Kinh Đời
Việt Nam: Thân Trung ít đi và hướng Mỹ nhiều hơn?
Chính trường và giới quốc phòng Việt Nam lại đang diễn ra những động thái “lạ”. Nếu chưa thể thừa nhận về một lực lượng chính trị “thân Mỹ” ở Việt Nam, bạn có thể đặt cho lực lượng này cái tên gì?
Vào những ngày này, Đinh Thế Huynh - nhân vật thứ 5 trong Bộ chính trị nhưng lại là số 2 trong đảng CSVN - đang bất ngờ “có mặt” ở Washington. Chính trường và giới quốc phòng Việt Nam lại đang diễn ra những động thái “lạ”. Nếu chưa thể thừa nhận về một lực lượng chính trị “thân Mỹ” ở Việt Nam, bạn có thể đặt cho lực lượng này cái tên gì?
‘Hướng Mỹ’
Lịch sử chính trị cận đại ở Việt Nam đã có một lần được đánh bóng đặc
biệt với cái tên Nguyễn Tấn Dũng - thủ tướng trước Đại hội XII. Trong
cuộc chạy đua giành ghế tổng bí thư với Nguyễn Phú Trọng, ông Dũng được
một số “chuyên gia cận thần”, vài ba trang blog tiếm danh lề trái, kể cả
một số trí thức có khuynh hướng dân chủ thổi bùng niềm kỳ vọng vào ông
như một “Gorbachev” của những năm 80 thế kỷ XX, hay “Putin” những năm 90
của thế kỷ trước, hoặc “thân Mỹ” của thế kỷ này.
Tuy thế, lịch sử lại tréo ngoe ở chỗ chưa bao giờ người Mỹ cảm thấy vui
mừng vì sự hiện diện của một “lực lượng thân Mỹ” ở Việt Nam, và cũng
chưa bao giờ chính phủ hay bất kỳ một cơ quan có trách nhiệm nào của Mỹ
xác nhận, dù là một cách hết sức không chính thức, về bất kỳ một lực
lượng chính trị nào ở Việt Nam được Mỹ ủng hộ.
Đơn giản là “Dũng không theo ai, Dũng chỉ theo Dũng” - như một chân lý
mà những người tỉnh táo đã rút ra trước và sau Đại hội XII để khỏi ôm
nỗi thất vọng không thể có cơ hội sửa sai.
Và nếu Nguyễn Tấn Dũng mà còn bị nhận chân là không đủ “theo Mỹ” để “cứu
nước”, sau ông ta lại không có một gương mặt chính khách nào có thể
được liệt vào loại “thân Mỹ”.
Vì thế, một cái tên có lẽ vẫn khiên cưỡng, nhưng có thể tạm thời chấp
nhận, được dùng để chỉ một nhóm, hoặc cao hơn là một thế lực chính trị
đang thành hình có khuynh hướng tìm cách dựa dẫm vào sức mạnh quân sự và
kinh tế của người Mỹ để mưu đồ cho cuộc tranh giành sống mái về quyền
lực cho nhóm lợi ích của mình trên mảnh đất Việt ngày càng tan hoang, có
thể là “Hướng Mỹ”.
Những động thái ‘lạ’
Khác với thế thúc thủ vào năm 2015 và khác hẳn thế tủi nhục vào năm
2014, từ đầu năm 2016 đến nay đã xuất hiện một số chỉ dấu cho thấy giới
quân sự và có thể cả giới ngoại giao Việt Nam đã tìm cách đi trước gã
khổng lồ phương Bắc.
Tháng 2/2016, Việt Nam lần đầu tiên trở thành “quan sát viên” trong một
cuộc tập trận có tên là Hổ Mang Vàng của Mỹ và các nước đồng minh. Sau
đó lần đầu tiên đã diễn ra cuộc diễn tập quân sự chung giữa Nhật Bản và
hải quân Việt Nam tại Đà Nẵng. Cũng sau đó, trước sự kiện một tàu quân
sự Mỹ áp sát đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa và bị phía Trung Quốc
công kích dữ dội, phía ngoại giao Việt Nam cũng lần đầu tiên tỏ ra “can
đảm” khi dè dặt tuyên bố “tàu Mỹ đi qua vô hại”.
