Đoạn Đường Chiến Binh
TRẬN KAMPONG TRACH 1972 *
TIỂU ĐOÀN 58 BIỆT ĐỘNG QUÂN CÓ BỊ NHỤT CHÍ VÀ TIỂU ĐOÀN 94 BIỆT ĐỘNG QUÂN CÓ BỊ BỎ RƠI KHÔNG?
Người viết: Đỗ Sơn
Mỗi năm trong cuộc chiến Việt Nam đều đáng nhớ cả, vì mỗi năm gồm
365 ngày đó máu của thanh niên Việt cả hai miền Nam – Bắc đổ ra từng
ngày. Nhưng năm 1972 có lẽ là năm được nhớ đến nhiều hơn hết vì có
trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” miền Trung mà máu người Việt hai miền đã đổ ở
mức độ khủng khiếp. Tuy nhiên năm 1972 không chỉ khủng khiếp với
“Mùa Hè Đỏ Lửa” vì vào Mùa Xuân năm ấy thì khủng khiếp đã xảy ra
trước rồi, ở Kampong Trach trên đất Miên.
Hai lực lượng quân sự Việt Nam, Việt Cộng Hòa và Việt Cộng Sản. Một
bên quyết giữ cho vùng IV của Việt Nam Cộng Hòa yên ổn. Một bên
quyết mượn đất Miên xâm nhập vào vùng IV phá rối trị an cho bằng
được trước khi họ khởi đánh trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” ở miền Trung. Trung
tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn IV và Quân khu IV, quyết
tâm chận đứng âm mưu này.
Trận Kampong Trach là câu trả lời chung cho cả hai bên!
Theo BĐQ Đỗ Như Quyên, dựa vào quân sử Việt Cộng, lực lượng chính
của Việt Cộng tham dự trận Kampong Trach là Công trường 1 gồm Trung
đoàn 88, Trung đoàn 95A, Trung đoàn 101D, Trung đoàn 40 Pháo binh,
Đoàn 200 Hậu cần, và được tăng phái thêm một trung đoàn của Công
trường 9, chưa kể các đơn vị pháo binh, đặc công, vv … (Đỗ Như Quyên
cho biết các sư đoàn Việt Cộng thành lập ở miền Nam đều được ngụy
danh là Công trường cho có vẻ … phi quân sự). Công trường 1 Việt
Cộng được thành lập năm 1965 ở rừng núi phía Tây thành phố Huế, năm
1968 bị quân Việt Cộng Hòa đánh thiệt hại nặng phải di chuyển vào
Kontum, qua năm 1969 bị thêm một vố nặng nữa bèn được cho qua Takeo,
đất Miên, đặc trách lòn quân qua biên giới quấy phá vùng IV Việt Nam
Cộng Hòa.
Phía lực lượng Việt Nam Cộng Hòa ban đầu là Liên đoàn 42 Chiến thuật
Biệt Động Quân với ba Tiểu đoàn 66 – 93 – 94 chỉ huy bởi Trung tá
Trần Kim Đại được tăng phái thêm một Chi đoàn Thiết Giáp thuộc Thiết
đoàn 12 Kỵ Binh.
Theo các tiết lộ thời bấy giờ và sau này, binh chủng Lực Lượng Đặc
Biệt Việt Nam Cộng Hòa đã trở thành nạn nhân trong việc kình chống
giữa hai chính phủ Việt – Mỹ. Người Mỹ kết án Lực Lượng Đặc Biệt
được chính phủ Ngô Đình Diệm xử dụng như lực lượng chính bảo vệ cho
chế độ, thi hành những nhiệm vụ đàn áp đối lập; vì vậy họ ngưng tài
trợ cho binh chủng này. Và cho dù ông Diệm – ông Nhu đã bị sát hại
một cách man rợ, đến năm 1969 thì Lực Lượng Đặc Biệt cũng phải giải
tán vì thiếu ngân khoản. Những trại Biệt Kích dọc theo biên giới
được cải tuyển sang binh chủng Biệt Động Quân. Ví dụ như ở vùng IV,
dọc theo kinh Vĩnh Tế phân chia hai nước Việt – Miên, từ Thất Sơn
Châu Đốc chạy dài sang Hà Tiên Rạch Giá có ba trại Biệt Kích. Trại
Ba Xoài cải tuyển thành Tiểu đoàn 94, Trại Vĩnh Gia thành Tiểu đoàn
93, và Trại Tô Châu thành Tiểu đoàn 66. Còn có Tiểu đoàn 85 đóng
quân chung với Bộ Chỉ huy Liên đoàn tại Thất Sơn. Các vị Tiểu đoàn
trưởng đầu tiên, theo thứ tự trại vừa nêu là Đại úy Triệu Sang,
Thiếu tá Hoàng Đình Đốc, Thiếu tá Nguyễn Văn Thanh, và Đại úy Khôi
(người viết quên họ). Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân là hậu
thân của B20 Lực Lượng Đặc Biệt, chỉ huy bốn tiểu đoàn kể trên.
Các trại là các toán A Lực Lượng Đặc Biệt được cải tuyển thành cấp
tiểu đoàn BĐQ, các toán B chỉ huy các toán A thành cấp liên đoàn,
các toán C chỉ huy một vùng thì trở thành bộ chỉ huy BĐQ Quân khu. Ở
Cần Thơ, C4 trở thành Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu IV, dưới sự
chỉ huy của Đại tá Phạm Duy Tất.
Liên đoàn trưởng đầu tiên của Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động
Quân là Trung tá Nguyễn Văn Hòa, Bộ Chỉ huy Liên đoàn đặt tại căn cứ
cũ của B20 Lực Lượng Đặc Biệt, gần Trung tâm Huấn luyện Chi Lăng,
Thất Sơn. Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân được thành lập vào
khoảng cuối năm 1970, trong số 5 sĩ quan theo Trung tá Nguyễn Văn
Hòa từ Cần Thơ về Thất Sơn lập Bộ Chỉ huy Liên đoàn có người viết,
làm Sĩ quan Hành quân thuộc Ban 3 Liên đoàn. Giữa năm 1971, Trung tá
Trần Kim Đại về nhận chức Liên đoàn trưởng thay Trung tá Nguyễn Văn
Hòa vừa thăng Đại tá. (Lính thường gọi thân mật Trung tá Đại là …
ông Năm Ruộng, Năm là tượng trưng cho quan năm, Ruộng tại vì quan
chuyên đóng quân ngoài ruộng, tránh nhà dân hay khu đông đúc).
Khoảng giữa năm 1971, Bộ Tư lệnh tiền phương của Biệt Khu 44 đến
đóng chung trong căn cứ của Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân,
Chuẩn tướng Tư lệnh Trần Văn Hai thường xuyên có mặt tại căn cứ. Hơn
tháng sau đến phiên Đại tá Phạm Duy Tất mang Bộ Chỉ huy nhẹ của mình
từ Cần Thơ đến căn cứ. Cho thấy đang có một sự chuẩn bị về một chiến
dịch, hay một trận đánh lớn nào đó sắp sửa xảy ra. Vào dịp này, Đại
tá Tất gọi người viết về làm Sĩ quan Tùy viên, có lẽ nhờ kinh nghiệm
đã phải đi bay liên miên với trực thăng của Lực Lượng Đặc Biệt Hoa
Kỳ trong thời gian đầu tiên Liên đoàn 42 vừa thành lập thiếu hụt sĩ
quan Ban 3.
Tới đây xin được phép kể một việc tuy riêng nhưng cũng có dính dấp
đến chủ đề bài này. Vài năm trước khi qua đời, Trung tướng Ngô Quang
Trưởng có nhắn người viết qua Trung tá Trần Duy Hòe, nguyên Trưởng
Phòng 2 Bộ Chỉ huy Biệt Động Quân Quân Khu IV, nếu muốn viết về trận
Kampong Trach 1972 thì lên D.C. ông sẽ kể cho mà viết. Vì mải mê
công việc, lại quen tật dần dà là cha lỗi hẹn, đến khi bất ngờ nhận
tin Tướng Trưởng qua đời, người viết bần thần nhớ lại lời nhắn, tấm
thịnh tình của ông, thì hối hận quá trễ. Xuyên qua lời nhắn, Tướng
Trưởng còn tỏ lộ sự hãnh diện của ông về trận Kampong Trach. Qua lời
nhắn, rõ ràng Tướng Trưởng kết luận sở dĩ ông có thể thoải mái gởi
quân vùng IV ra miền Trung tiếp viện cho trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” là nhờ
ở trận Kampong Trach lực lượng Biệt Động Quân cùng Thiết Giáp Việt
Nam Cộng Hòa dưới quyền chỉ huy của Chuẩn tướng Phạm Duy Tất đã chận
đứng Sư đoàn 1 Việt Cộng có thêm một trung đoàn thuộc Công trường 9
tăng phái vẫn không thể nào xâm nhập quấy phá vùng IV. (Đại tá Tất
sau đó thăng cấp Chuẩn tướng ở vùng II).
Dĩ nhiên với cấp bậc và chức vụ quá thấp của người viết, chỉ biết
đếm con số thiệt hại nhân mạng và phương tiện vật chất thì khó có
thể nghĩ đó là một chiến thắng của phía Việt Cộng Hòa. Làm sao một
sĩ quan nhí như người viết phân biệt được Kampong Trach chỉ là diện,
Hà Tiên mới là điểm! Và các trận này có tầm vóc chiến lược quan
trọng vì cái Hiệp định thổ tả Paris 1973! Đó có lẽ cũng là lý do tại
sao có sự gợi ý từ Trung tướng Ngô Quang Trưởng như vừa kể.
Gần đây, BĐQ Đỗ Như Quyên đã gởi cho Trung tá Trần Duy Hòe một bài
viết của KB Điền Đông Phương mang tựa “Kampong Trach: Cuộc Giải Vây
Thần Kỳ” đăng trên báo Cánh Thép, ngụ ý chê Tiểu đoàn 58 Biệt Động
Quân “bị nhụt chí”, đồng thời trách Chuẩn tướng Phạm Duy Tất đã “bỏ
rơi” Tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân trong trận này. Đọc bài viết của KB
Điền Đông Phương, người viết lại thở dài một lần nữa, hối hận đã
không lên D.C. để kịp nghe và kịp viết lại trận Kampong Trach từ
Tướng Trưởng.
Bây giờ xin trở lại với thực tế của trận Kampong Trach.
Những tháng trước cái Tết 1972, trực thăng của Đại tá Phạm Duy Tất
bay hàng ngày trên khu vực dọc kinh Vĩnh Tế (lúc này Biệt Động Quân
còn chịu trách nhiệm toàn vùng biên giới Việt – Miên) đã nhận thấy
sự xuất hiện bất bình thường của quân Việt Cộng. Những tốp bộ đội
chính quy mặc quân phục màu vàng xuất hiện ngay giữa ban ngày, bắt
đầu bị phát giác trong khu vực Thất Sơn hoặc vùng đối diện phía bên
Miên, rồi dần dà phát hiện thêm những tốp khác về phía Tây, tức
hướng Hà Tiên. Đại khái, họ kéo nhau băng từ Đông sang Tây, trong
khu vực dọc hai bên kinh Vĩnh Tế vài cây số. Có lần, một toán Việt
Cộng quân số khoảng hơn một trung đội đang đi giữa một cánh đồng
vàng rực giữa trưa thì nghe tiếng trực thăng của Đại tá Phạm Duy Tất
bay tới. Họ chổng mông quỳ thành một hàng dài trong quân phục cũng
màu vàng, có lẽ với hy vọng phía trên cao nhìn lơ mơ xuống thì tưởng
là … bờ ruộng. Nhưng ông Tất và phi hành đoàn đâu có đang bay lơ mơ,
chẳng những hai xạ thủ đại liên khai hỏa mà những người còn lại trên
phi cơ, trừ hai phi công, cũng đồng loạt bấm cò M16. May mắn tức
thời cho toán quân này, đây là một phi vụ C&C nên trực thăng không
có gắn ống phóng hỏa tiển.
Trong thời gian này Trung tá Trần Kim Đại đang dẫn Liên đoàn 42 Biệt
Động quân gồm ba Tiểu đoàn 66 – 93 – 94 được tăng phái thêm một Chi
đoàn của Thiết đoàn 12 Kỵ Binh hành quân ngoại biên trong vùng phía
Bắc Kampong Trach. Tháng 3/1972 bất ngờ xãy ra một trận “tao ngộ
chiến” với bộ đội chính quy Việt Cộng với quân phục kaki vàng, nón
cối. Phía ta bị cháy một chiếc M113, theo lời Trung tá Đại kể thì
thiệt hại nhân mạng cả hai bên không đáng kể. Trận đánh xãy ra ở một
địa điểm cách Kampong Trach 6 cây số về hướng Bắc, cách Tuk Meas 1
cây số về hướng Nam. Theo BĐQ Đỗ Như Quyên, trong trận “tao ngộ
chiến” ngày 22/3/1972 chỉ một mình Tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân đã
phải “tao ngộ” với một lực lượng địch đông và mạnh hơn gấp mấy lần,
gồm Trung đoàn 88, Trung đoàn 40 Pháo binh, Đoàn 200 Hậu cần thuộc
Công trường 1 Việt Cộng. Trung tá Đại dẫn liên đoàn lội ngược về
phía Nam đóng chận tại Kampong Trach (quan Năm Ruộng hạ trại ngoài
ruộng, nên phố xá – trường học – nhà cửa trong thị trấn Kampong
Trach không hề bị thiệt hại vì trận đánh) đồng thời báo cáo tình
hình về Bộ Tư lệnh tiền phương Biệt Khu 44 ở Thất Sơn. Chuẩn tướng
Trần Văn Hai quyết định tăng phái nguyên Thiết đoàn 12 Kỵ Binh cho
Trung tá Đại, nhưng ông Đại nêu ra vấn đề lấn cấn về chỉ huy, vì
Liên đoàn trưởng Biệt Động Quân và Thiết đoàn trưởng Kỵ Binh có chức
vụ ngang nhau.
