Văn Học & Nghệ Thuật
Trần Đức Uyển
Nói tới Trần Ðức Uyển người ta nghĩ đến những bài “thơ đen, thơ chì” của ông. Và như thế, người ta nhớ và biết đến Tú Kếu nhiều hơn Trần Ðức Uyển.
Trần Đức Uyển
Nói tới Trần Ðức Uyển người ta nghĩ đến những bài “thơ đen, thơ chì” của ông. Và như thế, người ta nhớ và biết đến Tú Kếu nhiều hơn Trần Ðức Uyển.
Chúng ta có rất nhiều thi sĩ, nhưng những người làm thơ trào phúng, châm biếm, để lại tên tuổi, vẫn còn có thể đếm được trên những đầu ngón tay.
Tú Kếu là một trong những nhà thơ hiếm hoi ấy.
Ðiều đó chứng tỏ, trào phúng không phải là thể thơ dễ làm.
Vì nhu cầu công việc của các nhật báo ông cộng tác, Tú Kếu đã làm nhiều thơ hơn Trần Ðức Uyển.
Rồi “thơ đen” của ông lại được in ra.
Nên người ta biết Tú Kếu nhiều hơn Trần Ðức Uyển là một điều tự nhiên.
Nhưng, ký hai cái tên khác nhau như thế, rõ ràng ông đã phân biệt hai công việc riêng biệt.
Ngoài “thơ chua, thơ chì, thơ đen”, có bao nhiêu thơ ký tên Trần Ðức Uyển, không ai biết rõ.
Bởi vì, sau biến cố Tháng Tư 1975, ông đã bị cộng sản bắt nhốt hơn 10 năm, những ngày ở tù, những ngày còn lại sau đó, ông nghĩ gì, làm gì, cũng như hầu hết các văn nghệ sĩ ở miền Nam khi ấy, chỉ một mình ông biết.
Ngoài sáng tác, Trần Ðức Uyển còn dịch một số truyện ngắn ngoại quốc ra Việt ngữ, nhất là các bản dịch thơ Langston Hughes của ông được coi là rất đạt.
Một vài bài thơ của Trần Ðức Uyển, do bằng hữu của ông mang đi được, hay bằng cách nào đó, lọt được ra ngoài, cho thấy, ông có một hồn thơ trong suốt. Hình như hoàn cảnh đen tối không làm u ám tâm hồn ông.
Bài thơ “Buổi Chiều Ngồi Trên Ðồi” củ ông là một thí dụ:
Ngồi dưới gốc cây gõ ống trúc
Hứng thú ngheu ngao vài ca khúc
***
Trên cành lảnh lót con chim xanh
Trời đất thu tròn trong khoảnh khắc
***
Gió cao lồng lộng hồn cao tĩnh
Học thói người xưa đắc đạo vàng
Rũ bụi khi về tưng gót nhẹ
Bóng mình phấp phới trên đồi cao
***
Tự hỏi về đâu! Ðâu chẳng được
Hãy tìm bên suối ngủ trưa nay
Gối đầu lên đá nhìn trăng sáng
Rừng núi sương mù ướt chẳng hay
***
Trước những bạo hành của cuộc sống, phản ứng của nhà thơ đôi khi kỳ lạ: Cố giữ một trạng thái tâm hồn bình an, trong sáng, những gì những kẻ chủ trương bạo động không bao giờ có thể có được.
Không có được trạng thái tâm hồn như thế người ta sẽ không bao giờ làm được những gì thi sĩ làm được, đó chính là thơ:
Sáng thức dậy ra vườn
Lòng nhẹ tênh mùi đạo
Tai vừa nghe chim hót
Ðã thấy mình vô vi
***
Hoa sớm còn e ấp
Mắt lá lệ long lanh
Ôi những buồn chất ngất
Trôi sạch tự khi nào
***
Dòng sông hồn trong trẻo
Chảy ngược xuyên thời gian
Gặp hồn xưa quấn quít
Trong màu sắc huy hoàng
***
Biến thiên của cuộc sống nhiều khi đẩy con người vào những hoàn cảnh khốn cùng đến nỗi, người ta không dám tin rằng trên đời còn có ánh sáng nữa!
