Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
"Lối Xưa Xe Ngựa Hồn Thu Thảo" - by Nguyễn Thị Chân Quỳnh / Trần Văn Giang (ghi lại).
Đồng tiền phải có hai mặt mới có giá trị. Lịch sử cũng vậy; muốn có giá trị phải được ghi hay viết lại cả chuyện tốt và chuyện xấu để cho con cháu học những cái tốt và tránh cái xấu của ngưới đi trước.
Bài viết dưới đây chỉ có mục đích ghi lại những sự kiện đã có sẵn, không thêm không bớt, loại chuyện nằm bên mặt trái của đồng tiền, để chúng ta có dịp cùng nhau đọc cho biết và suy gẫm. Nếu quý vị cho là dầu gì chúng ta cũng không nên “Vạch áo cho người xem lưng” hoặc chỉ nên “Đẹp khoe xấu che” thì có thể bỏ qua không nên đọc những dòng bên dưới đây làm chi…
Vài lời thô thiển…
TVG
*
Các
tài liệu Việt Sử có ghi, trên giấy trắng mực đen, các trang sử rất mờ
ám, đen tối, ốt dột… như chuyện loạn luân, hoang dâm của các vua chúa
qua các thời đại hưng thịnh của đất nước: Nhà Lý, nhà Trần, Nhà Lê, Chúa
Trịnh, Chúa Nguyễn…
Đây là những chuyện phải có người can đảm nói ra để biết.
I.- Loạn Luân Thời Trần
Nhà
Trần là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến
năm 1400. Đây là triều đại được lưu danh với những chiến công hiển hách
trong lịch sử Việt Nam. Triều đại này khởi đầu khi Trần Cảnh lên ngôi
vào năm 1226, sau khi được vợ là Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi.
Tổ tiên nhà Trần lập nghiệp ở hương Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định; làm nghề đánh cá và trở nên giầu có. Trong “An Nam Chí Lược,” Lê Tắc cho biết Trần Thừa nhờ có công đánh giặc được phong chức Thái úy, em là Kiến Quốc được làm Đại tướng quân. Tuy nhiên nhà Trần vốn không phải gốc Việt mà từ đất Mân (có nơi nói là Quế Lâm) ở Trung Quốc sang từ đời Trần Kính, Kính sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, Thừa sinh ra Cảnh.
Không rõ lấy tài liệu ở đâu, Sử gia Ngô Thời Sĩ viết:
“Con nhà chài lưới chả biết lễ nghĩa, tập tục loạn luân như thế từ đời Kính, Hấp đã có.” (1)
Nhà
Trần, trong 175 năm trị vì, nếu không phân biệt nội ngoại thì ít nhất
cũng có gần 40 vụ người trong họ Trần lấy nhau (anh chị em họ, chú cháu,
bác cháu, dì cháu… chẳng hạn) loạn xạ còn ghi lại trong sử sách.
Quả thật đời Trần người trong họ lấy lẫn nhau rất nhiều. Sử chép là:
1) Trần Liễu, anh Trần Thái Tôn, con Thượng hoàng Trần Thừa, lấy Thuận Thiên công chúa, con vua Lý Huệ Tôn và Thuận Trinh. Thuận Trinh là em ruột Trần Thừa, Trần Liễu và Thuận Thiên là con cô con cậu.
2) Năm 1225, Trần Cảnh, tức Trần Thái Tôn, lấy Chiêu Hoàng, em Thuận Thiên.
3) Sau khi Lý Huệ Tôn chết, giáng Huệ hậu làm Thiên Cực công chúa, gả cho TrầnThủ Độ tức là chị em họ lấy nhau. Hai người vốn đã có tư tình với nhau từ trước.
4) Năm 1237, vì Lý Chiêu Hoàng không có con, Trần Thủ Độ ép TrầnThái Tôn lấy Thuận Thiên, lúc ấy đã có mang ba tháng với Trần Liễu. Trường hợp này vừa là con cô con cậu lấy nhau, vừa là em chồng lấy chị dâu.
5) Vua Thái Trần Tôn hứa gả em gái là Trưởng công chúa Thiên Thành cho Trung Thành vương (2) và đã cho Thiên Thành tới ở nhà Nhân Đạo vương, là cha đẻ ra Trung Thành Vương, để chờ ngày cưới.
6) Năm 1251, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn muốn lấy Thiên Thành, đang đêm lẻn vào phòng Thiên Thành thông dâm. Thụy Bà Trưởng công chúa, chị Thái Tôn và Thiên Thành, mẹ nuôi Hưng Đạo vương, đang đêm gõ cửa cung nói dối là Hưng Đạo vương đã bị Nhân Đạo vương bắt giam, xin vua cứu giúp. Sự thật, khi vua sai người tới thì Hưng Đạo vương còn trong phòng Thiên Thành và lúc ấy Nhân Đạo vương mới biết. Hôm sau Thụy Bà phải dâng mười mâm vàng ròng xin cưới Thiên Thành cho Hưng Đạo. Vua bất đắc dĩ phải gả và bồi thường cho Trung Thàng Vương. Như vậy Thiên Thành có họ với Trung Thành vương, lại là cô ruột Hưng Đạo, vì Hưng Đạo là con Trần Liễu, anh ruột Thiên Thành.
7) Năm 1258, Trần Thánh Tôn lấy Thiên Cảm là con Trần Liễu, tức là con chú con bác lấy nhau.
8) Thụy Bảo công chúa, con vua Trần Thái Tôn, lấy Uy Văn Vương Trần Quốc Toại. Toại gọi Thái Tôn bằng cậu. Như vậy là con cô con cậu lấy nhau.
9) Gả công chúa Thiều Dương, con Thái Tôn cho Thượng vị Văn Hưng Hầu (Không rõ tên thật ông này, và liên hệ gia đình với họ Trần cũng không rõ!)
10) Thiên Thụy công chúa, con vua Thánh Tôn và Thiên Cảm, tức cháu nội Thái Tôn và cháu ngoại Trần Liễu, lấy Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, là con Trần Hưng Đạo, cháu nội Trần Liễu, vừa là con cô con cậu (Trần Hưng Đạo và Thiên Cảm là con Trần Liễu) vừa là cháu chú cháu bác lấy nhau.
11) Thiên Thụy lại tư thông với Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư là tôn thất nhà Trần, nhờ có công đánh quân Nguyên được Thượng hoàng Thánh Tôn nhận làm con nuôi.
12 & 13) Năm 1274, Trần Nhân Tôn, con Thánh Tôn, lấy Bảo Thánh, rồi Tuyên Từ, đều là con Hưng Đạo Vương. Trường hợp này giống Thiên Thụy lấy Quốc Nghiễn. Nghĩa là cháu chú lấy cháu bác.
14) Trần Anh Tôn, con Nhân Tôn, cháu Thánh Tôn, chắt Thái Tôn, lấy Văn Đức phu nhân năm 1292, là con Hưng Ngượng Vương Trần Quốc Tảng, cháu nội Trần Hưng Đạo, chắt Trần Liễu. Thế là cháu cô cháu cậu (Hưng Đạo và Thiên Cảm là con Trần Liễu) hay chắt chú chắt bác lấy nhau.
