cả nằm sát xuống bè để tránh đạn. Tôi điện thoại về Bộ Tư Lịnh Hải Quân tại Sàigòn để xin cố vấn Hoa Kỳ can thiệp với Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ đến nơi để cứu vớt các thủy thủ Việt Nam đang bị nạn. Mãi đến mấy ngày sau, chiến hạm Mỹ vẫn không đến mặc dù các thủy thủ đang trôi trên biển trong hải phận quốc tế. Điều đó cho thấy là họ không muốn tham dự vào vụ tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Cộng và hơn thế nữa họ cũng không có một hành động gì dù là một hành động nhân đạo.
Tôi thấy tình hình sau đó trở nên bi đát ví như châu chấu đá voi, tới không được mà lùi cũng chết. Giải pháp duy nhứt mà một cấp chỉ huy tối thiểu phải làm là xin tăng viện. Bộ Tư Linh tăng phái thêm cho vùng I Duyên Hải hai chiến hạm nữa là tuần dương hạm Trần Quốc Toản (HQ 6) và hộ tống hạm Chí Linh (HQ 11).
Sau khi nghe trận hải chiến bắt đầu, trung tướng Trưởng đáp trực thăng đến trung tâm hành quân của Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải và gặp tôi tại đó để nghe tôi trình bày tình hình. Lúc đó cố vấn Mỹ tại Sài gòn cho tôi biết, qua cố vấn của Hải Quân Vùng I Duyên Hải, có khoảng 17 chiến hạm Trung Cộng trong đó có 4 tàu ngầm đang hướng về Hoàng Sa từ phía Bắc. Sau này theo tài liệu hải sử thì không có ghi là có tàu ngầm.
Được tin trên, tôi có cảm giác ngay là nếu không khéo quyết định thì sẽ có một sự đụng độ lớn lao mà lần nầy sẽ là một thảm kịch cho lực lượng Hải Quân Việt Nam vì sự hiện diện của tàu ngầm. Ngay lúc đó, cố vấn trưởng Hoa Kỳ của Hải Quân Vùng I Duyên Hải bước vào Trung Tâm Hành Quân cho tôi biết phản lực cơ chiến đấu của Trung Cộng sắp cất cánh từ đảo Hải Nam để tấn công hai chiến hạm vừa được tôi chỉ định hướng về Hoàng Sa để gia nhập Hải Đội của đại tá Ngạc. Tôi rất lo ngại vì nếu 5 chiến hạm Việt Nam còn lại bị hạm đội và phi cơ Trung Cộng đánh chìm và thêm 5 thủy thủ đoàn nữa bỏ mình theo chiến hạm thì phần trách nhiệm của tôi quá nặng nề để tôi có thể lấy quyết định một mình, trong khi đó đô đốc Chơn vẫn chưa thấy đến Đà Nẵng. Rồi tự nhiên tôi chợt nghĩ tới một người, không ai khác hơn là Tướng Nguyễn Đức Khánh. Từ Trung Tâm Hành Quân Hải Quân tại Tiên Sa, trước sự hiện diện của Trung Tướng Trưởng tôi gọi điện thoại cho Chuẩn Kướng Khánh, tư lịnh Sư Đoàn I Không Quân. Tướng Khánh xuất thân là phi công khu trục. Khánh và tôi là bạn thân và chúng tôi không ngần ngại mà giúp đỡ lẫn nhau khi hữu sự. Khánh đã chở tôi theo phản lực cơ oanh tạc A-37 trong các phi vụ tập dượt của ông. Khi được điện thoại của tôi, ông nói để ông bàn lại với đơn vị khu trục của ông rồi sẽ gọi lại.
Khi Chuẩn Tướng Khánh gọi lại thì Trung Tướng Trưởng còn ngồi trong trung tâm hành quân. Ông Khánh bằng một giọng nói buồn cho tôi biết rằng ông có nói chuyện với vị chỉ huy Không Đoàn Khu Trục và được biết khu trục cơ F-5 của ông nếu ra Hoàng Sa chỉ chiến đấu được 15 phút vì sẽ không đủ xăng ở lâu hơn nữa. Tôi xoay qua hỏi Trung Tướng Trưởng nghĩ sao thì ông chỉ trả lời ngắn: “Tùy ông Thoại.” Tôi còn sợ một việc nữa là cuộc không chiến rất bất lợi về phía ta vì phi cơ Trung Cộng cất cánh từ Hải Nam gần hơn phi cơ của Không Quân Việt Nam cất cánh từ Đà Nẵng và cuộc chiến sẽ leo thang với mức độ mà chúng ta không lường trước được.
Trận hải chiến thật sự chỉ kéo dài hơn ba mươi phút. Khi phi cơ của Đô đốc Chơn và sĩ quan tùy viên của ông chạm đất tại phi trường Đà Nẳng thì trận hải chiến đã coi như kết thúc. Chiến hạm Việt Nam không đuổi theo tàu địch mà chiến hạm Trung Cộng cũng không đuổi theo chiến hạm Việt Nam.
Tôi gọi điện thoại về Bộ Tư Lịnh Hải Quân xin can thiệp với cố vấn Mỹ yêu cầu Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ vớt các thủy thủ Việt Nam, nhưng dường như họ được chỉ thị nên không một chiến hạm Mỹ nào đến gần nơi xảy ra cuộc hải chiến.
Với những đe dọa từ phía Trung Cộng, sự không tham dự của quốc gia mà chúng ta gọi là “đồng minh”, sự từ chối của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ trong việc cứu người trôi trên biển, tôi cảm thấy ê chề, đau đớn cho các thủy thủ đang trôi trên biển với những vết thương mà máu ra là dấu hiệu cho cá mập. Và trong sự chán nản tột cùng, tôi chỉ thị các chiến hạm bị thiệt hại rời chiến trường để đưa các thủy thủ tử thương và thương binh lên bờ tại Đà Nẵng.
