Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
21 Năm Của Tướng Phú, Từ Tiểu Đoàn 5 Dù Đến Qđ 2
LTS: Tiếp theo loạt bài về cố Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, thể theo yêu cầu của một số đông bạn đọc muốn có thêm những thông tin về đời binh nghiệp của bốn vị tư lệnh khác đã tự sát để bảo vệ danh dự của Quân lực VNCH: Phạm Văn Phú, Lê Văn Hưng, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, VB sẽ lần lượt đăng các bài viết tổng hợp về đời binh nghiệp các vị dũng tướng nói trên. Kỳ này, VB trân trọng giới thiệu đến bạn đọc bài tổng hợp về 21 năm trận mạc của cố Thiếu tướng Phạm Văn Phú, vị Tư lệnh cuối của Quân đoàn 2/Quân khu 2.
* Đại đội trưởng Phạm Văn Phú và Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù trên chiến trường Điện Biên Phủ
Thiếu
tướng Phạm Văn Phú, vị tư lệnh cuối cùng của Quân đoàn 2/Quân khu 2,
sinh năm 1929 tại Hà Đông, Bắc Việt. Sau khi tốt nghiệp học khóa 8
trường Võ bị Liên quân Đà Lạt vào giữa năm 1953, ông đã tình nguyện phục
vụ trong binh chủng Nhảy Dù. Ngày 14 tháng 3/1954, trong tình hình
chiến trường Điện Biên Phủ vô cùng sôi động, Trung úy Phạm Văn Phú đã
chỉ huy một đại đội của Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, nhảy xuống một vị trí sát
phi đạo chính. Sau hơn một hơn tháng liên tục giao tranh với Việt Minh
(tên gọi của Cộng quân lúc bấy giờ), ngày 16 tháng 4/1954, Trung úy Phạm
Văn Phú đã chỉ huy một thành phần của Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù cùng với các
đơn vị bạn phản công tái chiếm một cứ điểm trọng yếu. Sau trận phản công
này, đại đội trưởng Phạm Văn Phú được thăng cấp đại úy tại mặt trận khi
vừa đúng 25 tuổi, và đến ngày 26/4/1954, được cử giữ chức tiểu đoàn phó
Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù. Ngày 7/5/1954, Điện Biên Phủ thất thủ, ông bị địch
quân bắt giam.
* Từ Lực lượng Đặc biệt đến Sư đoàn 1 Bộ binh
Sau
20/7/1954 (Hiệp định Genève), đại đội trưởng Nhảy Dù Phạm Văn Phú được
trao trả và tiếp tục phục vụ trong Quân đội VNCH. Năm 1960, ông được
tuyển chọn để phục vụ trong binh chủng Lực lượng Đặc biệt. Cuối năm
1962, ông được thăng cấp thiếu tá và giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên
đoàn Quan sát 77 Lực lượng Đặc biệt. Giữa tháng 5/1964, ông đã chỉ huy
liên đoàn này đánh tan trung đoàn 765 CSBV tại Suối Đá, Tây Ninh. Gần
cuối năm 1964, ông được thăng trung tá và giữ chức Tham mưu trưởng Lực
Lượng Đặc biệt, 1 năm sau, ông được thăng đại tá nhiệm chức.
Đầu năm 1966, không hiểu vì lý do gì, Đại tá Phạm Văn Phú bị vị tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt trình bộ Quốc phòng thâu hồi cấp đại tá nhiệm chức và thuyên chuyển ra Vùng 1 chiến thuật. Giữa năm 1966, ông là Đại tá Tư lệnh phó, Xử lý thường vụ Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh. (Tư lệnh Sư đoàn 2BB là Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm, được cử giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 1/Vùng 1 chiến thuật vào cuối tháng 5/1966). Cuối năm 1966, ông được điều động ra Sư đoàn 1 Bộ binh làm Tư lệnh phó Sư đoàn. Giữa năm 1968, được cử giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu 44 (bao gồm các tỉnh biên giới ở miền Tây Nam phần). Năm 1969, ông được thăng cấp chuẩn tướng tại mặt trận. Đầu năm 1970, Chuẩn tướng Phạm Văn Phú được cử giữ chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt.
