Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Tháng Tư, Chết Và Sống!
Chết không phải là đã tắt hơi thở
Sống đôi khi cũng có nghĩa chết mòn.
(Chúc Thư)
Trong một cuộc phỏng vấn với một sĩ quan VNCH đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trên bãi biển An Dương vào ngày 26 Tháng Ba, 1975, khi một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến bị kẹt lại trên bờ biển, trước mặt là biển cả chỉ có một chiếc tàu nhỏ hải quân vào đón thương binh, sau lưng là quân thù và đạn pháo, phần lớn những người lính thất trận đã bị “chết cạn” trên bờ biển tại đây hay bị bắt làm tù binh, tôi đã đặt câu hỏi với người lính còn sống sót đến hôm nay, là điều gì khiến cho ông suy nghĩ nhất, sau ba mươi tám năm dài trôi qua?
Ðiều ông nói có thể khi mới nghe qua, chúng ta ngạc nhiên, nhưng nghĩ lại nghe thật giản dị, nhưng không khỏi xót xa:
“Ðiều ân hận của tôi là đã không được chết!”
Tôi nghĩ rằng câu nói của ông, người lính già, trong giờ phút nhắc lại
chuyện cả một quân đội tan rã, bao nhiêu người đã nằm lại trên những con
đường lui binh, trên những bờ biển tuyệt vọng của miền Nam, là một câu
nói phát xuất từ đáy lòng, không khoa trương hay đại ngôn chút nào, bởi
sự sống có trăm nghìn lần khó khăn hơn sự chết!
Bản năng sinh tồn của mọi loài là cố bám lấy sự sống. Chúng ta cũng
không trách ai những ngày hỗn loạn, tìm được một chỗ trên trực thăng hay
ra đi với toàn bộ gia đình an toàn trên một chiến hạm ra khơi trong khi
xe tăng của địch quân đã vào đến Sài Gòn. Khi những con tàu rời bến
Khánh Hội, khi những chiếc trực thăng đã bốc lên cao giữa một thủ đô
đang hứng chịu những quả đạn pháo kích cùng với cảnh hỗn loạn của một
giờ thất thủ, ở những nơi nào đó, có những người lính đang tuân thủ lệnh
chỉ huy giữ đất một phút không rời, hay thất vọng đành quàng vai ôm
nhau, chia chung cái chết.
Ba mươi tám năm sau, những người còn sống sót, bằng cách này hay cách
khác, lần lượt ra khỏi đất nước, đã thật sự còn sống không hay cũng như
đã chết. Có những vị tướng đã chết lẫm liệt, cho những ông tướng khác
sống cuộc đời tầm thường trên đất khách, ngày hai buổi sáng chiều và
chết quạnh quẽ, hay thậm chí còn quay về bợ đỡ kẻ thù.
Có những người lính đã chết trong những giờ cuối cùng để cho chiến hữu
họ được sống, qua ngày đoạn tháng, trở về trên những con đường tắm máu
ngày xưa, nhưng đầu óc trống rỗng, ngu ngơ như những người mất trí nhớ.
Có những người còn thân thể còn lành lặn nhưng tâm thần tê liệt, trở lại
rong chơi giữa số phận nghiệt ngã của đồng đội què cụt quanh mình.
Trở lại câu trả lời của người lính già, ông nói ngày xưa, nếu nằm lại
với anh em trên bãi biển, cái chết đến một cách thật dễ dàng, nhưng cái
sống bao nhiêu năm nay quả là khó, vì không biết sống thế nào cho đáng
sống, cho khỏi hổ thẹn với chính mình, nhất là khi nghĩ đến những người
đã chết ngay trước mặt mình, đã chết ngay sau lưng khi mình đã may mắn
được ra đi.
Sống phải chăng không dễ, vì sự sống còn mang nặng nghĩa vụ với những người đã chết.
Chúng tôi xin nhắc lại một câu chuyện cũ. Ngày 21 Tháng Sáu, 1945, khi
quân đội Nhật không giữ được Okinawa, tại bộ tư lệnh của đơn vị tại
Mabumi, Tướng Mitsuri Ushijima đã viết thư trình lên Thiên Hoàng Hiro
Hito báo cáo về tình hình chiến sự tại Okinawa và tạ tội không giữ được
đảo, trước khi tiến hành việc mổ bụng tự sát, ông đã nói với Ðại Tá
Hiromichi Yahara:
“Ðại Tá Yahara, ông cũng như tôi lẽ ra phải tự sát. Nhưng tôi ra lệnh
cho ông ở lại. Nếu ông chết, sau này còn ai có thẩm quyền để kể lại về
trận chiến Okinawa này. Mặc dù sống sau khi thua trận là nhục nhã, nhưng
đây là lệnh từ cấp chỉ huy của ông!”
