Nhân Vật
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đang ‘hướng Trung’?
Lê Anh Hùng
Trong số “tứ trụ triều đình” xuất hiện sau Đại hội XII Đảng CSVN, ngoài TBT Nguyễn Phú Trọng là người gần như công khai bày tỏ thái độ thần phục Trung Quốc từ lâu, ba nhân vật còn lại – Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân – xem ra vẫn chưa thể hiện rõ lập trường chính trị của mình trong mối quan hệ đầy tế nhị và nhạy cảm với Bắc Kinh.
Vào cuối năm 2014 và đầu năm 2015, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lúc bấy giờ là đối tượng đả kích số 1 của blog Chân Dung Quyền Lực, một blog mà người ta không khó giải mã là được lập ra để ca tụng Nguyễn Tấn Dũng và tấn công các đối thủ của ông ta. Chính vì thế, để xét đoán lập trường chính trị của tân thủ tướng, người ta có một cơ sở rất đáng tin cậy – đó chính là lập trường chính trị của cựu thủ tướng.
Suốt một thời gian dài, cho đến trước Đại hội XII, ông Nguyễn Tấn Dũng được coi là nhân vật quyền lực nhất Việt Nam. Và thông qua những phát ngôn “lên án” Trung Quốc của ông ta cùng những lời lẽ đáp trả của Bắc Kinh, xem ra phần lớn công chúng đều có cảm tưởng ông ta là nhân vật “thân Mỹ, chống Tàu” số 1 trong ban lãnh đạo Việt Nam. Tuy nhiên, như chúng tôi đã nhiều lần chỉ ra,[i] ông Nguyễn Tấn Dũng chính là người Việt Nam lập được nhiều công trạng nhất với Trung Quốc kể từ năm 1945 đến nay, và màn “ăn miếng trả miếng” sinh động giữa đôi bên chỉ là trò bịp bợm theo đúng bản chất “thâm như Tàu” của các ông chủ Trung Nam Hải.
Vì vậy, việc Chân Dung Quyền Lực đả phá kịch liệt ông Nguyễn Xuân Phúc là một bằng chứng cho thấy ông chưa bị Bắc Kinh khống chế và thao túng như người tiền nhiệm Nguyễn Tấn Dũng.
Tuy nhiên, sau màn chào mừng hy hữu và đặc biệt long trọng với 19 phát đại bác mà Bắc Kinh dành cho nhân vật đứng thứ 3 trong ban lãnh đạo CSVN trong chuyến thăm Trung Quốc lần đầu tiên trên cương vị thủ tướng từ ngày 10-15/9/2016, đồng thời cũng là chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của một thành viên trong “tứ trụ triều đình” hậu Đại hội XII, mọi chuyện dường như đã thay đổi.
Chỉ vài ngày sau cuộc đón tiếp long trọng đó, bản Thông cáo chung Trung – Việt ra đời với những nội dung mà bất kỳ người Việt Nam nào vẫn dõi theo tình hình đất nước nói chung và mối quan hệ Việt – Trung nói riêng cũng phải đón nhận với tâm trạng đầy lo ngại. Xin dẫn ra đây một vài nội dung nhạy cảm:
(i) Thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai Đảng (2016 – 2020) [mục 4]. Việc hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai Đảng thực chất chỉ là việc Việt Nam cử cán bộ sang Trung Quốc để “học tập”, “nghiên cứu”, khi Việt Nam không thể “đào tạo” cán bộ cho Trung Quốc. Và điều đó chẳng khác gì “giao trứng cho ác”, bởi Bắc Kinh sẽ giở đủ mọi chiêu trò để mua chuộc, gài bẫy, đe doạ… hòng tiến tới khống chế và thao túng số cán bộ này, biến họ thành những tên tay sai đắc lực trong tương lai.
(ii) Thúc đẩy hợp tác đầu tư và kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước. Phát huy vai trò Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng, tích cực nghiên cứu và thúc đẩy các dự án hợp tác kết nối trong khuôn khổ “hai hành lang, một vành đai” và “một vành đai, một con đường”; khẩn trương lập quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng; ủng hộ doanh nghiệp hai bên đẩy nhanh giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong các dự án hợp tác liên quan giữa hai bên; tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào các dự án phù hợp với nhu cầu và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam [khoản iii mục 4]. Đây chính là cái bẫy đưa Việt Nam ngày càng lệ thuộc nặng nề về kinh tế vào Trung Quốc, tiếp tục cuộc xâm lăng kinh tế mà họ đã thực hiện rất thành công dưới “triều đại” Nguyễn Tấn Dũng.
