Khoa Học Thực Nghiệm & Tâm Linh
Việt Nam đã làm gì trong lúc Thái Lan lo chống hạn từ vài năm trước?
Tốc độ tăng trưởng GDP trong quý đầu tiên chỉ đạt 5,46%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng 6,12% cùng kỳ năm 2015. Đành rằng yếu tố tác động chủ đạo đến sự sụt giảm đó phần lớn đến từ các yếu tố thiên tai v
Tốc độ tăng trưởng GDP trong quý đầu tiên chỉ đạt 5,46%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng 6,12% cùng kỳ năm 2015. Đành rằng yếu tố tác động chủ đạo đến sự sụt giảm đó phần lớn đến từ các yếu tố thiên tai và biến đổi khí hậu, mà tình trạng hạn hán và xâm mặn kỷ lục ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay là điển hình. Tuy nhiên, trên thực tế hậu quả đó có thể được giảm thiểu đáng kể nếu như chúng ta có sự chuẩn bị từ trước và không bị rơi vào tình thế “nước đến chân mới nhảy” như hiện tại.
Tốc độ tăng trưởng GDP trong quý đầu tiên chỉ đạt 5,46%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng 6,12% cùng kỳ năm 2015. Đành rằng yếu tố tác động chủ đạo đến sự sụt giảm đó phần lớn đến từ các yếu tố thiên tai và biến đổi khí hậu, mà tình trạng hạn hán và xâm mặn kỷ lục ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay là điển hình. Tuy nhiên, trên thực tế hậu quả đó có thể được giảm thiểu đáng kể nếu như chúng ta có sự chuẩn bị từ trước và không bị rơi vào tình thế “nước đến chân mới nhảy” như hiện tại.
Nếu như không có sự thay đổi về tư duy
và tầm nhìn, và vẫn để tình trạng “nước đến chân mới nhảy” này diễn ra,
thì hậu quả nghiêm trọng sẽ không chỉ dừng lại ở ngành nông nghiệp tại
đồng bằng sông Cửu Long, mà sẽ còn diễn ra trong toàn bộ nền kinh tế và
trên phạm vi toàn quốc.
Nếu đặt vấn đề trách nhiệm trong vụ
việc hạn hán và xâm mặn kỷ lục được xem là lớn nhất trong vòng 100 năm
qua tại đồng bằng sông Cửu Long, thì ngoài yếu tố biến đổi khí hậu do El
Nino gây ra khiến lượng mưa giảm khoảng 40%, ngoài yếu tố các con đập
khổng lồ trên thượng nguồn của Trung Quốc khiến lượng nước ở hạ nguồn
không đủ, thì còn có trách nhiệm của chính Việt Nam khi đã không có sự
chuẩn bị kỹ lưỡng dù đã có cảnh báo từ trước đó rất lâu. Các yếu tố này
đều đã được các chuyên gia trong và ngoài nước đưa ra từ lâu. Nhưng tất
cả đã không được lắng nghe và Việt Nam đã gần như không có sự chuẩn bị
nào cho kịch bản tồi tệ nhất nếu nó xảy ra, và nó đã xảy ra. Phải đến
khi nước mặn xâm nhập 8/13 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long thì chúng ta
mới vội vã tìm cách ứng phó.
Một trong những điều đáng chú ý nhất
của câu chuyện hạn hán tại các quốc gia ở hạ nguồn sông Mekong trong đó
có Việt Nam là sự khác biệt về nhận thức và cách thức chuẩn bị để ứng
phó với nguy cơ này. Có những quốc gia đã có sự chuẩn bị từ rất sớm và
ít phải chịu những tác động nghiêm trọng từ tình trạng hiện tại và Thái
Lan là điển hình. Và cũng có những quốc gia gần như không có bất cứ một
sự chuẩn bị nào và đang hứng gần hết những hậu quả nghiêm trọng nhất, mà
Việt Nam là ví dụ.