Tới đây thì Trung tướng Ngô Quang Trưởng, với quyết tâm chận đứng Sư
đoàn 1 Việt Cộng ở Kampong Trach, ra lệnh đưa cả hai Thiết đoàn 12
và 16 dưới quyền chỉ huy của Đại tá Nguyễn Văn Của, Tư lệnh phó Lữ
đoàn 4 Kỵ Binh, từ ngã Hà Tiên tiến qua Kampong Trach. Ở Thất Sơn,
theo lời kể của Đại tá Phạm Duy Tất, Chuẩn tướng Hai hỏi Đại tá Tất
(không phải lệnh) có muốn vào Kampong Trach để “nâng cao tinh thần”
của Biệt Động Quân không? (‘nâng cao tinh thần’ không phải là một
nhiệm vụ chính thức). Lý do có vụ “mời mọc” khá lạ của Tướng Hai là
vì lúc đó vùng trách nhiệm vừa được Bộ Tư Lệnh Quân Khu IV phân chia
lại như sau: Thiết Giáp chịu trách nhiệm vùng từ Châu Đốc tới Hà
Tiên, Biệt Động Quân chịu trách nhiệm khu vực từ Mộc Hóa tới Kiến
Phong. (Trước đó Biệt Động Quân chịu trách nhiệm tất cả). Được
“mời”, Đại tá Tất cũng OK luôn với Tướng Hai. Làm việc cho ông Tất
mệt hơn bất cứ ông sếp nào khác, vì cái tật “ghiền” đi bay của ông.
Chẳng những bay trực thăng dành cho mình, khi không có ổng đòi bay
ké luôn trực thăng của mấy sếp khác, đi bay, đi bay, bay riết tới …
mỏi chim. Vụ đi theo Đại tá Tất vào Kampong Trach đúng là nhiệm vụ
của người viết, nhưng vào lúc đó thì có Đại úy Lê Ngọc Thạch nguyên
là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 93 “cơm không lành canh không ngọt” với
Tiểu đoàn trưởng bèn khăn gói ba lô về Bộ Chỉ huy Thất Sơn. Xui cho
Đại úy Thạch, bị ông Tất bắt gặp đang cà nhỏng, bèn được “mời” về
văn phòng Chỉ huy trưởng, được “phong” làm Chánh văn phòng ngoài ý
muốn. Mỗi ngày nhìn ông Thạch ngồi bàn giấy thở dài thườn thượt lật
mớ hồ sơ thiệt hổng khác gì cảnh một võ sĩ bị buộc hành nghề … viết
văn. Đại tá Tất bắt Đại uý Thạch theo ổng vào Kampong Trach thay vì
người viết. Sau hơn 20 niên gặp lại Đại úy Thạch ở Quận Cam, ổng vẫn
còn … uất ức, chửi thề rùm beng “Đụ mẹ, lúc đó tao cự nự ổng sao
hổng bắt mầy mà bắt tao đi theo, ổng nói tại thấy mầy là con trai
một trong gia đình, báo hại tao ‘ăn’ pháo thấy mẹ luôn”. Do vậy
bài viết này viết dựa theo lời kể của những vị tham dự trực tiếp
trận đánh chớ không do người viết tự kể, vì người viết chỉ theo dõi
từ các trung tâm hành quân nằm chung trong căn cứ của Liên đoàn 42
Chiến thuật Biệt Động Quân.
Sau khi Đại tá Phạm Duy Tất (BĐQ) và Đại tá Nguyễn Văn Của (TG) đã
vào tới Kampong Trach, Trung tướng Ngô Quang Trưởng chính thức chỉ
định ông Tất làm Tư lệnh chiến trường Kampong Trach, ông Của làm
Phó. Lúc này đã có trực thăng bị bắn rớt, phi hành đoàn bị kẹt lại ở
mặt trận, từ đây tiếp liệu phải thả dù từ cao lắc cao lơ thường rớt
xuống những chỗ … nhân gian phe ta không thể … lượm. Theo nhận định
của Trung tá Trần Kim Đại, tuy trận Kampong Trach không ác liệt bằng
các trận ở những vùng khác sau đó, nhưng nó là một trận ác liệt nhất
mang tính quyết định đối với Quân Khu IV tính cho tới thời điểm đó.
Lần đầu tiên Việt Cộng Sản xuất quân ở cấp sư đoàn +, và chuẩn bị
sẵn cả … rừng pháo. Quân Việt Cộng Hòa thiệt hại nhiều nhất vì pháo
của Việt Cộng Sản, vì họ pháo rất … sang trọng, pháo xả láng. Đại tá
Tất được Tướng Trưởng tăng cường cho một Pháo đội 105 ly cùng một
Đại đội Công Binh. Theo lời kể của Trung tá Trần Kim Đại, Pháo đội
105 ly của mình bị Việt Cộng pháo banh ta lông, nhưng vẫn còn bắn
được nếu chỉ bắn trực xạ. Có một số binh sĩ thì kể rằng họ nghĩ lính
Việt Cộng bị cho uống … thuốc điên, vì có lần xuất quân thì thấy một
nữ binh trẻ măng chạy dẫn đầu cầm loa tay hét to “Các đồng chí
tiến lên, chết trẻ hơn chết già, chết hôm nay … ngày mai khỏi chết”,
các đồng chí nam lúp xúp chạy theo đàng sau cô bé, có khi bám mẹ vào
thành xe tăng, phía trên lưỡi lê tua tủa đâm xuống.
Chết hôm nay ngày mai khỏi chết? Má ơi! Hết biết luôn!
Thuốc điên? Lính suy nghĩ đâm bang vậy mà thấy cũng có phần hữu lý
quá chớ! Nếu tâm lý chung của phần đông nhân loại là “chết hôm nay
ngày mai khỏi chết” thì không cần phải ngại chi nạn nhân mãn, chỉ
nên lo thế giới sẽ nẩy sinh hàng đống đống người bất cần đời hành
động khật khùng gieo tai họa khắp mọi nơi.
Trước khi viết bài này người viết cũng gọi hỏi Đại tá Trần Kim Đại
(sau này Trung tá Đại thăng Đại tá ở vùng I), tại sao mình rút quân?
Ông Đại trả lời, mình quyết định rút vào lúc Công trường 1 của họ
thấy coi bộ không thể vượt qua “hàng rào” của Việt Nam Cộng Hòa ở
Kampong Trach, họ phải hạ nồng độ chiến trường, vòng xuống chuẩn bị
tấn công khu Xi Măng Hà Tiên. Theo người viết, họ đồng thời dàn pháo
– rải quân dầy đặc ở phía Nam Kampong Trạch với mục đích làm chậm đi
cuộc rút quân của hai Thiết đoàn 12 và 16, cùng Liên đoàn 42 Biệt
Động Quân, chậm thêm ngày nào tốt ngày đó, vì họ muốn rảnh tay thanh
toán khu Xi Măng Hà Tiên.
Người viết hỏi câu hỏi trên vì lý do trong bài “Kampong Trach: Cuộc
Giải Vây Thần Kỳ” người anh em KB Điền Đông Phương tin rằng Thiết
đoàn 12 KB và Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân hành quân từ Hà Tiên tiến
qua Kampong Trach là nhằm để giải vây cho lực lượng Biệt Động Quân
và Thiết Giáp đang đóng quân tại Kampong Trach. Thật sự thì tình
hình lúc đó đã thay đổi, Công trường 1 đã “nản” Kampong Trach, họ đã
cho Trung đoàn 101D đi bọc xuống hướng Nam chuẩn bị vượt biên giới
đánh vào khu Xi Măng Hà Tiên, phần lớn các đơn vị khác của họ cũng
bọc vòng xuống phía Nam chuẩn bị chận đường rút quân của hai Thiết
đoàn 12 – 16 và Liên đoàn 42 Biệt Động Quân nhằm phá hoại ý định
điều động quân của Trung tướng Ngô Quang Trưởng cho trận đánh sắp
tới ở bên biên giới Việt Nam. Vì tầm mức quan trọng như vậy, (chớ
không phải Tướng Trưởng lo ngại địch sắp dứt điểm lực lượng trấn
đóng Kampong Trach), Tướng Trưởng đã đích thân đáp xuống Tô Châu, có
mặt vào lúc xuất quân để tác động tinh thần và trực tiếp giao nhiệm
vụ cho Thiết đoàn 2 Ky Binh và Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân hành quân
mở đường, sau đó bọc sườn cho lực lượng trấn đóng Kampong Trach rút
về đúng thời gian kịp cho Liên đoàn 42 Biệt Động Quân của Trung tá
Trần Kim Đại đánh dứt điểm trận Xi Măng Hà Tiên cũng như Đại tá Phạm
Duy Tất sẽ mang Tiểu đoàn 86 Biệt Động Quân của Thiếu tá Tạ Thành
Lộc đánh vào Núi Cọp, phía Đông Bắc hãng xi măng Hà Tiên, nằm trong
lãnh thổ Việt Nam. Hai trận này xảy ra đúng theo dự tính của Tướng
Trưởng, đã xóa sạch giấc mộng của Sư đoàn 1 Việt Cộng muốn “quậy
tung” vùng IV trước trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” miền Trung. Tướng Trưởng
biết chắc sẽ đụng địch rất nặng trên đoạn đường 14 cây số từ Hà Tiên
đến Kampong Trach nên đã chọn Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân thiện
chiến làm đơn vị tùng thiết cho Thiết đoàn 2 Kỵ Binh. Đúng như lời
người anh em KB Điền Đông Phương viết (nguyên văn): “Ngày hôm sau,
chúng tôi bắt đầu nhập trận, đoàn quân đi như gió bão, chiếm từng
cụm vườn, từng khu xóm… hướng về Kampong Trach. Đến trưa thì chạm
súng, phải đến chiều hôm đó mới thanh toán xong những ổ kháng cự.
Rồi hai ngày sau đó, chúng tôi bị cầm chân ở khu vực gần ngôi chùa
nằm cách Kampong Trach khoảng 5 cây số, vì cộng quân gài chốt ở khắp
nơi. Đến ngày thứ 6 thì chúng tôi bám sát được ngôi chùa”. Có nghĩa
là 6 ngày hành quân mở được khoảng 9 cây số đường, chưa kể có lần bị
dội ngược về biên giới, những sự kiện này tự thân đã giải quyết được
nổi thắc mắc của chính KB Điền Đông Phương (nguyên văn):
“Kampong-Trach: một địa-danh xa lạ, một nơi chốn xa tít mù khơi. Một
địa-danh ít người biết đến. Một nơi đã gây phiền-não, bối-rối cho
Danh-Tướng Ngô Quang Trưởng. Nơi đó Lữ-Đoàn 4 Kỵ-Binh gồm 2
Thiết-Đoàn 12 và 16 Kỵ-binh được chỉ-huy bởi Đại-Tá Nguyễn Văn Của
và Liên-Đoàn 7 Biệt-Động-Quân do Đại-Tá Phạm Duy Tất chỉ-huy bị vây
hãm cả tháng trời”.
Vì không có thắc mắc như KB Điền Đông Phương nên Bộ Tư lệnh tiền
phương Biệt Khu 44 và các Bộ Chỉ huy Biệt Động Quân ở Thất Sơn đã
cùng Trung tâm Huấn luyện Chi Lăng chuẩn bị trước một số tân binh
vừa mãn khóa huấn luyện sẵn sàng tung vào bổ sung kịp thời bù đắp
cho sự thiệt hại nhân mạng (đã dự đoán trước) của Tiểu đoàn 58 Biệt
Động Quân. Công việc chuẩn bị này thật là hữu ích.
Nhưng, dù có hiểu sao đi nữa, giải vây hay mở đường, chiến công của
Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh cùng Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân rất – rất –
rất đáng được ca tụng là thần kỳ, khi Thiết Giáp bắt tay được với
Thiết Giáp, Biệt Động Quân bắt tay được với Biệt Động Quân, tại
Kampong Trach.
Nhưng, cũng lại là nhưng, chuyện đời thì không có chi toàn vẹn, thần
kỳ ấy đã bị người anh em KB Điền Đông Phương làm mẻ đi bớt tính thần
kỳ, vì người anh em còn có viết thêm một đoạn (nguyên văn): “Qua
ngày hôm sau, tiếp tục chạm súng. Anh em Biệt Động Quân có vẻ nhụt
chí, khiến cho Nghê Thành Thân tức giận nhảy xuống khỏi xe, rồi cùng
với một đại đội trưởng của họ là trung úy Gia xông thẳng vào phòng
tuyến địch để họ phải tiến lên theo”.
Việc Thiếu tá KB Nguyễn Văn Răng viết trong bài “Trận Chiến Kampong
Trạch” buồn phiền chuyện Thiết đoàn 9 Kỵ Binh vừa đến Kampong Trach
bị đưa vào đóng trong một vườn tiêu rồi bị thiệt hại nặng thì chính
tác giả Nguyễn Văn Răng đã viết là lệnh trực tiếp từ Đại tá Của, Tư
lệnh phó Lữ đoàn 4, nên người viết bài này không dám có ý kiến.