15) Sau Trần Anh Tôn lại bỏ Văn Đức phu nhân mà lấy em ruột phu nhân là Thánh Tư. Chắt chú lấy chắt bác.
16) Trần Anh Tôn lấy Huy Tư là con Thụy Bảo công chúa và Trần Bình Trọng. Thụy Bảo là em Trần Thánh Tôn, Anh Tôn là cháu nội Thánh Tôn, tức cháu lấy cô.
17) Năm 1301, Thiên Trân công chúa, con Trần Anh Tôn, Anh Tôn là con Nhân Tôn, cháu Thánh Tôn, lấy Uy Túc Công Trần Văn Bích, cháu nội Trần Quang Khải. Trần Quang Khải và Thánh Tôn là anh em, tức cháu chú cháu bác lấy nhau.
18) Thiên Trân chết, Uy Túc Công Trần Văn Bích lại lấy Huy Thánh công chúa.
19) Thượng Trân công chúa, em Trần Anh Tôn, chắt của Trần Thái Tôn lấy Văn Huệ công Trần Quang Triều, con Trần Quốc Tảng, cháu Trần Hưng Đạo, chắt Trần Liễu, tức chắt chú chắt bác lấy nhau.
20) Trần Minh Tôn, con Anh Tôn, cháu Nhân Tôn, lấy Huy Thánh tức Lệ Thánh, con gái lớn Huệ Vũ Vương Trần Quốc Chẩn / Trẩn. Trẩn là em Anh Tôn: Con chú con bác lấy nhau.
21) Trần Minh Tôn gả Huy Chân, con Nhân Tôn, cho Uy Giản Hầu năm 1317.
22) Mẹ Huy Chân là Trần Thị Thái Bình, cung tần của Thượng hoàng Anh Tôn.
23) Năm 1318 Trần Minh Tôn gả Thiên Chân Trưởng công chúa cho Huệ Chính Vương.
24) Năm 1337 Trần Hiến Tôn, con Minh Tôn, lấy Hiển Trinh, con gái lớn Huệ Túc Vương Trần Đại Niên.
25) Năm 1342, Thiên Ninh công chúa, con Trần Minh Tôn, lấy Hưng/Chính Túc Vương Kham.
26) Năm 1349, Trần Dụ Tôn, con Trần Minh Tôn, lấy con gái thứ tư Huệ Túc vương là Từ Nghi Thánh.
27) Năm 1351, Trần Dụ Tôn loạn dâm với Thiên Ninh là chị ruột. Nguyên năm 1339 Dụ Tôn bị chết đuối ở Hồ Tây, được thầy thuốc Tầu Trâu Canh dùng kim châm cứu khỏi nhưng đoán sau này lớn lên sẽ bị liệt dương. Sau quả nhiên sự việc xảy ra đúng như vậy, Trâu Canh được vời đến chữa, khuyên vua giết một đứa con trai nhỏ tuổi lấy mật hoà với thuốc dương khởi thạch mà uống rồi thông dâm với chị hay em ruột. Vua nghe theo, thông dâm với Thiên Ninh công chúa.
28) Huy Ninh công chúa, con Trần Minh Tôn, lấy Tôn thất Nhân Vinh. Sau Nhân Vinh bị Nhật Lễ giết, Trần Nghệ Tôn là anh, lại gả Huy Ninh cho Hồ Quý Ly.
29) Trần Duệ Tôn, con Minh Tôn và Lê Đơn Từ, cô Hồ Quý Ly, lấy Hiền Trinh là em họ Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau.
30) Trần Duệ Tôn lấy Thái bảo Trần Liêu làm phi.
31) Năm 1375 Trần Duệ Tôn gả con là Trang Huy công chúa cho Nguyên Dẫn, con Cung Chính Vương. Cung Chính Vương và Duệ Tôn đều là con Minh Tôn, tức con chú con bác lấy nhau.
32) Thiên Huy hay Thái Dương công chúa, con Trần Nghệ Tôn, lấy Phế Đế là con Duệ Tôn. Nghệ Tôn và Duệ Tôn cùng là con Minh Tôn, mẹ Nghệ Tôn là Minh Từ, mẹ Duệ Tôn là Đơn Từ, là hai chị em ruột, cô của Hồ Quý Ly. Tức là vừa là con chú con bác, vừa là cháu dì cháu già lấy nhau.
33) Sau khi Phế Đế chết, Thái Dương tư thông với Trần Nguyên Uyên, con Cung Tín Vương Thiên Trạch, em Trần Nghệ Tôn. Tức là con chú con bác lấy nhau.
34) Năm 1393, Nghệ Tôn giận đem gả Thái Dương cho Trần Nguyên Hãn là em Nguyên Uyên để làm nhục.
35) Tuyên Huy công chúa, con Duệ Tôn, lấy Quan Phục Đại vương Húc, con Nghệ Tôn, giống trường hợp Thái Dương lấy Phế Đế: Con chú con bác.
36) Hồ Quý Ly gả Trang Huy công chúa, con Tôn thất Nhân Vinh (bị Nhật Lễ giết) cho Trần Mộng Dữ, con Trần Nguyên Đán, cháu bốn đời của Trần Quang Khải.
37) Thuận Tôn, con út Nghệ Tôn, lấy Thánh Ngẫu là con gái lớn của Hồ Quý Ly và Huy Ninh công chúa. Huy Ninh là em Nghệ Tôn, tức là con cô con cậu lấy nhau. Thuận Tôn lại là cháu nội của Đơn Từ, cô của Hồ Quý Ly, lấy con gái Hồ Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau.
38) Hồ Hán Thương, con của Huy Ninh và Hồ Quý Ly, lấy Trần Thị.
Không riêng gì Ngô Sĩ Liên và Ngô Thời Sĩ chê trách nhà Trần, ngay cả Lê Quý Đôn, người có đầu óc tương đối cởi mở, cũng hạ bút:
"Họ Trần lập Hoàng hậu lấy chị em con chú con bác cùng họ làm vợ. Nhờn lễ loạn luân như thế mà vẫn điềm nhiên không coi là kỳ quái... Triều Lê ta gia pháp rất đúng, giáo dục luân thường rất rõ rang (?) – (*Xin xem “Loạn luân đưới các triều đại khác”- ở bên dưới), khi chọn phi tần tất lấy trong con em các dòng họ công thần và con nhà tử tế mà lễ trật phân biệt, tôn ti rạch ròi, không có cái tệ bất chính trong chốn buồng the của đời trước…"
II.- Cái Vạ Ngoại Thích!?