Tuy nhiên, hành động tỏ ra có “dũng khí” nhất là lần đầu tiên sau nhiều
năm, vào đầu năm 2016 hải quân Việt Nam đã dám bắt giữ một tàu của Trung
Quốc, dù đây chỉ là tàu chở dầu để tiếp vận cho hàng trăm tàu đánh cá
Trung Hoa xâm phạm một cách có chủ ý và có hệ thống vùng biển Việt Nam.
Đến tháng 8/2016, hãng tin Anh Reuters đã trở thành cơ quan thông tấn
đầu tiên bật mí một sự kiện mà có thể làm Tập Cận Bình sôi máu: quân đội
Việt Nam âm thầm đưa tên lửa ra quần đảo Trường Sa như một cách để đối
kháng với tên lửa của Trung Quốc đưa ra đảo Phú Lâm thuộc quần đảo
Hoàng Sa. Sự thể càng đáng ngạc nhiên hơn khi trong một cuộc trả lời
phỏng vấn của Reuters, thứ trưởng quốc phòng hiện thời là Thượng tướng
Nguyễn Chí Vịnh đã không bác bỏ thông tin tuyệt mật này mà lại úp mở: “Di
chuyển bất kỳ loại vũ khí nào đến bất kỳ khu vực vào bất kỳ lúc nào
trong vùng lãnh thổ có chủ quyền của chúng tôi là quyền hợp pháp của
chúng tôi”.
Chỉ ít ngày trước chuyến đi Trung Quốc của ông Đinh Thế Huynh, Thường
trực Ban bí thư, vào tháng 10/2016, ông Nguyễn Chí Vịnh cũng phát ngôn
rất đáng chú ý: “Việt Nam cam kết hỗ trợ Mỹ và đồng minh can thiệp
vào tình hình khu vực, miễn sao điều đó mang lại hòa bình, ổn định và
thịnh vượng”. Phát ngôn này được đưa ra trong cuộc trao đổi với bà
Cara Abercrombie, Trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ phụ trách vấn đề
Nam và Đông Nam Á.
Hoàn toàn dễ dàng nhận ra sự khác biệt về “bản lĩnh Nguyễn Chí Vịnh” của
năm nay với những năm trước. Khi nổ ra vụ giàn khoan Hải Dương 981 ngự
trị ngay trước mũi chính thể Hà Nội vào năm 2014, tướng Vịnh đã không
một lời phản kháng. Và ông ta cũng chẳng làm khác hơn khi hàng chục lần
tàu cá, tàu hải giám Trung Quốc tấn công tàu cá và giết hại ngư dân
Việt.
Còn giờ đây, tướng Vịnh bất thần trở nên có “dũng khí” hơn, dù chỉ đôi
chút. Lời lẽ và quan điểm đối ngoại của ông cũng quyết đoán hơn, dù vẫn
còn quá nhiều từ ngữ mập mờ mà muốn hiểu sao cũng được.
Chuyện gì đang xảy ra?
Có vẻ đang diễn ra những động thái “lạ” trong chính trường Việt Nam, đặc
biệt liên quan đến mảng đối ngoại con thoi và phòng thủ quân sự. Và
dường như giữa các động thái đối ngoại giữa một số nhân vật chính trị
lại không ăn khớp với nhau, nếu không nói là ngược chiều nhau.
Bí ẩn Cam Ranh
Cam Ranh có thể được xem là một hình mẫu cho quan điểm “Việt Nam muốn
làm bạn với tất cả các nước”, nhưng cũng rất có thể đang ẩn giấu một
cuộc so kè giữa hai thế lực “thân Trung” và “hướng Mỹ” trong nội bộ đảng
CSVN.