Nhưng còn chuyện KB Điền Đông Phương phê bình tinh thần chiến đấu
của Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân thì dám xin góp ý với người anh em
rằng, Tiểu đoàn 58 ấy chính là Tiểu đoàn 41 (Cọp Ba Đầu Rằn) thuộc
Liên đoàn 4 Biệt Động Quân, một tiểu đoàn đánh giặc rất cừ khôi nổi
tiếng khắp vùng IV với những vị chỉ huy đã đánh thì nhất định đánh
tới nơi tới chốn nên cũng là tiểu đoàn có con số Tiểu đoàn trưởng tử
trận nhiều nhất, đến nỗi Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân ở Sài Gòn phải
quyết định cải danh lại, hy vọng các Tiểu đoàn trưởng … thôi chết
giùm. Đại úy Măng, Tiểu đoàn trưởng 58 mà người anh em KB Điền Đông
Phương kể là bạn cũ của mình, tham dự trận này, cũng là một trong
những Tiểu đoàn trưởng hạng nhất mà Tiểu đoàn từng có (ông Măng sau
này thăng cấp Thiếu tá rồi Trung tá). Và rất mong Trung úy Gia (hoặc
đã thăng Đại úy, Thiếu tá), Trung tá Măng của Tiểu đoàn 58 Biệt Động
Quân, nếu tình cờ đọc được bài của KB Điền Đông Phương hay bài viết
này, xin vui lòng kể lại cuộc hành quân tùng thiết mở đường của quý
vị.
Điểm cuối cùng người viết phải nêu ra là hai đoạn viết sau đây của
KB Điền Đông Phương (nguyên văn):
- Bây giờ tại Kampong Trach chỉ còn Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh chúng
tôi và Tiểu Đoàn 58 BDQ nằm lại. Mặc dù bị tổn thất nhưng tinh thần
anh em Kỵ Binh vẫn vững vàng. Tuy nhiên khi Liên Đoàn 7 BDQ rút đi,
Đại Tá Phạm Duy Tất, Liên Đoàn Trưởng, đã bỏ rơi Tiểu Đoàn 94 BDQ.
Tiểu Đoàn BDQ nầy nằm giữ phía Bắc Kampong Trach không hề hay biết
về cuộc triệt thoái. Khi LD7BDQ đã an toàn về đến VN thì Tiểu Đoàn
94 bị quân CSBV xâm lược cường tập dứt điểm.
- Trong niềm vui chiến thắng anh em Kỵ Binh chúng tôi ai cũng nghẹn
ngào khi chứng kiến cảnh những chiến hữu BDQ đã từng kề vài sát cánh
chiến đấu chung một chiến hào trên khắp mặt trận Quân Khu IV chết
tức tửi, chết nghẹn ngào và chết vô lý. Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất,
Ông nghĩ gì về Mặt trận Kampong Trach? Dẫu biết rằng “Nhất Tướng
công thành vạn cốt khô” nhưng sao nghe nghẹn ngào và cay đắng quá.
“Bỏ rơi” Tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân? Tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân
“không hề hay biết” về cuộc triệt thoái? Người viết không gọi hỏi
Chuẩn tướng Phạm Duy Tất mà hỏi Đại Tá Trần Kim Đại, là Liên đoàn
trưởng chỉ huy ba Tiểu đoàn 66 – 93 – 94 Biệt Động Quân tham dự trận
Kampong Trach. Ông Đại lập tức phản đối cái vụ gọi là “bỏ rơi” này,
ông cho biết lệnh rút quân đó là một lệnh tức thì, nghĩa là sau khi
lệnh ban ra thì rút liền để giữ sự bất ngờ đối với địch. Ông Đại xác
nhận, lệnh từ ông Tất ban ra, ông Đại nhận và chuyển cùng một thời
gian cho ba tiểu đoàn dưới quyền, cũng như ông Của đã nhận và chuyển
cho các đơn vị Thiết Giáp cùng một lúc. Tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân
đóng quân xa nhất về hướng Bắc Kampong Trach, theo lời ông Đại kể là
đóng trên núi đá vôi, nên họ là đơn vị đàng sau cùng cuộc rút quân.
Trước khi rời trại lên Thiết giáp rút đi, Trung tá Đại gặp Đại úy
Liêm Tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 94 ở phía sau cổng trại, tức cách ngã
ba phía Nam thị trấn Kampong Trach chừng 500 thước. Sau đó trên
đường rút quân ông Liêm trúng pháo bị thương nặng, không muốn binh
sĩ bận bịu vì ông mà mang họa, Đại úy Liêm đuổi lính đi rồi rút chốt
lựu đạn tự sát; Trung sĩ I Vinh gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người anh em
thân thiết của người viết lúc làm việc chung trong Ban 3 Liên đoàn
42 cũng chết gần đó, theo lời kể của những binh sĩ 94 BĐQ về từ
Kampong Trach mà người viết đã gặp lại tại căn cứ Thất Sơn.
Theo BĐQ Đỗ Như Quyên, “trên” đã nhất định đòi Công trường 1 phải
chiếm cho bằng được Hà Tiên làm hải cảng để được hưởng điều khoản
“quân ai đang có mặt ở đâu thì coi như là đất của phe đó” của Hiệp
định không hòa bình Paris 1973. Tầm quan trọng của trận Kampong
Trach là vậy, là tất cả các lực lượng Việt Cộng Hòa tham dự trận
Kampong Trach đã không cho phép Việt Cộng Sản có được một hải cảng
trong vùng IV.
Ngày 15/4/1972 Trung đoàn 101D thuộc Công trường 1 được tăng phái
thêm Trung đoàn 52D Chủ lực miền đánh chiếm nhà máy Xi Măng Hà Tiên,
nằm cách Thị xã Hà Tiên 7 cây số về hướng Đông Nam. Trung tá Trần
Kim Đại cho các tiểu đoàn vừa từ Kampong Trach về tái nhập trận với
sự yễm trợ của các đơn vị Thiết vận xa M113. Đại tá Phạm Duy Tất bốc
thêm Tiểu đoàn 86 của Thiếu tá Tạ Thành Lộc từ bên Mộc Hóa qua trực
thăng vận thẳng xuống Núi Cọp, với lối thả quân sát vào sào huyệt
địch, xuống là đụng liền, trận này được Tiểu đoàn 86 Biệt Động Quân
giải quyết vô cùng nhanh chóng (người viết có mặt tại chỗ). Việt
Cộng Hòa dứt điểm hai trận này vào ngày 29/4. Các đơn vị còn lại của
Công trường 1 tất tả băng ngược qua biên giới rút lui về Takeo, bên
Miên..
Không thể có “hải cảng Hà Tiên” ở vùng IV, “trên” lại ra lệnh Tướng
Chu Huy Mẫn đưa Sư đoàn 3 Sao Vàng đánh lấy Sa Huỳnh làm “hải cảng”
ở vùng I cho kịp Hiệp định không hòa bình Paris (28/1/1973). Nhưng
đã có cuộc “tái ngộ lý thú” xãy ra: Lúc này có ba nhân vật liên quan
tới trận Kampong Trach – Hà Tiên ở vùng IV lại đang có mặt tại vùng
I, Trung trướng Ngô Quang Trưởng đã trở thành Tư lệnh Quân Khu I,
Đại tá Trần Kim Đại đang nắm Liên đoàn 1 Biệt Động Quân và Đại tá Vũ
Quốc Gia nguyên Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 4 Thiết Kỵ đang là Lữ đoàn
trưởng Lữ đoàn 1 Thiết Kỵ. Ở cuộc “tái ngộ kỳ thú” này, Tướng Trưởng
ra lệnh Đại tá Đại đưa Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân gồm ba Tiểu đoàn
21 – 37 – 39 vào Sa Huỳnh tăng phái cho Sư đoàn 2 Bộ Binh và đã đánh
bật Sư đoàn 3 Sao Vàng ra khỏi “hải cảng trong mộng của Việt Cộng
Sản” trước khi cái Hiệp Định thổ tả kia có hiệu lực. Ba phần tư
chiến lợi phẩm vũ khí nặng lấy được trong trận này là do Liên đoàn 1
Biệt động quân.
Liên đoàn 42 Biệt Động Quân của Trung tá Trần Kim Đại được tăng phái
một Chi đoàn Thiết Giáp mở màn trận Kampong Trach ở phía Bắc của nó.
Cuối cùng cũng chính lực lượng của ông Đại đã dứt điểm nó bằng trận
đánh tại vùng Xi Măng Hà Tiên, khá xa nó về hướng Nam. Nhiệm vụ của
CHÚNG TA đã hoàn tất tốt đẹp!
Quân Biệt Động cùng Thiết Giáp dưới quyền chỉ huy của Đại tá Phạm
Duy Tất cũng vậy, đã chận đứng mưu xâm nhập vào Quân Khu IV của Công
trường 1 Việt Cộng (được tăng phái thêm một trung đoàn của Công
trường 9) tại Kampong Trach. Nhờ vậy Trung tướng Ngô Quang Trưởng
chẳng những giữ được tình hình vùng IV yên ổn mà còn có thể thoải
mái gởi quân tiếp viện cho trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” miền Trung sau đó.
Chiến thắng Kampong Trach là chiến thắng của CHÚNG TA!
Chứng kiến đồng đội ngã xuống, đó bao giờ cũng là những cái chết tức
tửi, vô lý, đối với những người may mắn còn ở lại, khiến người ở lại
nghẹn ngào. Nhưng chiến binh thứ thiệt thì không cần thiết trút nỗi
nghẹn ngào của mình lên đầu những đơn vị bạn khác binh chủng, cũng
như không cần thiết tạo thành nỗi vinh quang cho mình cùng cách na
ná như vậy. Thắng bại là chuyện thường tình của nhà binh, nhưng nếu
quên nằm lòng hai chữ CHÚNG TA thì sẽ dính cái sau hơn là cái trước
cũng là chuyện thường tình.
Cuối cùng, đừng quên toàn thể các chiến binh thuộc tất cả các binh
chủng của quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong đó có anh, có tôi, có bạn
bè anh, có bạn bè tôi, cùng bại trận vào tháng Tư năm 1975; và CHÚNG
TA cùng đã nghẹn ngào!
Little Saigon, tháng Mười Hai 2011.
Đỗ Sơn
Khoảng một tuần sau khi bài
được đăng trên một số báo và diễn đàn Việt ngữ Internet, tôi nhận
được email của Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, vị chỉ huy trận chiến
Kampong Trach. Email của Chuẩn tướng Tất có vài điều tôi đã không
viết trong bài “Kampong Trach 1972”, và vì ông có ghi chú bên ngoài
là “tùy nghi xử dụng” nên tôi quyết định gởi đăng lá thơ của ông lên
những nơi đã từng đăng bài “Kampong Trach 1972” hầu quý vị từng đọc
bài có thêm dữ kiện, cũng như hiểu được tâm tư của người chỉ huy
trận chiến này.
Ghi chú: Bút hiệu Linh Cơ ký dưới bài chính là danh
hiệu truyền tin của Chuẩn tướng Phạm Duy Tất trong thời kỳ ông đang
chỉ huy lực lượng Biệt Động Quân ở Quân đoàn IV & Quân khu IV.
Anh Đỗ Sơn,
Tôi đã đọc được bài Kampong Trach 1972 anh viết, bồi hồi nhớ lại một
đoạn khó quên trong quãng đời chiến binh của mình. Gởi anh thêm một
vài chi tiết có thể anh không rõ, không nhớ, hoặc anh chưa từng nghĩ
đến về trận Kampong Trach. Chắc anh còn nhớ tôi đã trả lời với các
Phóng viên ở Nam California nhân dịp về tham dự Đại Hội Biệt Động
Quân: Là bại tướng thì nói gì cũng là bại tướng. Nhưng được gợi hồi
tưởng lại trận Kampong Trach thì tôi lại muốn nói, nói những lời
chưa có cơ hội nói.
Cho đến giờ này hẳn chưa ai quên Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, mỗi khi nhắc
đến không ai khỏi chạnh lòng, ngậm ngùi về sự khốc liệt của chiến
tranh. Năm 1972 là năm cuộc chiến Nam – Bắc đã lên đến cực điểm.
Tổng bí thư Lê Duẫn và đảng Cộng Sản Việt Nam thật vô cùng tàn ác
đẩy hàng vạn vạn người dân Việt Nam của cả hai miền vào cảnh chết
chóc chưa từng thấy. Họ mơ ước, nôn nóng nhuộm đỏ cả nước Việt Nam
càng sớm càng tốt để dâng công lên quan thầy. Giữa hai lực đối trọng
to lớn là Liên Xô và Trung Cộng, đảng Cộng Sản Việt Nam chơi trò đu
dây và khiến nhân dân miền Bắc lầm tưởng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa là “Độc Lập” qua khẩu hiệu “Chống Mỹ Cứu Nước”.
Quá bất ngờ đến bàng hoàng cho toàn đảng Cộng sản Việt Nam khi hệ
thống Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô sụp đổ, biến dạng trên địa cầu. Nhưng
thật không may, một nước cộng sản to lớn, Trung Cộng, vẫn còn tồn
tại. Dần dần đảng Cộng sản Việt Nam muốn thoát hiểm thì phải bám víu
vào họ, vô hình chung lọt vào cái lưới thiên la địa võng của Trung
Cộng mà cả nước Việt Nam ngày nay đang dãy dụa.
Trở lại với Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, nói đến trận chiến khốc liệt này mọi
người liên tưởng ngay đến 3 mặt trận lớn là An Lộc, Kontum, và Quảng
Trị. Chưa đủ, còn một mặt trận nữa là chiến trường Kampong Trạch –
Hà Tiên do BĐQ và KB của QĐ IV/QK IV chiến đấu. Tôi không nghiên cứu
để hiểu 4 mặt trận đâu là chính đâu là diện. Kampong Trach là một
địa danh xa lạ, một thị trấn quá nhỏ bé nằm trên đất Kampuchia cách
Hà Tiên về phía Đông Bắc khoảng 14 cây số.