Người ta thường cho rằng người họ Trần lấy lẫn nhau để bảo vệ ngôi báu không để lọt ra ngoài vì chính nhà Trần đã cướp ngôi nhà Lý một cách êm thắm qua cuộc hôn nhân dàn xếp giữa Lý Chiêu Hoàng 8 tuổi, với Trần Cảnh 9 tuổi. Theo Văn Hòe thì Trần Thủ Độ, người chủ mưu sang đoạt cơ nghiệp nhà Lý, đã ra lệnh: “Con gái nhà Trần phải gả cho họ Trần” (3). Tuy nhiên, mặc dầu Trần Thủ Độ đã phòng xa nhưng nhà Trần vẫn mất vì lấy người họ khác, không phải một lần mà tới hai lần:
- Cung Túc Vương Dục, con trưởng của Minh Tôn, vì bất tài không được lập làm Thái tử, say mê một người con hát đẹp hay đóng vai Tây vương mẫu, lấy làm vợ mặc dầu người này đã có mang với chồng, cũng là phường chèo, tên là Dương Khương. Sau đẻ ra Nhật Lễ được Dục nhận làm con. Các vua Hiến Tôn, Dụ Tôn và Dục đều mất, Thái hậu, mẹ Dục, lấy cớ Nhật Lễ được Dục chính thức nhận làm con thì có quyền lên ngôi. Năm 1369 Nhật Lễ lên ngôi rồi có ý muốn trở về họ Dương của cha đẻ nên bị Nghệ Tôn giết. Nhà Trần suýt mất lần thứ nhất.
- Minh Tôn lấy hai người cô của Hồ Quý Ly: Minh Từ sinh ra Nghệ Tôn, Đơn Từ sinh ra Duệ Tôn. Nghệ Tôn cướp lại ngôi trong tay Nhật Lễ ít lâu nhường ngôi cho Duệ Tôn. Duệ Tôn lấy em họ Hồ Quý Ly là Hiển Trinh sinh ra Phế Đế. Nghệ Tôn nghe Hồ Quý Ly giết Phế Đế lập con út mình là Thuận Tôn lên ngôi. Thuận Tôn lấy Thánh Ngẫu là con gái lớn của Hồ Quý Ly và Huy Ninh công chúa đẻ ra Thiếu Đế. Hồ Quý Ly ép Thuận Tôn nhường ngôi cho Thiếu Đế khi ấy mới hai tuổi, sau lại cướp ngôi của Thiếu Đế, tức cháu ngoại mình, mà lập ra nhà Hồ.
Nói rằng nhà Trần mất vì cái vạ ngoại thích cũng được, song sự thật làm gì có một dòng họ nào mà nắm được chính quyền mãi mãi? Nhà Trần nếu không mất vì "cái vạ ngoại thích" ắt cũng mất vì một lý do khác thôi.
Còn nói rằng người họ Trần lấy lẫn nhau để giữ ngôi báu cho họ Trần cũng chưa hẳn hoàn toàn đúng; vì Trần Thủ Độ đã tư thông với chị họ là mẹ Lý Chiêu Hoàng từ trước khi Trần Cảnh được Chiêu Hoàng nhường ngôi. Khi ấy đã có ngôi báu đâu mà giữ? Phải nói rằng họ Trần vẫn lấy lẫn nhau từ trước nhưng đặc biệt được Trần Thủ Độ khuyến khích từ khi Trần Cảnh lên ngôi mở đầu cho nhà Trần.
III.- Loạn Luân ở các triều đại khác
Nhưng nếu chúng ta tỉ mỉ hơn, lật kỹ từng trang sử, thử vẽ lạ cái “gia phả” (family tree) với các nhánh bị bẻ gãy tứ tung, loạn xà ngầu ra giấy của nhà Lê, Chúa Trịnh… Chúng ta sẽ thấy gì?
1) Lê Thần Tôn, con Kính Tôn và Trịnh Thị Ngọc Trinh (em Trịnh Tráng), lấy Trịnh Thị Ngọc Trúc/Hành, con Trịnh Tráng, tức con cô con cậu lấy nhau.
2) Trước đó Trịnh thị Ngọc Trúc đã lấy chú họ vua là Cường Quận Công Lê Trụ, sinh được bốn con. Khi Lê Trụ bị bắt giam, Trịnh Tráng đem Trúc gả cho vua, thế là cháu lấy thím họ.
3) Lê Chân Tôn, con Lê Thần Tôn, lấy Trịnh thị Phương Từ, em Trịnh thị Ngọc Trúc. Tức là cháu lấy dì.
4) 1663 Lê Huyền Tôn, con Lê Thần Tôn, cháu ngoại Trịnh Thị Ngọc Trinh, lấy Ngọc Áng, con thứ Trịnh Tạc, cháu Trịnh Tráng, tức cháu cô cháu cậu lấy nhau (Trịnh Tráng và Ngọc Trinh đều là con Trịnh Tùng).
5) Lê Dụ Tôn, con Lê Hy Tôn, cháu Lê Thần Tôn, chắt của Ngọc Trinh, lấy Ngọc Trang là cháu 7 đời của Trịnh Tráng (Trịnh Tráng sinh ra Trịnh Tạc, Trịnh Tạc sinh ra Trịnh Căn, Căn sinh ra Trịnh Vĩnh, Vĩnh sinh ra Trịnh Bính, Bính sinh ra Trịnh Cương, Cương sinh ra Ngọc Trang).
6) Lê Duy Phường, con Lê Dụ Tôn và Ngọc Trang, bị Trịnh Giang tố cáo tư thông với vợ Trịnh Cương, tức cha đẻ ra Ngọc Trang. Tức là cháu thông dâm với bác gái dâu.
7) Lê Duy Vĩ, con Lê Hiển Tôn, cháu Lê Thuận Tôn, chắt Lê Dụ Tôn và Ngọc Trang, đính hôn với Tiên Dung quận chúa, con Trịnh Sâm, cháu Trịnh Doanh, Doanh và Ngọc Trang đều là con Trịnh Cương. Thế là cháu lấy cô họ.
Đấy là chưa kể trường hợp Lê Tương Dực loạn dâm với vợ lẽ của cha và những vụ chưa minh định được là loạn luân vì sử chép quá sơ sài về liên quan giữa các nhân vật lớn của gia đình họ Lê như:
- Lê Thái Tổ (Lê Lợi) lấy nguyên phi là Lê Thị Ngọc Dao, con Thủ tướng Lê Sát. Sát người Lam Sơn, trên bảng 93 công thần được xếp hạng nhì.
- Huệ phi của Thái Tổ là Lê Thị Nhật Lễ, con Thủ tướng Lê Ngân, cũng người Lam Sơn, và được xếp hạng tư trên bảng công thần.
- Lê Nhân Tôn gả em gái là Vệ Quốc Trưởng công chúa cho con Thái úy Lê Thụ, cũng có tên trên bảng công thần.
Xét rằng thời xưa những người nắm quyền cao phần nhiều đều trong hoàng tộc thì rất có thể Lê Thụ, Lê Ngân, Lê Sát, đều có họ với Thái Tổ Lê Lợi. Đặc biệt Lê Sát và Lê Ngân đều quê ở Lam Sơn. Mặt khác, 93 người có tên trên bảng công thần đều cùng họ Lê thì chắc một số vì có công lớn được ban quốc tính (được nhận họ của vua làm họ của mình) khó mà biết rõ sự thật là thế nào (?). Như Lê Lễ, cũng có tên trên bảng công thần, người ở Lam Sơn, được ban quốc tính, lại chính là cháu gọi Thái Tổ bằng cậu.
Triều Lý có vua Lý Thần Tôn năm 1128 lấy con gái Điện Tiền Chỉ huy sứ Lý Sơn là Lệ Thiên hoàng hậu.