Thơ xua đuổi bóng tối, đẩy lui những áng mây mù, thắp lại hy vọng.
Thi sĩ chuyển giao niềm hy vọng ấy cho cuộc đời:
Núi cao chót vót trời cao rộng
Ta ném mình lên vút ngọn cao
Bỗng thấy dưới chân mây nổi sóng
Tưởng ngẩng đầu tay với được sao
***
Ta ngao du khoái tỉ vô cùng
Trăng lên dây đàn tơ khẽ rụng
Gió lộng nghe lòng thương bạn hữu
Biết gặp nhau chăng giờ lâm chung
***
Vài cánh chim đêm xoải vội vàng
Quanh mình trăng lụa nõn mênh mông
Nằm đây đồi cỏ nghe trời rộng
Nghe cả chiều sâu của sắc không
Ðược biết Trần Ðức Uyển sống ở Blao, vùng cao nguyên trồng trà gần Ðà Lạt.
Ông mất cách đây không bao lâu. Những ngày cuối cùng ông bị chứng Alzheimer. Hiển nhiên, bệnh trạng của ông là nỗi khổ của gia đình ông. Nhưng rất có thể đó lại là điều may mắn cho chính ông. Không ai ở trong những trại được gọi là “cải tạo” ra mà cả thể xác lẫn tâm hồn lại không bị thương tổn và dễ dàng quên được những gì đã xẩy ra với mình cùng những người chung quanh.
Có lẽ chỉ có căn bệnh, cho đến hiện nay vẫn chưa có thuốc chữa ấy, mới giúp người ta xóa bỏ được ký ức chăng?
Có thể coi, những bài thơ cuối cùng của Trần Ðức Uyển đã được viết giữa ranh giới của những ngày nhớ/ quên của ông và không vướng một chút oán hận nào:
Người hỏi vợ anh đâu
Ta đáp không mà có
Nhân gian dưới trời sâu
Tỷ tỷ nằm trong mộ
***
Lại hỏi con anh đâu
Ta cười đang bú sữa
Thoảng sáu chục năm sau
Nó đã thành ông cụ
***
Lại hỏi nay đi đâu
Nơi vui không thiếu chỗ
Hãy cứ đi trên đường
Cất tiếng ca cùng gió.
Nguyễn Ðình Toàn
Chúng ta có rất nhiều thi sĩ, nhưng những người làm thơ trào phúng, châm biếm, để lại tên tuổi, vẫn còn có thể đếm được trên những đầu ngón tay.
Tú Kếu là một trong những nhà thơ hiếm hoi ấy.
Ðiều đó chứng tỏ, trào phúng không phải là thể thơ dễ làm.
Vì nhu cầu công việc của các nhật báo ông cộng tác, Tú Kếu đã làm nhiều thơ hơn Trần Ðức Uyển.
Rồi “thơ đen” của ông lại được in ra.
Nên người ta biết Tú Kếu nhiều hơn Trần Ðức Uyển là một điều tự nhiên.
Nhưng, ký hai cái tên khác nhau như thế, rõ ràng ông đã phân biệt hai công việc riêng biệt.
Ngoài “thơ chua, thơ chì, thơ đen”, có bao nhiêu thơ ký tên Trần Ðức Uyển, không ai biết rõ.
Bởi vì, sau biến cố Tháng Tư 1975, ông đã bị cộng sản bắt nhốt hơn 10 năm, những ngày ở tù, những ngày còn lại sau đó, ông nghĩ gì, làm gì, cũng như hầu hết các văn nghệ sĩ ở miền Nam khi ấy, chỉ một mình ông biết.
Ngoài sáng tác, Trần Ðức Uyển còn dịch một số truyện ngắn ngoại quốc ra Việt ngữ, nhất là các bản dịch thơ Langston Hughes của ông được coi là rất đạt.
Một vài bài thơ của Trần Ðức Uyển, do bằng hữu của ông mang đi được, hay bằng cách nào đó, lọt được ra ngoài, cho thấy, ông có một hồn thơ trong suốt. Hình như hoàn cảnh đen tối không làm u ám tâm hồn ông.