Trớ trêu nhứt là 23 thủy thủ Việt Nam trôi dạt trên biển được tàu Skopionella của hãng Shell mang quốc kỳ Hòa Lan vớt, ngay sau trận hải chiến. Thương thuyền này đang trên đường từ Hong Kong đi Singapore. Trên tàu, các phu nhân của thuyền trưởng và thuyền phó chăm sóc các thủy thủ lâm nạn hết sức tận tình và tặng một số quà cho mỗi thủy thủ khi họ được giao lại cho đơn vị của Hải Đội I Duyên Phòng thuộc Vùng I Duyên Hải. Lúc ấy các nhân viên Hải Quân tham chiến đặt câu hỏi ai là “đồng minh” của ai?
Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ 16) bị trúng đạn nghiêng một bên sau trận hải chiến nên rút ra ngoài và được lịnh về Đà Nẵng, nên mất liên lac với toán đổ bộ. Mười ngày sau, 15 thủy thủ trên xuồng cao su sống lây lất trên bè, thiếu thức ăn nước uống, trôi dạt về đến Qui Nhơn và được một thuyền đánh cá cứu vớt mà chỉ có một thủy thủ chết vì kiệt sức, làm như nhờ một phép lạ mà các bác sĩ lúc đó không giải thích được.
Về phần trên đảo thì người nhái Hải Quân Việt Nam cũng chạm súng với toán đổ bộ của Trung Cộng bằng súng nhỏ. Trung úy Đơn, sĩ quan người nhái bị tử thương ngay lúc đầu khi xuồng cao su vừa đến bờ. Vì lực lượng người nhái Việt Nam quá ít nên sau cùng phải đầu hàng và bị bắt làm tù binh.
Sáng sớm ngày 20 tháng 1, một hải đội tiếp viện hùng hậu của Trung Cộng trên mười chiến hạm bắt đầu đổ quân lên bờ tràn ngập hai đảo Cam Tuyền và Hoàng Sa. Toán đổ bộ của khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ 4) trên đảo Cam Tuyền cũng như nhân viên Đài khí tượng, địa phương quân và biệt hải trên đảo Hoàng Sa bị bắt làm tù binh, tổng cộng 43 người được đưa về tỉnh Quảng Châu, Trung Cộng. Viên cố vấn Hoa Kỳ đi theo chiến hạm cũng được đưa đi Trung Hoa Lục Địa. Tất cả được trao trả lại cho chánh phủ Việt Nam Cộng Hoà, qua Hồng Thập Tự Quốc Tế, sau 27 ngày bị giam giữ nhưng họ được đối xử tương đối nhân đạo. Đề Đốc Lâm Nguơn Tánh được cử sang Hong Kong để tiếp nhận. Sự hiện diện của người Mỹ nói trên là một sự bối rối cho chánh phủ Hoa Kỳ kể cả chánh phủ Trung Cộng.
Tại tân cảng Tiên Sa (hải cảng sâu), trong khi chờ chiến hạm Lý Thường Kiệt cập bến đưa thương bịnh binh về Đà Nẵng, tôi nói với đô đốc Chơn: “Tư Lịnh, sao tôi có linh tính là Mỹ sẽ bỏ Việt Nam, nếu không tại sao họ biết Hoàng Sa là của Việt Nam mà đài khí tượng tại đó đã được quốc tế công nhận từ mấy chục năm nay, mà ngày giờ nầy họ tuyệt đối yên lặng để Trung Cộng cưỡng chiếm. Phải chăng là trước khi bỏ miền Nam, họ không muốn Hoàng Sa lọt vào tay Nga Sô?” Đô Đốc Chơn, một tướng lãnh hết sức hiểu biết nhưng dè dặt trong mọi việc, khi nghe tôi nói ông lặng thinh một hồi rồi trả lời: “Tôi không nghĩ như vậy.” Rồi ông xoay qua đề tài khác.
Khi chiến hạm Lý Thường Kiệt cập vào cầu tàu của tân cảng tại Tiên Sa, thì một cảnh tượng hết sức đau buồn diễn ra khi các băng ca đưa các nhân viên bị tử thương cũng như bị thương được đưa lên các xe cứu thương.
Tôi đích thân ra tận phi trường Đà Nẵng để tiển đưa một số thương binh bị thương nặng lên máy bay về các bịnh viện ở Sàigòn.
Vài ngày sau, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, thủ tướng chánh phủ hướng dẫn một phái đoàn đến ủy lạo các thương binh còn lại tại bịnh xá Hải Quân Sơn Chà.
Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị cũng đề cử một phái đoàn dưới sự hướng dẫn của Đại tá Trần Văn Triết, tham mưu phó chiến tranh chính trị của Bộ Tư Lịnh Hải Quân, ra Đà Nẵng phỏng vấn và quay phim, được tôi và đại tá Ngạc tiếp đón, thuyết trình diễn tiến trận hải chiến, trên sân thượng của tuần dương hạm Trần Bình Trọng.
Thế là kết thúc một sự xâm lăng bằng võ lực của một cường quốc đối với một quốc gia nhỏ bé.
Sự tổn thất của đôi bên gồm:
Hải Quân Trung Cộng:
Hộ tống hạm Kronstad 274 bị chìm, chiến hạm này do hạm trưởng đại tá Quan Đức chỉ huy, tử trận. Vì chiến hạm này là soái hạm nên hầu hết bộ tham mưu đều tử trận gồm:
Đô đốc Phương Quang Kính, tư lịnh phó của Hạm Đội Nam Hải của Hải Quân Trung Cộng, 4 đại tá, 6 trung tá, 2 thiếu tá, 7 sĩ quan cấp uý và một số đoàn viên.
Hộ tống hạm Kronstad 271 hư hại nặng, ủi bãi sau đó phải phá hủy, hạm trưởng đại tá Vương Kỳ Uy tử trận.
Trục lôi hạm 389 bị hư hại nặng, hạm trưởng trung tá Triệu Quát tử trận.
Trục lôi hạm 396 bị hư hại nặng do đại tá Diệp Mạnh Hải tử trận, chỉ huy.