Có lẽ Lê Quý Đôn cũng như hai vị sử gia họ Ngô chỉ kể tội riêng nhà Trần vì theo thuyết "nữ nhân ngoại tộc,” con chú con bác kể như là họ thân lấy nhau phạm tội, còn con cô con cậu họ sơ, kể như lấy người ngoài, không có tội gì cả. Thời xưa nội ngoại phân biệt rất kỹ cho nên Phạm Đình Hổ, trong “Vũ Trung Tuỳ Bút,” cho rằng người nào không có con trai cho con gái ăn thừa tự cũng phạm tội loạn luân (4).
Nhưng theo con mắt đời nay, trai gái cũng là con cả, cùng chung một huyết thống thì không thể cho con chú con bác lấy nhau là có tội mà con cô con cậu lấy nhau lại vô tội được. "Nữ nhân ngoại tộc" không phải là luật tự nhiên, chẳng qua là một đạo lý do người đặt ra nhưng không phải là một đạo lý được khắp mọi nước tôn thờ. Ngược lại, loạn luân là một hiện tượng tự nhiên, ở đâu cũng có. Việt Nam ta có câu:
"Cháu cậu mà lấy cháu cô,
Thóc giống đầy bồ, lúa má nhà ta."
Theo Gilbert Prouteau, thời Trung Cổ, Âu Châu có những buổi lễ của phù thủy, sau khi múa hát xong thì tha hồ cha mẹ loạn dâm với con, anh với em. Người Hy Lạp và Incas thời xưa chính thức cho phép con cùng cha lấy nhau và còn khuyến khích người trong hoàng tộc lấy nhau để giữ cho huyết thống hoàng gia không bị pha trộn với những dòng máu khác (5) vì họ cho rằng những cuộc hôn phối này không có hại gì cho đời sống, người cùng chung một huyết thống và giáo dục lấy nhau dễ hợp nhau hơn, như thế chỉ có lợi chứ không có hại. Cho nên "Nữ nhân ngoại tộc" không nhất thiết là luật chung của thiên hạ. Thuyết này do người đặt ra thì người cũng có thể đặt cách khác hoặc hủy bỏ, dựa vào nó kết tội nhà Trần là "bất chính" và cho nhà Lê là "gia pháp rất nghiêm" e không ổn theo với cách suy luận ngày nay.
Để chứng minh nhà Trần có tội, Ngô Thời Sĩ viết:
"… Nhà Trần lấy vợ người cùng họ, âm dương không phải lứa đôi nên có tai biến (6) vì sử chép:
- Năm 1300 người đàn bà ở Hồng Lộ sinh con trai hai đầu.
- Năm 1304, người dàn bà ở kinh thành sinh con gái hai đầu, bốn chân, bốn tay.
-Năm 1350, làng Thiên Cương (Nghệ An) có người con gái hoá trai.”
Theo Nho giáo thì vua là con Trời, vua hành sự không phải thì Trời ra thiên tai để răn dậy. Đấy là một phương pháp để hạn chế uy quyền vua, không cho lộng hành, vua tuy có quyền sinh sát nhưng còn phải e dè sự kiểm soát của Trời. Ngô Thời Sĩ vì có thành kiến với nhà Trần nên chỉ vạch tội nhà Trần mà cố ý bỏ qua những tai dị xẩy ra không thiếu gì dưới thời Lê Trịnh, cũng như đời Lý.
Ngày nay tuy chúng ta không tin những tai dị xẩy ra vì Trời muốn vua phải sửa lỗi, nhưng y học công nhận người trong họ không nên lấy lẫn nhau dễ mắc bệnh máu loãng khó cầm. Có điều lạ là không thấy sử chép họ Trần mắc bệnh này, mặc dầu những bệnh kỳ lạ khác đều được ghi lại như:
- Lê Ngọa Triều vì hoang dâm không ngồi dậy được nên khi lâm triều phải nằm.
- Lý Huệ Tôn bị trúng gió sinh chứng cuồng dịch, khi thì xưng là Thiên tuớng giáng hạ, tay cầm giáo và mộc, trên búi tóc cắm lá cờ nhỏ, đùa giỡn múa may suốt ngày, khi thì toát mồ hôi, trong người ráo khát, uống rượu say ngủ li bì, hôm sau mới tỉnh, không làm được việc phải giao hết chính sự cho Trần Tự Khánh là anh vợ.
- Trần Dụ Tôn bị liệt dương.
- Vệ Quốc Trưởng công chúa bị câm.
- Lê Thần Tôn bị bệnh ung thư mà băng.
- Trịnh Giang dâm loạn, thông gian cả với vợ lẽ của bố là Đặng Thị. Một lần bị sét đánh gần chết, từ đấy sợ hãi, Trịnh Giang đào hầm dưới đất trú ẩn không dám ra nữa, chính sự giao lại cho em là Trịnh Doanh (7).
___________
Chú thích
1. "Việt Sử Tiêu Án," tr. 170.
2. Từ 1241, anh em vua phong vương, con trưởng các vương cũng phong vương, con thứ phong Thượng Vị Hầu. (Toàn Thư II, tr. 17 và Cương Mục V, 38)
3. "Trần Thủ Độ," Trung Bắc Chủ Nhật số 182.
4. "Vũ Trung Tuỳ Bút," tr. 69.
5. "Trưởng công chúa" là chị em ruột của vua, con của Thượng hoàng, chứ không phải là "Công chúa lớn nhất." (Cuơng Mục, VII, tr. 29).
6. Les Miroirs de la Perversité, tr. 346.
7. Theo "Vũ Trung Tuỳ Bút" thì người bị sét đánh là Trịnh Sâm, con Trịnh Doanh; và Trịnh Giang, Trịnh Doanh đều là con Vũ Thị.
_______
Tham khảo
- "Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục," Tổ biên dịch Phạm Trọng Điềm, Hoa Bằng, Trần văn Giáp. Hà Nội : Văn Sử Địa, 1957.
- Lê Quý Đôn, "Đại Việt Thông Sử," Hà Nội : KHXH, 1978. Biên tập: Mai Ngọc Mai.
- Lê Tắc, "An Nam Chí Lược," Viện Đại học Huế, Ủy Ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam, 1961.
- Ngô Sĩ Liên, "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư," Hà Nội : KHXH, 1967-73. Cao Huy Giu dịch.
- ?, "Đại Việt Sử Ký Tục Biên," Ngô Thế Long và Nguyễn Kim Hưng dịch, Hà Nội : KHXH, 1991.
- Ngô Thời Sĩ, "Việt Sử Tiêu Án," bản dịch của Hội Việt Nam nghiên cứu liên lạc Văn hoá Á châu, Văn Sử tái bản ở Mỹ.
- Phạm Đình Hổ, "Vũ Trung Tuỳ Bút," bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến, Đông Nam Á tái bản ở Paris.
- Prouteau Gilbert, "Les Miroirs de la Perversité," Paris: Albin Michel, 1984.
- Vân Hạc, " Thanh Niên Đời Trần," Trung Bắc Chủ Nhật, số 61, 18/5/1941.
- Văn Hòe, "Trần Thủ Độ," Trung Bắc Chủ Nhật, số 182, 7/11/1943.