Gần cuối tháng 8/1970, Chuẩn tướng Phú được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng được cử giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 4. Tháng 3/1971, ông được thăng Thiếu tướng tại mặt trận trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào (ngoài Tướng Phú, có hai đại tá được thăng cấp chuẩn tướng: Đại tá Vũ Văn Giai, Tư lệnh phó Sư đoàn 1 Bộ binh, Đại tá Hồ Trung Hậu, Tư lệnh phó Sư đoàn Nhảy Dù). Trong cuộc chiến mùa Hè 1972, ông đã điều động, phối trí các trung đoàn của Sư đoàn 1 Bộ binh giữ vững phòng tuyến Tây Nam Huế. Do điều kiện sức khỏe, đến tháng 9/1972, ông bàn giao Sư đoàn 1BB cho Đại tá Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh phó, xử lý thường vụ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 1 BB. Từ 1973 đến tháng 10/1974, Thiếu tướng Phạm Văn Phú giữ chức Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Tháng 11/1974, theo đề nghị của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Tổng thống Thiệu đã ký sắc lệnh cử Thiếu tướng Phạm Văn Phú giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Toàn.
* Thiếu tướng Phạm Văn Phú và Quân đoàn 2
Nhận
chức vụ tư lệnh Quân đoàn 2 không phải do chính Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu lựa chọn, hoặc do Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng, đề
nghị, nên Thiếu tướng Phạm Văn Phú đã gặp nhiều khó khăn trong việc sắp
xếp nhân sự cao cấp phụ tá ông để điều hành bộ Tư lệnh. Trước khi cuộc
chiến Cao nguyên bùng nổ, Thiếu tướng Phú được Đại tá Trịnh Tiếu, trưởng
phòng 2 QĐ 2, trình bày về các khả năng Cộng quân sẽ mở cao điểm tại
Ban Mê Thuột, thế nhưng không hiểu vì sao Thiếu tướng Phú lại không tin
và nhận định rằng Pleiku mới là chiến trường trọng điểm, còn Ban Mê
Thuột là mặt trận phụ mà Cộng quân muốn tạo thế trận nghi binh.
Như VB đã trình bày trong loạt bài “Chiến trường Việt Nam”, trận chiến Ban Mê Thuột đã bùng nổ vào rạng sáng ngày 10/3/1975. Bốn ngày sau, vào trưa ngày 14/3/1975, trong buổi họp đặc biệt tại Cam Ranh, Tổng thống Thiệu đã ra lệnh cho Thiếu tướng Phú triệt thoái toàn bộ Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
* Ngày cuối cùng của Thiếu tướng Phú tại Quân khu 2
Sau
khi Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi Nha Trang, 1 giờ 45 trưa ngày 2 tháng
4/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú và vài sĩ quan thân tín đã bay đến ngọn
đồi “Lầu Ông Hoàng” ở Bình Thuận để chờ Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư
lệnh phó Quân đoàn 3, tới nhận bàn giao phần lãnh thổ cuối cùng của
Quân khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân khu 3. Vào giờ phút đó, quanh
Thiếu tướng Phú chỉ có: Đại tá Đức, nguyên phụ tá Tư lệnh Quân đoàn 2
đặc trách lực lượng diện địa; Thiếu tá Vinh, Chánh văn phòng; Thiếu tá
Hóa, sĩ quan tùy viên, và Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí. Chính tại
đây, Thiếu tướng Phú đã có quyết định tự sát, nhưng Đại tá Đức đã kịp
thời cản ông.