Tháng 10/2016, chỉ ít ngày sau khi 2 tàu khu trục Mỹ cập cảng Cam Ranh.
Đây là sự kiện lần đầu tiên kể từ năm 1975, một sự kiện khác cũng mang
tính lần đầu tiên và được quan tâm không kém là 3 tàu chiến Trung Quốc
cũng cập cảng Cam Ranh.
Thậm chí, giới phân tích còn cho biết 3 tàu chiến của Trung Quốc ghé
thăm cảng Cam Ranh thuộc hạm đội Đông Hải, hạm đội đã từng tham gia vào
vụ thảm sát Gạc Ma năm 1988. Một cách nào đó, đây là sự xúc phạm đến oan
hồn của 64 binh sĩ Việt Nam bị phía Trung Quốc tàn sát năm 1988.
Sự kiện tàu chiến Trung Quốc cập cảng Cam Ranh lại được báo chí nhà nước
thông tin cùng thời điểm với một chuyến công du đặc biệt: Thường trực
Ban bí thư Đinh Thế Huynh, nhân vật số 2 trong đảng, đến Bắc Kinh và đặc
biệt có một cuộc gặp với Tập Cận Bình. Khoảng thời gian mà ông Huynh ở
Trung Quốc lại trùng với thời gian mà Tổng thống Philippines Duterte
cũng đến quốc gia này và đưa ra một tuyên bố khó có thể đồng bóng hơn:
Philippines quyết định chia tay với Mỹ.
Câu hỏi rất cần được giải đáp là có phải “tập thể Bộ Chính trị” đã cùng
lúc quyết định cho cả tàu chiến Mỹ lẫn Trung Quốc được cập cảng Cam Ranh
theo sách lược “đu dây” truyền thống, hay còn nhân tố nào khác? Nếu
không phải là Bộ Chính trị quyết định việc này thì ai đã bật đèn xanh
cho tàu Mỹ và ai mời tàu Trung Quốc vào Cam Ranh?
Lối thoát thời tao loạn
Trên bề mặt, tư thế đu dây đối ngoại vẫn là chủ đạo của giới lãnh đạo
Việt Nam. Một trong vài bằng chứng mới nhất là Cam Ranh đón cả tàu Mỹ
lẫn tàu Trung Quốc để bảo đảm “không liên minh với một nước nhằm chống
lại nước thứ ba”.
Bằng chứng gần nhất là ngay sau khi đi Bắc Kinh “thỉnh kiến” Tập Cận
Bình, ông Đinh Thế Huynh lập tức “diện kiến” ở Washington. Chuyến công
du liên cường quốc của nhân vật thứ 5 trong Bộ Chính trị nhưng lại là số
2 trong đảng này có thể mang hơi hướng nào đó của chuyến công du đột
ngột và âm thầm của nhân vật Phạm Quang Nghị, Bí thư thành ủy Hà Nội,
đến Washington vào tháng 7/2014. Khi đó, ông Nghị còn được Nguyễn Phú
Trọng “chấm” như một ứng cử viên sáng giá cho chức vụ tổng bí thư tại
Đại hội XII. Hiện nay, ông Huynh cũng nằm trong tình trạng của ông Nghị
quá khứ và có lẽ nhu cầu “đối ngoại” của ông Huynh là lớn chưa từng
thấy…
Nhưng sau tất cả những màn trình diễn qua lại trên, câu hỏi cốt yếu vẫn
là ai là người quyết định đưa tên lửa ra Trường Sa - một biểu hiện được
đánh giá là nếu không có một sự hậu thuẫn đủ mạnh của một thế lực đủ đối
trọng với Trung Quốc thì khó lòng xảy ra vào thời gian này?
Trong khi đó, vẫn đang xuất hiện những tin tức ngoài lề cho biết sau
phán quyết về đường lưỡi bò của Tòa án quốc tế, Trung Quốc “sẽ hành
động” vào một thời điểm nào đó.