Nguyễn Thị Chân Quỳnh
Trần Văn Giang (ghi lại)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
"Lối Xưa Xe Ngựa Hồn Thu Thảo" - by Nguyễn Thị Chân Quỳnh / Trần Văn Giang (ghi lại).
Đồng tiền phải có hai mặt mới có giá trị. Lịch sử cũng vậy; muốn có giá trị phải được ghi hay viết lại cả chuyện tốt và chuyện xấu để cho con cháu học những cái tốt và tránh cái xấu của ngưới đi trước.
Bài viết dưới đây chỉ có mục đích ghi lại những sự kiện đã có sẵn, không thêm không bớt, loại chuyện nằm bên mặt trái của đồng tiền, để chúng ta có dịp cùng nhau đọc cho biết và suy gẫm. Nếu quý vị cho là dầu gì chúng ta cũng không nên “Vạch áo cho người xem lưng” hoặc chỉ nên “Đẹp khoe xấu che” thì có thể bỏ qua không nên đọc những dòng bên dưới đây làm chi…
Vài lời thô thiển…
TVG
*
Các
tài liệu Việt Sử có ghi, trên giấy trắng mực đen, các trang sử rất mờ
ám, đen tối, ốt dột… như chuyện loạn luân, hoang dâm của các vua chúa
qua các thời đại hưng thịnh của đất nước: Nhà Lý, nhà Trần, Nhà Lê, Chúa
Trịnh, Chúa Nguyễn…
Đây là những chuyện phải có người can đảm nói ra để biết.
I.- Loạn Luân Thời Trần
Nhà
Trần là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến
năm 1400. Đây là triều đại được lưu danh với những chiến công hiển hách
trong lịch sử Việt Nam. Triều đại này khởi đầu khi Trần Cảnh lên ngôi
vào năm 1226, sau khi được vợ là Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi.
Tổ tiên nhà Trần lập nghiệp ở hương Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định; làm nghề đánh cá và trở nên giầu có. Trong “An Nam Chí Lược,” Lê Tắc cho biết Trần Thừa nhờ có công đánh giặc được phong chức Thái úy, em là Kiến Quốc được làm Đại tướng quân. Tuy nhiên nhà Trần vốn không phải gốc Việt mà từ đất Mân (có nơi nói là Quế Lâm) ở Trung Quốc sang từ đời Trần Kính, Kính sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, Thừa sinh ra Cảnh.
Không rõ lấy tài liệu ở đâu, Sử gia Ngô Thời Sĩ viết:
“Con nhà chài lưới chả biết lễ nghĩa, tập tục loạn luân như thế từ đời Kính, Hấp đã có.” (1)
Nhà
Trần, trong 175 năm trị vì, nếu không phân biệt nội ngoại thì ít nhất
cũng có gần 40 vụ người trong họ Trần lấy nhau (anh chị em họ, chú cháu,
bác cháu, dì cháu… chẳng hạn) loạn xạ còn ghi lại trong sử sách.
Quả thật đời Trần người trong họ lấy lẫn nhau rất nhiều. Sử chép là:
1) Trần Liễu, anh Trần Thái Tôn, con Thượng hoàng Trần Thừa, lấy Thuận Thiên công chúa, con vua Lý Huệ Tôn và Thuận Trinh. Thuận Trinh là em ruột Trần Thừa, Trần Liễu và Thuận Thiên là con cô con cậu.
2) Năm 1225, Trần Cảnh, tức Trần Thái Tôn, lấy Chiêu Hoàng, em Thuận Thiên.
3) Sau khi Lý Huệ Tôn chết, giáng Huệ hậu làm Thiên Cực công chúa, gả cho TrầnThủ Độ tức là chị em họ lấy nhau. Hai người vốn đã có tư tình với nhau từ trước.
4) Năm 1237, vì Lý Chiêu Hoàng không có con, Trần Thủ Độ ép TrầnThái Tôn lấy Thuận Thiên, lúc ấy đã có mang ba tháng với Trần Liễu. Trường hợp này vừa là con cô con cậu lấy nhau, vừa là em chồng lấy chị dâu.
5) Vua Thái Trần Tôn hứa gả em gái là Trưởng công chúa Thiên Thành cho Trung Thành vương (2) và đã cho Thiên Thành tới ở nhà Nhân Đạo vương, là cha đẻ ra Trung Thành Vương, để chờ ngày cưới.
6) Năm 1251, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn muốn lấy Thiên Thành, đang đêm lẻn vào phòng Thiên Thành thông dâm. Thụy Bà Trưởng công chúa, chị Thái Tôn và Thiên Thành, mẹ nuôi Hưng Đạo vương, đang đêm gõ cửa cung nói dối là Hưng Đạo vương đã bị Nhân Đạo vương bắt giam, xin vua cứu giúp. Sự thật, khi vua sai người tới thì Hưng Đạo vương còn trong phòng Thiên Thành và lúc ấy Nhân Đạo vương mới biết. Hôm sau Thụy Bà phải dâng mười mâm vàng ròng xin cưới Thiên Thành cho Hưng Đạo. Vua bất đắc dĩ phải gả và bồi thường cho Trung Thàng Vương. Như vậy Thiên Thành có họ với Trung Thành vương, lại là cô ruột Hưng Đạo, vì Hưng Đạo là con Trần Liễu, anh ruột Thiên Thành.
7) Năm 1258, Trần Thánh Tôn lấy Thiên Cảm là con Trần Liễu, tức là con chú con bác lấy nhau.
8) Thụy Bảo công chúa, con vua Trần Thái Tôn, lấy Uy Văn Vương Trần Quốc Toại. Toại gọi Thái Tôn bằng cậu. Như vậy là con cô con cậu lấy nhau.
9) Gả công chúa Thiều Dương, con Thái Tôn cho Thượng vị Văn Hưng Hầu (Không rõ tên thật ông này, và liên hệ gia đình với họ Trần cũng không rõ!)
10) Thiên Thụy công chúa, con vua Thánh Tôn và Thiên Cảm, tức cháu nội Thái Tôn và cháu ngoại Trần Liễu, lấy Hưng Vũ Vương Trần Quốc Nghiễn, là con Trần Hưng Đạo, cháu nội Trần Liễu, vừa là con cô con cậu (Trần Hưng Đạo và Thiên Cảm là con Trần Liễu) vừa là cháu chú cháu bác lấy nhau.
11) Thiên Thụy lại tư thông với Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư là tôn thất nhà Trần, nhờ có công đánh quân Nguyên được Thượng hoàng Thánh Tôn nhận làm con nuôi.
12 & 13) Năm 1274, Trần Nhân Tôn, con Thánh Tôn, lấy Bảo Thánh, rồi Tuyên Từ, đều là con Hưng Đạo Vương. Trường hợp này giống Thiên Thụy lấy Quốc Nghiễn. Nghĩa là cháu chú lấy cháu bác.
14) Trần Anh Tôn, con Nhân Tôn, cháu Thánh Tôn, chắt Thái Tôn, lấy Văn Đức phu nhân năm 1292, là con Hưng Ngượng Vương Trần Quốc Tảng, cháu nội Trần Hưng Đạo, chắt Trần Liễu. Thế là cháu cô cháu cậu (Hưng Đạo và Thiên Cảm là con Trần Liễu) hay chắt chú chắt bác lấy nhau.