Bài thơ “Buổi Chiều Ngồi Trên Ðồi” củ ông là một thí dụ:
Ngồi dưới gốc cây gõ ống trúc
Hứng thú ngheu ngao vài ca khúc
***
Trên cành lảnh lót con chim xanh
Trời đất thu tròn trong khoảnh khắc
***
Gió cao lồng lộng hồn cao tĩnh
Học thói người xưa đắc đạo vàng
Rũ bụi khi về tưng gót nhẹ
Bóng mình phấp phới trên đồi cao
***
Tự hỏi về đâu! Ðâu chẳng được
Hãy tìm bên suối ngủ trưa nay
Gối đầu lên đá nhìn trăng sáng
Rừng núi sương mù ướt chẳng hay
***
Trước những bạo hành của cuộc sống, phản ứng của nhà thơ đôi khi kỳ lạ: Cố giữ một trạng thái tâm hồn bình an, trong sáng, những gì những kẻ chủ trương bạo động không bao giờ có thể có được.
Không có được trạng thái tâm hồn như thế người ta sẽ không bao giờ làm được những gì thi sĩ làm được, đó chính là thơ:
Sáng thức dậy ra vườn
Lòng nhẹ tênh mùi đạo
Tai vừa nghe chim hót
Ðã thấy mình vô vi
***
Hoa sớm còn e ấp
Mắt lá lệ long lanh
Ôi những buồn chất ngất
Trôi sạch tự khi nào
***
Dòng sông hồn trong trẻo
Chảy ngược xuyên thời gian
Gặp hồn xưa quấn quít
Trong màu sắc huy hoàng
***
Biến thiên của cuộc sống nhiều khi đẩy con người vào những hoàn cảnh khốn cùng đến nỗi, người ta không dám tin rằng trên đời còn có ánh sáng nữa!
Thơ xua đuổi bóng tối, đẩy lui những áng mây mù, thắp lại hy vọng.
Thi sĩ chuyển giao niềm hy vọng ấy cho cuộc đời:
Núi cao chót vót trời cao rộng
Ta ném mình lên vút ngọn cao
Bỗng thấy dưới chân mây nổi sóng
Tưởng ngẩng đầu tay với được sao
***
Ta ngao du khoái tỉ vô cùng
Trăng lên dây đàn tơ khẽ rụng
Gió lộng nghe lòng thương bạn hữu
Biết gặp nhau chăng giờ lâm chung
***
Vài cánh chim đêm xoải vội vàng
Quanh mình trăng lụa nõn mênh mông
Nằm đây đồi cỏ nghe trời rộng
Nghe cả chiều sâu của sắc không
Ðược biết Trần Ðức Uyển sống ở Blao, vùng cao nguyên trồng trà gần Ðà Lạt.
Ông mất cách đây không bao lâu. Những ngày cuối cùng ông bị chứng Alzheimer. Hiển nhiên, bệnh trạng của ông là nỗi khổ của gia đình ông. Nhưng rất có thể đó lại là điều may mắn cho chính ông. Không ai ở trong những trại được gọi là “cải tạo” ra mà cả thể xác lẫn tâm hồn lại không bị thương tổn và dễ dàng quên được những gì đã xẩy ra với mình cùng những người chung quanh.
Có lẽ chỉ có căn bệnh, cho đến hiện nay vẫn chưa có thuốc chữa ấy, mới giúp người ta xóa bỏ được ký ức chăng?
Có thể coi, những bài thơ cuối cùng của Trần Ðức Uyển đã được viết giữa ranh giới của những ngày nhớ/ quên của ông và không vướng một chút oán hận nào:
Người hỏi vợ anh đâu
Ta đáp không mà có
Nhân gian dưới trời sâu
Tỷ tỷ nằm trong mộ
***
Lại hỏi con anh đâu
Ta cười đang bú sữa
Thoảng sáu chục năm sau
Nó đã thành ông cụ
***
Lại hỏi nay đi đâu
Nơi vui không thiếu chỗ
Hãy cứ đi trên đường
Cất tiếng ca cùng gió.