Hải quân Việt Nam Cộng Hoà:
Hộ tống hạm Nhựt Tảo(HQ 10) bị chìm do Thiếu tá (truy thăng cấp trung tá) Ngụy Văn Thà chỉ huy, tử thương với 24 chiến sĩ khác hy sinh và 26 chiến sĩ mất tích. Hạm phó Đại uý Nguyền Thành Trí tử thương trên xuồng cao su sau khi chiến hạm chìm.
Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ 4) bị hư hại với 2 chiến sĩ tử thương.
Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ 5) bị hư hại với 2 chiến sĩ hy sinh.
Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ 16) có một chiến sĩ hy sinh và 14 chiến sĩ khác trôi dạt trên xuồng cao su về Qui Nhơn.
2 nhân viên người nhái tử thương trên hải đảo.
28 quân nhân Hải Quân, Lục Quân và Địa Phương Quân Việt Nam bị bắt làm tù binh và đưa về Trung Hoa Lục Địa.
Vào tháng 2 năm 1999, sau 25 năm mất liên lạc với nhau từ trận chiến Hoàng Sa, tôi có dịp sắp đi công tác tại Dallas thuộc tiểu bang Texas, tôi sực nhớ nghe nói đại tá Ngạc đang cư ngụ tại Dallas. Tôi hỏi thăm số điện thoại và liên lạc nói chuyện với đại tá Ngạc.
Qua điện thoại tôi nói nguyên văn như sau: “Tôi rất mừng tìm được anh sau bao nhiêu năm chúng ta xa cách. Mỗi người nhìn sự việc xảy ra tại Hoàng Sa khác nhau, chỉ tôi và anh thấu rõ hoàn cảnh lúc bấy giờ, sự khó khăn của cấp chỉ huy trực tiếp chịu trách nhiêm trên mặt pháp lý cũng như quân sự. Tôi cám ơn anh giúp tôi thi hành trách nhiệm của tôi lúc bấy giờ trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn và nguy hiểm. Anh là một anh hùng trong lịch sử hải chiến.” Đại tá Ngạc bằng một giọng bình thản trả lời tôi qua điện thoại từ Dallas: “Đã là ở trong quân ngũ, đô đốc là cấp chỉ huy chiến thuật mà tôi thấy đô đốc lúc đó cần tôi và tin tôi, đó mới là điều quan trọng, tôi cố gắng làm tối đa cái gì tôi làm được nhưng hậu quả nhiều khi mình không biết trước được.”
Cuộc điện đàm rất là thân mật và cảm động, tôi cho Đại tá Ngạc biết là ngày 27/2 tôi sẽ đi công tác tại Dallas và sẽ gặp ông ngày hôm đó. Đại tá Ngạc rất mừng và nói: “May quá, vì cuối tháng này chúng tôi sẽ dọn đi California.” Tôi không dè đại tá Ngạc qua đời một cách đột ngột vài ngày sau khi nói điện thoại với tôi và đúng 15 ngày trước ngày hẹn gặp tôi. Có lẽ tôi là người hải quân cuối cùng mà đại tá Ngạc nói chuyện trước khi rời gia đình và chiến hữu để ra đi vĩnh viễn.
Niềm an ủi của tôi là được nói những gì tôi muốn nói với đại tá Ngạc từ Tết năm 1974, hai mươi lăm năm về trước.
Sự hy sinh của các thủy thủ can trường vẫn còn là một bằng chứng bằng xương bằng máu để con cháu chúng ta tranh đấu trước toà án quốc tế, để đòi hỏi Trung Cộng phải giao trả các đảo này cho Việt Nam.
Ai là người Việt Nam có quyền hãnh diện là trận hải chiến Hoàng Sa là một trận hải chiến duy nhất của Việt Nam và của thế kỷ, chống ngoại xâm, và bảy thế kỷ sau khi Tướng Trần Hưng Đạo đánh bại quân Mông Cổ từ phương Bắc, trên mặt nước.
Còn những ai nghĩ là Việt Nam Cộng Hoà còn lệ thuộc Mỹ phần nào thì đây là bằng chứng rõ rệt là việc tấn công lực lượng Trung Cộng là hoàn toàn do tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lịnh, không có sự đồng ý của Hoa Kỳ và không có sự giúp đỡ của Hoa Kỳ dù là nhân đạo tối thiểu như vớt người trôi trên biển cả.
Sau này, rất nhiều báo chí sách vở bình luận về hải đảo Hoàng Sa và trận hải chiến và phê phán nhiều, kẻ kể công người buộc tội, riêng tôi thì chúng ta không nên quên là dù chúng ta có bốn thủy thủ đoàn can trường tham gia cuộc hải chiến nhưng các chiến hạm của ta vừa cũ kỷ (từ Đệ Nhị Thế Chiến) không có đầy đủ vũ khí tối tân, kể cả đầy đủ phương tiện cấp cứu và cũng không có một lực lượng trừ bị để tăng cường khi cần. Việc súng bất khiển dụng bất thần hoặc đạn bạn bắn trúng bạn là chuyện không sao tránh khỏi trong mọi chiến trận dù là trên đất liền, trên không trung hay trên mặt biển trong lúc chạm địch.
Đại tá Hà Văn Ngạc, vị hải đội trưởng trầm lặng, các hạm trưởng Nguỵ Văn Thà, Vũ Hữu San, Phạm Trọng Quỳnh, Lê Văn Thự cùng thủy thủ đoàn cũng như các người nhái và biệt hải tham dự trận Hoàng Sa xứng đáng là những anh hùng của Quân Lực Việt Nam.
Hải Đội Việt Nam Cộng Hòa nổ súng chỉ là một hành động “tượng trưng nhưng cứng rắn” để chứng tỏ sự bảo vệ chủ quyền các đảo Hoàng Sa chớ không có mục tiêu hủy diệt hải đội của Trung Cộng.
Tổng thống Thiệu bị ở trong thế “chẳng đặng đừng.” Không phản ứng gì hết thì lịch sử sẽ kết tội hèn nhát, mà đụng độ với hải quân của một cường quốc như Trung Cộng thời bấy giờ là một quyết định táo bạo và can trường.