15) Sau Trần Anh Tôn lại bỏ Văn Đức phu nhân mà lấy em ruột phu nhân là Thánh Tư. Chắt chú lấy chắt bác.
16) Trần Anh Tôn lấy Huy Tư là con Thụy Bảo công chúa và Trần Bình Trọng. Thụy Bảo là em Trần Thánh Tôn, Anh Tôn là cháu nội Thánh Tôn, tức cháu lấy cô.
17) Năm 1301, Thiên Trân công chúa, con Trần Anh Tôn, Anh Tôn là con Nhân Tôn, cháu Thánh Tôn, lấy Uy Túc Công Trần Văn Bích, cháu nội Trần Quang Khải. Trần Quang Khải và Thánh Tôn là anh em, tức cháu chú cháu bác lấy nhau.
18) Thiên Trân chết, Uy Túc Công Trần Văn Bích lại lấy Huy Thánh công chúa.
19) Thượng Trân công chúa, em Trần Anh Tôn, chắt của Trần Thái Tôn lấy Văn Huệ công Trần Quang Triều, con Trần Quốc Tảng, cháu Trần Hưng Đạo, chắt Trần Liễu, tức chắt chú chắt bác lấy nhau.
20) Trần Minh Tôn, con Anh Tôn, cháu Nhân Tôn, lấy Huy Thánh tức Lệ Thánh, con gái lớn Huệ Vũ Vương Trần Quốc Chẩn / Trẩn. Trẩn là em Anh Tôn: Con chú con bác lấy nhau.
21) Trần Minh Tôn gả Huy Chân, con Nhân Tôn, cho Uy Giản Hầu năm 1317.
22) Mẹ Huy Chân là Trần Thị Thái Bình, cung tần của Thượng hoàng Anh Tôn.
23) Năm 1318 Trần Minh Tôn gả Thiên Chân Trưởng công chúa cho Huệ Chính Vương.
24) Năm 1337 Trần Hiến Tôn, con Minh Tôn, lấy Hiển Trinh, con gái lớn Huệ Túc Vương Trần Đại Niên.
25) Năm 1342, Thiên Ninh công chúa, con Trần Minh Tôn, lấy Hưng/Chính Túc Vương Kham.
26) Năm 1349, Trần Dụ Tôn, con Trần Minh Tôn, lấy con gái thứ tư Huệ Túc vương là Từ Nghi Thánh.
27) Năm 1351, Trần Dụ Tôn loạn dâm với Thiên Ninh là chị ruột. Nguyên năm 1339 Dụ Tôn bị chết đuối ở Hồ Tây, được thầy thuốc Tầu Trâu Canh dùng kim châm cứu khỏi nhưng đoán sau này lớn lên sẽ bị liệt dương. Sau quả nhiên sự việc xảy ra đúng như vậy, Trâu Canh được vời đến chữa, khuyên vua giết một đứa con trai nhỏ tuổi lấy mật hoà với thuốc dương khởi thạch mà uống rồi thông dâm với chị hay em ruột. Vua nghe theo, thông dâm với Thiên Ninh công chúa.
28) Huy Ninh công chúa, con Trần Minh Tôn, lấy Tôn thất Nhân Vinh. Sau Nhân Vinh bị Nhật Lễ giết, Trần Nghệ Tôn là anh, lại gả Huy Ninh cho Hồ Quý Ly.
29) Trần Duệ Tôn, con Minh Tôn và Lê Đơn Từ, cô Hồ Quý Ly, lấy Hiền Trinh là em họ Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau.
30) Trần Duệ Tôn lấy Thái bảo Trần Liêu làm phi.
31) Năm 1375 Trần Duệ Tôn gả con là Trang Huy công chúa cho Nguyên Dẫn, con Cung Chính Vương. Cung Chính Vương và Duệ Tôn đều là con Minh Tôn, tức con chú con bác lấy nhau.
32) Thiên Huy hay Thái Dương công chúa, con Trần Nghệ Tôn, lấy Phế Đế là con Duệ Tôn. Nghệ Tôn và Duệ Tôn cùng là con Minh Tôn, mẹ Nghệ Tôn là Minh Từ, mẹ Duệ Tôn là Đơn Từ, là hai chị em ruột, cô của Hồ Quý Ly. Tức là vừa là con chú con bác, vừa là cháu dì cháu già lấy nhau.
33) Sau khi Phế Đế chết, Thái Dương tư thông với Trần Nguyên Uyên, con Cung Tín Vương Thiên Trạch, em Trần Nghệ Tôn. Tức là con chú con bác lấy nhau.
34) Năm 1393, Nghệ Tôn giận đem gả Thái Dương cho Trần Nguyên Hãn là em Nguyên Uyên để làm nhục.
35) Tuyên Huy công chúa, con Duệ Tôn, lấy Quan Phục Đại vương Húc, con Nghệ Tôn, giống trường hợp Thái Dương lấy Phế Đế: Con chú con bác.
36) Hồ Quý Ly gả Trang Huy công chúa, con Tôn thất Nhân Vinh (bị Nhật Lễ giết) cho Trần Mộng Dữ, con Trần Nguyên Đán, cháu bốn đời của Trần Quang Khải.
37) Thuận Tôn, con út Nghệ Tôn, lấy Thánh Ngẫu là con gái lớn của Hồ Quý Ly và Huy Ninh công chúa. Huy Ninh là em Nghệ Tôn, tức là con cô con cậu lấy nhau. Thuận Tôn lại là cháu nội của Đơn Từ, cô của Hồ Quý Ly, lấy con gái Hồ Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau.
38) Hồ Hán Thương, con của Huy Ninh và Hồ Quý Ly, lấy Trần Thị.
Không riêng gì Ngô Sĩ Liên và Ngô Thời Sĩ chê trách nhà Trần, ngay cả Lê Quý Đôn, người có đầu óc tương đối cởi mở, cũng hạ bút:
"Họ Trần lập Hoàng hậu lấy chị em con chú con bác cùng họ làm vợ. Nhờn lễ loạn luân như thế mà vẫn điềm nhiên không coi là kỳ quái... Triều Lê ta gia pháp rất đúng, giáo dục luân thường rất rõ rang (?) – (*Xin xem “Loạn luân đưới các triều đại khác”- ở bên dưới), khi chọn phi tần tất lấy trong con em các dòng họ công thần và con nhà tử tế mà lễ trật phân biệt, tôn ti rạch ròi, không có cái tệ bất chính trong chốn buồng the của đời trước…"
II.- Cái Vạ Ngoại Thích!?
