Đoạn Đường Chiến Binh
30 NGÀY TỬ CHIẾN TẠI BU PRANG *
Vương Hồng Anh
Trại Lực Lượng Đặc Biệt Bu Prang (tài liệu: 5th Special Force Group)
Bu
Prang, trận tấn công lớn nhất của Cộng quân tại chiến trường cao nguyên
vào ba tháng cuối năm 1969: Cuối tháng 10 năm 1969, Cộng Sản Bắc Việt
(CSBV) đã công khai việc đóng quân trên phần đất Cam Bốt khi tung lực
lượng từ bên kia biên giới tấn công vào nhiều tiền cứ biên phòng của
liên quân Việt-Mỹ ở phía Tây Quảng Đức, cụm tiền cứ bị Cộng quân tấn
công dữ dội nhất là Bu Prang, nằm chừng 65 cây số về phía Tây Nam thị xã
Ban Mê Thuột và khoảng 8 km cách biên giới Việt-Miên.Đây là trận tấn
công quy mô nhất của Cộng quân trên chiến trường cao nguyên vào ba tháng
cuối của năm 1969, mức độ khốc liệt của trận chiến đã thu hút dư luận
quốc tế về sự leo thang chiến tranh của Cộng Sản Bắc Việt. Dựa theo các
bản tin chiến sự do Khối Thông Tin Giao Tế Dân Sự thuộc Tổng Cục Chiến
Tranh Chính Trị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) phổ biến trong các
cuộc họp báo hàng ngày, diễn tiến về trận chiến ở Bu-Prang được ghi nhận
như sau.
Trước khi tung nhiều trung đoàn bao vây căn cứ Bu
Prang, ngày 1 tháng 11/1969, Cộng quân đã pháo kích liên tục với hàng
ngàn đạn pháo đủ loại vào các tiền cứ Annie, Susan và Kent trong vùng Bu
Prang. Đây là những tiền cứ hỏa lực do lực lượng Biệt Kích và Pháo Binh
Hoa Kỳ phòng ngự. Ngày 2 tháng 11/1969, để bảo toàn lực lượng, quân trú
phòng tại các tiền cứ nói trên triệt thoái để tăng cường lực lượng cho
các khu vực khác tại Quảng Đức.
Ngay sau khi lực lượng trú phòng
rút khỏi ba căn cứ nói trên, sáng ngày 3 tháng 11/1969, Cộng quân tung
ba trung đoàn bộ binh và một trung đoàn pháo binh bao vây và tấn công
căn cứ Bu Prang. Lực lượng trú phòng lúc bấy giờ có 500 Biệt Kích Quân
Biên Phòng (Dân Sự Chiến Đấu) và 50 quân nhân Mỹ thuộc Liên Đoàn 5 Lực
Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ trong vai trò cố vấn và trợ lực.
Sau hai
ngày tấn kích, Cộng quân gia tăng áp lực bao vây chặt căn cứ. Phi cơ
tiếp tế và tải thương đã không đáp xuống được vì Cộng quân pháo kích dữ
dội. Hai khẩu pháo 105 ly trong căn cứ đã bị phá hủy.
Từ ngày 7
đến 14 tháng 11/1969, Không quân Việt-Mỹ đã liên tục xuất trận oanh kích
vào đội hình Cộng quân khai triển quanh căn cứ.
Ngày 14 tháng
11, giao tranh dữ dội đã diễn ra khi một đơn vị bộ chiến Việt Nam Cộng
Hòa tạo nỗ lực tấn công để chọc thủng phòng tuyến của Cộng quân ngoài
căn cứ. Trận đánh cận chiến đã diễn ra rất ác liệt, trong đó có một lần
phi cơ đã ném bom lầm khi hai bên đang giao tranh. Đơn vị Việt Nam Cộng
Hòa có 20 quân nhân bị tử thương, 21 bị thương, phía Cộng quân có 95 bỏ
xác tại trận địa.