Yahara do đó là sĩ quan cao cấp bên phía Nhật sống sót sau trận đánh và
về sau ông đã cho xuất bản cuốn sách mang tựa đề “Trận Ðánh Vì Okinawa.”
Như vậy, sống còn phải chăng cũng là một nghĩa vụ?
Lòng dũng cảm không chỉ dành cho những vị anh hùng đã tự sát. Sống
cũng cần lòng dũng cảm. Từ ba mươi tám năm nay có những người sống trong
sợ hãi, tê cứng tứ chi và đầu óc. Họ sợ khi trở về Việt Nam bị công an
làm khó dễ, họ sợ con cái của họ còn ở bên kia sẽ bị liên lụy, họ sợ sẽ
không được trở về để thăm viếng người thân, nếu ở bên này họ có một cử
chỉ hay lời nói nào chống lại hay gây bất lợi cho chế độ trong nước.
Toàn là những cái sợ cho lợi lộc của bản thân. Chúng tôi cũng xin nói
thêm đây không phải là một người dân bình thường, tình cờ một đêm nọ, có
mặt trên bãi biển, là điểm hẹn của những người vượt biển, nên bị lùa
xuống ghe, bất đắc dĩ phải bỏ nước ra đi, mà họ là những người quyết
định chọn cái chết để tìm con đường sống, hay đã đánh đổi bằng những năm
tháng tù đày khốn khổ nơi chốn rừng thiêng nước độc. Họ cũng không phải
là những người lính vô danh, những người này có hoạt động trong các hội
đoàn, có tên tuổi, có chức vị.
Một lần tôi có hẹn phỏng vấn với một cán bộ xây dựng nông thôn trên một
chương trình truyền hình về quá trình hoạt động của đơn vị ông trước năm
1975. Trước giờ thu hình, tôi gọi điện thoại cho ông, ở đầu dây bên
kia, vợ ông trả lời “ông không có nhà.” Tôi ngỡ rằng ông đang trên đường
đến đài truyền hình, nhưng khi tôi xưng danh tánh, bà vợ cho tôi biết
“ông đã đi xa – out of town!” Trời đất! Mới hôm qua đây, ông “ừ è” với
tôi, mà chỉ trong thời gian, chưa đến 24 tiếng đồng hồ, ông đã trốn chạy
một buổi phỏng vấn, cũng là trốn chạy cái dĩ vãng mà ông thường tự cho
là hào hùng ngày xưa, chỉ vì một nỗi sợ hãi nào đó, mà bản thân ông
không đủ can đảm nói thật với tôi là ông sợ.
Một người nữa đang sống, bề ngoài có vẻ hào hùng nhưng còn sợ hãi. Ðây
là một cựu sĩ quan có chức vụ trong một hội đoàn cựu quân nhân, và vào
dịp Tháng Tư năm nay, tôi muốn mời ông lên một chương trình nói về những
ngày “lui binh.” Ðến giờ thu hình, không thấy ông đến, sốt ruột, tôi
gọi cho ông. Ông trả lời vắn tắt, trong khi đèn đuốc, sân quay, chuyên
viên và cả tôi đang chờ ông: “Tôi bận, không đến được!”
Ông biết truyền thông đi xa, có khi về tận bên kia, cẩn thận ẩn mình đi
là tốt. Có điều tôi không hiểu sao ông lại dấn thân đi làm việc cộng
đồng, trong khi lòng ông đầy sự sợ hãi. Ông muốn về Việt Nam chăng, hay
là ông còn mẹ, còn em mà ông lấy cớ muốn bảo vệ họ, sự sợ hãi lớn lao
đến dường ấy hay sao? Bây giờ mà cái bóng ma cộng sản còn lởn vởn bao
trùm lên đời sống của ông, một người đã cao bay xa chạy, trong khi tuổi
trẻ ở trong nước, những người dân bị phản bội, sống giữa kìm kẹp tù đày,
vẫn không hề biết sợ hãi là gì!
Tướng McArthur nói: “Old soldiers never die; they just fade away – Người
lính già không chết; họ chỉ phai nhạt dần đi.” Chết đã đành, sống mà
phai nhạt, mờ dần trong quên lãng như cỏ cây, thì còn gì buồn hơn nữa!
Chết và sống, điều gì khó hơn?