Người ta thường cho rằng người họ Trần lấy lẫn nhau để bảo vệ ngôi báu không để lọt ra ngoài vì chính nhà Trần đã cướp ngôi nhà Lý một cách êm thắm qua cuộc hôn nhân dàn xếp giữa Lý Chiêu Hoàng 8 tuổi, với Trần Cảnh 9 tuổi. Theo Văn Hòe thì Trần Thủ Độ, người chủ mưu sang đoạt cơ nghiệp nhà Lý, đã ra lệnh: “Con gái nhà Trần phải gả cho họ Trần” (3). Tuy nhiên, mặc dầu Trần Thủ Độ đã phòng xa nhưng nhà Trần vẫn mất vì lấy người họ khác, không phải một lần mà tới hai lần:
- Cung Túc Vương Dục, con trưởng của Minh Tôn, vì bất tài không được lập làm Thái tử, say mê một người con hát đẹp hay đóng vai Tây vương mẫu, lấy làm vợ mặc dầu người này đã có mang với chồng, cũng là phường chèo, tên là Dương Khương. Sau đẻ ra Nhật Lễ được Dục nhận làm con. Các vua Hiến Tôn, Dụ Tôn và Dục đều mất, Thái hậu, mẹ Dục, lấy cớ Nhật Lễ được Dục chính thức nhận làm con thì có quyền lên ngôi. Năm 1369 Nhật Lễ lên ngôi rồi có ý muốn trở về họ Dương của cha đẻ nên bị Nghệ Tôn giết. Nhà Trần suýt mất lần thứ nhất.
- Minh Tôn lấy hai người cô của Hồ Quý Ly: Minh Từ sinh ra Nghệ Tôn, Đơn Từ sinh ra Duệ Tôn. Nghệ Tôn cướp lại ngôi trong tay Nhật Lễ ít lâu nhường ngôi cho Duệ Tôn. Duệ Tôn lấy em họ Hồ Quý Ly là Hiển Trinh sinh ra Phế Đế. Nghệ Tôn nghe Hồ Quý Ly giết Phế Đế lập con út mình là Thuận Tôn lên ngôi. Thuận Tôn lấy Thánh Ngẫu là con gái lớn của Hồ Quý Ly và Huy Ninh công chúa đẻ ra Thiếu Đế. Hồ Quý Ly ép Thuận Tôn nhường ngôi cho Thiếu Đế khi ấy mới hai tuổi, sau lại cướp ngôi của Thiếu Đế, tức cháu ngoại mình, mà lập ra nhà Hồ.
Nói rằng nhà Trần mất vì cái vạ ngoại thích cũng được, song sự thật làm gì có một dòng họ nào mà nắm được chính quyền mãi mãi? Nhà Trần nếu không mất vì "cái vạ ngoại thích" ắt cũng mất vì một lý do khác thôi.
Còn nói rằng người họ Trần lấy lẫn nhau để giữ ngôi báu cho họ Trần cũng chưa hẳn hoàn toàn đúng; vì Trần Thủ Độ đã tư thông với chị họ là mẹ Lý Chiêu Hoàng từ trước khi Trần Cảnh được Chiêu Hoàng nhường ngôi. Khi ấy đã có ngôi báu đâu mà giữ? Phải nói rằng họ Trần vẫn lấy lẫn nhau từ trước nhưng đặc biệt được Trần Thủ Độ khuyến khích từ khi Trần Cảnh lên ngôi mở đầu cho nhà Trần.
III.- Loạn Luân ở các triều đại khác
Nhưng nếu chúng ta tỉ mỉ hơn, lật kỹ từng trang sử, thử vẽ lạ cái “gia phả” (family tree) với các nhánh bị bẻ gãy tứ tung, loạn xà ngầu ra giấy của nhà Lê, Chúa Trịnh… Chúng ta sẽ thấy gì?
1) Lê Thần Tôn, con Kính Tôn và Trịnh Thị Ngọc Trinh (em Trịnh Tráng), lấy Trịnh Thị Ngọc Trúc/Hành, con Trịnh Tráng, tức con cô con cậu lấy nhau.
2) Trước đó Trịnh thị Ngọc Trúc đã lấy chú họ vua là Cường Quận Công Lê Trụ, sinh được bốn con. Khi Lê Trụ bị bắt giam, Trịnh Tráng đem Trúc gả cho vua, thế là cháu lấy thím họ.
3) Lê Chân Tôn, con Lê Thần Tôn, lấy Trịnh thị Phương Từ, em Trịnh thị Ngọc Trúc. Tức là cháu lấy dì.
4) 1663 Lê Huyền Tôn, con Lê Thần Tôn, cháu ngoại Trịnh Thị Ngọc Trinh, lấy Ngọc Áng, con thứ Trịnh Tạc, cháu Trịnh Tráng, tức cháu cô cháu cậu lấy nhau (Trịnh Tráng và Ngọc Trinh đều là con Trịnh Tùng).
5) Lê Dụ Tôn, con Lê Hy Tôn, cháu Lê Thần Tôn, chắt của Ngọc Trinh, lấy Ngọc Trang là cháu 7 đời của Trịnh Tráng (Trịnh Tráng sinh ra Trịnh Tạc, Trịnh Tạc sinh ra Trịnh Căn, Căn sinh ra Trịnh Vĩnh, Vĩnh sinh ra Trịnh Bính, Bính sinh ra Trịnh Cương, Cương sinh ra Ngọc Trang).
6) Lê Duy Phường, con Lê Dụ Tôn và Ngọc Trang, bị Trịnh Giang tố cáo tư thông với vợ Trịnh Cương, tức cha đẻ ra Ngọc Trang. Tức là cháu thông dâm với bác gái dâu.
7) Lê Duy Vĩ, con Lê Hiển Tôn, cháu Lê Thuận Tôn, chắt Lê Dụ Tôn và Ngọc Trang, đính hôn với Tiên Dung quận chúa, con Trịnh Sâm, cháu Trịnh Doanh, Doanh và Ngọc Trang đều là con Trịnh Cương. Thế là cháu lấy cô họ.
Đấy là chưa kể trường hợp Lê Tương Dực loạn dâm với vợ lẽ của cha và những vụ chưa minh định được là loạn luân vì sử chép quá sơ sài về liên quan giữa các nhân vật lớn của gia đình họ Lê như:
- Lê Thái Tổ (Lê Lợi) lấy nguyên phi là Lê Thị Ngọc Dao, con Thủ tướng Lê Sát. Sát người Lam Sơn, trên bảng 93 công thần được xếp hạng nhì.
- Huệ phi của Thái Tổ là Lê Thị Nhật Lễ, con Thủ tướng Lê Ngân, cũng người Lam Sơn, và được xếp hạng tư trên bảng công thần.
- Lê Nhân Tôn gả em gái là Vệ Quốc Trưởng công chúa cho con Thái úy Lê Thụ, cũng có tên trên bảng công thần.
Xét rằng thời xưa những người nắm quyền cao phần nhiều đều trong hoàng tộc thì rất có thể Lê Thụ, Lê Ngân, Lê Sát, đều có họ với Thái Tổ Lê Lợi. Đặc biệt Lê Sát và Lê Ngân đều quê ở Lam Sơn. Mặt khác, 93 người có tên trên bảng công thần đều cùng họ Lê thì chắc một số vì có công lớn được ban quốc tính (được nhận họ của vua làm họ của mình) khó mà biết rõ sự thật là thế nào (?). Như Lê Lễ, cũng có tên trên bảng công thần, người ở Lam Sơn, được ban quốc tính, lại chính là cháu gọi Thái Tổ bằng cậu.
Triều Lý có vua Lý Thần Tôn năm 1128 lấy con gái Điện Tiền Chỉ huy sứ Lý Sơn là Lệ Thiên hoàng hậu.