Nguyễn Ðình Toàn
Bàn ra tán vào (0)
Trần Đức Uyển
Nói tới Trần Ðức Uyển người ta nghĩ đến những bài “thơ đen, thơ chì” của ông. Và như thế, người ta nhớ và biết đến Tú Kếu nhiều hơn Trần Ðức Uyển.
Trần Đức Uyển
Nói tới Trần Ðức Uyển người ta nghĩ đến những bài “thơ đen, thơ chì” của ông. Và như thế, người ta nhớ và biết đến Tú Kếu nhiều hơn Trần Ðức Uyển.
Chúng ta có rất nhiều thi sĩ, nhưng những người làm thơ trào phúng, châm biếm, để lại tên tuổi, vẫn còn có thể đếm được trên những đầu ngón tay.
Tú Kếu là một trong những nhà thơ hiếm hoi ấy.
Ðiều đó chứng tỏ, trào phúng không phải là thể thơ dễ làm.
Vì nhu cầu công việc của các nhật báo ông cộng tác, Tú Kếu đã làm nhiều thơ hơn Trần Ðức Uyển.
Rồi “thơ đen” của ông lại được in ra.
Nên người ta biết Tú Kếu nhiều hơn Trần Ðức Uyển là một điều tự nhiên.
Nhưng, ký hai cái tên khác nhau như thế, rõ ràng ông đã phân biệt hai công việc riêng biệt.
Ngoài “thơ chua, thơ chì, thơ đen”, có bao nhiêu thơ ký tên Trần Ðức Uyển, không ai biết rõ.
Bởi vì, sau biến cố Tháng Tư 1975, ông đã bị cộng sản bắt nhốt hơn 10 năm, những ngày ở tù, những ngày còn lại sau đó, ông nghĩ gì, làm gì, cũng như hầu hết các văn nghệ sĩ ở miền Nam khi ấy, chỉ một mình ông biết.
Ngoài sáng tác, Trần Ðức Uyển còn dịch một số truyện ngắn ngoại quốc ra Việt ngữ, nhất là các bản dịch thơ Langston Hughes của ông được coi là rất đạt.
Một vài bài thơ của Trần Ðức Uyển, do bằng hữu của ông mang đi được, hay bằng cách nào đó, lọt được ra ngoài, cho thấy, ông có một hồn thơ trong suốt. Hình như hoàn cảnh đen tối không làm u ám tâm hồn ông.
Bài thơ “Buổi Chiều Ngồi Trên Ðồi” củ ông là một thí dụ:
Ngồi dưới gốc cây gõ ống trúc
Hứng thú ngheu ngao vài ca khúc
***
Trên cành lảnh lót con chim xanh
Trời đất thu tròn trong khoảnh khắc
***
Gió cao lồng lộng hồn cao tĩnh
Học thói người xưa đắc đạo vàng
Rũ bụi khi về tưng gót nhẹ
Bóng mình phấp phới trên đồi cao
***
Tự hỏi về đâu! Ðâu chẳng được
Hãy tìm bên suối ngủ trưa nay
Gối đầu lên đá nhìn trăng sáng
Rừng núi sương mù ướt chẳng hay
***
Trước những bạo hành của cuộc sống, phản ứng của nhà thơ đôi khi kỳ lạ: Cố giữ một trạng thái tâm hồn bình an, trong sáng, những gì những kẻ chủ trương bạo động không bao giờ có thể có được.
Không có được trạng thái tâm hồn như thế người ta sẽ không bao giờ làm được những gì thi sĩ làm được, đó chính là thơ:
Sáng thức dậy ra vườn
Lòng nhẹ tênh mùi đạo
Tai vừa nghe chim hót
Ðã thấy mình vô vi
***
Hoa sớm còn e ấp
Mắt lá lệ long lanh
Ôi những buồn chất ngất
Trôi sạch tự khi nào
***
Dòng sông hồn trong trẻo
Chảy ngược xuyên thời gian
Gặp hồn xưa quấn quít
Trong màu sắc huy hoàng
***
Biến thiên của cuộc sống nhiều khi đẩy con người vào những hoàn cảnh khốn cùng đến nỗi, người ta không dám tin rằng trên đời còn có ánh sáng nữa!