Tinh thần yêu nước không cần được biểu lộ bằng những lời tuyên bố mát tai của những chính trị gia, mà được biểu lộ một cách cảm động và hùng hồn nhất, bởi những thủy thủ của toán đổ bộ của tuần dương hạm Lý Thường Kiệt vào lúc 10 giờ 30 sáng ngày 19 tháng giêng năm 1974 tại Hoàng Sa trên xuồng cao su, khi 15 chiến sĩ hải quân can trường đồng ca bài “Việt Nam, Việt Nam” khi thấy chiến hạm Trung Cộng bị trúng đạn của chiến hạm Việt Nam. Bài hát này cũng là bài hát cuối cùng của hạ sĩ Nguyễn văn Duyên, vì sau mười ngày trên biển cả, ngày thì nóng cháy da, đêm thì lạnh thấu xương, hết lương thực, hết nước uống, đuối sức, anh Duyên đã trút hơi thở cuối cùng khi trôi dạt về tới Qui Nhơn...
Trích trong tập Hồi Ký :
CAN TRƯỜNG TRONG CHIẾN BẠI
HỒ VĂN KỲ THOẠI
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA - HỒ VĂN KỲ THOẠI
TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA
*
(Tài liệu lịch sử sau đây trích một phần từ chương 16, từ ngày 18/1/1974 tức một ngày trước khi xảy ra cuộc hải chiến Hoàng Sa, trong sách “CAN TRƯỜNG TRONG CHIẾN BẠI” của tác giả Hồ Văn Kỳ-Thoại xuất bản năm 2007. Ông nguyên là Phó Đề Đốc Tư lệnh Hải quân Vùng I Duyên Hải, Quân khu I, Việt Nam Cộng Hoà, từ năm 1970 đến năm 1975.)
Mười giờ sáng ngày 18 tháng 1, trung tá San, hạm trưởng khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ 4) cho toán đổ bộ lên bờ gồm một trung úy và mười ba đoàn viên để thám sát đảo Cam Tuyền vì thấy có chiến hạm Trung Cộng thả trôi gần đó.Toán này cắm cờ Việt Nam khi lên tới đảo.
Khi hải đội của đại tá Ngạc đến Hoàng Sa thì tôi được biết là có ít nhứt bốn chiến hạm của Trung Cộng đã có mặt tại vùng đảo. Các chiến hạm của Trung Cộng và Việt Nam hải hành rất gần nhau. Chiến hạm Việt Nam ra dấu hiệu đuổi chiến hạm Trung Cộng ra ngoài lãnh hải. Trên chiến hạm Trung Cộng thì các thủy thủ của họ cũng ra dấu yêu cầu chiến hạm Việt Nam phải ra xa các đảo.
Chiều ngày hôm đó, tình hình tại Hoàng Sa càng thêm căng thẳng. Các chiến hạm hai bên chạy kế bên nhau và chĩa súng vào nhau. Ngày hôm sau, tôi liên lạc điện thoại về Bộ Tư Lịnh Hải Quân tại Sàigòn để hỏi vị trí các đơn vị của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ. Đại tá Kiểm, giám đốc Trung tâm hành quân Hải Quân, theo dõi và thông báo cho tôi kịp thời mọi tin tức về phía Hoa Kỳ và xác nhân rằng các chiến hạm Hoa Kỳ ở rất gần các vị trí chiến hạm Việt Nam. Ông nói với tôi: “Cứ yên trí.” Tôi nói với đại tá Kiểm rằng tôi không biết việc gì sắp xảy ra, có lẽ chỉ yêu cầu chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội cứu vớt thủy thủ Việt Nam nếu có tổn thất. Tôi không nghĩ rằng họ sẽ can thiệp vào chiến trận.
Đại tá Ngạc báo cáo tiếp theo là các chiến hạm Trung Cộng đến quá gần chiến hạm Việt Nam, có ý khiêu khích và đôi khi làm cho các chiến hạm Việt Nam vận chuyển khó khăn vì chung quanh các đảo lại có rất nhiều đá san hô. Tôi gọi máy về Sàigòn thì đô đốc Chơn đang trên phi cơ trên đường ra Đà Nẵng, nhưng không biết lúc nào ông sẽ đến Đà Nẵng. Tôi nói chuyện âm thoại với đại tá Ngạc và ông nói rằng việc chạm súng chắc là không sao tránh khỏi. Tôi và đại tá Ngạc rất khó xử. Nếu Trung Cộng nổ súng trước thì chúng tôi không có gì phải tính toán và phải nổ súng tự vệ. Nhưng lúc ấy tổn thất sẽ rất nặng nề về phía Hải Quân Việt Nam. Không còn ai có thể giúp tôi quyết định. Tôi nghĩ là nếu Hải Quân Việt Nam nổ súng trước thì rất có lợi vì địch bị bất ngờ và ta làm chủ được tình hình. Trong đêm đại tá Ngạc và tôi nói chuyện với nhau rất nhiều vì cả hai đều lo âu, dù không nói ra, cả hai đều đoán là Trung Cộng sẽ không nhượng bộ như mấy lần trước khi chiến hạm ta đuổi tàu đánh cá của họ.
Sáng ngày 19, tôi và đại tá Ngạc ở thường xuyên trên hệ thống âm thoại. Đến khoảng 10 giờ sáng, các chiến hạm Trung Cộng vẫn không thay đổi vị trí và bám sát chiến hạm Việt Nam. Tôi nhắc đại tá Ngạc chỉ thị là nếu dùng tín hiệu mà chiến hạm Trung Cộng không thi hành thì nhớ bắn trước mũi tàu họ trước chớ đừng bắn trúng họ. Đại tá Ngạc trả lời với tôi là không thể bắn dọa được vì các chiến hạm đôi bên đang ở vị trí quá gần nhau và ở thế “cài răng lược” tức là bạn địch ở vị trí xen kẻ với nhau, nếu tác xạ có thể trúng bạn.