Trận chiến Kampong Trach cũng khá khốc liệt về cường độ. Lực lượng
tham chiến có Liên đoàn 42 BĐQ/ Chiến Thuật được tăng phái một chi
đoàn thiết quân vận M113 đối đầu với một sư đoàn chính quy Cộng Sản
Bắc Việt được tăng cường. Có thể nói bên ta 1 chọi 5. Khởi đầu mặt
trận này do Đại Tá Vũ Quốc Gia Tư Lệnh Lữ Đoàn IV Kỵ Binh chỉ huy,
Bộ Chỉ Huy Hành Quân đóng tại Tô Châu, Hà Tiên. Biệt Động Quân QK/
IV có Bộ Chỉ Huy Hành Quân đóng tại trại Chi Lăng (vùng Thất Sơn,
Châu Đốc), có Bộ Chỉ Huy Hành Quân nhẹ đóng tại bến phà Neak Luong
trên đất Kampuchia chịu trách nhiệm vùng biên giới từ tỉnh Kiến
Tường (Mộc Hóa) đến tỉnh Kiến Phong (Cao Lãnh).
Hai lực lượng BĐQ và KB đều dưới quyền chỉ huy của Tướng Trần Văn
Hai, Tư lệnh Biệt khu 44. Tôi được Tướng Hai đưa vào Kampong Trach
khi chiến trận đã lên đến cao điểm và nắm quyền chỉ huy.
Đề cập đến tương quan lực lượng thì tôi xin nói rõ về lực lượng và
khả năng của BĐQ Biên Phòng một chút để thấy sức chiến đấu, tinh
thần chiến đấu của anh em chiến sĩ BĐQ Biên Phòng rất kiên cường
trong trận Kampong Trach. Nói đến Biệt Động Quân hầu như ai ai cũng
có ý nghĩ đây là những đơn vị thiện chiến, mũi nhọn, đầu sóng ngọn
gió. BĐQ luôn luôn là tuyến đầu xung trận. Quả đúng như vậy! Đó là
BĐQ ở các Liên đoàn 1, 2, 3, 4, 5 đã dày dạn chiến trận mấy chục năm
qua.
BĐQ Biên Phòng thì khác. Là những đơn vị vừa được cải tuyển thành
BĐQ từ năm 1970. Họ là những Biệt Kích Quân Dân Sự Chiến Đấu ở các
trại Biên Phòng / Lực Lượng Đặc Biệt. Họ chưa từng được tổ chức
thành tiểu đoàn, chỉ hành quân nhỏ, phục kích, thám sát, chận đứng
và tiêu diệt những cuộc xâm nhập nhỏ xuyên biên giới, từng đoàn ít
người trong phạm vi vùng trách nhiệm của trại. Họ chưa có kinh
nghiệm đánh cấp đại đội, tiểu đoàn, nói chi là liên đoàn, tùng thiết
phối hợp với thiết quân vận thì rõ ràng là xa lạ, trang bị của họ
cũng rất nhẹ nhàng.
Từ cuối năm 1970, ý thức được tình hình đã biến đổi, Cộng Sản Bắc
Việt không còn xâm nhập từng đoàn nhỏ vài chục người hoặc đông hơn
khoảng 100 người. Bắc Việt nay xâm nhập cấp trung đoàn, sư đoàn cho
nên tôi đã cơ động hóa các tiểu đoàn biên phòng để vừa hành quân vừa
học hỏi kinh nghiệm đánh cấp đại đội, tiểu đoàn và nếu cần có thể
đánh cấp liên đoàn. Các tiểu đoàn này chưa được gởi đi huấn luyện bổ
túc tại Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ/Dục Mỹ để chính quy hóa. Vì vậy mà
có LĐ 42 BĐQ/ CT để tham chiến mặt trận Kampong Trach, tăng phái cho
LĐ IV KB.
Nói về quân số cũng là một vấn đề. Tiểu đoàn thuộc các Liên Đoàn 1,
2, 3, 4, 5 đều có cấp số 800 thì khả năng tham chiến mới được 500.
Ngược lại cấp số tiểu đoàn BP chỉ là 500 thì khả năng hành quân
không hơn không kém 300 và chỉ trang bị nhẹ.
Với tương quan lực lượng như vậy mà LĐ 42 BĐQ/CT đã tạo được thành
tích có thể nói “thần kỳ”. LĐ đã không bị đánh tan và không bị tiêu
diệt. Ngược lại đã gây tổn thất nặng nề cho SĐ 1 CSBV, chận đứng họ
tại Kampong Trach, bẻ gãy kế hoạch của họ làm tiêu tan mục tiêu của
BV đã đề ra, đánh chiếm Hà Tiên Kiên Lương để xây một bến cảng cho
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Do tình hình các mặt trận trên toàn cõi Việt Nam Cộng Hòa tương đối
lắng dịu, quân ta đã làm chủ được trận địa, SĐ 1 CSBV tại Kampong
Trach cũng đã yếu thế, không còn khả năng tấn công mạnh nên QĐ IV đã
cho lệnh rút lui lực lượng khỏi Kampuchia.
Thấy quân ta rút lui, SĐ 1 CSBV tuy đã yếu thế nhưng cố vớt vát tiến
chiếm Kiên Lương, cơ sở Xi Măng Hà Tiên. LĐ 42 BĐQ/CT vừa trở về
chưa được dưỡng quân thì lập tức nhận lệnh tăng phái cho Sư đoàn 9
Bộ Binh dưới quyền Tướng Trần Bá Di, rồi được điều động đến Kiên
Lương để giải tỏa khu vực này. Trung tá Trần Kim Đại cùng với LĐ
nhanh chóng đến Kiên Lương để lâm trận. Bản thân tôi và Bộ Chỉ huy
nhẹ không còn trách nhiệm gì trên mặt trận này, trở về Bộ Chỉ huy
Hành quân ở Thất Sơn với trách nhiệm, nhiệm vụ cũ trước đây.
Có lẽ Tướng Di hiểu quá rõ khả năng và sở trường của Biệt Động Quân
Biên phòng nên đã ra một lệnh cho Trung tá Đại vô cùng khắc nghiệt
tưởng chừng như khó thực hiện được, hay ít nhất cũng phải chấp nhận
một tổn thất cao. Ấy thế mà Trung tá Đại thì bình tĩnh lắm, tự tin
là khác. Lệnh ban ra là: BĐQ phải tái chiếm hãng Xi Măng Hà Tiên
nguyên vẹn không được làm hư hại bất cứ thứ gì, có nghĩa là Trung tá
Đại không được xử dụng Pháo binh, không được gọi Không quân yểm trợ,
không được xử dụng vũ khí nặng. Ấy vậy mà Trung tá Đại và LĐ 42
BĐQ/CT tạo được một chiến công “thần kỳ” thứ hai. Chỉ vỏn vẹn trong
vài ngày ngắn ngủi, LĐ 42 BĐQ/CT đã chiếm lại hoàn toàn cơ sở Xi
Măng Hà Tiên, đánh tan lực lượng CS khiến họ phải tháo chạy về biên
giới.
Thật ra các Tiểu đoàn BĐQ/BP còn thiếu kinh nghiệm về lối đánh trận
địa chiến nhưng có quá nhiều kinh nghiệm về đánh đêm, đánh biệt
kích. Chính đó là sở trường của họ mà Tướng Di đã phát huy. Trung tá
Đại đã hoàn thành mệnh lệnh của Tướng Di thật hoàn hảo, xuất sắc.
Tuy tôi không có trách nhiệm trong trận chiến này nhưng vùng biên
giới vốn là trách nhiệm thường xuyên của tôi trong nhiều năm qua nên
địa hình, địa vật trong khu vực này tôi quen thuộc lắm.
Sau khi Trung tá Đại nhận lệnh từ Tướng Di, liền cấp tốc báo cáo cho
tôi. Trung tá Đại thì có vẻ tự tin nhưng tôi không thể không lo cho
quân của mình dù đã tăng phái. Phản ứng thật nhanh, tôi yêu cầu SĐ 9
BB chấp thuận cho tôi điều động Tiểu đoàn 86 BĐQ/BP thuộc trại Bình
Thạnh Thôn do Thiếu tá Tạ Thành Lộc chỉ huy thuộc LĐ 41 BĐQ/CT đóng
tại Mộc Hóa trực thăng vận chớp nhoáng vào chiếm lĩnh núi Hòn Cọp.
Gọi là núi nhưng thật sự là một ngọn đồi thấp nằm chận giữa con
đường Kiên Lương đến Hà Tiên. Nơi đây là cơ sở chỉ huy trạm xá tiền
phương, tiếp vận, giao liên, con đường tiến thối của đối phương.
Cuộc đổ quân thật bất ngờ và táo bạo của TĐ 86 BĐQ/BP, Thiếu tá
“Paul Húc” Tạ Thành Lộc và quân của ông ta chỉ xoãi có chục bước đã
chiếm lĩnh ngay rặng đồi này, đánh tan tành quân CS.
Cũng phải nói thêm, Trung tá Đại, nhờ sự hỗ trợ rất tích cực của
“Paul Húc” Tạ Thành Lộc và TĐ 86 BĐQ/BP, đã kết thúc hoàn toàn trận
chiến Kampong Trach một cách nhanh chóng vẻ vang.
Có thể nói rằng dân chúng miền Tây vẫn được vui hưởng thái bình vào
lúc đó là nhờ vào trận Kampong Trach trong khi các mặt trận khác tuy
bề ngoài có vẻ lắng dịu nhưng thực tế thì vẫn rất căng thẳng.
Thật là một điều không vui cho quân dân miền Tây nói chung, BĐQ nói
riêng, vì sự thay đổi bất ngờ của hệ thống chỉ huy QĐ IV/QK IV.
Tướng Trưởng được điều động ra làm Tư lệnh QĐ I/QKI, Tướng Trần Văn
Hai rời BK44, Trung tá Trần Kim Đại đi nhận chức Liên đoàn trưởng LĐ
1 BĐQ ở QK I. Riêng tôi đi nhận chức vụ Chỉ huy trưởng BĐQ/QK II,
tại đây lập tức tham chiến vào mặt trận Kontum, BĐQ/QK2 chịu trách
nhiệm mở đường Quốc lộ 14, giải tỏa cụm chốt tại núi Chu Pao. Cùng
LĐ 21 BĐQ/BP do Trung tá Nguyễn Văn Lang chỉ huy và TĐ 90 BĐQ/BP của
Đại úy Phan Bát Giác đã khai thông Quốc lộ 14 mở đường cho chuyến
tiếp vận đầu tiên từ Pleiku vào Kontum bằng đường bộ.
Vào thời điểm này năm xưa, BĐQ QK IV, đặc biệt là LĐ 42 BĐQ/CT – TĐ
58 BĐQ – và TĐ 86 BĐQ/BP, tôi không biết các anh em này nghĩ gì
nhưng chắc rằng họ bị hụt hẫng đôi chút. Chẳng còn ai nhắc nhở đến
trận chiến khốc liệt tại Kampong Trach, không ai đề cập đến những
chiến sĩ đã hy sinh còn nằm lại trên vùng đất lạnh của xứ Chùa Tháp,
những anh em chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu tại chiến trường này may
mắn còn sống sót.
Chiến trường Kampong Trach đã bị lãng quên không phải bây giờ mà
ngay từ dạo ấy..
Hình như Biệt Động Quân muôn thuở là vậy đó. Họ chưa có tiếng nói
mặc dù BĐQ là một đại đơn vị, một binh chủng lớn. Họ chiến đấu và
tiếp tục chiến đấu cho đến khi lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh ban
ra. Thôi thì hãy gióng lên tiếng than “Ôi” … Không biết anh em BĐQ
có đồng tình như vậy không?
Gần 40 năm qua không ai nhắc đến danh từ Kampong Trach nhưng tôi
chắc những người lính Kỵ Binh – Không Quân – Pháo Binh – Công Binh –
Biệt Động Quân … đã từng tham chiến ở đó không thể quên, thân nhân
bao chiến sĩ đã hy sinh, thân xác còn nằm lại nơi xứ người không bao
giờ quên. Chúng ta thì chưa làm được gì cho họ trong lúc này. Ngậm
ngùi thay.
Đúng là không thể quên cho nên thật bất ngờ, ông bạn KB Điền Đông
Phương đã gợi lại Kampong Trach. Tôi không hiểu ông bạn KB Điền Đông
Phương suy nghĩ gì, ý tưởng của ông ta ra sao khi viết về trận
chiến. Tuy vậy tôi rất chân thành và vô cùng cám ơn ông bạn KB Điền
Đông Phương đã nhắc lại khiến BĐQ Đỗ Như Quyên, BĐQ Trần Duy Hòe, và
BĐQ Đỗ Sơn chạnh lòng, có động cơ để nhớ lại, nghiên cứu, tham khảo
thêm mà viết lại cho tương đối hoàn chỉnh hầu giúp cho Quân Sử
QLVNCH không bị bỏ sót.
May lắm thay. Đáng lý Đỗ Sơn đã phải viết đến từ lâu lắm khi Tướng
Trưởng còn sinh thời. Tôi biết Tướng Trưởng rất muốn viết về Kampong
Trach. Sau thời gian tôi đến được Hoa Kỳ (1993) tôi đã có gặp Tướng
Trưởng nhiều lần. Lần nào gặp tôi Ông cũng nhắc nhở trận Kampong
Trach và nói cám ơn tôi về sự có mặt của tôi ở đó. Không phải một
lần mà lần nào cũng vậy, Tướng Trưởng nói và tôi ngồi suy tư. Tôi
thật tình không muốn tìm hiểu Ông đang suy nghĩ gì, nhưng phải chăng
Tướng Trưởng đang ân hận rằng mình đã rời chức vụ Tư lệnh QĐ/QK4 quá
đột ngột nên có điều chưa làm được của một vị Tư lệnh đối với anh em
chiến hữu?