Theo lời kể của Thiếu tá Phạm Huấn, vào 2 giờ 12 phút cùng ngày, Thiếu tá Hóa tới trình Tướng Phú là trực thăng Tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi đó, Thiếu tá Huấn đứng gần tướng Phú, thấy đôi mắt Tướng Phú như muốn tóe lửa. Và sau khi Thiếu tá Hóa quay gót, Tướng Phú vất điếu thuốc lá đang cầm trên tay xuống đất. Rất nhanh, ông rút khẩu súng ngắn nòng ra khỏi vỏ. Nhưng tiếng hét thất thanh của Đại tá Đức: “Thiếu tướng”. Khẩu súng trên tay Tướng Phú bị gạt bắn xuống đất. Việc này xảy ra quá bất ngờ...
* Lời trối trăn của Thiếu tướng Phú ở Tổng Y viện Cộng Hòa
Giữa
tháng 4/1975, Tướng Phú lâm bệnh nên được đưa vào điều trị tại Tổng y
viện Cộng Hòa. Ngày 15 tháng 4/1975, Đại tá Phạm Văn Chung, cựu Lữ đoàn
trưởng 369 TQLC, nguyên Tỉnh trưởng/tiểu khu trưởng Quảng Nam, đã vào
thăm Trung tướng Ngô Quang Trưởng và Thiếu tướng Phú đang nằm dưỡng
bệnh. Chính trong lần thăm này, Đại tá Chung đã nghe Tướng Phú trăn
trối, và đã kể lại như sau: “Rời phòng Trung tướng Trưởng, tôi (Đại tá
Chung) qua phòng kế bên cạnh là phòng của Thiếu tướng Phú, cũng đang nằm
dưỡng bệnh kế đó. Bước vào phòng tôi thấy Thiếu tướng Phú đứng dậy ngay
và bắt tay tôi bằng một giọng hằn học, tức tối: “Anh Chung, anh từng
hành quân với tôi đã lâu, nói đến đây Thiếu tướng Phú ôm tôi và khóc
tiếp với giọng nghẹn ngào, tức tối: “Mà đêm qua, Tổng thống Thiệu lên
đài nói chuyện và đổ tội cho các tướng lãnh là hèn nhát bỏ chạy. Anh cứ
về hỏi Trung tướng Trưởng xem, trong buổi họp hôm trước, có cả Trung
tướng của anh nữa đấy, tôi đã xin Tổng thống cho tôi giữ Pleiku bằng mọi
giá, Tổng thống không chịu, bắt tôi phải rút... có cả Đại tướng Viên và
Đại tướng Khiêm nghe nữa mà bây giờ Tổng thống nói chuyện với toàn dân
đổ tội cho chúng tôi, thật cái nhục này tôi không biết tỏ cùng ai, không
biết đồng bào có hiểu không, chỉ có cách chết mới hết nhục”. Tôi không
khỏi ngậm ngùi thương xót chia xẻ nỗi oan ức của một vị đàn anh đáng
kính như Thiếu tướng Phú, nên tôi hết lời an ủi và khuyên Thiếu tướng
hãy bình tỉnh và nên tĩnh dưỡng.” Đó là lần cuối cùng Đại tá Chung gặp
tướng Phú.
Sáng ngày 29/4/1975, tại nhà riêng ở đường Gia Long, chờ khi vợ và các con rời nhà để đi về phía Trường Đua Phú Thọ tìm cách di tản, Thiếu tướng Phú đã uống một liều thuốc cực mạnh tự tử. Em trai của phu nhân Tướng Phú sau khi biết tin này đã chạy tới vào cho bà Phú biết. Cả gia đình quay về. Nhờ các bác sĩ Pháp gần nhà giúp đỡ, Tướng Phú được đưa vào bệnh viện Grall để cấp cứu. Nhưng tướng Phú mê man liên miên, mãi đến trưa ngày 30/4/1975, ông mới tỉnh được giây lát và thều thào hỏi bà Phú đang ngồi cạnh: Tình hình đến đâu rồi" Bà Phú nói: “Tướng Dương Văn Minh ra lệnh Quân đội bỏ súng đầu hàng, và Cộng sản đã vào tới Sài Gòn!” Nghe xong tướng Phú nhắm mắt lại và “ra đi”.