Thơ xua đuổi bóng tối, đẩy lui những áng mây mù, thắp lại hy vọng.
Thi sĩ chuyển giao niềm hy vọng ấy cho cuộc đời:
Núi cao chót vót trời cao rộng
Ta ném mình lên vút ngọn cao
Bỗng thấy dưới chân mây nổi sóng
Tưởng ngẩng đầu tay với được sao
***
Ta ngao du khoái tỉ vô cùng
Trăng lên dây đàn tơ khẽ rụng
Gió lộng nghe lòng thương bạn hữu
Biết gặp nhau chăng giờ lâm chung
***
Vài cánh chim đêm xoải vội vàng
Quanh mình trăng lụa nõn mênh mông
Nằm đây đồi cỏ nghe trời rộng
Nghe cả chiều sâu của sắc không
Ðược biết Trần Ðức Uyển sống ở Blao, vùng cao nguyên trồng trà gần Ðà Lạt.
Ông mất cách đây không bao lâu. Những ngày cuối cùng ông bị chứng Alzheimer. Hiển nhiên, bệnh trạng của ông là nỗi khổ của gia đình ông. Nhưng rất có thể đó lại là điều may mắn cho chính ông. Không ai ở trong những trại được gọi là “cải tạo” ra mà cả thể xác lẫn tâm hồn lại không bị thương tổn và dễ dàng quên được những gì đã xẩy ra với mình cùng những người chung quanh.
Có lẽ chỉ có căn bệnh, cho đến hiện nay vẫn chưa có thuốc chữa ấy, mới giúp người ta xóa bỏ được ký ức chăng?
Có thể coi, những bài thơ cuối cùng của Trần Ðức Uyển đã được viết giữa ranh giới của những ngày nhớ/ quên của ông và không vướng một chút oán hận nào:
Người hỏi vợ anh đâu
Ta đáp không mà có
Nhân gian dưới trời sâu
Tỷ tỷ nằm trong mộ
***
Lại hỏi con anh đâu
Ta cười đang bú sữa
Thoảng sáu chục năm sau
Nó đã thành ông cụ
***
Lại hỏi nay đi đâu
Nơi vui không thiếu chỗ
Hãy cứ đi trên đường
Cất tiếng ca cùng gió.
Nguyễn Ðình Toàn
Chúng ta có rất nhiều thi sĩ, nhưng những người làm thơ trào phúng, châm biếm, để lại tên tuổi, vẫn còn có thể đếm được trên những đầu ngón tay.
Tú Kếu là một trong những nhà thơ hiếm hoi ấy.
Ðiều đó chứng tỏ, trào phúng không phải là thể thơ dễ làm.
Vì nhu cầu công việc của các nhật báo ông cộng tác, Tú Kếu đã làm nhiều thơ hơn Trần Ðức Uyển.
Rồi “thơ đen” của ông lại được in ra.
Nên người ta biết Tú Kếu nhiều hơn Trần Ðức Uyển là một điều tự nhiên.
Nhưng, ký hai cái tên khác nhau như thế, rõ ràng ông đã phân biệt hai công việc riêng biệt.
Ngoài “thơ chua, thơ chì, thơ đen”, có bao nhiêu thơ ký tên Trần Ðức Uyển, không ai biết rõ.
Bởi vì, sau biến cố Tháng Tư 1975, ông đã bị cộng sản bắt nhốt hơn 10 năm, những ngày ở tù, những ngày còn lại sau đó, ông nghĩ gì, làm gì, cũng như hầu hết các văn nghệ sĩ ở miền Nam khi ấy, chỉ một mình ông biết.
Ngoài sáng tác, Trần Ðức Uyển còn dịch một số truyện ngắn ngoại quốc ra Việt ngữ, nhất là các bản dịch thơ Langston Hughes của ông được coi là rất đạt.
Một vài bài thơ của Trần Ðức Uyển, do bằng hữu của ông mang đi được, hay bằng cách nào đó, lọt được ra ngoài, cho thấy, ông có một hồn thơ trong suốt. Hình như hoàn cảnh đen tối không làm u ám tâm hồn ông.