Không phải ngẫu nhiên mà giới chóp bu Việt Nam thỉnh thoảng vẫn nhắc lại
khẩu hiệu “không để bị động bất ngờ” trong các cuộc thăm viếng các quân
khu và đơn vị bộ đội.
Hẳn là trên bình diện tương quan về thế chứ không phải là lực, Việt Nam
vẫn đang duy trì xu hướng cậy nhờ lực lượng hải quân Hoa Kỳ, cho dù xu
hướng này tiến triển một cách chậm chạp.
Tựu trung những biểu hiện từ đầu năm 2016 đến nay, có vẻ như chính
trường Việt Nam đang dần tách thành hai khối chuyên biệt: “thân Trung”
và “hướng Mỹ”, bất chấp Tổng Bí thư Trọng cứ mãi rao giảng về “chống tự
diễn biến, tự chuyển hóa”.
Lịch sử nước Việt là thế, cứ vào thời tao loạn, mỗi người lại phải tự tìm lối thoát cho riêng mình.
Không chỉ cố gắng tìm kiếm một thế “chống lưng” mới về kinh tế và cả
quân sự, mỗi nhân vật chính trị còn phải cố làm sao để bảo đảm cho “hậu
vận” của mình không bị mệnh hệ gì nếu nội tình quốc gia “có biến”.
Chỉ có điều, dư luận trong nước và quốc tế cho tới giờ vẫn không hết
ngạc nhiên về tính ù lì chậm chạp của giới chính khách nửa mùa ở Việt
Nam. Trong khi bài học dân chủ hóa và chuyển giao quyền lực êm ả đã được
thực hiện ở Myanmar suốt từ năm 2012 đến nay, những chính khách “muốn
thay đổi” ở Việt Nam vẫn như tê cứng bởi nỗi sợ hãi kỷ luật đảng mỗi khi
muốn nhúc nhích khỏi quỹ đạo ý thức hệ giáo điều.
Phạm Chí Dũng
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Có miệng như không" - by / Trần Văn Giang (ghi lại).
- 100 năm sau vẫn bồi hồi "Tôi đi học" - by Minh Tự / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Nỗi Khổ Của Người Hà Nội" - by Nguyễn Thị Thương / Trần Văn Giang (ghi lại)
Việt Nam: Thân Trung ít đi và hướng Mỹ nhiều hơn?
Chính trường và giới quốc phòng Việt Nam lại đang diễn ra những động thái “lạ”. Nếu chưa thể thừa nhận về một lực lượng chính trị “thân Mỹ” ở Việt Nam, bạn có thể đặt cho lực lượng này cái tên gì?
Vào những ngày này, Đinh Thế Huynh - nhân vật thứ 5 trong Bộ chính trị nhưng lại là số 2 trong đảng CSVN - đang bất ngờ “có mặt” ở Washington. Chính trường và giới quốc phòng Việt Nam lại đang diễn ra những động thái “lạ”. Nếu chưa thể thừa nhận về một lực lượng chính trị “thân Mỹ” ở Việt Nam, bạn có thể đặt cho lực lượng này cái tên gì?
‘Hướng Mỹ’
Lịch sử chính trị cận đại ở Việt Nam đã có một lần được đánh bóng đặc
biệt với cái tên Nguyễn Tấn Dũng - thủ tướng trước Đại hội XII. Trong
cuộc chạy đua giành ghế tổng bí thư với Nguyễn Phú Trọng, ông Dũng được
một số “chuyên gia cận thần”, vài ba trang blog tiếm danh lề trái, kể cả
một số trí thức có khuynh hướng dân chủ thổi bùng niềm kỳ vọng vào ông
như một “Gorbachev” của những năm 80 thế kỷ XX, hay “Putin” những năm 90
của thế kỷ trước, hoặc “thân Mỹ” của thế kỷ này.
Tuy thế, lịch sử lại tréo ngoe ở chỗ chưa bao giờ người Mỹ cảm thấy vui
mừng vì sự hiện diện của một “lực lượng thân Mỹ” ở Việt Nam, và cũng
chưa bao giờ chính phủ hay bất kỳ một cơ quan có trách nhiệm nào của Mỹ
xác nhận, dù là một cách hết sức không chính thức, về bất kỳ một lực
lượng chính trị nào ở Việt Nam được Mỹ ủng hộ.