Toán đổ bộ của chiến hạm HQ 16 được lịnh trở ra chiến hạm. Nhân viên xuống xuồng cao su, nhưng xử dụng được có một chiếc cho nên nhân viên bơi giỏi, hy sinh và níu vào bè mà bơi theo.
Tôi cảm thấy là không còn giải pháp nào khác, hoặc tấn công trước hoặc rời khỏi lãnh hải của mình để tránh đụng chạm. Lúc ấy tôi lại nghĩ ngay đến thủ bút của Tổng Thống. Nếu rời lãnh hải quốc gia bỏ đi là lịnh Tổng Thống sẽ không được thi hành. Rồi tôi sẽ trả lời ra sao với thượng cấp?
Tôi với đại tá Ngạc bàn đi bàn lại nhưng không biết phải làm thế nào và rồi tôi chỉ nói với đại tá Ngạc là khi tình hình quá căng thẳng thì mình phải khai hỏa trước để giảm thiểu thiệt hại. Đại tá Ngạc đồng ý với tôi là chiến hạm Việt Nam phải khai hỏa trước. Tôi nhắc thêm đại tá Ngạc: “Anh nhớ hãy chỉ thị cho tất cả chiến hạm khai hoả cùng một lúc khi anh bắt đầu khai hoả!” với mục đích phân tán sự phản pháo của địch. Đại tá Ngạc trả lời: “Nhận rõ 5 trên 5.” Tâm trạng bồi hồi, một cảm giác mà tôi không bao giờ quên, nhưng vì không rõ vị trí của từng chiến hạm, qua máy âm thoại, tôi nói tiếp: “Tùy nghi khai hỏa khi nào anh sẵn sàng!”
Vài phút sau, tiếng nổ chát chúa của các hải pháo vang dội trong máy truyền tin, dường như đại tá Ngạc hoặc nhân viên truyền tin cố tình bấm nút “on” để tôi có thể nghe, làm tôi vừa hãnh diện cho Hải Quân Việt Nam vừa lo sợ cho Hải Đội của đại tá Ngạc. Giọng đại tá Ngạc rất là bình tĩnh và nhà binh: “Báo cáo đã bắt đầu khai hoả!” Tôi trả lời ngay: “Tôi nghe tiếng súng rồi anh Ngạc”, và sau đó là một sự yên lặng trong khoảng năm mười phút, nhưng đối với tôi nó kéo dài như hằng giờ.
Toán đổ bộ của HQ 16 trên xuồng cao su đang chèo ra khơi thì trận hải chiến bắt đầu, thình lình một tiếng nổ lớn vang rền, nhìn kỹ thì họ thấy đó là một tàu Trung Cộng bị trúng đạn của chiến hạm Việt Nam. Cả toán reo lên và vị trung úy chỉ huy kêu gọi cả toán cùng hát bài: “Việt Nam, Việt Nam!”
Tôi không kể lại chi tiết trận hải chiến vì có những nhân chứng tại chỗ như trung tá Vũ Hữu San, Phạm Trọng Quỳnh, Lê Văn Thự, Ủy Ban Hải Sử cùng chiến sĩ Hải Quân khác đã kể chi tiết trong những tài liệu khác.
Sau một thời gian mất liên lạc vô tuyến, đại tá Ngạc bắt đầu báo cáo tổn thất cả đôi bên. Về phía tàu Trung Cộng thì một chiến hạm bị bốc cháy và khi bỏ chạy bị rướn lên đá san hô. Về phần Hải Quân Việt Nam thì chiếc hộ tống hạm Nhựt Tảo bị trúng đạn ngay đài chỉ huy. Hạm trưởng bị tử thương và chiến hạm đang bốc cháy. Chiếc Lý Thường Kiệt cũng bị trúng đạn hải pháo bắt đầu nghiêng một bên. Đại tá Ngạc cho biết tình trạng chiếc Nhựt Tảo rất nguy ngập. Tôi chỉ thị nếu có thể được thì cho chiếc nầy chạy thẳng và ủi vào bờ để ít nhứt xác tàu là một chứng cớ chúng ta bảo vệ hải đảo. Tại chỗ chiếc Nhựt Tảo chìm thì một số thủy thủ đang lềnh bềnh trên mặt nước, người thì đeo phao, người thì bám vào tất cả những gì đang nổi trên mặt nước. Dã man nhứt là khi một số thủy thủ thuộc chiến hạm Nhựt Tảo đa số bị thương, bị tàu Trung Công bất chấp quy lệ về hải chiến tiếp tục bắn xối xả vào các chiếc bè, rất may chỉ có một nhân viên bị thương nhờ tất cả nằm sát xuống bè để tránh đạn. Tôi điện thoại về Bộ Tư Lịnh Hải Quân tại Sàigòn để xin cố vấn Hoa Kỳ can thiệp với Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ đến nơi để cứu vớt các thủy thủ Việt Nam đang bị nạn. Mãi đến mấy ngày sau, chiến hạm Mỹ vẫn không đến mặc dù các thủy thủ đang trôi trên biển trong hải phận quốc tế. Điều đó cho thấy là họ không muốn tham dự vào vụ tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Cộng và hơn thế nữa họ cũng không có một hành động gì dù là một hành động nhân đạo.
Tôi thấy tình hình sau đó trở nên bi đát ví như châu chấu đá voi, tới không được mà lùi cũng chết. Giải pháp duy nhứt mà một cấp chỉ huy tối thiểu phải làm là xin tăng viện. Bộ Tư Linh tăng phái thêm cho vùng I Duyên Hải hai chiến hạm nữa là tuần dương hạm Trần Quốc Toản (HQ 6) và hộ tống hạm Chí Linh (HQ 11).