Ngay từ khi Trung Quốc bắt đầu xây
dựng các con đập lớn trên sông Lan Thương (tên Trung Quốc của sông
Mekong) để phát triển thủy điện, đồng thời để dẫn nước vào sử dụng trong
công nghiệp và đưa vào hồ chứa cho tiêu dùng ở tỉnh Vân Nam, thì Thái
Lan đã ngay lập tức có biện pháp ứng phó. Trong nhiều năm, Thái Lan đã
bắt đầu xây dựng hệ thống thủy lợi bao gồm hồ chứa và hệ thống dẫn nước
khá quy mô và đồ sộ sử dụng nước từ các phụ lưu của sông Mekong. Giờ đây
khi tình trạng hạn hán trên diện rộng diễn ra, cũng là lúc người Thái
bắt đầu vận hành hệ thống quy mô của mình để dẫn nước tới các khu vực
đang chịu tình trạng hạn hán và thiếu nước, như Nọng Khai và các tỉnh
vùng Đông Bắc của nước này. Dù không giải quyết được toàn bộ tình trạng
hạn hán ở nước này thì nó cũng làm giảm thiểu phần lớn tác động do hạn
hán gây ra.
Còn Việt Nam thì gần như ngược lại.
Chúng ta đã gần như không làm bất cứ điều gì để ứng phó với nguy cơ hạn
hán được đánh giá là nghiêm trọng nhất trong vòng 100 năm trở lại đây.
Các hồ chứa và các công trình ngăn mặn ở đồng bằng sông Cửu Long đã
không được xây dựng, khiến cho tốc độ xâm mặn lớn đến mức 8/13 tỉnh
thành bị nước mặn xâm nhập, tàn phá nông nghiệp và đẩy người dân ở các
tỉnh này vào tình trạng thiếu nước ngọt sinh hoạt. Đến lúc này chúng ta
mới bắt đầu vội vã ứng phó và đương nhiên, chúng ta phải đón nhận cho
thảm họa này – thảm họa không chỉ tàn phá nông nghiệp tại đồng bằng sông
Cửu Long, mà còn đang là tác nhân kéo lùi tăng trưởng GDP của cả nền
kinh tế một cách nghiêm trọng nhất.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thảm họa
này, không gì khác ngoài tình trạng “nước đến chân mới nhảy” quen thuộc
trong cách xử lý các vấn đề của nền kinh tế khá thường thấy trong những
năm qua. Nhìn rộng ra một chút, thì tình trạng này tràn lan trong hầu
khắp các lĩnh vực nền kinh tế, mà gần đây chúng ta có thể thấy thông qua
một số vụ việc như áp thuế nhập khẩu cho thép nhập khẩu từ Trung Quốc
hay thậm chí là nợ công quốc gia.
Theo kế hoạch đến hết năm 2016 thì nợ
công sẽ kịch trần ở mức trên 64% GDP và sẽ giảm dần kể từ năm 2017,
nhưng trong bối cảnh tốc độ tăng nợ công phi mã từ 3-4%/năm như những
năm qua mà muốn không những không tăng mà còn giảm đi chỉ trong vòng 1
năm ngắn ngủi thì quả thực là điều khó có thể xảy ra.
Điều tương tự cũng đang diễn ra trong
hầu khắp nền kinh tế, và đang bị cảnh báo có thể dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng. Trong bối cảnh hàng loạt hiệp định thương mại lớn và quan
trọng mà Việt Nam ký kết sắp đi vào hoạt động, thì tình trạng “nước đến
chân mới nhảy” này có thể dẫn tới những hậu quả khó lường. Đã có không
ít cảnh báo về việc nếu Việt Nam không có sự chuẩn bị, thì sẽ phải hứng
chịu các tác động tiêu cực từ các hiệp định này, như các doanh nghiệp
trong nước bị thâu tóm và sáp nhập, thị trường nội địa lọt vào tay doanh
nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài. Đó đều là những hậu quả rất lớn, và để
tránh khỏi những nguy cơ đó cần phải có sự chuẩn bị lâu dài, trong khi
thời gian chuẩn bị cho các hiệp định thương mại cho Việt Nam chỉ diễn ra
từ 1-2 năm mà thôi. Và thực tế Việt Nam đã chuẩn bị những gì về pháp
lý, hành chính, về sức cạnh tranh của doanh nghiệp... trong thời gian
vừa qua? Gần như là rất ít.