Đơn giản là “Dũng không theo ai, Dũng chỉ theo Dũng” - như một chân lý
mà những người tỉnh táo đã rút ra trước và sau Đại hội XII để khỏi ôm
nỗi thất vọng không thể có cơ hội sửa sai.
Và nếu Nguyễn Tấn Dũng mà còn bị nhận chân là không đủ “theo Mỹ” để “cứu
nước”, sau ông ta lại không có một gương mặt chính khách nào có thể
được liệt vào loại “thân Mỹ”.
Vì thế, một cái tên có lẽ vẫn khiên cưỡng, nhưng có thể tạm thời chấp
nhận, được dùng để chỉ một nhóm, hoặc cao hơn là một thế lực chính trị
đang thành hình có khuynh hướng tìm cách dựa dẫm vào sức mạnh quân sự và
kinh tế của người Mỹ để mưu đồ cho cuộc tranh giành sống mái về quyền
lực cho nhóm lợi ích của mình trên mảnh đất Việt ngày càng tan hoang, có
thể là “Hướng Mỹ”.
Những động thái ‘lạ’
Khác với thế thúc thủ vào năm 2015 và khác hẳn thế tủi nhục vào năm
2014, từ đầu năm 2016 đến nay đã xuất hiện một số chỉ dấu cho thấy giới
quân sự và có thể cả giới ngoại giao Việt Nam đã tìm cách đi trước gã
khổng lồ phương Bắc.
Tháng 2/2016, Việt Nam lần đầu tiên trở thành “quan sát viên” trong một
cuộc tập trận có tên là Hổ Mang Vàng của Mỹ và các nước đồng minh. Sau
đó lần đầu tiên đã diễn ra cuộc diễn tập quân sự chung giữa Nhật Bản và
hải quân Việt Nam tại Đà Nẵng. Cũng sau đó, trước sự kiện một tàu quân
sự Mỹ áp sát đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa và bị phía Trung Quốc
công kích dữ dội, phía ngoại giao Việt Nam cũng lần đầu tiên tỏ ra “can
đảm” khi dè dặt tuyên bố “tàu Mỹ đi qua vô hại”.
Tuy nhiên, hành động tỏ ra có “dũng khí” nhất là lần đầu tiên sau nhiều
năm, vào đầu năm 2016 hải quân Việt Nam đã dám bắt giữ một tàu của Trung
Quốc, dù đây chỉ là tàu chở dầu để tiếp vận cho hàng trăm tàu đánh cá
Trung Hoa xâm phạm một cách có chủ ý và có hệ thống vùng biển Việt Nam.
Đến tháng 8/2016, hãng tin Anh Reuters đã trở thành cơ quan thông tấn
đầu tiên bật mí một sự kiện mà có thể làm Tập Cận Bình sôi máu: quân đội
Việt Nam âm thầm đưa tên lửa ra quần đảo Trường Sa như một cách để đối
kháng với tên lửa của Trung Quốc đưa ra đảo Phú Lâm thuộc quần đảo
Hoàng Sa. Sự thể càng đáng ngạc nhiên hơn khi trong một cuộc trả lời
phỏng vấn của Reuters, thứ trưởng quốc phòng hiện thời là Thượng tướng
Nguyễn Chí Vịnh đã không bác bỏ thông tin tuyệt mật này mà lại úp mở: “Di
chuyển bất kỳ loại vũ khí nào đến bất kỳ khu vực vào bất kỳ lúc nào
trong vùng lãnh thổ có chủ quyền của chúng tôi là quyền hợp pháp của
chúng tôi”.