Huy Phương
Song Phương chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Tháng Tư, Chết Và Sống!
Chết không phải là đã tắt hơi thở
Sống đôi khi cũng có nghĩa chết mòn.
(Chúc Thư)
Trong một cuộc phỏng vấn với một sĩ quan VNCH đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trên bãi biển An Dương vào ngày 26 Tháng Ba, 1975, khi một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến bị kẹt lại trên bờ biển, trước mặt là biển cả chỉ có một chiếc tàu nhỏ hải quân vào đón thương binh, sau lưng là quân thù và đạn pháo, phần lớn những người lính thất trận đã bị “chết cạn” trên bờ biển tại đây hay bị bắt làm tù binh, tôi đã đặt câu hỏi với người lính còn sống sót đến hôm nay, là điều gì khiến cho ông suy nghĩ nhất, sau ba mươi tám năm dài trôi qua?
Ðiều ông nói có thể khi mới nghe qua, chúng ta ngạc nhiên, nhưng nghĩ lại nghe thật giản dị, nhưng không khỏi xót xa:
“Ðiều ân hận của tôi là đã không được chết!”
Tôi nghĩ rằng câu nói của ông, người lính già, trong giờ phút nhắc lại
chuyện cả một quân đội tan rã, bao nhiêu người đã nằm lại trên những con
đường lui binh, trên những bờ biển tuyệt vọng của miền Nam, là một câu
nói phát xuất từ đáy lòng, không khoa trương hay đại ngôn chút nào, bởi
sự sống có trăm nghìn lần khó khăn hơn sự chết!
Bản năng sinh tồn của mọi loài là cố bám lấy sự sống. Chúng ta cũng
không trách ai những ngày hỗn loạn, tìm được một chỗ trên trực thăng hay
ra đi với toàn bộ gia đình an toàn trên một chiến hạm ra khơi trong khi
xe tăng của địch quân đã vào đến Sài Gòn. Khi những con tàu rời bến
Khánh Hội, khi những chiếc trực thăng đã bốc lên cao giữa một thủ đô
đang hứng chịu những quả đạn pháo kích cùng với cảnh hỗn loạn của một
giờ thất thủ, ở những nơi nào đó, có những người lính đang tuân thủ lệnh
chỉ huy giữ đất một phút không rời, hay thất vọng đành quàng vai ôm
nhau, chia chung cái chết.
Ba mươi tám năm sau, những người còn sống sót, bằng cách này hay cách
khác, lần lượt ra khỏi đất nước, đã thật sự còn sống không hay cũng như
đã chết. Có những vị tướng đã chết lẫm liệt, cho những ông tướng khác
sống cuộc đời tầm thường trên đất khách, ngày hai buổi sáng chiều và
chết quạnh quẽ, hay thậm chí còn quay về bợ đỡ kẻ thù.
Có những người lính đã chết trong những giờ cuối cùng để cho chiến hữu
họ được sống, qua ngày đoạn tháng, trở về trên những con đường tắm máu
ngày xưa, nhưng đầu óc trống rỗng, ngu ngơ như những người mất trí nhớ.
Có những người còn thân thể còn lành lặn nhưng tâm thần tê liệt, trở lại
rong chơi giữa số phận nghiệt ngã của đồng đội què cụt quanh mình.
Trở lại câu trả lời của người lính già, ông nói ngày xưa, nếu nằm lại
với anh em trên bãi biển, cái chết đến một cách thật dễ dàng, nhưng cái
sống bao nhiêu năm nay quả là khó, vì không biết sống thế nào cho đáng
sống, cho khỏi hổ thẹn với chính mình, nhất là khi nghĩ đến những người
đã chết ngay trước mặt mình, đã chết ngay sau lưng khi mình đã may mắn
được ra đi.
Sống phải chăng không dễ, vì sự sống còn mang nặng nghĩa vụ với những người đã chết.
Chúng tôi xin nhắc lại một câu chuyện cũ. Ngày 21 Tháng Sáu, 1945, khi
quân đội Nhật không giữ được Okinawa, tại bộ tư lệnh của đơn vị tại
Mabumi, Tướng Mitsuri Ushijima đã viết thư trình lên Thiên Hoàng Hiro
Hito báo cáo về tình hình chiến sự tại Okinawa và tạ tội không giữ được
đảo, trước khi tiến hành việc mổ bụng tự sát, ông đã nói với Ðại Tá
Hiromichi Yahara:
“Ðại Tá Yahara, ông cũng như tôi lẽ ra phải tự sát. Nhưng tôi ra lệnh
cho ông ở lại. Nếu ông chết, sau này còn ai có thẩm quyền để kể lại về
trận chiến Okinawa này. Mặc dù sống sau khi thua trận là nhục nhã, nhưng
đây là lệnh từ cấp chỉ huy của ông!”