Có lẽ Lê Quý Đôn cũng như hai vị sử gia họ Ngô chỉ kể tội riêng nhà Trần vì theo thuyết "nữ nhân ngoại tộc,” con chú con bác kể như là họ thân lấy nhau phạm tội, còn con cô con cậu họ sơ, kể như lấy người ngoài, không có tội gì cả. Thời xưa nội ngoại phân biệt rất kỹ cho nên Phạm Đình Hổ, trong “Vũ Trung Tuỳ Bút,” cho rằng người nào không có con trai cho con gái ăn thừa tự cũng phạm tội loạn luân (4).
Nhưng theo con mắt đời nay, trai gái cũng là con cả, cùng chung một huyết thống thì không thể cho con chú con bác lấy nhau là có tội mà con cô con cậu lấy nhau lại vô tội được. "Nữ nhân ngoại tộc" không phải là luật tự nhiên, chẳng qua là một đạo lý do người đặt ra nhưng không phải là một đạo lý được khắp mọi nước tôn thờ. Ngược lại, loạn luân là một hiện tượng tự nhiên, ở đâu cũng có. Việt Nam ta có câu:
"Cháu cậu mà lấy cháu cô,
Thóc giống đầy bồ, lúa má nhà ta."
Theo Gilbert Prouteau, thời Trung Cổ, Âu Châu có những buổi lễ của phù thủy, sau khi múa hát xong thì tha hồ cha mẹ loạn dâm với con, anh với em. Người Hy Lạp và Incas thời xưa chính thức cho phép con cùng cha lấy nhau và còn khuyến khích người trong hoàng tộc lấy nhau để giữ cho huyết thống hoàng gia không bị pha trộn với những dòng máu khác (5) vì họ cho rằng những cuộc hôn phối này không có hại gì cho đời sống, người cùng chung một huyết thống và giáo dục lấy nhau dễ hợp nhau hơn, như thế chỉ có lợi chứ không có hại. Cho nên "Nữ nhân ngoại tộc" không nhất thiết là luật chung của thiên hạ. Thuyết này do người đặt ra thì người cũng có thể đặt cách khác hoặc hủy bỏ, dựa vào nó kết tội nhà Trần là "bất chính" và cho nhà Lê là "gia pháp rất nghiêm" e không ổn theo với cách suy luận ngày nay.
Để chứng minh nhà Trần có tội, Ngô Thời Sĩ viết:
"… Nhà Trần lấy vợ người cùng họ, âm dương không phải lứa đôi nên có tai biến (6) vì sử chép:
- Năm 1300 người đàn bà ở Hồng Lộ sinh con trai hai đầu.
- Năm 1304, người dàn bà ở kinh thành sinh con gái hai đầu, bốn chân, bốn tay.
-Năm 1350, làng Thiên Cương (Nghệ An) có người con gái hoá trai.”
Theo Nho giáo thì vua là con Trời, vua hành sự không phải thì Trời ra thiên tai để răn dậy. Đấy là một phương pháp để hạn chế uy quyền vua, không cho lộng hành, vua tuy có quyền sinh sát nhưng còn phải e dè sự kiểm soát của Trời. Ngô Thời Sĩ vì có thành kiến với nhà Trần nên chỉ vạch tội nhà Trần mà cố ý bỏ qua những tai dị xẩy ra không thiếu gì dưới thời Lê Trịnh, cũng như đời Lý.
Ngày nay tuy chúng ta không tin những tai dị xẩy ra vì Trời muốn vua phải sửa lỗi, nhưng y học công nhận người trong họ không nên lấy lẫn nhau dễ mắc bệnh máu loãng khó cầm. Có điều lạ là không thấy sử chép họ Trần mắc bệnh này, mặc dầu những bệnh kỳ lạ khác đều được ghi lại như:
- Lê Ngọa Triều vì hoang dâm không ngồi dậy được nên khi lâm triều phải nằm.
- Lý Huệ Tôn bị trúng gió sinh chứng cuồng dịch, khi thì xưng là Thiên tuớng giáng hạ, tay cầm giáo và mộc, trên búi tóc cắm lá cờ nhỏ, đùa giỡn múa may suốt ngày, khi thì toát mồ hôi, trong người ráo khát, uống rượu say ngủ li bì, hôm sau mới tỉnh, không làm được việc phải giao hết chính sự cho Trần Tự Khánh là anh vợ.
- Trần Dụ Tôn bị liệt dương.
- Vệ Quốc Trưởng công chúa bị câm.
- Lê Thần Tôn bị bệnh ung thư mà băng.
- Trịnh Giang dâm loạn, thông gian cả với vợ lẽ của bố là Đặng Thị. Một lần bị sét đánh gần chết, từ đấy sợ hãi, Trịnh Giang đào hầm dưới đất trú ẩn không dám ra nữa, chính sự giao lại cho em là Trịnh Doanh (7).
___________
Chú thích
1. "Việt Sử Tiêu Án," tr. 170.
2. Từ 1241, anh em vua phong vương, con trưởng các vương cũng phong vương, con thứ phong Thượng Vị Hầu. (Toàn Thư II, tr. 17 và Cương Mục V, 38)
3. "Trần Thủ Độ," Trung Bắc Chủ Nhật số 182.
4. "Vũ Trung Tuỳ Bút," tr. 69.
5. "Trưởng công chúa" là chị em ruột của vua, con của Thượng hoàng, chứ không phải là "Công chúa lớn nhất." (Cuơng Mục, VII, tr. 29).
6. Les Miroirs de la Perversité, tr. 346.
7. Theo "Vũ Trung Tuỳ Bút" thì người bị sét đánh là Trịnh Sâm, con Trịnh Doanh; và Trịnh Giang, Trịnh Doanh đều là con Vũ Thị.
_______
Tham khảo
- "Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục," Tổ biên dịch Phạm Trọng Điềm, Hoa Bằng, Trần văn Giáp. Hà Nội : Văn Sử Địa, 1957.
- Lê Quý Đôn, "Đại Việt Thông Sử," Hà Nội : KHXH, 1978. Biên tập: Mai Ngọc Mai.
- Lê Tắc, "An Nam Chí Lược," Viện Đại học Huế, Ủy Ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam, 1961.
- Ngô Sĩ Liên, "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư," Hà Nội : KHXH, 1967-73. Cao Huy Giu dịch.
- ?, "Đại Việt Sử Ký Tục Biên," Ngô Thế Long và Nguyễn Kim Hưng dịch, Hà Nội : KHXH, 1991.
- Ngô Thời Sĩ, "Việt Sử Tiêu Án," bản dịch của Hội Việt Nam nghiên cứu liên lạc Văn hoá Á châu, Văn Sử tái bản ở Mỹ.
- Phạm Đình Hổ, "Vũ Trung Tuỳ Bút," bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến, Đông Nam Á tái bản ở Paris.
- Prouteau Gilbert, "Les Miroirs de la Perversité," Paris: Albin Michel, 1984.
- Vân Hạc, " Thanh Niên Đời Trần," Trung Bắc Chủ Nhật, số 61, 18/5/1941.
- Văn Hòe, "Trần Thủ Độ," Trung Bắc Chủ Nhật, số 182, 7/11/1943.
Nguyễn Thị Chân Quỳnh
Trần Văn Giang (ghi lại)