LINH CƠ
Biên Hùng chuyển
Bàn ra tán vào (0)
TRẬN KAMPONG TRACH 1972 *
TIỂU ĐOÀN 58 BIỆT ĐỘNG QUÂN CÓ BỊ NHỤT CHÍ VÀ TIỂU ĐOÀN 94 BIỆT ĐỘNG QUÂN CÓ BỊ BỎ RƠI KHÔNG?
Người viết: Đỗ Sơn
Mỗi năm trong cuộc chiến Việt Nam đều đáng nhớ cả, vì mỗi năm gồm
365 ngày đó máu của thanh niên Việt cả hai miền Nam – Bắc đổ ra từng
ngày. Nhưng năm 1972 có lẽ là năm được nhớ đến nhiều hơn hết vì có
trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” miền Trung mà máu người Việt hai miền đã đổ ở
mức độ khủng khiếp. Tuy nhiên năm 1972 không chỉ khủng khiếp với
“Mùa Hè Đỏ Lửa” vì vào Mùa Xuân năm ấy thì khủng khiếp đã xảy ra
trước rồi, ở Kampong Trach trên đất Miên.
Hai lực lượng quân sự Việt Nam, Việt Cộng Hòa và Việt Cộng Sản. Một
bên quyết giữ cho vùng IV của Việt Nam Cộng Hòa yên ổn. Một bên
quyết mượn đất Miên xâm nhập vào vùng IV phá rối trị an cho bằng
được trước khi họ khởi đánh trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” ở miền Trung. Trung
tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn IV và Quân khu IV, quyết
tâm chận đứng âm mưu này.
Trận Kampong Trach là câu trả lời chung cho cả hai bên!
Theo BĐQ Đỗ Như Quyên, dựa vào quân sử Việt Cộng, lực lượng chính
của Việt Cộng tham dự trận Kampong Trach là Công trường 1 gồm Trung
đoàn 88, Trung đoàn 95A, Trung đoàn 101D, Trung đoàn 40 Pháo binh,
Đoàn 200 Hậu cần, và được tăng phái thêm một trung đoàn của Công
trường 9, chưa kể các đơn vị pháo binh, đặc công, vv … (Đỗ Như Quyên
cho biết các sư đoàn Việt Cộng thành lập ở miền Nam đều được ngụy
danh là Công trường cho có vẻ … phi quân sự). Công trường 1 Việt
Cộng được thành lập năm 1965 ở rừng núi phía Tây thành phố Huế, năm
1968 bị quân Việt Cộng Hòa đánh thiệt hại nặng phải di chuyển vào
Kontum, qua năm 1969 bị thêm một vố nặng nữa bèn được cho qua Takeo,
đất Miên, đặc trách lòn quân qua biên giới quấy phá vùng IV Việt Nam
Cộng Hòa.
Phía lực lượng Việt Nam Cộng Hòa ban đầu là Liên đoàn 42 Chiến thuật
Biệt Động Quân với ba Tiểu đoàn 66 – 93 – 94 chỉ huy bởi Trung tá
Trần Kim Đại được tăng phái thêm một Chi đoàn Thiết Giáp thuộc Thiết
đoàn 12 Kỵ Binh.
Theo các tiết lộ thời bấy giờ và sau này, binh chủng Lực Lượng Đặc
Biệt Việt Nam Cộng Hòa đã trở thành nạn nhân trong việc kình chống
giữa hai chính phủ Việt – Mỹ. Người Mỹ kết án Lực Lượng Đặc Biệt
được chính phủ Ngô Đình Diệm xử dụng như lực lượng chính bảo vệ cho
chế độ, thi hành những nhiệm vụ đàn áp đối lập; vì vậy họ ngưng tài
trợ cho binh chủng này. Và cho dù ông Diệm – ông Nhu đã bị sát hại
một cách man rợ, đến năm 1969 thì Lực Lượng Đặc Biệt cũng phải giải
tán vì thiếu ngân khoản. Những trại Biệt Kích dọc theo biên giới
được cải tuyển sang binh chủng Biệt Động Quân. Ví dụ như ở vùng IV,
dọc theo kinh Vĩnh Tế phân chia hai nước Việt – Miên, từ Thất Sơn
Châu Đốc chạy dài sang Hà Tiên Rạch Giá có ba trại Biệt Kích. Trại
Ba Xoài cải tuyển thành Tiểu đoàn 94, Trại Vĩnh Gia thành Tiểu đoàn
93, và Trại Tô Châu thành Tiểu đoàn 66. Còn có Tiểu đoàn 85 đóng
quân chung với Bộ Chỉ huy Liên đoàn tại Thất Sơn. Các vị Tiểu đoàn
trưởng đầu tiên, theo thứ tự trại vừa nêu là Đại úy Triệu Sang,
Thiếu tá Hoàng Đình Đốc, Thiếu tá Nguyễn Văn Thanh, và Đại úy Khôi
(người viết quên họ). Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân là hậu
thân của B20 Lực Lượng Đặc Biệt, chỉ huy bốn tiểu đoàn kể trên.
Các trại là các toán A Lực Lượng Đặc Biệt được cải tuyển thành cấp
tiểu đoàn BĐQ, các toán B chỉ huy các toán A thành cấp liên đoàn,
các toán C chỉ huy một vùng thì trở thành bộ chỉ huy BĐQ Quân khu. Ở
Cần Thơ, C4 trở thành Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu IV, dưới sự
chỉ huy của Đại tá Phạm Duy Tất.
Liên đoàn trưởng đầu tiên của Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động
Quân là Trung tá Nguyễn Văn Hòa, Bộ Chỉ huy Liên đoàn đặt tại căn cứ
cũ của B20 Lực Lượng Đặc Biệt, gần Trung tâm Huấn luyện Chi Lăng,
Thất Sơn. Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân được thành lập vào
khoảng cuối năm 1970, trong số 5 sĩ quan theo Trung tá Nguyễn Văn
Hòa từ Cần Thơ về Thất Sơn lập Bộ Chỉ huy Liên đoàn có người viết,
làm Sĩ quan Hành quân thuộc Ban 3 Liên đoàn. Giữa năm 1971, Trung tá
Trần Kim Đại về nhận chức Liên đoàn trưởng thay Trung tá Nguyễn Văn
Hòa vừa thăng Đại tá. (Lính thường gọi thân mật Trung tá Đại là …
ông Năm Ruộng, Năm là tượng trưng cho quan năm, Ruộng tại vì quan
chuyên đóng quân ngoài ruộng, tránh nhà dân hay khu đông đúc).
Khoảng giữa năm 1971, Bộ Tư lệnh tiền phương của Biệt Khu 44 đến
đóng chung trong căn cứ của Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân,
Chuẩn tướng Tư lệnh Trần Văn Hai thường xuyên có mặt tại căn cứ. Hơn
tháng sau đến phiên Đại tá Phạm Duy Tất mang Bộ Chỉ huy nhẹ của mình
từ Cần Thơ đến căn cứ. Cho thấy đang có một sự chuẩn bị về một chiến
dịch, hay một trận đánh lớn nào đó sắp sửa xảy ra. Vào dịp này, Đại
tá Tất gọi người viết về làm Sĩ quan Tùy viên, có lẽ nhờ kinh nghiệm
đã phải đi bay liên miên với trực thăng của Lực Lượng Đặc Biệt Hoa
Kỳ trong thời gian đầu tiên Liên đoàn 42 vừa thành lập thiếu hụt sĩ
quan Ban 3.
Tới đây xin được phép kể một việc tuy riêng nhưng cũng có dính dấp
đến chủ đề bài này. Vài năm trước khi qua đời, Trung tướng Ngô Quang
Trưởng có nhắn người viết qua Trung tá Trần Duy Hòe, nguyên Trưởng
Phòng 2 Bộ Chỉ huy Biệt Động Quân Quân Khu IV, nếu muốn viết về trận
Kampong Trach 1972 thì lên D.C. ông sẽ kể cho mà viết. Vì mải mê
công việc, lại quen tật dần dà là cha lỗi hẹn, đến khi bất ngờ nhận
tin Tướng Trưởng qua đời, người viết bần thần nhớ lại lời nhắn, tấm
thịnh tình của ông, thì hối hận quá trễ. Xuyên qua lời nhắn, Tướng
Trưởng còn tỏ lộ sự hãnh diện của ông về trận Kampong Trach. Qua lời
nhắn, rõ ràng Tướng Trưởng kết luận sở dĩ ông có thể thoải mái gởi
quân vùng IV ra miền Trung tiếp viện cho trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” là nhờ
ở trận Kampong Trach lực lượng Biệt Động Quân cùng Thiết Giáp Việt
Nam Cộng Hòa dưới quyền chỉ huy của Chuẩn tướng Phạm Duy Tất đã chận
đứng Sư đoàn 1 Việt Cộng có thêm một trung đoàn thuộc Công trường 9
tăng phái vẫn không thể nào xâm nhập quấy phá vùng IV. (Đại tá Tất
sau đó thăng cấp Chuẩn tướng ở vùng II).
Dĩ nhiên với cấp bậc và chức vụ quá thấp của người viết, chỉ biết
đếm con số thiệt hại nhân mạng và phương tiện vật chất thì khó có
thể nghĩ đó là một chiến thắng của phía Việt Cộng Hòa. Làm sao một
sĩ quan nhí như người viết phân biệt được Kampong Trach chỉ là diện,
Hà Tiên mới là điểm! Và các trận này có tầm vóc chiến lược quan
trọng vì cái Hiệp định thổ tả Paris 1973! Đó có lẽ cũng là lý do tại
sao có sự gợi ý từ Trung tướng Ngô Quang Trưởng như vừa kể.
Gần đây, BĐQ Đỗ Như Quyên đã gởi cho Trung tá Trần Duy Hòe một bài
viết của KB Điền Đông Phương mang tựa “Kampong Trach: Cuộc Giải Vây
Thần Kỳ” đăng trên báo Cánh Thép, ngụ ý chê Tiểu đoàn 58 Biệt Động
Quân “bị nhụt chí”, đồng thời trách Chuẩn tướng Phạm Duy Tất đã “bỏ
rơi” Tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân trong trận này. Đọc bài viết của KB
Điền Đông Phương, người viết lại thở dài một lần nữa, hối hận đã
không lên D.C. để kịp nghe và kịp viết lại trận Kampong Trach từ
Tướng Trưởng.
Bây giờ xin trở lại với thực tế của trận Kampong Trach.
Những tháng trước cái Tết 1972, trực thăng của Đại tá Phạm Duy Tất
bay hàng ngày trên khu vực dọc kinh Vĩnh Tế (lúc này Biệt Động Quân
còn chịu trách nhiệm toàn vùng biên giới Việt – Miên) đã nhận thấy
sự xuất hiện bất bình thường của quân Việt Cộng. Những tốp bộ đội
chính quy mặc quân phục màu vàng xuất hiện ngay giữa ban ngày, bắt
đầu bị phát giác trong khu vực Thất Sơn hoặc vùng đối diện phía bên
Miên, rồi dần dà phát hiện thêm những tốp khác về phía Tây, tức
hướng Hà Tiên. Đại khái, họ kéo nhau băng từ Đông sang Tây, trong
khu vực dọc hai bên kinh Vĩnh Tế vài cây số. Có lần, một toán Việt
Cộng quân số khoảng hơn một trung đội đang đi giữa một cánh đồng
vàng rực giữa trưa thì nghe tiếng trực thăng của Đại tá Phạm Duy Tất
bay tới. Họ chổng mông quỳ thành một hàng dài trong quân phục cũng
màu vàng, có lẽ với hy vọng phía trên cao nhìn lơ mơ xuống thì tưởng
là … bờ ruộng. Nhưng ông Tất và phi hành đoàn đâu có đang bay lơ mơ,
chẳng những hai xạ thủ đại liên khai hỏa mà những người còn lại trên
phi cơ, trừ hai phi công, cũng đồng loạt bấm cò M16. May mắn tức
thời cho toán quân này, đây là một phi vụ C&C nên trực thăng không
có gắn ống phóng hỏa tiển.
Trong thời gian này Trung tá Trần Kim Đại đang dẫn Liên đoàn 42 Biệt
Động quân gồm ba Tiểu đoàn 66 – 93 – 94 được tăng phái thêm một Chi
đoàn của Thiết đoàn 12 Kỵ Binh hành quân ngoại biên trong vùng phía
Bắc Kampong Trach. Tháng 3/1972 bất ngờ xãy ra một trận “tao ngộ
chiến” với bộ đội chính quy Việt Cộng với quân phục kaki vàng, nón
cối. Phía ta bị cháy một chiếc M113, theo lời Trung tá Đại kể thì
thiệt hại nhân mạng cả hai bên không đáng kể. Trận đánh xãy ra ở một
địa điểm cách Kampong Trach 6 cây số về hướng Bắc, cách Tuk Meas 1
cây số về hướng Nam. Theo BĐQ Đỗ Như Quyên, trong trận “tao ngộ
chiến” ngày 22/3/1972 chỉ một mình Tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân đã
phải “tao ngộ” với một lực lượng địch đông và mạnh hơn gấp mấy lần,
gồm Trung đoàn 88, Trung đoàn 40 Pháo binh, Đoàn 200 Hậu cần thuộc
Công trường 1 Việt Cộng. Trung tá Đại dẫn liên đoàn lội ngược về
phía Nam đóng chận tại Kampong Trach (quan Năm Ruộng hạ trại ngoài
ruộng, nên phố xá – trường học – nhà cửa trong thị trấn Kampong
Trach không hề bị thiệt hại vì trận đánh) đồng thời báo cáo tình
hình về Bộ Tư lệnh tiền phương Biệt Khu 44 ở Thất Sơn. Chuẩn tướng
Trần Văn Hai quyết định tăng phái nguyên Thiết đoàn 12 Kỵ Binh cho
Trung tá Đại, nhưng ông Đại nêu ra vấn đề lấn cấn về chỉ huy, vì
Liên đoàn trưởng Biệt Động Quân và Thiết đoàn trưởng Kỵ Binh có chức
vụ ngang nhau.