Câu chuyện về thiên tai, hạn hán và
xâm mặn tại đồng bằng sông Cửu Long hiện tại đang là một lời cảnh báo
đắt giá hơn bao giờ hết về những gì Việt Nam sẽ phải hứng chịu nếu cứ
tiếp tục duy trì tình trạng “nước đến chân mới nhảy” hiện nay, trong nền
nông nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Trong một thế
giới toàn cầu hóa, nơi mà thế giới biến động và thay đổi liên tục trong
từng phút từng giây, thì rõ ràng bất cứ một sự chậm chân nào cũng đồng
nghĩa với những hậu quả khôn lường.
Hạn hán và xâm mặn kỷ lục lần này mới
chỉ kéo tăng trưởng GDP của Việt Nam trong quý I xuống còn 5,46%, nhưng
nếu những hậu quả và tác động diễn ra trong các lĩnh vực khác cũng như
toàn bộ nền kinh tế thì đó sẽ là một con số thiệt hại khổng lồ. Một tầm
nhìn xa không chỉ có ý nghĩa là nhìn ra được các cơ hội trong tương lai,
mà còn mang ý nghĩa giảm thiểu tác động từ các tác nhân gây ảnh hưởng
tiêu cực đến nền kinh tế.
Nhàn Đàm (bài viết có sử dụng một số thông tin từ The Saigon Times, CafeF)
http://motthegioi.vn/tieu-diem/viet-nam-da-lam-gi-trong-luc-thai-lan-lo-chong-han-tu-vai-nam-truoc-302189.html
http://motthegioi.vn/tieu-diem/viet-nam-da-lam-gi-trong-luc-thai-lan-lo-chong-han-tu-vai-nam-truoc-302189.html
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Sinh thái học dưới góc nhìn của Tam giáo" - Gs Thái Công Tụng / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Chuyện Ukraine : Mặt trận không tiếng súng Cyberwar (Chiến tranh mạng) – Trần Lý ( TVQ chuyển )
- Tàu thăm dò Perseverance hạ cánh sao Hỏa sau '7 phút kinh hoàng'
- Các nhà nghiên cứu tìm ra công nghệ mới cho phép sạc điện thoại thông qua sóng Wi-Fi
- Các nhà nghiên cứu tìm ra công nghệ mới cho phép sạc điện thoại thông qua sóng Wi-Fi
Việt Nam đã làm gì trong lúc Thái Lan lo chống hạn từ vài năm trước?
Tốc độ tăng trưởng GDP trong quý đầu tiên chỉ đạt 5,46%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng 6,12% cùng kỳ năm 2015. Đành rằng yếu tố tác động chủ đạo đến sự sụt giảm đó phần lớn đến từ các yếu tố thiên tai v
Tốc độ tăng trưởng GDP trong quý đầu tiên chỉ đạt 5,46%, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng 6,12% cùng kỳ năm 2015. Đành rằng yếu tố tác động chủ đạo đến sự sụt giảm đó phần lớn đến từ các yếu tố thiên tai và biến đổi khí hậu, mà tình trạng hạn hán và xâm mặn kỷ lục ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay là điển hình. Tuy nhiên, trên thực tế hậu quả đó có thể được giảm thiểu đáng kể nếu như chúng ta có sự chuẩn bị từ trước và không bị rơi vào tình thế “nước đến chân mới nhảy” như hiện tại.
Nếu như không có sự thay đổi về tư duy
và tầm nhìn, và vẫn để tình trạng “nước đến chân mới nhảy” này diễn ra,
thì hậu quả nghiêm trọng sẽ không chỉ dừng lại ở ngành nông nghiệp tại
đồng bằng sông Cửu Long, mà sẽ còn diễn ra trong toàn bộ nền kinh tế và
trên phạm vi toàn quốc.