Chỉ ít ngày trước chuyến đi Trung Quốc của ông Đinh Thế Huynh, Thường
trực Ban bí thư, vào tháng 10/2016, ông Nguyễn Chí Vịnh cũng phát ngôn
rất đáng chú ý: “Việt Nam cam kết hỗ trợ Mỹ và đồng minh can thiệp
vào tình hình khu vực, miễn sao điều đó mang lại hòa bình, ổn định và
thịnh vượng”. Phát ngôn này được đưa ra trong cuộc trao đổi với bà
Cara Abercrombie, Trợ lý Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ phụ trách vấn đề
Nam và Đông Nam Á.
Hoàn toàn dễ dàng nhận ra sự khác biệt về “bản lĩnh Nguyễn Chí Vịnh” của
năm nay với những năm trước. Khi nổ ra vụ giàn khoan Hải Dương 981 ngự
trị ngay trước mũi chính thể Hà Nội vào năm 2014, tướng Vịnh đã không
một lời phản kháng. Và ông ta cũng chẳng làm khác hơn khi hàng chục lần
tàu cá, tàu hải giám Trung Quốc tấn công tàu cá và giết hại ngư dân
Việt.
Còn giờ đây, tướng Vịnh bất thần trở nên có “dũng khí” hơn, dù chỉ đôi
chút. Lời lẽ và quan điểm đối ngoại của ông cũng quyết đoán hơn, dù vẫn
còn quá nhiều từ ngữ mập mờ mà muốn hiểu sao cũng được.
Chuyện gì đang xảy ra?
Có vẻ đang diễn ra những động thái “lạ” trong chính trường Việt Nam, đặc
biệt liên quan đến mảng đối ngoại con thoi và phòng thủ quân sự. Và
dường như giữa các động thái đối ngoại giữa một số nhân vật chính trị
lại không ăn khớp với nhau, nếu không nói là ngược chiều nhau.
Bí ẩn Cam Ranh
Cam Ranh có thể được xem là một hình mẫu cho quan điểm “Việt Nam muốn
làm bạn với tất cả các nước”, nhưng cũng rất có thể đang ẩn giấu một
cuộc so kè giữa hai thế lực “thân Trung” và “hướng Mỹ” trong nội bộ đảng
CSVN.
Tháng 10/2016, chỉ ít ngày sau khi 2 tàu khu trục Mỹ cập cảng Cam Ranh.
Đây là sự kiện lần đầu tiên kể từ năm 1975, một sự kiện khác cũng mang
tính lần đầu tiên và được quan tâm không kém là 3 tàu chiến Trung Quốc
cũng cập cảng Cam Ranh.
Thậm chí, giới phân tích còn cho biết 3 tàu chiến của Trung Quốc ghé
thăm cảng Cam Ranh thuộc hạm đội Đông Hải, hạm đội đã từng tham gia vào
vụ thảm sát Gạc Ma năm 1988. Một cách nào đó, đây là sự xúc phạm đến oan
hồn của 64 binh sĩ Việt Nam bị phía Trung Quốc tàn sát năm 1988.
Sự kiện tàu chiến Trung Quốc cập cảng Cam Ranh lại được báo chí nhà nước
thông tin cùng thời điểm với một chuyến công du đặc biệt: Thường trực
Ban bí thư Đinh Thế Huynh, nhân vật số 2 trong đảng, đến Bắc Kinh và đặc
biệt có một cuộc gặp với Tập Cận Bình. Khoảng thời gian mà ông Huynh ở
Trung Quốc lại trùng với thời gian mà Tổng thống Philippines Duterte
cũng đến quốc gia này và đưa ra một tuyên bố khó có thể đồng bóng hơn:
Philippines quyết định chia tay với Mỹ.
Câu hỏi rất cần được giải đáp là có phải “tập thể Bộ Chính trị” đã cùng
lúc quyết định cho cả tàu chiến Mỹ lẫn Trung Quốc được cập cảng Cam Ranh
theo sách lược “đu dây” truyền thống, hay còn nhân tố nào khác? Nếu
không phải là Bộ Chính trị quyết định việc này thì ai đã bật đèn xanh
cho tàu Mỹ và ai mời tàu Trung Quốc vào Cam Ranh?