Tới đây thì Trung tướng Ngô Quang Trưởng, với quyết tâm chận đứng Sư
đoàn 1 Việt Cộng ở Kampong Trach, ra lệnh đưa cả hai Thiết đoàn 12
và 16 dưới quyền chỉ huy của Đại tá Nguyễn Văn Của, Tư lệnh phó Lữ
đoàn 4 Kỵ Binh, từ ngã Hà Tiên tiến qua Kampong Trach. Ở Thất Sơn,
theo lời kể của Đại tá Phạm Duy Tất, Chuẩn tướng Hai hỏi Đại tá Tất
(không phải lệnh) có muốn vào Kampong Trach để “nâng cao tinh thần”
của Biệt Động Quân không? (‘nâng cao tinh thần’ không phải là một
nhiệm vụ chính thức). Lý do có vụ “mời mọc” khá lạ của Tướng Hai là
vì lúc đó vùng trách nhiệm vừa được Bộ Tư Lệnh Quân Khu IV phân chia
lại như sau: Thiết Giáp chịu trách nhiệm vùng từ Châu Đốc tới Hà
Tiên, Biệt Động Quân chịu trách nhiệm khu vực từ Mộc Hóa tới Kiến
Phong. (Trước đó Biệt Động Quân chịu trách nhiệm tất cả). Được
“mời”, Đại tá Tất cũng OK luôn với Tướng Hai. Làm việc cho ông Tất
mệt hơn bất cứ ông sếp nào khác, vì cái tật “ghiền” đi bay của ông.
Chẳng những bay trực thăng dành cho mình, khi không có ổng đòi bay
ké luôn trực thăng của mấy sếp khác, đi bay, đi bay, bay riết tới …
mỏi chim. Vụ đi theo Đại tá Tất vào Kampong Trach đúng là nhiệm vụ
của người viết, nhưng vào lúc đó thì có Đại úy Lê Ngọc Thạch nguyên
là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 93 “cơm không lành canh không ngọt” với
Tiểu đoàn trưởng bèn khăn gói ba lô về Bộ Chỉ huy Thất Sơn. Xui cho
Đại úy Thạch, bị ông Tất bắt gặp đang cà nhỏng, bèn được “mời” về
văn phòng Chỉ huy trưởng, được “phong” làm Chánh văn phòng ngoài ý
muốn. Mỗi ngày nhìn ông Thạch ngồi bàn giấy thở dài thườn thượt lật
mớ hồ sơ thiệt hổng khác gì cảnh một võ sĩ bị buộc hành nghề … viết
văn. Đại tá Tất bắt Đại uý Thạch theo ổng vào Kampong Trach thay vì
người viết. Sau hơn 20 niên gặp lại Đại úy Thạch ở Quận Cam, ổng vẫn
còn … uất ức, chửi thề rùm beng “Đụ mẹ, lúc đó tao cự nự ổng sao
hổng bắt mầy mà bắt tao đi theo, ổng nói tại thấy mầy là con trai
một trong gia đình, báo hại tao ‘ăn’ pháo thấy mẹ luôn”. Do vậy
bài viết này viết dựa theo lời kể của những vị tham dự trực tiếp
trận đánh chớ không do người viết tự kể, vì người viết chỉ theo dõi
từ các trung tâm hành quân nằm chung trong căn cứ của Liên đoàn 42
Chiến thuật Biệt Động Quân.
Sau khi Đại tá Phạm Duy Tất (BĐQ) và Đại tá Nguyễn Văn Của (TG) đã
vào tới Kampong Trach, Trung tướng Ngô Quang Trưởng chính thức chỉ
định ông Tất làm Tư lệnh chiến trường Kampong Trach, ông Của làm
Phó. Lúc này đã có trực thăng bị bắn rớt, phi hành đoàn bị kẹt lại ở
mặt trận, từ đây tiếp liệu phải thả dù từ cao lắc cao lơ thường rớt
xuống những chỗ … nhân gian phe ta không thể … lượm. Theo nhận định
của Trung tá Trần Kim Đại, tuy trận Kampong Trach không ác liệt bằng
các trận ở những vùng khác sau đó, nhưng nó là một trận ác liệt nhất
mang tính quyết định đối với Quân Khu IV tính cho tới thời điểm đó.
Lần đầu tiên Việt Cộng Sản xuất quân ở cấp sư đoàn +, và chuẩn bị
sẵn cả … rừng pháo. Quân Việt Cộng Hòa thiệt hại nhiều nhất vì pháo
của Việt Cộng Sản, vì họ pháo rất … sang trọng, pháo xả láng. Đại tá
Tất được Tướng Trưởng tăng cường cho một Pháo đội 105 ly cùng một
Đại đội Công Binh. Theo lời kể của Trung tá Trần Kim Đại, Pháo đội
105 ly của mình bị Việt Cộng pháo banh ta lông, nhưng vẫn còn bắn
được nếu chỉ bắn trực xạ. Có một số binh sĩ thì kể rằng họ nghĩ lính
Việt Cộng bị cho uống … thuốc điên, vì có lần xuất quân thì thấy một
nữ binh trẻ măng chạy dẫn đầu cầm loa tay hét to “Các đồng chí
tiến lên, chết trẻ hơn chết già, chết hôm nay … ngày mai khỏi chết”,
các đồng chí nam lúp xúp chạy theo đàng sau cô bé, có khi bám mẹ vào
thành xe tăng, phía trên lưỡi lê tua tủa đâm xuống.
Chết hôm nay ngày mai khỏi chết? Má ơi! Hết biết luôn!
Thuốc điên? Lính suy nghĩ đâm bang vậy mà thấy cũng có phần hữu lý
quá chớ! Nếu tâm lý chung của phần đông nhân loại là “chết hôm nay
ngày mai khỏi chết” thì không cần phải ngại chi nạn nhân mãn, chỉ
nên lo thế giới sẽ nẩy sinh hàng đống đống người bất cần đời hành
động khật khùng gieo tai họa khắp mọi nơi.
Trước khi viết bài này người viết cũng gọi hỏi Đại tá Trần Kim Đại
(sau này Trung tá Đại thăng Đại tá ở vùng I), tại sao mình rút quân?
Ông Đại trả lời, mình quyết định rút vào lúc Công trường 1 của họ
thấy coi bộ không thể vượt qua “hàng rào” của Việt Nam Cộng Hòa ở
Kampong Trach, họ phải hạ nồng độ chiến trường, vòng xuống chuẩn bị
tấn công khu Xi Măng Hà Tiên. Theo người viết, họ đồng thời dàn pháo
– rải quân dầy đặc ở phía Nam Kampong Trạch với mục đích làm chậm đi
cuộc rút quân của hai Thiết đoàn 12 và 16, cùng Liên đoàn 42 Biệt
Động Quân, chậm thêm ngày nào tốt ngày đó, vì họ muốn rảnh tay thanh
toán khu Xi Măng Hà Tiên.
Người viết hỏi câu hỏi trên vì lý do trong bài “Kampong Trach: Cuộc
Giải Vây Thần Kỳ” người anh em KB Điền Đông Phương tin rằng Thiết
đoàn 12 KB và Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân hành quân từ Hà Tiên tiến
qua Kampong Trach là nhằm để giải vây cho lực lượng Biệt Động Quân
và Thiết Giáp đang đóng quân tại Kampong Trach. Thật sự thì tình
hình lúc đó đã thay đổi, Công trường 1 đã “nản” Kampong Trach, họ đã
cho Trung đoàn 101D đi bọc xuống hướng Nam chuẩn bị vượt biên giới
đánh vào khu Xi Măng Hà Tiên, phần lớn các đơn vị khác của họ cũng
bọc vòng xuống phía Nam chuẩn bị chận đường rút quân của hai Thiết
đoàn 12 – 16 và Liên đoàn 42 Biệt Động Quân nhằm phá hoại ý định
điều động quân của Trung tướng Ngô Quang Trưởng cho trận đánh sắp
tới ở bên biên giới Việt Nam. Vì tầm mức quan trọng như vậy, (chớ
không phải Tướng Trưởng lo ngại địch sắp dứt điểm lực lượng trấn
đóng Kampong Trach), Tướng Trưởng đã đích thân đáp xuống Tô Châu, có
mặt vào lúc xuất quân để tác động tinh thần và trực tiếp giao nhiệm
vụ cho Thiết đoàn 2 Ky Binh và Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân hành quân
mở đường, sau đó bọc sườn cho lực lượng trấn đóng Kampong Trach rút
về đúng thời gian kịp cho Liên đoàn 42 Biệt Động Quân của Trung tá
Trần Kim Đại đánh dứt điểm trận Xi Măng Hà Tiên cũng như Đại tá Phạm
Duy Tất sẽ mang Tiểu đoàn 86 Biệt Động Quân của Thiếu tá Tạ Thành
Lộc đánh vào Núi Cọp, phía Đông Bắc hãng xi măng Hà Tiên, nằm trong
lãnh thổ Việt Nam. Hai trận này xảy ra đúng theo dự tính của Tướng
Trưởng, đã xóa sạch giấc mộng của Sư đoàn 1 Việt Cộng muốn “quậy
tung” vùng IV trước trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” miền Trung. Tướng Trưởng
biết chắc sẽ đụng địch rất nặng trên đoạn đường 14 cây số từ Hà Tiên
đến Kampong Trach nên đã chọn Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân thiện
chiến làm đơn vị tùng thiết cho Thiết đoàn 2 Kỵ Binh. Đúng như lời
người anh em KB Điền Đông Phương viết (nguyên văn): “Ngày hôm sau,
chúng tôi bắt đầu nhập trận, đoàn quân đi như gió bão, chiếm từng
cụm vườn, từng khu xóm… hướng về Kampong Trach. Đến trưa thì chạm
súng, phải đến chiều hôm đó mới thanh toán xong những ổ kháng cự.
Rồi hai ngày sau đó, chúng tôi bị cầm chân ở khu vực gần ngôi chùa
nằm cách Kampong Trach khoảng 5 cây số, vì cộng quân gài chốt ở khắp
nơi. Đến ngày thứ 6 thì chúng tôi bám sát được ngôi chùa”. Có nghĩa
là 6 ngày hành quân mở được khoảng 9 cây số đường, chưa kể có lần bị
dội ngược về biên giới, những sự kiện này tự thân đã giải quyết được
nổi thắc mắc của chính KB Điền Đông Phương (nguyên văn):
“Kampong-Trach: một địa-danh xa lạ, một nơi chốn xa tít mù khơi. Một
địa-danh ít người biết đến. Một nơi đã gây phiền-não, bối-rối cho
Danh-Tướng Ngô Quang Trưởng. Nơi đó Lữ-Đoàn 4 Kỵ-Binh gồm 2
Thiết-Đoàn 12 và 16 Kỵ-binh được chỉ-huy bởi Đại-Tá Nguyễn Văn Của
và Liên-Đoàn 7 Biệt-Động-Quân do Đại-Tá Phạm Duy Tất chỉ-huy bị vây
hãm cả tháng trời”.
Vì không có thắc mắc như KB Điền Đông Phương nên Bộ Tư lệnh tiền
phương Biệt Khu 44 và các Bộ Chỉ huy Biệt Động Quân ở Thất Sơn đã
cùng Trung tâm Huấn luyện Chi Lăng chuẩn bị trước một số tân binh
vừa mãn khóa huấn luyện sẵn sàng tung vào bổ sung kịp thời bù đắp
cho sự thiệt hại nhân mạng (đã dự đoán trước) của Tiểu đoàn 58 Biệt
Động Quân. Công việc chuẩn bị này thật là hữu ích.
Nhưng, dù có hiểu sao đi nữa, giải vây hay mở đường, chiến công của
Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh cùng Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân rất – rất –
rất đáng được ca tụng là thần kỳ, khi Thiết Giáp bắt tay được với
Thiết Giáp, Biệt Động Quân bắt tay được với Biệt Động Quân, tại
Kampong Trach.
Nhưng, cũng lại là nhưng, chuyện đời thì không có chi toàn vẹn, thần
kỳ ấy đã bị người anh em KB Điền Đông Phương làm mẻ đi bớt tính thần
kỳ, vì người anh em còn có viết thêm một đoạn (nguyên văn): “Qua
ngày hôm sau, tiếp tục chạm súng. Anh em Biệt Động Quân có vẻ nhụt
chí, khiến cho Nghê Thành Thân tức giận nhảy xuống khỏi xe, rồi cùng
với một đại đội trưởng của họ là trung úy Gia xông thẳng vào phòng
tuyến địch để họ phải tiến lên theo”.
Việc Thiếu tá KB Nguyễn Văn Răng viết trong bài “Trận Chiến Kampong
Trạch” buồn phiền chuyện Thiết đoàn 9 Kỵ Binh vừa đến Kampong Trach
bị đưa vào đóng trong một vườn tiêu rồi bị thiệt hại nặng thì chính
tác giả Nguyễn Văn Răng đã viết là lệnh trực tiếp từ Đại tá Của, Tư
lệnh phó Lữ đoàn 4, nên người viết bài này không dám có ý kiến.