vietbao.comSinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
21 Năm Của Tướng Phú, Từ Tiểu Đoàn 5 Dù Đến Qđ 2
* Đại đội trưởng Phạm Văn Phú và Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù trên chiến trường Điện Biên Phủ
Thiếu
tướng Phạm Văn Phú, vị tư lệnh cuối cùng của Quân đoàn 2/Quân khu 2,
sinh năm 1929 tại Hà Đông, Bắc Việt. Sau khi tốt nghiệp học khóa 8
trường Võ bị Liên quân Đà Lạt vào giữa năm 1953, ông đã tình nguyện phục
vụ trong binh chủng Nhảy Dù. Ngày 14 tháng 3/1954, trong tình hình
chiến trường Điện Biên Phủ vô cùng sôi động, Trung úy Phạm Văn Phú đã
chỉ huy một đại đội của Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù, nhảy xuống một vị trí sát
phi đạo chính. Sau hơn một hơn tháng liên tục giao tranh với Việt Minh
(tên gọi của Cộng quân lúc bấy giờ), ngày 16 tháng 4/1954, Trung úy Phạm
Văn Phú đã chỉ huy một thành phần của Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù cùng với các
đơn vị bạn phản công tái chiếm một cứ điểm trọng yếu. Sau trận phản công
này, đại đội trưởng Phạm Văn Phú được thăng cấp đại úy tại mặt trận khi
vừa đúng 25 tuổi, và đến ngày 26/4/1954, được cử giữ chức tiểu đoàn phó
Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù. Ngày 7/5/1954, Điện Biên Phủ thất thủ, ông bị địch
quân bắt giam.
* Từ Lực lượng Đặc biệt đến Sư đoàn 1 Bộ binh
Sau
20/7/1954 (Hiệp định Genève), đại đội trưởng Nhảy Dù Phạm Văn Phú được
trao trả và tiếp tục phục vụ trong Quân đội VNCH. Năm 1960, ông được
tuyển chọn để phục vụ trong binh chủng Lực lượng Đặc biệt. Cuối năm
1962, ông được thăng cấp thiếu tá và giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên
đoàn Quan sát 77 Lực lượng Đặc biệt. Giữa tháng 5/1964, ông đã chỉ huy
liên đoàn này đánh tan trung đoàn 765 CSBV tại Suối Đá, Tây Ninh. Gần
cuối năm 1964, ông được thăng trung tá và giữ chức Tham mưu trưởng Lực
Lượng Đặc biệt, 1 năm sau, ông được thăng đại tá nhiệm chức.
Đầu năm 1966, không hiểu vì lý do gì, Đại tá Phạm Văn Phú bị vị tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt trình bộ Quốc phòng thâu hồi cấp đại tá nhiệm chức và thuyên chuyển ra Vùng 1 chiến thuật. Giữa năm 1966, ông là Đại tá Tư lệnh phó, Xử lý thường vụ Tư lệnh Sư đoàn 2 Bộ binh. (Tư lệnh Sư đoàn 2BB là Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm, được cử giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 1/Vùng 1 chiến thuật vào cuối tháng 5/1966). Cuối năm 1966, ông được điều động ra Sư đoàn 1 Bộ binh làm Tư lệnh phó Sư đoàn. Giữa năm 1968, được cử giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu 44 (bao gồm các tỉnh biên giới ở miền Tây Nam phần). Năm 1969, ông được thăng cấp chuẩn tướng tại mặt trận. Đầu năm 1970, Chuẩn tướng Phạm Văn Phú được cử giữ chức vụ Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt.