Bài thơ “Buổi Chiều Ngồi Trên Ðồi” củ ông là một thí dụ:
Ngồi dưới gốc cây gõ ống trúc
Hứng thú ngheu ngao vài ca khúc
***
Trên cành lảnh lót con chim xanh
Trời đất thu tròn trong khoảnh khắc
***
Gió cao lồng lộng hồn cao tĩnh
Học thói người xưa đắc đạo vàng
Rũ bụi khi về tưng gót nhẹ
Bóng mình phấp phới trên đồi cao
***
Tự hỏi về đâu! Ðâu chẳng được
Hãy tìm bên suối ngủ trưa nay
Gối đầu lên đá nhìn trăng sáng
Rừng núi sương mù ướt chẳng hay
***
Trước những bạo hành của cuộc sống, phản ứng của nhà thơ đôi khi kỳ lạ: Cố giữ một trạng thái tâm hồn bình an, trong sáng, những gì những kẻ chủ trương bạo động không bao giờ có thể có được.
Không có được trạng thái tâm hồn như thế người ta sẽ không bao giờ làm được những gì thi sĩ làm được, đó chính là thơ:
Sáng thức dậy ra vườn
Lòng nhẹ tênh mùi đạo
Tai vừa nghe chim hót
Ðã thấy mình vô vi
***
Hoa sớm còn e ấp
Mắt lá lệ long lanh
Ôi những buồn chất ngất
Trôi sạch tự khi nào
***
Dòng sông hồn trong trẻo
Chảy ngược xuyên thời gian
Gặp hồn xưa quấn quít
Trong màu sắc huy hoàng
***
Biến thiên của cuộc sống nhiều khi đẩy con người vào những hoàn cảnh khốn cùng đến nỗi, người ta không dám tin rằng trên đời còn có ánh sáng nữa!
Thơ xua đuổi bóng tối, đẩy lui những áng mây mù, thắp lại hy vọng.
Thi sĩ chuyển giao niềm hy vọng ấy cho cuộc đời:
Núi cao chót vót trời cao rộng
Ta ném mình lên vút ngọn cao
Bỗng thấy dưới chân mây nổi sóng
Tưởng ngẩng đầu tay với được sao
***
Ta ngao du khoái tỉ vô cùng
Trăng lên dây đàn tơ khẽ rụng
Gió lộng nghe lòng thương bạn hữu
Biết gặp nhau chăng giờ lâm chung
***
Vài cánh chim đêm xoải vội vàng
Quanh mình trăng lụa nõn mênh mông
Nằm đây đồi cỏ nghe trời rộng
Nghe cả chiều sâu của sắc không
Ðược biết Trần Ðức Uyển sống ở Blao, vùng cao nguyên trồng trà gần Ðà Lạt.
Ông mất cách đây không bao lâu. Những ngày cuối cùng ông bị chứng Alzheimer. Hiển nhiên, bệnh trạng của ông là nỗi khổ của gia đình ông. Nhưng rất có thể đó lại là điều may mắn cho chính ông. Không ai ở trong những trại được gọi là “cải tạo” ra mà cả thể xác lẫn tâm hồn lại không bị thương tổn và dễ dàng quên được những gì đã xẩy ra với mình cùng những người chung quanh.
Có lẽ chỉ có căn bệnh, cho đến hiện nay vẫn chưa có thuốc chữa ấy, mới giúp người ta xóa bỏ được ký ức chăng?
Có thể coi, những bài thơ cuối cùng của Trần Ðức Uyển đã được viết giữa ranh giới của những ngày nhớ/ quên của ông và không vướng một chút oán hận nào:
Người hỏi vợ anh đâu
Ta đáp không mà có
Nhân gian dưới trời sâu
Tỷ tỷ nằm trong mộ
***
Lại hỏi con anh đâu
Ta cười đang bú sữa
Thoảng sáu chục năm sau
Nó đã thành ông cụ
***
Lại hỏi nay đi đâu
Nơi vui không thiếu chỗ
Hãy cứ đi trên đường
Cất tiếng ca cùng gió.
Nguyễn Ðình Toàn