Nhưng còn chuyện KB Điền Đông Phương phê bình tinh thần chiến đấu
của Tiểu đoàn 58 Biệt Động Quân thì dám xin góp ý với người anh em
rằng, Tiểu đoàn 58 ấy chính là Tiểu đoàn 41 (Cọp Ba Đầu Rằn) thuộc
Liên đoàn 4 Biệt Động Quân, một tiểu đoàn đánh giặc rất cừ khôi nổi
tiếng khắp vùng IV với những vị chỉ huy đã đánh thì nhất định đánh
tới nơi tới chốn nên cũng là tiểu đoàn có con số Tiểu đoàn trưởng tử
trận nhiều nhất, đến nỗi Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân ở Sài Gòn phải
quyết định cải danh lại, hy vọng các Tiểu đoàn trưởng … thôi chết
giùm. Đại úy Măng, Tiểu đoàn trưởng 58 mà người anh em KB Điền Đông
Phương kể là bạn cũ của mình, tham dự trận này, cũng là một trong
những Tiểu đoàn trưởng hạng nhất mà Tiểu đoàn từng có (ông Măng sau
này thăng cấp Thiếu tá rồi Trung tá). Và rất mong Trung úy Gia (hoặc
đã thăng Đại úy, Thiếu tá), Trung tá Măng của Tiểu đoàn 58 Biệt Động
Quân, nếu tình cờ đọc được bài của KB Điền Đông Phương hay bài viết
này, xin vui lòng kể lại cuộc hành quân tùng thiết mở đường của quý
vị.
Điểm cuối cùng người viết phải nêu ra là hai đoạn viết sau đây của
KB Điền Đông Phương (nguyên văn):
- Bây giờ tại Kampong Trach chỉ còn Thiết Đoàn 2 Kỵ Binh chúng
tôi và Tiểu Đoàn 58 BDQ nằm lại. Mặc dù bị tổn thất nhưng tinh thần
anh em Kỵ Binh vẫn vững vàng. Tuy nhiên khi Liên Đoàn 7 BDQ rút đi,
Đại Tá Phạm Duy Tất, Liên Đoàn Trưởng, đã bỏ rơi Tiểu Đoàn 94 BDQ.
Tiểu Đoàn BDQ nầy nằm giữ phía Bắc Kampong Trach không hề hay biết
về cuộc triệt thoái. Khi LD7BDQ đã an toàn về đến VN thì Tiểu Đoàn
94 bị quân CSBV xâm lược cường tập dứt điểm.
- Trong niềm vui chiến thắng anh em Kỵ Binh chúng tôi ai cũng nghẹn
ngào khi chứng kiến cảnh những chiến hữu BDQ đã từng kề vài sát cánh
chiến đấu chung một chiến hào trên khắp mặt trận Quân Khu IV chết
tức tửi, chết nghẹn ngào và chết vô lý. Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất,
Ông nghĩ gì về Mặt trận Kampong Trach? Dẫu biết rằng “Nhất Tướng
công thành vạn cốt khô” nhưng sao nghe nghẹn ngào và cay đắng quá.
“Bỏ rơi” Tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân? Tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân
“không hề hay biết” về cuộc triệt thoái? Người viết không gọi hỏi
Chuẩn tướng Phạm Duy Tất mà hỏi Đại Tá Trần Kim Đại, là Liên đoàn
trưởng chỉ huy ba Tiểu đoàn 66 – 93 – 94 Biệt Động Quân tham dự trận
Kampong Trach. Ông Đại lập tức phản đối cái vụ gọi là “bỏ rơi” này,
ông cho biết lệnh rút quân đó là một lệnh tức thì, nghĩa là sau khi
lệnh ban ra thì rút liền để giữ sự bất ngờ đối với địch. Ông Đại xác
nhận, lệnh từ ông Tất ban ra, ông Đại nhận và chuyển cùng một thời
gian cho ba tiểu đoàn dưới quyền, cũng như ông Của đã nhận và chuyển
cho các đơn vị Thiết Giáp cùng một lúc. Tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân
đóng quân xa nhất về hướng Bắc Kampong Trach, theo lời ông Đại kể là
đóng trên núi đá vôi, nên họ là đơn vị đàng sau cùng cuộc rút quân.
Trước khi rời trại lên Thiết giáp rút đi, Trung tá Đại gặp Đại úy
Liêm Tiểu đoàn phó Tiểu Đoàn 94 ở phía sau cổng trại, tức cách ngã
ba phía Nam thị trấn Kampong Trach chừng 500 thước. Sau đó trên
đường rút quân ông Liêm trúng pháo bị thương nặng, không muốn binh
sĩ bận bịu vì ông mà mang họa, Đại úy Liêm đuổi lính đi rồi rút chốt
lựu đạn tự sát; Trung sĩ I Vinh gốc Lực Lượng Đặc Biệt, người anh em
thân thiết của người viết lúc làm việc chung trong Ban 3 Liên đoàn
42 cũng chết gần đó, theo lời kể của những binh sĩ 94 BĐQ về từ
Kampong Trach mà người viết đã gặp lại tại căn cứ Thất Sơn.
Theo BĐQ Đỗ Như Quyên, “trên” đã nhất định đòi Công trường 1 phải
chiếm cho bằng được Hà Tiên làm hải cảng để được hưởng điều khoản
“quân ai đang có mặt ở đâu thì coi như là đất của phe đó” của Hiệp
định không hòa bình Paris 1973. Tầm quan trọng của trận Kampong
Trach là vậy, là tất cả các lực lượng Việt Cộng Hòa tham dự trận
Kampong Trach đã không cho phép Việt Cộng Sản có được một hải cảng
trong vùng IV.
Ngày 15/4/1972 Trung đoàn 101D thuộc Công trường 1 được tăng phái
thêm Trung đoàn 52D Chủ lực miền đánh chiếm nhà máy Xi Măng Hà Tiên,
nằm cách Thị xã Hà Tiên 7 cây số về hướng Đông Nam. Trung tá Trần
Kim Đại cho các tiểu đoàn vừa từ Kampong Trach về tái nhập trận với
sự yễm trợ của các đơn vị Thiết vận xa M113. Đại tá Phạm Duy Tất bốc
thêm Tiểu đoàn 86 của Thiếu tá Tạ Thành Lộc từ bên Mộc Hóa qua trực
thăng vận thẳng xuống Núi Cọp, với lối thả quân sát vào sào huyệt
địch, xuống là đụng liền, trận này được Tiểu đoàn 86 Biệt Động Quân
giải quyết vô cùng nhanh chóng (người viết có mặt tại chỗ). Việt
Cộng Hòa dứt điểm hai trận này vào ngày 29/4. Các đơn vị còn lại của
Công trường 1 tất tả băng ngược qua biên giới rút lui về Takeo, bên
Miên..
Không thể có “hải cảng Hà Tiên” ở vùng IV, “trên” lại ra lệnh Tướng
Chu Huy Mẫn đưa Sư đoàn 3 Sao Vàng đánh lấy Sa Huỳnh làm “hải cảng”
ở vùng I cho kịp Hiệp định không hòa bình Paris (28/1/1973). Nhưng
đã có cuộc “tái ngộ lý thú” xãy ra: Lúc này có ba nhân vật liên quan
tới trận Kampong Trach – Hà Tiên ở vùng IV lại đang có mặt tại vùng
I, Trung trướng Ngô Quang Trưởng đã trở thành Tư lệnh Quân Khu I,
Đại tá Trần Kim Đại đang nắm Liên đoàn 1 Biệt Động Quân và Đại tá Vũ
Quốc Gia nguyên Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 4 Thiết Kỵ đang là Lữ đoàn
trưởng Lữ đoàn 1 Thiết Kỵ. Ở cuộc “tái ngộ kỳ thú” này, Tướng Trưởng
ra lệnh Đại tá Đại đưa Liên Đoàn 1 Biệt Động Quân gồm ba Tiểu đoàn
21 – 37 – 39 vào Sa Huỳnh tăng phái cho Sư đoàn 2 Bộ Binh và đã đánh
bật Sư đoàn 3 Sao Vàng ra khỏi “hải cảng trong mộng của Việt Cộng
Sản” trước khi cái Hiệp Định thổ tả kia có hiệu lực. Ba phần tư
chiến lợi phẩm vũ khí nặng lấy được trong trận này là do Liên đoàn 1
Biệt động quân.
Liên đoàn 42 Biệt Động Quân của Trung tá Trần Kim Đại được tăng phái
một Chi đoàn Thiết Giáp mở màn trận Kampong Trach ở phía Bắc của nó.
Cuối cùng cũng chính lực lượng của ông Đại đã dứt điểm nó bằng trận
đánh tại vùng Xi Măng Hà Tiên, khá xa nó về hướng Nam. Nhiệm vụ của
CHÚNG TA đã hoàn tất tốt đẹp!
Quân Biệt Động cùng Thiết Giáp dưới quyền chỉ huy của Đại tá Phạm
Duy Tất cũng vậy, đã chận đứng mưu xâm nhập vào Quân Khu IV của Công
trường 1 Việt Cộng (được tăng phái thêm một trung đoàn của Công
trường 9) tại Kampong Trach. Nhờ vậy Trung tướng Ngô Quang Trưởng
chẳng những giữ được tình hình vùng IV yên ổn mà còn có thể thoải
mái gởi quân tiếp viện cho trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” miền Trung sau đó.
Chiến thắng Kampong Trach là chiến thắng của CHÚNG TA!
Chứng kiến đồng đội ngã xuống, đó bao giờ cũng là những cái chết tức
tửi, vô lý, đối với những người may mắn còn ở lại, khiến người ở lại
nghẹn ngào. Nhưng chiến binh thứ thiệt thì không cần thiết trút nỗi
nghẹn ngào của mình lên đầu những đơn vị bạn khác binh chủng, cũng
như không cần thiết tạo thành nỗi vinh quang cho mình cùng cách na
ná như vậy. Thắng bại là chuyện thường tình của nhà binh, nhưng nếu
quên nằm lòng hai chữ CHÚNG TA thì sẽ dính cái sau hơn là cái trước
cũng là chuyện thường tình.
Cuối cùng, đừng quên toàn thể các chiến binh thuộc tất cả các binh
chủng của quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong đó có anh, có tôi, có bạn
bè anh, có bạn bè tôi, cùng bại trận vào tháng Tư năm 1975; và CHÚNG
TA cùng đã nghẹn ngào!
Little Saigon, tháng Mười Hai 2011.
Đỗ Sơn
Khoảng một tuần sau khi bài
được đăng trên một số báo và diễn đàn Việt ngữ Internet, tôi nhận
được email của Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, vị chỉ huy trận chiến
Kampong Trach. Email của Chuẩn tướng Tất có vài điều tôi đã không
viết trong bài “Kampong Trach 1972”, và vì ông có ghi chú bên ngoài
là “tùy nghi xử dụng” nên tôi quyết định gởi đăng lá thơ của ông lên
những nơi đã từng đăng bài “Kampong Trach 1972” hầu quý vị từng đọc
bài có thêm dữ kiện, cũng như hiểu được tâm tư của người chỉ huy
trận chiến này.
Ghi chú: Bút hiệu Linh Cơ ký dưới bài chính là danh
hiệu truyền tin của Chuẩn tướng Phạm Duy Tất trong thời kỳ ông đang
chỉ huy lực lượng Biệt Động Quân ở Quân đoàn IV & Quân khu IV.
Anh Đỗ Sơn,
Tôi đã đọc được bài Kampong Trach 1972 anh viết, bồi hồi nhớ lại một
đoạn khó quên trong quãng đời chiến binh của mình. Gởi anh thêm một
vài chi tiết có thể anh không rõ, không nhớ, hoặc anh chưa từng nghĩ
đến về trận Kampong Trach. Chắc anh còn nhớ tôi đã trả lời với các
Phóng viên ở Nam California nhân dịp về tham dự Đại Hội Biệt Động
Quân: Là bại tướng thì nói gì cũng là bại tướng. Nhưng được gợi hồi
tưởng lại trận Kampong Trach thì tôi lại muốn nói, nói những lời
chưa có cơ hội nói.
Cho đến giờ này hẳn chưa ai quên Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, mỗi khi nhắc
đến không ai khỏi chạnh lòng, ngậm ngùi về sự khốc liệt của chiến
tranh. Năm 1972 là năm cuộc chiến Nam – Bắc đã lên đến cực điểm.
Tổng bí thư Lê Duẫn và đảng Cộng Sản Việt Nam thật vô cùng tàn ác
đẩy hàng vạn vạn người dân Việt Nam của cả hai miền vào cảnh chết
chóc chưa từng thấy. Họ mơ ước, nôn nóng nhuộm đỏ cả nước Việt Nam
càng sớm càng tốt để dâng công lên quan thầy. Giữa hai lực đối trọng
to lớn là Liên Xô và Trung Cộng, đảng Cộng Sản Việt Nam chơi trò đu
dây và khiến nhân dân miền Bắc lầm tưởng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa là “Độc Lập” qua khẩu hiệu “Chống Mỹ Cứu Nước”.
Quá bất ngờ đến bàng hoàng cho toàn đảng Cộng sản Việt Nam khi hệ
thống Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô sụp đổ, biến dạng trên địa cầu. Nhưng
thật không may, một nước cộng sản to lớn, Trung Cộng, vẫn còn tồn
tại. Dần dần đảng Cộng sản Việt Nam muốn thoát hiểm thì phải bám víu
vào họ, vô hình chung lọt vào cái lưới thiên la địa võng của Trung
Cộng mà cả nước Việt Nam ngày nay đang dãy dụa.
Trở lại với Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, nói đến trận chiến khốc liệt này mọi
người liên tưởng ngay đến 3 mặt trận lớn là An Lộc, Kontum, và Quảng
Trị. Chưa đủ, còn một mặt trận nữa là chiến trường Kampong Trạch –
Hà Tiên do BĐQ và KB của QĐ IV/QK IV chiến đấu. Tôi không nghiên cứu
để hiểu 4 mặt trận đâu là chính đâu là diện. Kampong Trach là một
địa danh xa lạ, một thị trấn quá nhỏ bé nằm trên đất Kampuchia cách
Hà Tiên về phía Đông Bắc khoảng 14 cây số.