(iii) Tăng cường hợp tác tài chính và tiền tệ. Thực hiện tốt các công việc tiếp theo sau Phiên họp lần thứ 2 Nhóm công tác hợp tác về tài chính – tiền tệ [khoản iv mục 4]. Đây cũng là một phần quan trọng trong âm mưu “Hán hoá” nền kinh tế Việt Nam của Bắc Kinh.
(iv) Tích cực nghiên cứu và bàn bạc ký kết Hiệp định vận tải đường sắt biên giới mới [mục 7]. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho hàng hoá “made in China” tràn vào Việt Nam, bóp chết nền sản xuất trong nước.
(v) […] hai bên đã ký kết… “Bản ghi nhớ về Danh mục các dự án hợp tác năng lực sản xuất giữa Bộ Công Thương nước CHCNXH Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách nước CHND Trung Hoa”; “Bản ghi nhớ về cùng xây dựng Kế hoạch hợp tác cơ sở hạ tầng trên bộ giai đoạn 2016 – 2020 giữa Bộ KH&ĐT nước CHXHCN Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách nước CHND Trung Hoa”; “Thỏa thuận hợp tác về giáo dục giai đoạn 2016 – 2020 giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Giáo dục nước CHND Trung Hoa”… [mục 14]. Bất kỳ ai hiểu được tâm địa của Trung Quốc cũng đều không khỏi giật mình trước những nội dung “hợp tác” này.
Trong thời gian ở Trung Quốc, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc còn tham dự Diễn đàn Kinh doanh và Đầu tư Hồng Kông – Việt Nam, chứng kiến lễ ký 10 thỏa thuận với tổng giá trị lên tới 10 tỷ USD giữa các doanh nghiệp, tiếp đón lãnh đạo hai tập đoàn gián điệp chuyên cung cấp hạ tầng mạng và thiết bị điện tử viễn thông cho Việt Nam là Huawei và ZTE.
Chưa hết, ngày 5/12 vừa qua, truyền thông nhà nước đồng loạt đưa tin, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng nhiều quan chức Chính phủ lại tiếp đón lãnh đạo hai doanh nghiệp Trung Quốc là Công ty TNHH Cổ phần Khoa học Kỹ thuật Môi trường Sinh thái Kaidi và Công ty TNHH Cổ phần Đầu tư Dân Sinh. Và cuộc gặp này diễn ra chỉ 3 tháng sau cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa họ với Thủ tướng Việt Nam trong chuyến thăm Trung Quốc kể trên.
Những năm gần đây, thực trạng nền kinh tế Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc đã lên đến mức báo động, dư luận liên tục lên tiếng cảnh báo, trong khi bất kỳ một người Việt Nam tỉnh táo nào cũng đều hiểu rằng Trung Quốc không những không bao giờ muốn Việt Nam phát triển mà còn luôn nuôi dã tâm thôn tính dải đất hình chữ S này.
Với tư cách người đứng đầu bộ máy hành pháp, nắm thực quyền lớn nhất trong hệ thống chính trị, Thủ tướng Chính phủ đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nếu không muốn nói là quyết định, trong việc đưa Việt Nam thoát khỏi gọng kìm kinh tế của Bắc Kinh. Vì vậy, sau tất cả những gì đã xảy ra, công chúng Việt Nam có đầy đủ lý do để lo ngại khi không khỏi phải đặt ra câu hỏi: Phải chăng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đang “hướng Trung”?
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- Huỳnh Ngọc Chênh - Hôm nay đón Nguyễn Thúy Hạnh về nhà, kịch tính như phim
- "Sư Minh Tuệ" - by Đỗ Duy Ngọc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Thế lực nào đã đầu độc tướng vi-xi Nguyễn Chí Vịnh?" - Lê Văn Đoành / Trần Văn Giang (ghi lại)
- NHỮNG NỮ LƯU LỪNG DANH Ở MỸ & THẾ GIỚI - TRẦN VĂN NGÀ
- Putin tiến thoái lưỡng nan vì đã tính sai nước cờ _ Hoài Việt
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đang ‘hướng Trung’?