Sau khi nghe trận hải chiến bắt đầu, trung tướng Trưởng đáp trực thăng đến trung tâm hành quân của Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải và gặp tôi tại đó để nghe tôi trình bày tình hình. Lúc đó cố vấn Mỹ tại Sài gòn cho tôi biết, qua cố vấn của Hải Quân Vùng I Duyên Hải, có khoảng 17 chiến hạm Trung Cộng trong đó có 4 tàu ngầm đang hướng về Hoàng Sa từ phía Bắc. Sau này theo tài liệu hải sử thì không có ghi là có tàu ngầm.
Được tin trên, tôi có cảm giác ngay là nếu không khéo quyết định thì sẽ có một sự đụng độ lớn lao mà lần nầy sẽ là một thảm kịch cho lực lượng Hải Quân Việt Nam vì sự hiện diện của tàu ngầm. Ngay lúc đó, cố vấn trưởng Hoa Kỳ của Hải Quân Vùng I Duyên Hải bước vào Trung Tâm Hành Quân cho tôi biết phản lực cơ chiến đấu của Trung Cộng sắp cất cánh từ đảo Hải Nam để tấn công hai chiến hạm vừa được tôi chỉ định hướng về Hoàng Sa để gia nhập Hải Đội của đại tá Ngạc. Tôi rất lo ngại vì nếu 5 chiến hạm Việt Nam còn lại bị hạm đội và phi cơ Trung Cộng đánh chìm và thêm 5 thủy thủ đoàn nữa bỏ mình theo chiến hạm thì phần trách nhiệm của tôi quá nặng nề để tôi có thể lấy quyết định một mình, trong khi đó đô đốc Chơn vẫn chưa thấy đến Đà Nẵng. Rồi tự nhiên tôi chợt nghĩ tới một người, không ai khác hơn là Tướng Nguyễn Đức Khánh. Từ Trung Tâm Hành Quân Hải Quân tại Tiên Sa, trước sự hiện diện của Trung Tướng Trưởng tôi gọi điện thoại cho Chuẩn Kướng Khánh, tư lịnh Sư Đoàn I Không Quân. Tướng Khánh xuất thân là phi công khu trục. Khánh và tôi là bạn thân và chúng tôi không ngần ngại mà giúp đỡ lẫn nhau khi hữu sự. Khánh đã chở tôi theo phản lực cơ oanh tạc A-37 trong các phi vụ tập dượt của ông. Khi được điện thoại của tôi, ông nói để ông bàn lại với đơn vị khu trục của ông rồi sẽ gọi lại.
Khi Chuẩn Tướng Khánh gọi lại thì Trung Tướng Trưởng còn ngồi trong trung tâm hành quân. Ông Khánh bằng một giọng nói buồn cho tôi biết rằng ông có nói chuyện với vị chỉ huy Không Đoàn Khu Trục và được biết khu trục cơ F-5 của ông nếu ra Hoàng Sa chỉ chiến đấu được 15 phút vì sẽ không đủ xăng ở lâu hơn nữa. Tôi xoay qua hỏi Trung Tướng Trưởng nghĩ sao thì ông chỉ trả lời ngắn: “Tùy ông Thoại.” Tôi còn sợ một việc nữa là cuộc không chiến rất bất lợi về phía ta vì phi cơ Trung Cộng cất cánh từ Hải Nam gần hơn phi cơ của Không Quân Việt Nam cất cánh từ Đà Nẵng và cuộc chiến sẽ leo thang với mức độ mà chúng ta không lường trước được.
Trận hải chiến thật sự chỉ kéo dài hơn ba mươi phút. Khi phi cơ của Đô đốc Chơn và sĩ quan tùy viên của ông chạm đất tại phi trường Đà Nẳng thì trận hải chiến đã coi như kết thúc. Chiến hạm Việt Nam không đuổi theo tàu địch mà chiến hạm Trung Cộng cũng không đuổi theo chiến hạm Việt Nam.
Tôi gọi điện thoại về Bộ Tư Lịnh Hải Quân xin can thiệp với cố vấn Mỹ yêu cầu Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ vớt các thủy thủ Việt Nam, nhưng dường như họ được chỉ thị nên không một chiến hạm Mỹ nào đến gần nơi xảy ra cuộc hải chiến.
Với những đe dọa từ phía Trung Cộng, sự không tham dự của quốc gia mà chúng ta gọi là “đồng minh”, sự từ chối của Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ trong việc cứu người trôi trên biển, tôi cảm thấy ê chề, đau đớn cho các thủy thủ đang trôi trên biển với những vết thương mà máu ra là dấu hiệu cho cá mập. Và trong sự chán nản tột cùng, tôi chỉ thị các chiến hạm bị thiệt hại rời chiến trường để đưa các thủy thủ tử thương và thương binh lên bờ tại Đà Nẵng.
Trớ trêu nhứt là 23 thủy thủ Việt Nam trôi dạt trên biển được tàu Skopionella của hãng Shell mang quốc kỳ Hòa Lan vớt, ngay sau trận hải chiến. Thương thuyền này đang trên đường từ Hong Kong đi Singapore. Trên tàu, các phu nhân của thuyền trưởng và thuyền phó chăm sóc các thủy thủ lâm nạn hết sức tận tình và tặng một số quà cho mỗi thủy thủ khi họ được giao lại cho đơn vị của Hải Đội I Duyên Phòng thuộc Vùng I Duyên Hải. Lúc ấy các nhân viên Hải Quân tham chiến đặt câu hỏi ai là “đồng minh” của ai?
Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ 16) bị trúng đạn nghiêng một bên sau trận hải chiến nên rút ra ngoài và được lịnh về Đà Nẵng, nên mất liên lac với toán đổ bộ. Mười ngày sau, 15 thủy thủ trên xuồng cao su sống lây lất trên bè, thiếu thức ăn nước uống, trôi dạt về đến Qui Nhơn và được một thuyền đánh cá cứu vớt mà chỉ có một thủy thủ chết vì kiệt sức, làm như nhờ một phép lạ mà các bác sĩ lúc đó không giải thích được.