Ngày 15 tháng 11, phi cơ chiến lược B-52 đã dội
180 tấn bom xuống vị trí đóng quân của các trung đoàn Bắc Việt trong
khu vực Bu Prang. Cũng trong ngày này, phi cơ quan sát phát giác một
đoàn chiến xa Cộng quân từ ở phần đất Cam Bốt vượt qua biên giới tiền về
hướng Bu Prang.
Ngày 16/11, 200 đạn trọng pháo của Cộng quân từ
phần đất Cam Bốt pháo vào căn cứ Bu Prang, ngay sau đó, phi cơ Việt-Mỹ
đã xuất trận oanh kích vào các vị trí đặt pháo của Cộng quân ở trên đất
Cam Bốt cách biên giới một cây số. Một tòa nhà lớn trong khu vực oanh
kích bị sập.
Ngày 17 tháng 11, hai tiểu đoàn bộ chiến Việt Nam
Cộng Hòa hành quân giải tỏa áp lực Cộng quân ở gần Bu Prang và Đức Lập.
Được sự yểm trợ mạnh mẽ của Pháo Binh và Không Quân Việt-Mỹ, lực lượng
Việt Nam Cộng Hòa đã hạ sát 243 Cộng quân, buộc Cộng quân phải rút về
hướng biên giới.
Từ chiều 18 đến sáng ngày 19/11, phi cơ chiến
thuật B-52 dội bom 10 lần với 900 tấn bom xuống các địa điểm đóng quân
quanh Bu Prang, Đức Lập, Bố Đức, tỉnh Quảng Đức.
Ngày 20 tháng
11, Cộng quân tiếp tục tấn kích vào Bu Prang, phi cơ chiến lược B-52 đã
xuất trận oanh tạc dữ dội vào khu vực quanh căn cứ này.
Từ ngày
21 đến ngày 30 tháng 11, Cộng quân vẫn áp lực nặng căn cứ, hệ thống
không vận tiếp tế cho căn cứ gặp khó khăn vì pháo kích. Trong hai ngày
31 tháng 11 và 1 tháng 12, Cộng quân pháo kích dữ dội vào căn cứ trong
nhiều giờ liền, nhưng vẫn không mở được cuộc tấn công bằng bộ binh. Pháo
đài B-52 và phi cơ chiến thuật đã cấp thời can thiệp, oanh kích ngăn
chận địch quân.
Từ đêm 2 tháng 12 đến sáng ngày 3 tháng 12 1969,
để giải tỏa căn cứ Bu Prang đã bị bao vây một tháng, B-52 đã dội bom 7
lần với hơn một ngàn tấn bom xuống khu vực quanh căn cứ. Trong 30 ngày
bị bao vây, lực lượng trú phòng tại căn cứ đã đẩy lùi nhiều cuộc tấn
công bằng bộ binh của Cộng quân, giữ vững tuyến phòng ngự.
Ngày 4
tháng 2 năm 1969, B-52 lại xuất trận "dọn sạch" các vị trí đóng quân
của Cộng quân quanh căn cứ. Áp lực Cộng quân đã giảm mạnh. Trực thăng
tải thương và tiếp tế cho quân trú phòng đã đáp xuống được căn cứ. Cũng
trong ngày 4 tháng 2/1969, Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa đã gửi kháng
thư cho Ủy Hội Quốc Tế phản đối Cam Bốt cho Cộng Sản Bắc Việt đồn trú
trên đất Miên và tấn công vào Quảng Đức từ 30 tháng 10/1969 (thời gian
này, quốc trưởng Cam Bốt là Sihanouk thân Cộng, ông đã bị tướng Lon Nol
lật đổ vào tháng 4/1970 khi đang công du).
ĐẠI TƯỚNG WESTMORELAND VÀ KẾ HOẠCH BIÊN PHÒNG
Khi
chính thức được bổ nhiệm giữ chức tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam
thay thế Đại Tướng Harkins vào tháng 6/1964, Đại Tướng William C.