Gần cuối tháng 8/1970, Chuẩn tướng Phú được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh thay thế Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng được cử giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 4. Tháng 3/1971, ông được thăng Thiếu tướng tại mặt trận trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào (ngoài Tướng Phú, có hai đại tá được thăng cấp chuẩn tướng: Đại tá Vũ Văn Giai, Tư lệnh phó Sư đoàn 1 Bộ binh, Đại tá Hồ Trung Hậu, Tư lệnh phó Sư đoàn Nhảy Dù). Trong cuộc chiến mùa Hè 1972, ông đã điều động, phối trí các trung đoàn của Sư đoàn 1 Bộ binh giữ vững phòng tuyến Tây Nam Huế. Do điều kiện sức khỏe, đến tháng 9/1972, ông bàn giao Sư đoàn 1BB cho Đại tá Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh phó, xử lý thường vụ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 1 BB. Từ 1973 đến tháng 10/1974, Thiếu tướng Phạm Văn Phú giữ chức Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Tháng 11/1974, theo đề nghị của Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương, Tổng thống Thiệu đã ký sắc lệnh cử Thiếu tướng Phạm Văn Phú giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 thay thế Trung tướng Nguyễn Văn Toàn.
* Thiếu tướng Phạm Văn Phú và Quân đoàn 2
Nhận
chức vụ tư lệnh Quân đoàn 2 không phải do chính Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu lựa chọn, hoặc do Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng, đề
nghị, nên Thiếu tướng Phạm Văn Phú đã gặp nhiều khó khăn trong việc sắp
xếp nhân sự cao cấp phụ tá ông để điều hành bộ Tư lệnh. Trước khi cuộc
chiến Cao nguyên bùng nổ, Thiếu tướng Phú được Đại tá Trịnh Tiếu, trưởng
phòng 2 QĐ 2, trình bày về các khả năng Cộng quân sẽ mở cao điểm tại
Ban Mê Thuột, thế nhưng không hiểu vì sao Thiếu tướng Phú lại không tin
và nhận định rằng Pleiku mới là chiến trường trọng điểm, còn Ban Mê
Thuột là mặt trận phụ mà Cộng quân muốn tạo thế trận nghi binh.
Như VB đã trình bày trong loạt bài “Chiến trường Việt Nam”, trận chiến Ban Mê Thuột đã bùng nổ vào rạng sáng ngày 10/3/1975. Bốn ngày sau, vào trưa ngày 14/3/1975, trong buổi họp đặc biệt tại Cam Ranh, Tổng thống Thiệu đã ra lệnh cho Thiếu tướng Phú triệt thoái toàn bộ Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên.
* Ngày cuối cùng của Thiếu tướng Phú tại Quân khu 2
Sau
khi Quân đoàn 2 triệt thoái khỏi Nha Trang, 1 giờ 45 trưa ngày 2 tháng
4/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú và vài sĩ quan thân tín đã bay đến ngọn
đồi “Lầu Ông Hoàng” ở Bình Thuận để chờ Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư
lệnh phó Quân đoàn 3, tới nhận bàn giao phần lãnh thổ cuối cùng của
Quân khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân khu 3. Vào giờ phút đó, quanh
Thiếu tướng Phú chỉ có: Đại tá Đức, nguyên phụ tá Tư lệnh Quân đoàn 2
đặc trách lực lượng diện địa; Thiếu tá Vinh, Chánh văn phòng; Thiếu tá
Hóa, sĩ quan tùy viên, và Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí. Chính tại
đây, Thiếu tướng Phú đã có quyết định tự sát, nhưng Đại tá Đức đã kịp
thời cản ông.
Theo lời kể của Thiếu tá Phạm Huấn, vào 2 giờ 12 phút cùng ngày, Thiếu tá Hóa tới trình Tướng Phú là trực thăng Tướng Hiếu sắp đáp xuống. Khi đó, Thiếu tá Huấn đứng gần tướng Phú, thấy đôi mắt Tướng Phú như muốn tóe lửa. Và sau khi Thiếu tá Hóa quay gót, Tướng Phú vất điếu thuốc lá đang cầm trên tay xuống đất. Rất nhanh, ông rút khẩu súng ngắn nòng ra khỏi vỏ. Nhưng tiếng hét thất thanh của Đại tá Đức: “Thiếu tướng”. Khẩu súng trên tay Tướng Phú bị gạt bắn xuống đất. Việc này xảy ra quá bất ngờ...
