TIN CỘNG ĐỒNG
Thông Báo Tin Buồn: Niên Trưởng Đỗ Kế Giai từ trần
Washington, D.C
Tháng 6 năm 1951, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 49/118.249. Theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (sau cải danh thành trường Võ bị Quốc gia. Khai giảng ngày 1/7/1951, mãn khóa ngày 24/4/1952). Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được chọn phục vụ trong Tiểu đoàn 3 Nhảy dù của Quân đội Quốc gia Việt Nam, đồn trú tại Hà Nội.
Tháng 7 năm 1954, sau Hiệp định Genėve, ông được thăng cấp Trung úy và cùng đơn vị di chuyển vào Nam đồn trú tại Nha Trang.
Năm 1955, sau khi chuyển sang cơ cấu mới của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng cấp Đại úy và được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Nhảy dù thay thế Đại úy Nguyễn Văn Viên.
Tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Thiếu tá nhiệm chức.
Trung tuần tháng 11 năm 1960, ông chuyển sang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù thay thế Thiếu tá Ngô Xuân Soạn (bị sát hại vào nửa đêm ngày 11/11/1960 tại hậu cứ Tiểu đoàn 3 Dù vì không chịu tham gia cuộc đảo chính do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu).
Tháng giêng năm 1962, ông được cử làm Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 2 Nhảy dù vừa được thành lập.
Đến đầu năm 1965, ông được thăng cấp Trung tá và bàn giao Chiến đoàn 2 Dù lại cho Thiếu tá Ngô Xuân Nghị (là em ruột của Th.tá Ngô Xuân Soạn).
Sau đó, ông được chuyển sang làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 25 bộ binh do Đại tá Nguyễn Thanh Sằng làm Tư lệnh.
Tháng 9 năm 1966, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 10 bộ binh thay thế Thiếu tướng Lữ Lan đi làm Chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự tại Đà Lạt.(Đầu năm 1967, ông sáng kiến đề nghị cải danh Sư đoàn 10 Bộ binh thành Sư đoàn 18 Bộ binh và được Bộ Tổng tham mưu chấp thuận)
Đầu tháng 11 năm 1967, ông được vinh thăng Chuẩn tướng tại nhiệm. Ngày 20 tháng 8 năm 1969, ông nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 18 lại cho Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ (nguyên Chỉ huy trưởng trường Bộ binh Thủ Đức). Sau đó, ông được điều động về phục vụ tại Bộ Tổng tham mưu.
Tháng 8 năm 1972, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Binh chủng Biệt động quân . Tháng 4 năm 1974, ông được vinh thăng Thiếu tướng nhiệm chức.
Sau ngày 30 tháng 4, ông bị nhà cầm quyền cộng sản bắt đi tù cải tạo và bị lưu đày suốt 17 năm, mãi cho đến ngày 5 tháng 5 năm 1992 ông mới được trả tự do.
Tháng 10 năm 1993, ông được xuất cảnh sang Hoa Kỳ theo diện H.O, định cư tại Garland, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
Ngày 21 tháng 2 năm 2016, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 87 tuổi.
(HNPD)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- THƠ XƯỚNG HOẠ: MẤT NƯỚC NGÔ ĐÌNH CHƯƠNG CAO MỴ NHÂN
- Kỷ niệm 60 năm Quân Đội Úc tham chiến Việt Nam: Hàng nghìn người tham dự lễ kỷ niệm Ngày Chiến Binh Việt Nam ( TVQ Uc Chuyển )
- Tin rất buồn: Cựu SVSQ/Khoá 21/ TVBQGVN Đào Đức Bảo vưà tạ thế
- MIỀN QUÁ KHỨ. - CAO MỴ NHÂN
- Xin giúp tìm thân nhân ( Lỗ Trí Thâm chuyển )
Thông Báo Tin Buồn: Niên Trưởng Đỗ Kế Giai từ trần
Washington, D.C
Tháng 6 năm 1951, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 49/118.249. Theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (sau cải danh thành trường Võ bị Quốc gia. Khai giảng ngày 1/7/1951, mãn khóa ngày 24/4/1952). Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được chọn phục vụ trong Tiểu đoàn 3 Nhảy dù của Quân đội Quốc gia Việt Nam, đồn trú tại Hà Nội.
Tháng 7 năm 1954, sau Hiệp định Genėve, ông được thăng cấp Trung úy và cùng đơn vị di chuyển vào Nam đồn trú tại Nha Trang.
Năm 1955, sau khi chuyển sang cơ cấu mới của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng cấp Đại úy và được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6 Nhảy dù thay thế Đại úy Nguyễn Văn Viên.
Tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Thiếu tá nhiệm chức.
Trung tuần tháng 11 năm 1960, ông chuyển sang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù thay thế Thiếu tá Ngô Xuân Soạn (bị sát hại vào nửa đêm ngày 11/11/1960 tại hậu cứ Tiểu đoàn 3 Dù vì không chịu tham gia cuộc đảo chính do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu).
Tháng giêng năm 1962, ông được cử làm Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 2 Nhảy dù vừa được thành lập.
Đến đầu năm 1965, ông được thăng cấp Trung tá và bàn giao Chiến đoàn 2 Dù lại cho Thiếu tá Ngô Xuân Nghị (là em ruột của Th.tá Ngô Xuân Soạn).
Sau đó, ông được chuyển sang làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 25 bộ binh do Đại tá Nguyễn Thanh Sằng làm Tư lệnh.
Tháng 9 năm 1966, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 10 bộ binh thay thế Thiếu tướng Lữ Lan đi làm Chỉ huy trưởng trường Đại học Quân sự tại Đà Lạt.(Đầu năm 1967, ông sáng kiến đề nghị cải danh Sư đoàn 10 Bộ binh thành Sư đoàn 18 Bộ binh và được Bộ Tổng tham mưu chấp thuận)
Đầu tháng 11 năm 1967, ông được vinh thăng Chuẩn tướng tại nhiệm. Ngày 20 tháng 8 năm 1969, ông nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 18 lại cho Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ (nguyên Chỉ huy trưởng trường Bộ binh Thủ Đức). Sau đó, ông được điều động về phục vụ tại Bộ Tổng tham mưu.
Tháng 8 năm 1972, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Binh chủng Biệt động quân . Tháng 4 năm 1974, ông được vinh thăng Thiếu tướng nhiệm chức.
Sau ngày 30 tháng 4, ông bị nhà cầm quyền cộng sản bắt đi tù cải tạo và bị lưu đày suốt 17 năm, mãi cho đến ngày 5 tháng 5 năm 1992 ông mới được trả tự do.
Tháng 10 năm 1993, ông được xuất cảnh sang Hoa Kỳ theo diện H.O, định cư tại Garland, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
Ngày 21 tháng 2 năm 2016, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 87 tuổi.
(HNPD)