Về phần trên đảo thì người nhái Hải Quân Việt Nam cũng chạm súng với toán đổ bộ của Trung Cộng bằng súng nhỏ. Trung úy Đơn, sĩ quan người nhái bị tử thương ngay lúc đầu khi xuồng cao su vừa đến bờ. Vì lực lượng người nhái Việt Nam quá ít nên sau cùng phải đầu hàng và bị bắt làm tù binh.
Sáng sớm ngày 20 tháng 1, một hải đội tiếp viện hùng hậu của Trung Cộng trên mười chiến hạm bắt đầu đổ quân lên bờ tràn ngập hai đảo Cam Tuyền và Hoàng Sa. Toán đổ bộ của khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ 4) trên đảo Cam Tuyền cũng như nhân viên Đài khí tượng, địa phương quân và biệt hải trên đảo Hoàng Sa bị bắt làm tù binh, tổng cộng 43 người được đưa về tỉnh Quảng Châu, Trung Cộng. Viên cố vấn Hoa Kỳ đi theo chiến hạm cũng được đưa đi Trung Hoa Lục Địa. Tất cả được trao trả lại cho chánh phủ Việt Nam Cộng Hoà, qua Hồng Thập Tự Quốc Tế, sau 27 ngày bị giam giữ nhưng họ được đối xử tương đối nhân đạo. Đề Đốc Lâm Nguơn Tánh được cử sang Hong Kong để tiếp nhận. Sự hiện diện của người Mỹ nói trên là một sự bối rối cho chánh phủ Hoa Kỳ kể cả chánh phủ Trung Cộng.
Tại tân cảng Tiên Sa (hải cảng sâu), trong khi chờ chiến hạm Lý Thường Kiệt cập bến đưa thương bịnh binh về Đà Nẵng, tôi nói với đô đốc Chơn: “Tư Lịnh, sao tôi có linh tính là Mỹ sẽ bỏ Việt Nam, nếu không tại sao họ biết Hoàng Sa là của Việt Nam mà đài khí tượng tại đó đã được quốc tế công nhận từ mấy chục năm nay, mà ngày giờ nầy họ tuyệt đối yên lặng để Trung Cộng cưỡng chiếm. Phải chăng là trước khi bỏ miền Nam, họ không muốn Hoàng Sa lọt vào tay Nga Sô?” Đô Đốc Chơn, một tướng lãnh hết sức hiểu biết nhưng dè dặt trong mọi việc, khi nghe tôi nói ông lặng thinh một hồi rồi trả lời: “Tôi không nghĩ như vậy.” Rồi ông xoay qua đề tài khác.
Khi chiến hạm Lý Thường Kiệt cập vào cầu tàu của tân cảng tại Tiên Sa, thì một cảnh tượng hết sức đau buồn diễn ra khi các băng ca đưa các nhân viên bị tử thương cũng như bị thương được đưa lên các xe cứu thương.
Tôi đích thân ra tận phi trường Đà Nẵng để tiển đưa một số thương binh bị thương nặng lên máy bay về các bịnh viện ở Sàigòn.
Vài ngày sau, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, thủ tướng chánh phủ hướng dẫn một phái đoàn đến ủy lạo các thương binh còn lại tại bịnh xá Hải Quân Sơn Chà.
Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị cũng đề cử một phái đoàn dưới sự hướng dẫn của Đại tá Trần Văn Triết, tham mưu phó chiến tranh chính trị của Bộ Tư Lịnh Hải Quân, ra Đà Nẵng phỏng vấn và quay phim, được tôi và đại tá Ngạc tiếp đón, thuyết trình diễn tiến trận hải chiến, trên sân thượng của tuần dương hạm Trần Bình Trọng.
Thế là kết thúc một sự xâm lăng bằng võ lực của một cường quốc đối với một quốc gia nhỏ bé.
Sự tổn thất của đôi bên gồm:
Hải Quân Trung Cộng:
Hộ tống hạm Kronstad 274 bị chìm, chiến hạm này do hạm trưởng đại tá Quan Đức chỉ huy, tử trận. Vì chiến hạm này là soái hạm nên hầu hết bộ tham mưu đều tử trận gồm:
Đô đốc Phương Quang Kính, tư lịnh phó của Hạm Đội Nam Hải của Hải Quân Trung Cộng, 4 đại tá, 6 trung tá, 2 thiếu tá, 7 sĩ quan cấp uý và một số đoàn viên.
Hộ tống hạm Kronstad 271 hư hại nặng, ủi bãi sau đó phải phá hủy, hạm trưởng đại tá Vương Kỳ Uy tử trận.
Trục lôi hạm 389 bị hư hại nặng, hạm trưởng trung tá Triệu Quát tử trận.
Trục lôi hạm 396 bị hư hại nặng do đại tá Diệp Mạnh Hải tử trận, chỉ huy.
Hải quân Việt Nam Cộng Hoà:
Hộ tống hạm Nhựt Tảo(HQ 10) bị chìm do Thiếu tá (truy thăng cấp trung tá) Ngụy Văn Thà chỉ huy, tử thương với 24 chiến sĩ khác hy sinh và 26 chiến sĩ mất tích. Hạm phó Đại uý Nguyền Thành Trí tử thương trên xuồng cao su sau khi chiến hạm chìm.
Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ 4) bị hư hại với 2 chiến sĩ tử thương.
Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ 5) bị hư hại với 2 chiến sĩ hy sinh.
Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ 16) có một chiến sĩ hy sinh và 14 chiến sĩ khác trôi dạt trên xuồng cao su về Qui Nhơn.
2 nhân viên người nhái tử thương trên hải đảo.
28 quân nhân Hải Quân, Lục Quân và Địa Phương Quân Việt Nam bị bắt làm tù binh và đưa về Trung Hoa Lục Địa.
Vào tháng 2 năm 1999, sau 25 năm mất liên lạc với nhau từ trận chiến Hoàng Sa, tôi có dịp sắp đi công tác tại Dallas thuộc tiểu bang Texas, tôi sực nhớ nghe nói đại tá Ngạc đang cư ngụ tại Dallas. Tôi hỏi thăm số điện thoại và liên lạc nói chuyện với đại tá Ngạc.