Yahara do đó là sĩ quan cao cấp bên phía Nhật sống sót sau trận đánh và
về sau ông đã cho xuất bản cuốn sách mang tựa đề “Trận Ðánh Vì Okinawa.”
Như vậy, sống còn phải chăng cũng là một nghĩa vụ?
Lòng dũng cảm không chỉ dành cho những vị anh hùng đã tự sát. Sống
cũng cần lòng dũng cảm. Từ ba mươi tám năm nay có những người sống trong
sợ hãi, tê cứng tứ chi và đầu óc. Họ sợ khi trở về Việt Nam bị công an
làm khó dễ, họ sợ con cái của họ còn ở bên kia sẽ bị liên lụy, họ sợ sẽ
không được trở về để thăm viếng người thân, nếu ở bên này họ có một cử
chỉ hay lời nói nào chống lại hay gây bất lợi cho chế độ trong nước.
Toàn là những cái sợ cho lợi lộc của bản thân. Chúng tôi cũng xin nói
thêm đây không phải là một người dân bình thường, tình cờ một đêm nọ, có
mặt trên bãi biển, là điểm hẹn của những người vượt biển, nên bị lùa
xuống ghe, bất đắc dĩ phải bỏ nước ra đi, mà họ là những người quyết
định chọn cái chết để tìm con đường sống, hay đã đánh đổi bằng những năm
tháng tù đày khốn khổ nơi chốn rừng thiêng nước độc. Họ cũng không phải
là những người lính vô danh, những người này có hoạt động trong các hội
đoàn, có tên tuổi, có chức vị.
Một lần tôi có hẹn phỏng vấn với một cán bộ xây dựng nông thôn trên một
chương trình truyền hình về quá trình hoạt động của đơn vị ông trước năm
1975. Trước giờ thu hình, tôi gọi điện thoại cho ông, ở đầu dây bên
kia, vợ ông trả lời “ông không có nhà.” Tôi ngỡ rằng ông đang trên đường
đến đài truyền hình, nhưng khi tôi xưng danh tánh, bà vợ cho tôi biết
“ông đã đi xa – out of town!” Trời đất! Mới hôm qua đây, ông “ừ è” với
tôi, mà chỉ trong thời gian, chưa đến 24 tiếng đồng hồ, ông đã trốn chạy
một buổi phỏng vấn, cũng là trốn chạy cái dĩ vãng mà ông thường tự cho
là hào hùng ngày xưa, chỉ vì một nỗi sợ hãi nào đó, mà bản thân ông
không đủ can đảm nói thật với tôi là ông sợ.
Một người nữa đang sống, bề ngoài có vẻ hào hùng nhưng còn sợ hãi. Ðây
là một cựu sĩ quan có chức vụ trong một hội đoàn cựu quân nhân, và vào
dịp Tháng Tư năm nay, tôi muốn mời ông lên một chương trình nói về những
ngày “lui binh.” Ðến giờ thu hình, không thấy ông đến, sốt ruột, tôi
gọi cho ông. Ông trả lời vắn tắt, trong khi đèn đuốc, sân quay, chuyên
viên và cả tôi đang chờ ông: “Tôi bận, không đến được!”
Ông biết truyền thông đi xa, có khi về tận bên kia, cẩn thận ẩn mình đi
là tốt. Có điều tôi không hiểu sao ông lại dấn thân đi làm việc cộng
đồng, trong khi lòng ông đầy sự sợ hãi. Ông muốn về Việt Nam chăng, hay
là ông còn mẹ, còn em mà ông lấy cớ muốn bảo vệ họ, sự sợ hãi lớn lao
đến dường ấy hay sao? Bây giờ mà cái bóng ma cộng sản còn lởn vởn bao
trùm lên đời sống của ông, một người đã cao bay xa chạy, trong khi tuổi
trẻ ở trong nước, những người dân bị phản bội, sống giữa kìm kẹp tù đày,
vẫn không hề biết sợ hãi là gì!
Tướng McArthur nói: “Old soldiers never die; they just fade away – Người
lính già không chết; họ chỉ phai nhạt dần đi.” Chết đã đành, sống mà
phai nhạt, mờ dần trong quên lãng như cỏ cây, thì còn gì buồn hơn nữa!
Chết và sống, điều gì khó hơn?
Huy Phương
Song Phương chuyển