Nếu đặt vấn đề trách nhiệm trong vụ
việc hạn hán và xâm mặn kỷ lục được xem là lớn nhất trong vòng 100 năm
qua tại đồng bằng sông Cửu Long, thì ngoài yếu tố biến đổi khí hậu do El
Nino gây ra khiến lượng mưa giảm khoảng 40%, ngoài yếu tố các con đập
khổng lồ trên thượng nguồn của Trung Quốc khiến lượng nước ở hạ nguồn
không đủ, thì còn có trách nhiệm của chính Việt Nam khi đã không có sự
chuẩn bị kỹ lưỡng dù đã có cảnh báo từ trước đó rất lâu. Các yếu tố này
đều đã được các chuyên gia trong và ngoài nước đưa ra từ lâu. Nhưng tất
cả đã không được lắng nghe và Việt Nam đã gần như không có sự chuẩn bị
nào cho kịch bản tồi tệ nhất nếu nó xảy ra, và nó đã xảy ra. Phải đến
khi nước mặn xâm nhập 8/13 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long thì chúng ta
mới vội vã tìm cách ứng phó.
Một trong những điều đáng chú ý nhất
của câu chuyện hạn hán tại các quốc gia ở hạ nguồn sông Mekong trong đó
có Việt Nam là sự khác biệt về nhận thức và cách thức chuẩn bị để ứng
phó với nguy cơ này. Có những quốc gia đã có sự chuẩn bị từ rất sớm và
ít phải chịu những tác động nghiêm trọng từ tình trạng hiện tại và Thái
Lan là điển hình. Và cũng có những quốc gia gần như không có bất cứ một
sự chuẩn bị nào và đang hứng gần hết những hậu quả nghiêm trọng nhất, mà
Việt Nam là ví dụ.
Ngay từ khi Trung Quốc bắt đầu xây
dựng các con đập lớn trên sông Lan Thương (tên Trung Quốc của sông
Mekong) để phát triển thủy điện, đồng thời để dẫn nước vào sử dụng trong
công nghiệp và đưa vào hồ chứa cho tiêu dùng ở tỉnh Vân Nam, thì Thái
Lan đã ngay lập tức có biện pháp ứng phó. Trong nhiều năm, Thái Lan đã
bắt đầu xây dựng hệ thống thủy lợi bao gồm hồ chứa và hệ thống dẫn nước
khá quy mô và đồ sộ sử dụng nước từ các phụ lưu của sông Mekong. Giờ đây
khi tình trạng hạn hán trên diện rộng diễn ra, cũng là lúc người Thái
bắt đầu vận hành hệ thống quy mô của mình để dẫn nước tới các khu vực
đang chịu tình trạng hạn hán và thiếu nước, như Nọng Khai và các tỉnh
vùng Đông Bắc của nước này. Dù không giải quyết được toàn bộ tình trạng
hạn hán ở nước này thì nó cũng làm giảm thiểu phần lớn tác động do hạn
hán gây ra.
Còn Việt Nam thì gần như ngược lại.
Chúng ta đã gần như không làm bất cứ điều gì để ứng phó với nguy cơ hạn
hán được đánh giá là nghiêm trọng nhất trong vòng 100 năm trở lại đây.
Các hồ chứa và các công trình ngăn mặn ở đồng bằng sông Cửu Long đã
không được xây dựng, khiến cho tốc độ xâm mặn lớn đến mức 8/13 tỉnh
thành bị nước mặn xâm nhập, tàn phá nông nghiệp và đẩy người dân ở các
tỉnh này vào tình trạng thiếu nước ngọt sinh hoạt. Đến lúc này chúng ta
mới bắt đầu vội vã ứng phó và đương nhiên, chúng ta phải đón nhận cho
thảm họa này – thảm họa không chỉ tàn phá nông nghiệp tại đồng bằng sông
Cửu Long, mà còn đang là tác nhân kéo lùi tăng trưởng GDP của cả nền
kinh tế một cách nghiêm trọng nhất.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thảm họa
này, không gì khác ngoài tình trạng “nước đến chân mới nhảy” quen thuộc
trong cách xử lý các vấn đề của nền kinh tế khá thường thấy trong những
năm qua. Nhìn rộng ra một chút, thì tình trạng này tràn lan trong hầu
khắp các lĩnh vực nền kinh tế, mà gần đây chúng ta có thể thấy thông qua
một số vụ việc như áp thuế nhập khẩu cho thép nhập khẩu từ Trung Quốc
hay thậm chí là nợ công quốc gia.