Westmoreland đã đặc biệt quan tâm đến việc phòng ngự ngăn chận Cộng quân
dọc theo biên giới. Chính ông đã trình với Ngũ Giác Đài tăng cường lực
lượng Hoa Kỳ tại Cao Nguyên để phối hợp với các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa
tổ chức hệ thống phòng thủ dọc biên giới. Đại Tướng Westmoreland đã
nhiều lần đến Quảng Đức để thị sát tình hình và chỉ thị cho Bộ Chỉ Huy
Lực Lượng Hoa Kỳ tại Vùng 2 yểm trợ Quân Đoàn 2 (thời kỳ này, tư lệnh
quân đoàn là Thiếu Tướng Lữ Lan) để tăng cường lực lượng phòng thủ các
tiền cứ và căn cứ hỏa lực tại Quảng Đức.
Tháng 6/1968, trước khi
rời Việt Nam về Hoa Kỳ để đảm nhiệm chức vụ Tham Mưu Trưởng Lục Quân, vị
đại tướng này đã lên tiếng báo động về sự leo thang của Cộng Sản Bắc
Việt và lưu ý các giới chức quân sự Việt-Mỹ là Cộng Sản Bắc Việt sẽ vận
dụng đường mòn Trường Sơn để tiến hành các cuộc xâm nhập quy mô vào Tây
nguyên và miền Đông Nam phần.
Trong bản điều trần ngày 8 tháng
10/1969 và được Hạ Viện Hoa Kỳ công bố ngày 1 tháng 12/1969, tướng
Westmoreland đã nhấn mệnh những điểm như sau: Lực lượng Hoa Kỳ còn phải ở
lại giúp Việt Nam Cộng Hòa nhiều năm nữa, vẫn có thể chiến thắng nếu
muốn; đã có thể chiến thắng nếu tiếp tục oanh tạc cho đến nay.
Trong
cuốn hồi ký được phổ biến vào tháng 3/1989, cựu Đại Tướng Wetmoreland
đã đề cập mối quan tâm lớn của ông về kế hoạch phòng thủ biên giới Việt
Nam Cộng Hòa. Nhân bài viết về trận chiến Bu Prang, chúng tôi xin giới
thiệu đến bạn đọc một số nhận định của vị cựu tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ
tại Việt Nam.
Nhiều người nêu ý kiến nên chận ngang con đường xâm
nhập của miền Bắc vào dọc theo vùng biên giới thì mới tận diệt được gốc
các hang ổ Việt Cộng. Với địa thế Việt Nam, tuy là một nước có diện
tích không lớn nhưng lại có một đường biên giới dài đến gần 1,500 cây số
(khoảng 900 dậm).
Trong Thế Chiến Thứ Nhất (1914-1918), gần 6
triệu quân Đồng Minh trấn giữ phòng tuyến chỉ hơn phân nữa (455 dặm) của
mặt trận Miền Tây; trong Thế Chiến Thứ Hai (1939-1945), phòng tuyến
miền Tây dài 570 dặm mà phải huy động 4 triệu rưỡi quân Đồng Minh trấn
giữ. Trong chiến tranh Triều Tiên (1951-1953), xấp xỉ một triệu quân dọc
theo phòng tuyến chỉ dài 123 dặm tại lằn ranh cắt ngang bán đảo Triều
Tiên. Muốn bảo vệ vùng biên giới Việt Nam một cách hữu hiệu thì cần phải
nhiều triệu quân, chưa kể đến một số lực lượng khác chuyên truy lùng để
tiêu diệt địch. Như vậy thì tổng quân số cần thiết rất lớn.
Trong
lúc đó, vào đầu năm 1969 là thời gian quân đội Việt Nam Cộng Hòa có
quân số đông nhất gồm cả bán quân sự chỉ trên dưới một triệu. Lực lượng
Hoa Kỳ 543,000 và quân Đồng Minh (Đại Hàn, Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan) là
62,400 quân, tổng cộng gần hai triệu.
Để đáp ứng nhu cầu ngăn
chận luồng tiếp tế và xâm nhập miền Bắc, tôi (Đại Tướng Westmoreland)
vẫn dựa vào khả năng điều động quân. Làm như vậy mà vẫn không thấm vào
đâu. Với 45 ngàn quân thuộc Lực Lượng Đặc Biệt đóng dọc theo biên giới
với những căn cứ trong rừng vừa để canh phòng, vừa để tuần thám, vừa để
phát giác các vụ xâm nhập lớn. Trực thăng vận sẽ đưa lực lượng đến tiểu
trừ.