Lê Anh Hùng
Trong số “tứ trụ triều đình” xuất hiện sau Đại hội XII Đảng CSVN, ngoài TBT Nguyễn Phú Trọng là người gần như công khai bày tỏ thái độ thần phục Trung Quốc từ lâu, ba nhân vật còn lại – Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân – xem ra vẫn chưa thể hiện rõ lập trường chính trị của mình trong mối quan hệ đầy tế nhị và nhạy cảm với Bắc Kinh.
Vào cuối năm 2014 và đầu năm 2015, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lúc bấy giờ là đối tượng đả kích số 1 của blog Chân Dung Quyền Lực, một blog mà người ta không khó giải mã là được lập ra để ca tụng Nguyễn Tấn Dũng và tấn công các đối thủ của ông ta. Chính vì thế, để xét đoán lập trường chính trị của tân thủ tướng, người ta có một cơ sở rất đáng tin cậy – đó chính là lập trường chính trị của cựu thủ tướng.
Suốt một thời gian dài, cho đến trước Đại hội XII, ông Nguyễn Tấn Dũng được coi là nhân vật quyền lực nhất Việt Nam. Và thông qua những phát ngôn “lên án” Trung Quốc của ông ta cùng những lời lẽ đáp trả của Bắc Kinh, xem ra phần lớn công chúng đều có cảm tưởng ông ta là nhân vật “thân Mỹ, chống Tàu” số 1 trong ban lãnh đạo Việt Nam. Tuy nhiên, như chúng tôi đã nhiều lần chỉ ra,[i] ông Nguyễn Tấn Dũng chính là người Việt Nam lập được nhiều công trạng nhất với Trung Quốc kể từ năm 1945 đến nay, và màn “ăn miếng trả miếng” sinh động giữa đôi bên chỉ là trò bịp bợm theo đúng bản chất “thâm như Tàu” của các ông chủ Trung Nam Hải.
Vì vậy, việc Chân Dung Quyền Lực đả phá kịch liệt ông Nguyễn Xuân Phúc là một bằng chứng cho thấy ông chưa bị Bắc Kinh khống chế và thao túng như người tiền nhiệm Nguyễn Tấn Dũng.
Tuy nhiên, sau màn chào mừng hy hữu và đặc biệt long trọng với 19 phát đại bác mà Bắc Kinh dành cho nhân vật đứng thứ 3 trong ban lãnh đạo CSVN trong chuyến thăm Trung Quốc lần đầu tiên trên cương vị thủ tướng từ ngày 10-15/9/2016, đồng thời cũng là chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của một thành viên trong “tứ trụ triều đình” hậu Đại hội XII, mọi chuyện dường như đã thay đổi.
Chỉ vài ngày sau cuộc đón tiếp long trọng đó, bản Thông cáo chung Trung – Việt ra đời với những nội dung mà bất kỳ người Việt Nam nào vẫn dõi theo tình hình đất nước nói chung và mối quan hệ Việt – Trung nói riêng cũng phải đón nhận với tâm trạng đầy lo ngại. Xin dẫn ra đây một vài nội dung nhạy cảm:
(i) Thực hiện tốt Kế hoạch hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai Đảng (2016 – 2020) [mục 4]. Việc hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai Đảng thực chất chỉ là việc Việt Nam cử cán bộ sang Trung Quốc để “học tập”, “nghiên cứu”, khi Việt Nam không thể “đào tạo” cán bộ cho Trung Quốc. Và điều đó chẳng khác gì “giao trứng cho ác”, bởi Bắc Kinh sẽ giở đủ mọi chiêu trò để mua chuộc, gài bẫy, đe doạ… hòng tiến tới khống chế và thao túng số cán bộ này, biến họ thành những tên tay sai đắc lực trong tương lai.