Theo kế hoạch đến hết năm 2016 thì nợ
công sẽ kịch trần ở mức trên 64% GDP và sẽ giảm dần kể từ năm 2017,
nhưng trong bối cảnh tốc độ tăng nợ công phi mã từ 3-4%/năm như những
năm qua mà muốn không những không tăng mà còn giảm đi chỉ trong vòng 1
năm ngắn ngủi thì quả thực là điều khó có thể xảy ra.
Điều tương tự cũng đang diễn ra trong
hầu khắp nền kinh tế, và đang bị cảnh báo có thể dẫn đến những hậu quả
nghiêm trọng. Trong bối cảnh hàng loạt hiệp định thương mại lớn và quan
trọng mà Việt Nam ký kết sắp đi vào hoạt động, thì tình trạng “nước đến
chân mới nhảy” này có thể dẫn tới những hậu quả khó lường. Đã có không
ít cảnh báo về việc nếu Việt Nam không có sự chuẩn bị, thì sẽ phải hứng
chịu các tác động tiêu cực từ các hiệp định này, như các doanh nghiệp
trong nước bị thâu tóm và sáp nhập, thị trường nội địa lọt vào tay doanh
nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài. Đó đều là những hậu quả rất lớn, và để
tránh khỏi những nguy cơ đó cần phải có sự chuẩn bị lâu dài, trong khi
thời gian chuẩn bị cho các hiệp định thương mại cho Việt Nam chỉ diễn ra
từ 1-2 năm mà thôi. Và thực tế Việt Nam đã chuẩn bị những gì về pháp
lý, hành chính, về sức cạnh tranh của doanh nghiệp... trong thời gian
vừa qua? Gần như là rất ít.
Câu chuyện về thiên tai, hạn hán và
xâm mặn tại đồng bằng sông Cửu Long hiện tại đang là một lời cảnh báo
đắt giá hơn bao giờ hết về những gì Việt Nam sẽ phải hứng chịu nếu cứ
tiếp tục duy trì tình trạng “nước đến chân mới nhảy” hiện nay, trong nền
nông nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Trong một thế
giới toàn cầu hóa, nơi mà thế giới biến động và thay đổi liên tục trong
từng phút từng giây, thì rõ ràng bất cứ một sự chậm chân nào cũng đồng
nghĩa với những hậu quả khôn lường.
Hạn hán và xâm mặn kỷ lục lần này mới
chỉ kéo tăng trưởng GDP của Việt Nam trong quý I xuống còn 5,46%, nhưng
nếu những hậu quả và tác động diễn ra trong các lĩnh vực khác cũng như
toàn bộ nền kinh tế thì đó sẽ là một con số thiệt hại khổng lồ. Một tầm
nhìn xa không chỉ có ý nghĩa là nhìn ra được các cơ hội trong tương lai,
mà còn mang ý nghĩa giảm thiểu tác động từ các tác nhân gây ảnh hưởng
tiêu cực đến nền kinh tế.
Nhàn Đàm (bài viết có sử dụng một số thông tin từ The Saigon Times, CafeF)
http://motthegioi.vn/tieu-diem/viet-nam-da-lam-gi-trong-luc-thai-lan-lo-chong-han-tu-vai-nam-truoc-302189.html
http://motthegioi.vn/tieu-diem/viet-nam-da-lam-gi-trong-luc-thai-lan-lo-chong-han-tu-vai-nam-truoc-302189.html