* Lời trối trăn của Thiếu tướng Phú ở Tổng Y viện Cộng Hòa
Giữa
tháng 4/1975, Tướng Phú lâm bệnh nên được đưa vào điều trị tại Tổng y
viện Cộng Hòa. Ngày 15 tháng 4/1975, Đại tá Phạm Văn Chung, cựu Lữ đoàn
trưởng 369 TQLC, nguyên Tỉnh trưởng/tiểu khu trưởng Quảng Nam, đã vào
thăm Trung tướng Ngô Quang Trưởng và Thiếu tướng Phú đang nằm dưỡng
bệnh. Chính trong lần thăm này, Đại tá Chung đã nghe Tướng Phú trăn
trối, và đã kể lại như sau: “Rời phòng Trung tướng Trưởng, tôi (Đại tá
Chung) qua phòng kế bên cạnh là phòng của Thiếu tướng Phú, cũng đang nằm
dưỡng bệnh kế đó. Bước vào phòng tôi thấy Thiếu tướng Phú đứng dậy ngay
và bắt tay tôi bằng một giọng hằn học, tức tối: “Anh Chung, anh từng
hành quân với tôi đã lâu, nói đến đây Thiếu tướng Phú ôm tôi và khóc
tiếp với giọng nghẹn ngào, tức tối: “Mà đêm qua, Tổng thống Thiệu lên
đài nói chuyện và đổ tội cho các tướng lãnh là hèn nhát bỏ chạy. Anh cứ
về hỏi Trung tướng Trưởng xem, trong buổi họp hôm trước, có cả Trung
tướng của anh nữa đấy, tôi đã xin Tổng thống cho tôi giữ Pleiku bằng mọi
giá, Tổng thống không chịu, bắt tôi phải rút... có cả Đại tướng Viên và
Đại tướng Khiêm nghe nữa mà bây giờ Tổng thống nói chuyện với toàn dân
đổ tội cho chúng tôi, thật cái nhục này tôi không biết tỏ cùng ai, không
biết đồng bào có hiểu không, chỉ có cách chết mới hết nhục”. Tôi không
khỏi ngậm ngùi thương xót chia xẻ nỗi oan ức của một vị đàn anh đáng
kính như Thiếu tướng Phú, nên tôi hết lời an ủi và khuyên Thiếu tướng
hãy bình tỉnh và nên tĩnh dưỡng.” Đó là lần cuối cùng Đại tá Chung gặp
tướng Phú.
Sáng ngày 29/4/1975, tại nhà riêng ở đường Gia Long, chờ khi vợ và các con rời nhà để đi về phía Trường Đua Phú Thọ tìm cách di tản, Thiếu tướng Phú đã uống một liều thuốc cực mạnh tự tử. Em trai của phu nhân Tướng Phú sau khi biết tin này đã chạy tới vào cho bà Phú biết. Cả gia đình quay về. Nhờ các bác sĩ Pháp gần nhà giúp đỡ, Tướng Phú được đưa vào bệnh viện Grall để cấp cứu. Nhưng tướng Phú mê man liên miên, mãi đến trưa ngày 30/4/1975, ông mới tỉnh được giây lát và thều thào hỏi bà Phú đang ngồi cạnh: Tình hình đến đâu rồi" Bà Phú nói: “Tướng Dương Văn Minh ra lệnh Quân đội bỏ súng đầu hàng, và Cộng sản đã vào tới Sài Gòn!” Nghe xong tướng Phú nhắm mắt lại và “ra đi”.
vietbao.comSinh Tồn chuyển