Lối thoát thời tao loạn
Trên bề mặt, tư thế đu dây đối ngoại vẫn là chủ đạo của giới lãnh đạo
Việt Nam. Một trong vài bằng chứng mới nhất là Cam Ranh đón cả tàu Mỹ
lẫn tàu Trung Quốc để bảo đảm “không liên minh với một nước nhằm chống
lại nước thứ ba”.
Bằng chứng gần nhất là ngay sau khi đi Bắc Kinh “thỉnh kiến” Tập Cận
Bình, ông Đinh Thế Huynh lập tức “diện kiến” ở Washington. Chuyến công
du liên cường quốc của nhân vật thứ 5 trong Bộ Chính trị nhưng lại là số
2 trong đảng này có thể mang hơi hướng nào đó của chuyến công du đột
ngột và âm thầm của nhân vật Phạm Quang Nghị, Bí thư thành ủy Hà Nội,
đến Washington vào tháng 7/2014. Khi đó, ông Nghị còn được Nguyễn Phú
Trọng “chấm” như một ứng cử viên sáng giá cho chức vụ tổng bí thư tại
Đại hội XII. Hiện nay, ông Huynh cũng nằm trong tình trạng của ông Nghị
quá khứ và có lẽ nhu cầu “đối ngoại” của ông Huynh là lớn chưa từng
thấy…
Nhưng sau tất cả những màn trình diễn qua lại trên, câu hỏi cốt yếu vẫn
là ai là người quyết định đưa tên lửa ra Trường Sa - một biểu hiện được
đánh giá là nếu không có một sự hậu thuẫn đủ mạnh của một thế lực đủ đối
trọng với Trung Quốc thì khó lòng xảy ra vào thời gian này?
Trong khi đó, vẫn đang xuất hiện những tin tức ngoài lề cho biết sau
phán quyết về đường lưỡi bò của Tòa án quốc tế, Trung Quốc “sẽ hành
động” vào một thời điểm nào đó.
Không phải ngẫu nhiên mà giới chóp bu Việt Nam thỉnh thoảng vẫn nhắc lại
khẩu hiệu “không để bị động bất ngờ” trong các cuộc thăm viếng các quân
khu và đơn vị bộ đội.
Hẳn là trên bình diện tương quan về thế chứ không phải là lực, Việt Nam
vẫn đang duy trì xu hướng cậy nhờ lực lượng hải quân Hoa Kỳ, cho dù xu
hướng này tiến triển một cách chậm chạp.
Tựu trung những biểu hiện từ đầu năm 2016 đến nay, có vẻ như chính
trường Việt Nam đang dần tách thành hai khối chuyên biệt: “thân Trung”
và “hướng Mỹ”, bất chấp Tổng Bí thư Trọng cứ mãi rao giảng về “chống tự
diễn biến, tự chuyển hóa”.
Lịch sử nước Việt là thế, cứ vào thời tao loạn, mỗi người lại phải tự tìm lối thoát cho riêng mình.
Không chỉ cố gắng tìm kiếm một thế “chống lưng” mới về kinh tế và cả
quân sự, mỗi nhân vật chính trị còn phải cố làm sao để bảo đảm cho “hậu
vận” của mình không bị mệnh hệ gì nếu nội tình quốc gia “có biến”.
Chỉ có điều, dư luận trong nước và quốc tế cho tới giờ vẫn không hết
ngạc nhiên về tính ù lì chậm chạp của giới chính khách nửa mùa ở Việt
Nam. Trong khi bài học dân chủ hóa và chuyển giao quyền lực êm ả đã được
thực hiện ở Myanmar suốt từ năm 2012 đến nay, những chính khách “muốn
thay đổi” ở Việt Nam vẫn như tê cứng bởi nỗi sợ hãi kỷ luật đảng mỗi khi
muốn nhúc nhích khỏi quỹ đạo ý thức hệ giáo điều.
Phạm Chí Dũng