Qua điện thoại tôi nói nguyên văn như sau: “Tôi rất mừng tìm được anh sau bao nhiêu năm chúng ta xa cách. Mỗi người nhìn sự việc xảy ra tại Hoàng Sa khác nhau, chỉ tôi và anh thấu rõ hoàn cảnh lúc bấy giờ, sự khó khăn của cấp chỉ huy trực tiếp chịu trách nhiêm trên mặt pháp lý cũng như quân sự. Tôi cám ơn anh giúp tôi thi hành trách nhiệm của tôi lúc bấy giờ trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn và nguy hiểm. Anh là một anh hùng trong lịch sử hải chiến.” Đại tá Ngạc bằng một giọng bình thản trả lời tôi qua điện thoại từ Dallas: “Đã là ở trong quân ngũ, đô đốc là cấp chỉ huy chiến thuật mà tôi thấy đô đốc lúc đó cần tôi và tin tôi, đó mới là điều quan trọng, tôi cố gắng làm tối đa cái gì tôi làm được nhưng hậu quả nhiều khi mình không biết trước được.”
Cuộc điện đàm rất là thân mật và cảm động, tôi cho Đại tá Ngạc biết là ngày 27/2 tôi sẽ đi công tác tại Dallas và sẽ gặp ông ngày hôm đó. Đại tá Ngạc rất mừng và nói: “May quá, vì cuối tháng này chúng tôi sẽ dọn đi California.” Tôi không dè đại tá Ngạc qua đời một cách đột ngột vài ngày sau khi nói điện thoại với tôi và đúng 15 ngày trước ngày hẹn gặp tôi. Có lẽ tôi là người hải quân cuối cùng mà đại tá Ngạc nói chuyện trước khi rời gia đình và chiến hữu để ra đi vĩnh viễn.
Niềm an ủi của tôi là được nói những gì tôi muốn nói với đại tá Ngạc từ Tết năm 1974, hai mươi lăm năm về trước.
Sự hy sinh của các thủy thủ can trường vẫn còn là một bằng chứng bằng xương bằng máu để con cháu chúng ta tranh đấu trước toà án quốc tế, để đòi hỏi Trung Cộng phải giao trả các đảo này cho Việt Nam.
Ai là người Việt Nam có quyền hãnh diện là trận hải chiến Hoàng Sa là một trận hải chiến duy nhất của Việt Nam và của thế kỷ, chống ngoại xâm, và bảy thế kỷ sau khi Tướng Trần Hưng Đạo đánh bại quân Mông Cổ từ phương Bắc, trên mặt nước.
Còn những ai nghĩ là Việt Nam Cộng Hoà còn lệ thuộc Mỹ phần nào thì đây là bằng chứng rõ rệt là việc tấn công lực lượng Trung Cộng là hoàn toàn do tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lịnh, không có sự đồng ý của Hoa Kỳ và không có sự giúp đỡ của Hoa Kỳ dù là nhân đạo tối thiểu như vớt người trôi trên biển cả.
Sau này, rất nhiều báo chí sách vở bình luận về hải đảo Hoàng Sa và trận hải chiến và phê phán nhiều, kẻ kể công người buộc tội, riêng tôi thì chúng ta không nên quên là dù chúng ta có bốn thủy thủ đoàn can trường tham gia cuộc hải chiến nhưng các chiến hạm của ta vừa cũ kỷ (từ Đệ Nhị Thế Chiến) không có đầy đủ vũ khí tối tân, kể cả đầy đủ phương tiện cấp cứu và cũng không có một lực lượng trừ bị để tăng cường khi cần. Việc súng bất khiển dụng bất thần hoặc đạn bạn bắn trúng bạn là chuyện không sao tránh khỏi trong mọi chiến trận dù là trên đất liền, trên không trung hay trên mặt biển trong lúc chạm địch.
Đại tá Hà Văn Ngạc, vị hải đội trưởng trầm lặng, các hạm trưởng Nguỵ Văn Thà, Vũ Hữu San, Phạm Trọng Quỳnh, Lê Văn Thự cùng thủy thủ đoàn cũng như các người nhái và biệt hải tham dự trận Hoàng Sa xứng đáng là những anh hùng của Quân Lực Việt Nam.
Hải Đội Việt Nam Cộng Hòa nổ súng chỉ là một hành động “tượng trưng nhưng cứng rắn” để chứng tỏ sự bảo vệ chủ quyền các đảo Hoàng Sa chớ không có mục tiêu hủy diệt hải đội của Trung Cộng.
Tổng thống Thiệu bị ở trong thế “chẳng đặng đừng.” Không phản ứng gì hết thì lịch sử sẽ kết tội hèn nhát, mà đụng độ với hải quân của một cường quốc như Trung Cộng thời bấy giờ là một quyết định táo bạo và can trường.
Tinh thần yêu nước không cần được biểu lộ bằng những lời tuyên bố mát tai của những chính trị gia, mà được biểu lộ một cách cảm động và hùng hồn nhất, bởi những thủy thủ của toán đổ bộ của tuần dương hạm Lý Thường Kiệt vào lúc 10 giờ 30 sáng ngày 19 tháng giêng năm 1974 tại Hoàng Sa trên xuồng cao su, khi 15 chiến sĩ hải quân can trường đồng ca bài “Việt Nam, Việt Nam” khi thấy chiến hạm Trung Cộng bị trúng đạn của chiến hạm Việt Nam. Bài hát này cũng là bài hát cuối cùng của hạ sĩ Nguyễn văn Duyên, vì sau mười ngày trên biển cả, ngày thì nóng cháy da, đêm thì lạnh thấu xương, hết lương thực, hết nước uống, đuối sức, anh Duyên đã trút hơi thở cuối cùng khi trôi dạt về tới Qui Nhơn...
Trích trong tập Hồi Ký :
CAN TRƯỜNG TRONG CHIẾN BẠI
HỒ VĂN KỲ THOẠI
Sinh Tồn chuyển