(ii) Thúc đẩy hợp tác đầu tư và kết nối chiến lược phát triển giữa hai nước. Phát huy vai trò Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng, tích cực nghiên cứu và thúc đẩy các dự án hợp tác kết nối trong khuôn khổ “hai hành lang, một vành đai” và “một vành đai, một con đường”; khẩn trương lập quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng; ủng hộ doanh nghiệp hai bên đẩy nhanh giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong các dự án hợp tác liên quan giữa hai bên; tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào các dự án phù hợp với nhu cầu và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam [khoản iii mục 4]. Đây chính là cái bẫy đưa Việt Nam ngày càng lệ thuộc nặng nề về kinh tế vào Trung Quốc, tiếp tục cuộc xâm lăng kinh tế mà họ đã thực hiện rất thành công dưới “triều đại” Nguyễn Tấn Dũng.
(iii) Tăng cường hợp tác tài chính và tiền tệ. Thực hiện tốt các công việc tiếp theo sau Phiên họp lần thứ 2 Nhóm công tác hợp tác về tài chính – tiền tệ [khoản iv mục 4]. Đây cũng là một phần quan trọng trong âm mưu “Hán hoá” nền kinh tế Việt Nam của Bắc Kinh.
(iv) Tích cực nghiên cứu và bàn bạc ký kết Hiệp định vận tải đường sắt biên giới mới [mục 7]. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho hàng hoá “made in China” tràn vào Việt Nam, bóp chết nền sản xuất trong nước.
(v) […] hai bên đã ký kết… “Bản ghi nhớ về Danh mục các dự án hợp tác năng lực sản xuất giữa Bộ Công Thương nước CHCNXH Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách nước CHND Trung Hoa”; “Bản ghi nhớ về cùng xây dựng Kế hoạch hợp tác cơ sở hạ tầng trên bộ giai đoạn 2016 – 2020 giữa Bộ KH&ĐT nước CHXHCN Việt Nam và Ủy ban Phát triển và Cải cách nước CHND Trung Hoa”; “Thỏa thuận hợp tác về giáo dục giai đoạn 2016 – 2020 giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo nước CHXHCN Việt Nam và Bộ Giáo dục nước CHND Trung Hoa”… [mục 14]. Bất kỳ ai hiểu được tâm địa của Trung Quốc cũng đều không khỏi giật mình trước những nội dung “hợp tác” này.
Trong thời gian ở Trung Quốc, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc còn tham dự Diễn đàn Kinh doanh và Đầu tư Hồng Kông – Việt Nam, chứng kiến lễ ký 10 thỏa thuận với tổng giá trị lên tới 10 tỷ USD giữa các doanh nghiệp, tiếp đón lãnh đạo hai tập đoàn gián điệp chuyên cung cấp hạ tầng mạng và thiết bị điện tử viễn thông cho Việt Nam là Huawei và ZTE.
Chưa hết, ngày 5/12 vừa qua, truyền thông nhà nước đồng loạt đưa tin, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cùng nhiều quan chức Chính phủ lại tiếp đón lãnh đạo hai doanh nghiệp Trung Quốc là Công ty TNHH Cổ phần Khoa học Kỹ thuật Môi trường Sinh thái Kaidi và Công ty TNHH Cổ phần Đầu tư Dân Sinh. Và cuộc gặp này diễn ra chỉ 3 tháng sau cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa họ với Thủ tướng Việt Nam trong chuyến thăm Trung Quốc kể trên.
Những năm gần đây, thực trạng nền kinh tế Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc đã lên đến mức báo động, dư luận liên tục lên tiếng cảnh báo, trong khi bất kỳ một người Việt Nam tỉnh táo nào cũng đều hiểu rằng Trung Quốc không những không bao giờ muốn Việt Nam phát triển mà còn luôn nuôi dã tâm thôn tính dải đất hình chữ S này.
Với tư cách người đứng đầu bộ máy hành pháp, nắm thực quyền lớn nhất trong hệ thống chính trị, Thủ tướng Chính phủ đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nếu không muốn nói là quyết định, trong việc đưa Việt Nam thoát khỏi gọng kìm kinh tế của Bắc Kinh. Vì vậy, sau tất cả những gì đã xảy ra, công chúng Việt Nam có đầy đủ lý do để lo ngại khi không khỏi phải đặt ra câu hỏi: Phải chăng Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đang “hướng Trung”?