Trận chiến Kampong Trach cũng khá khốc liệt về cường độ. Lực lượng
tham chiến có Liên đoàn 42 BĐQ/ Chiến Thuật được tăng phái một chi
đoàn thiết quân vận M113 đối đầu với một sư đoàn chính quy Cộng Sản
Bắc Việt được tăng cường. Có thể nói bên ta 1 chọi 5. Khởi đầu mặt
trận này do Đại Tá Vũ Quốc Gia Tư Lệnh Lữ Đoàn IV Kỵ Binh chỉ huy,
Bộ Chỉ Huy Hành Quân đóng tại Tô Châu, Hà Tiên. Biệt Động Quân QK/
IV có Bộ Chỉ Huy Hành Quân đóng tại trại Chi Lăng (vùng Thất Sơn,
Châu Đốc), có Bộ Chỉ Huy Hành Quân nhẹ đóng tại bến phà Neak Luong
trên đất Kampuchia chịu trách nhiệm vùng biên giới từ tỉnh Kiến
Tường (Mộc Hóa) đến tỉnh Kiến Phong (Cao Lãnh).
Hai lực lượng BĐQ và KB đều dưới quyền chỉ huy của Tướng Trần Văn
Hai, Tư lệnh Biệt khu 44. Tôi được Tướng Hai đưa vào Kampong Trach
khi chiến trận đã lên đến cao điểm và nắm quyền chỉ huy.
Đề cập đến tương quan lực lượng thì tôi xin nói rõ về lực lượng và
khả năng của BĐQ Biên Phòng một chút để thấy sức chiến đấu, tinh
thần chiến đấu của anh em chiến sĩ BĐQ Biên Phòng rất kiên cường
trong trận Kampong Trach. Nói đến Biệt Động Quân hầu như ai ai cũng
có ý nghĩ đây là những đơn vị thiện chiến, mũi nhọn, đầu sóng ngọn
gió. BĐQ luôn luôn là tuyến đầu xung trận. Quả đúng như vậy! Đó là
BĐQ ở các Liên đoàn 1, 2, 3, 4, 5 đã dày dạn chiến trận mấy chục năm
qua.
BĐQ Biên Phòng thì khác. Là những đơn vị vừa được cải tuyển thành
BĐQ từ năm 1970. Họ là những Biệt Kích Quân Dân Sự Chiến Đấu ở các
trại Biên Phòng / Lực Lượng Đặc Biệt. Họ chưa từng được tổ chức
thành tiểu đoàn, chỉ hành quân nhỏ, phục kích, thám sát, chận đứng
và tiêu diệt những cuộc xâm nhập nhỏ xuyên biên giới, từng đoàn ít
người trong phạm vi vùng trách nhiệm của trại. Họ chưa có kinh
nghiệm đánh cấp đại đội, tiểu đoàn, nói chi là liên đoàn, tùng thiết
phối hợp với thiết quân vận thì rõ ràng là xa lạ, trang bị của họ
cũng rất nhẹ nhàng.
Từ cuối năm 1970, ý thức được tình hình đã biến đổi, Cộng Sản Bắc
Việt không còn xâm nhập từng đoàn nhỏ vài chục người hoặc đông hơn
khoảng 100 người. Bắc Việt nay xâm nhập cấp trung đoàn, sư đoàn cho
nên tôi đã cơ động hóa các tiểu đoàn biên phòng để vừa hành quân vừa
học hỏi kinh nghiệm đánh cấp đại đội, tiểu đoàn và nếu cần có thể
đánh cấp liên đoàn. Các tiểu đoàn này chưa được gởi đi huấn luyện bổ
túc tại Trung Tâm Huấn Luyện BĐQ/Dục Mỹ để chính quy hóa. Vì vậy mà
có LĐ 42 BĐQ/ CT để tham chiến mặt trận Kampong Trach, tăng phái cho
LĐ IV KB.
Nói về quân số cũng là một vấn đề. Tiểu đoàn thuộc các Liên Đoàn 1,
2, 3, 4, 5 đều có cấp số 800 thì khả năng tham chiến mới được 500.
Ngược lại cấp số tiểu đoàn BP chỉ là 500 thì khả năng hành quân
không hơn không kém 300 và chỉ trang bị nhẹ.
Với tương quan lực lượng như vậy mà LĐ 42 BĐQ/CT đã tạo được thành
tích có thể nói “thần kỳ”. LĐ đã không bị đánh tan và không bị tiêu
diệt. Ngược lại đã gây tổn thất nặng nề cho SĐ 1 CSBV, chận đứng họ
tại Kampong Trach, bẻ gãy kế hoạch của họ làm tiêu tan mục tiêu của
BV đã đề ra, đánh chiếm Hà Tiên Kiên Lương để xây một bến cảng cho
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Do tình hình các mặt trận trên toàn cõi Việt Nam Cộng Hòa tương đối
lắng dịu, quân ta đã làm chủ được trận địa, SĐ 1 CSBV tại Kampong
Trach cũng đã yếu thế, không còn khả năng tấn công mạnh nên QĐ IV đã
cho lệnh rút lui lực lượng khỏi Kampuchia.
Thấy quân ta rút lui, SĐ 1 CSBV tuy đã yếu thế nhưng cố vớt vát tiến
chiếm Kiên Lương, cơ sở Xi Măng Hà Tiên. LĐ 42 BĐQ/CT vừa trở về
chưa được dưỡng quân thì lập tức nhận lệnh tăng phái cho Sư đoàn 9
Bộ Binh dưới quyền Tướng Trần Bá Di, rồi được điều động đến Kiên
Lương để giải tỏa khu vực này. Trung tá Trần Kim Đại cùng với LĐ
nhanh chóng đến Kiên Lương để lâm trận. Bản thân tôi và Bộ Chỉ huy
nhẹ không còn trách nhiệm gì trên mặt trận này, trở về Bộ Chỉ huy
Hành quân ở Thất Sơn với trách nhiệm, nhiệm vụ cũ trước đây.
Có lẽ Tướng Di hiểu quá rõ khả năng và sở trường của Biệt Động Quân
Biên phòng nên đã ra một lệnh cho Trung tá Đại vô cùng khắc nghiệt
tưởng chừng như khó thực hiện được, hay ít nhất cũng phải chấp nhận
một tổn thất cao. Ấy thế mà Trung tá Đại thì bình tĩnh lắm, tự tin
là khác. Lệnh ban ra là: BĐQ phải tái chiếm hãng Xi Măng Hà Tiên
nguyên vẹn không được làm hư hại bất cứ thứ gì, có nghĩa là Trung tá
Đại không được xử dụng Pháo binh, không được gọi Không quân yểm trợ,
không được xử dụng vũ khí nặng. Ấy vậy mà Trung tá Đại và LĐ 42
BĐQ/CT tạo được một chiến công “thần kỳ” thứ hai. Chỉ vỏn vẹn trong
vài ngày ngắn ngủi, LĐ 42 BĐQ/CT đã chiếm lại hoàn toàn cơ sở Xi
Măng Hà Tiên, đánh tan lực lượng CS khiến họ phải tháo chạy về biên
giới.
Thật ra các Tiểu đoàn BĐQ/BP còn thiếu kinh nghiệm về lối đánh trận
địa chiến nhưng có quá nhiều kinh nghiệm về đánh đêm, đánh biệt
kích. Chính đó là sở trường của họ mà Tướng Di đã phát huy. Trung tá
Đại đã hoàn thành mệnh lệnh của Tướng Di thật hoàn hảo, xuất sắc.
Tuy tôi không có trách nhiệm trong trận chiến này nhưng vùng biên
giới vốn là trách nhiệm thường xuyên của tôi trong nhiều năm qua nên
địa hình, địa vật trong khu vực này tôi quen thuộc lắm.
Sau khi Trung tá Đại nhận lệnh từ Tướng Di, liền cấp tốc báo cáo cho
tôi. Trung tá Đại thì có vẻ tự tin nhưng tôi không thể không lo cho
quân của mình dù đã tăng phái. Phản ứng thật nhanh, tôi yêu cầu SĐ 9
BB chấp thuận cho tôi điều động Tiểu đoàn 86 BĐQ/BP thuộc trại Bình
Thạnh Thôn do Thiếu tá Tạ Thành Lộc chỉ huy thuộc LĐ 41 BĐQ/CT đóng
tại Mộc Hóa trực thăng vận chớp nhoáng vào chiếm lĩnh núi Hòn Cọp.
Gọi là núi nhưng thật sự là một ngọn đồi thấp nằm chận giữa con
đường Kiên Lương đến Hà Tiên. Nơi đây là cơ sở chỉ huy trạm xá tiền
phương, tiếp vận, giao liên, con đường tiến thối của đối phương.
Cuộc đổ quân thật bất ngờ và táo bạo của TĐ 86 BĐQ/BP, Thiếu tá
“Paul Húc” Tạ Thành Lộc và quân của ông ta chỉ xoãi có chục bước đã
chiếm lĩnh ngay rặng đồi này, đánh tan tành quân CS.
Cũng phải nói thêm, Trung tá Đại, nhờ sự hỗ trợ rất tích cực của
“Paul Húc” Tạ Thành Lộc và TĐ 86 BĐQ/BP, đã kết thúc hoàn toàn trận
chiến Kampong Trach một cách nhanh chóng vẻ vang.
Có thể nói rằng dân chúng miền Tây vẫn được vui hưởng thái bình vào
lúc đó là nhờ vào trận Kampong Trach trong khi các mặt trận khác tuy
bề ngoài có vẻ lắng dịu nhưng thực tế thì vẫn rất căng thẳng.
Thật là một điều không vui cho quân dân miền Tây nói chung, BĐQ nói
riêng, vì sự thay đổi bất ngờ của hệ thống chỉ huy QĐ IV/QK IV.
Tướng Trưởng được điều động ra làm Tư lệnh QĐ I/QKI, Tướng Trần Văn
Hai rời BK44, Trung tá Trần Kim Đại đi nhận chức Liên đoàn trưởng LĐ
1 BĐQ ở QK I. Riêng tôi đi nhận chức vụ Chỉ huy trưởng BĐQ/QK II,
tại đây lập tức tham chiến vào mặt trận Kontum, BĐQ/QK2 chịu trách
nhiệm mở đường Quốc lộ 14, giải tỏa cụm chốt tại núi Chu Pao. Cùng
LĐ 21 BĐQ/BP do Trung tá Nguyễn Văn Lang chỉ huy và TĐ 90 BĐQ/BP của
Đại úy Phan Bát Giác đã khai thông Quốc lộ 14 mở đường cho chuyến
tiếp vận đầu tiên từ Pleiku vào Kontum bằng đường bộ.
Vào thời điểm này năm xưa, BĐQ QK IV, đặc biệt là LĐ 42 BĐQ/CT – TĐ
58 BĐQ – và TĐ 86 BĐQ/BP, tôi không biết các anh em này nghĩ gì
nhưng chắc rằng họ bị hụt hẫng đôi chút. Chẳng còn ai nhắc nhở đến
trận chiến khốc liệt tại Kampong Trach, không ai đề cập đến những
chiến sĩ đã hy sinh còn nằm lại trên vùng đất lạnh của xứ Chùa Tháp,
những anh em chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu tại chiến trường này may
mắn còn sống sót.
Chiến trường Kampong Trach đã bị lãng quên không phải bây giờ mà
ngay từ dạo ấy..
Hình như Biệt Động Quân muôn thuở là vậy đó. Họ chưa có tiếng nói
mặc dù BĐQ là một đại đơn vị, một binh chủng lớn. Họ chiến đấu và
tiếp tục chiến đấu cho đến khi lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh ban
ra. Thôi thì hãy gióng lên tiếng than “Ôi” … Không biết anh em BĐQ
có đồng tình như vậy không?
Gần 40 năm qua không ai nhắc đến danh từ Kampong Trach nhưng tôi
chắc những người lính Kỵ Binh – Không Quân – Pháo Binh – Công Binh –
Biệt Động Quân … đã từng tham chiến ở đó không thể quên, thân nhân
bao chiến sĩ đã hy sinh, thân xác còn nằm lại nơi xứ người không bao
giờ quên. Chúng ta thì chưa làm được gì cho họ trong lúc này. Ngậm
ngùi thay.
Đúng là không thể quên cho nên thật bất ngờ, ông bạn KB Điền Đông
Phương đã gợi lại Kampong Trach. Tôi không hiểu ông bạn KB Điền Đông
Phương suy nghĩ gì, ý tưởng của ông ta ra sao khi viết về trận
chiến. Tuy vậy tôi rất chân thành và vô cùng cám ơn ông bạn KB Điền
Đông Phương đã nhắc lại khiến BĐQ Đỗ Như Quyên, BĐQ Trần Duy Hòe, và
BĐQ Đỗ Sơn chạnh lòng, có động cơ để nhớ lại, nghiên cứu, tham khảo
thêm mà viết lại cho tương đối hoàn chỉnh hầu giúp cho Quân Sử
QLVNCH không bị bỏ sót.
May lắm thay. Đáng lý Đỗ Sơn đã phải viết đến từ lâu lắm khi Tướng
Trưởng còn sinh thời. Tôi biết Tướng Trưởng rất muốn viết về Kampong
Trach. Sau thời gian tôi đến được Hoa Kỳ (1993) tôi đã có gặp Tướng
Trưởng nhiều lần. Lần nào gặp tôi Ông cũng nhắc nhở trận Kampong
Trach và nói cám ơn tôi về sự có mặt của tôi ở đó. Không phải một
lần mà lần nào cũng vậy, Tướng Trưởng nói và tôi ngồi suy tư. Tôi
thật tình không muốn tìm hiểu Ông đang suy nghĩ gì, nhưng phải chăng
Tướng Trưởng đang ân hận rằng mình đã rời chức vụ Tư lệnh QĐ/QK4 quá
đột ngột nên có điều chưa làm được của một vị Tư lệnh đối với anh em
chiến hữu?
LINH CƠ
Biên Hùng chuyển