Nhờ các căn cứ biên phòng này mà Lực Lượng Đặc biệt đã phá
được nhiều cuộc xâm nhập đáng kể và được thu thập được nhiều tin tức
quan trọng liên quan đến các cuộc chuyển quân của địch, tương tự như
những chuyến thám sát do cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam cùng thực hiện bên trong
lãnh thổ miền Nam.
Khi các cuộc tuần thám này xác định được vị
trí địch, tôi (Đại Tướng Westmoreland) phản ứng bằng cách hoặc gửi quân
đến để tiêu diệt hoặc cho pháo binh bắn hay phi cơ oanh tạc, kể cả các
cuộc ném bom của phi cơ B-52. Rất tiếc vì Hoa Thịnh Đốn cấm không cho
đụng đến vùng biên giới Lào và Cao Miên nên từ lâu không có cuộc hành
quân sang đó (đến năm 1970, mới có các cuộc hành quân ngoại biên).
Hy
vọng mãi một lực lượng đa quốc gia trải dọc vùng phía Nam khu Quân sự
từ bờ biển lên khu cán chảo tiếp giáp với Lào mà không thực hiện nổi,
nhưng tôi (Đại Tướng Westmoreland) vẫn cố nuôi hy vọng đó.
Tôi
(Đại Tướng Westmoreland) bàn với phó đại sứ Alexis Johnson dùng lực
lượng này trong dự án phát triển vùng. Trước hết sẽ mở rộng khai thông
Quốc Lộ 9 từ Đông Hà xuyên qua khu cán chảo và chạy đến biên giới
Lào-Thái. Lúc đó sẽ có nhiều đơn vị trú đóng để bảo vệ và chận đứng mọi
cuộc xâm nhập từ Bắc vào. Vậy mà cuối năm 1964, các viên chức tại Hoa
Thịnh Đốn có để ý đến lực lượng đa quốc gia nhưng không hề đả động gì
đến đề nghị làm con đường này. Ý kiến của tôi là phải nới rộng sang Lào
để cắt đứt và chận ngang con đường xâm nhập là đường mòn Hồ Chí Minh nên
trong hai năm 1966 và 1967, ban tham mưu của tôi soạn thảo chi tiết cho
một cuộc hành quân như vậy.
Khi ông Henry Cabot Lodge trở lại
Việt Nam vào mùa hè 1965 để thay ông Taylor làm đại sứ, ông rất hăng hái
muốn xúc tiến ngay và hối thúc người kế nhiệm ông --Ellsworth Bunker--
cũng nên thấy kế hoạch này. Tôi biết chắc rằng muốn chận con đường này
thì cần ít nhất một quân đoàn nên đã dự trù rất tỉ mỉ để làm sao điều
động lực lượng từ các vùng an ninh đến để chuẩn bị cho cuộc tấn công
này.
Cuối cùng, vào năm 1968 chúng tôi đã đủ sức mạnh và bên địch
cũng tăng cường một bước mới thì tổng thống Johnson, bị áp lực của
những nhà phê bình chiến tranh bao vây chặt khiến ông không muốn có thêm
hành động mới để khỏi bị cho là mở rộng chiến lược như ông đã hứa với
công chúng rằng ông sẽ không theo có vấn đề leo thang chiến tranh.
Theo
tôi biết ai cũng nhắm đến chủ trương của Hoa Kỳ chỉ giới hạn cuộc chiến
trong phạm vi lãnh thổ miền Nam chứ không một ai chịu nói đến sự thể
rằng miền Bắc mới tiến hành "cuộc chiến đại đơn vị." Nghĩa là không còn
đánh du kích nữa mà chỉ toàn các trận đánh lớn. Địch quân cũng xem
thường chiến lược đóng căn cứ của chúng tôi vì không làm cho họ bị thiệt
hại đáng kể, và rõ ràng sẽ không chịu thương thuyết nếu không bị đáng
cho quỵ xuống.
Các đại đơn vị địch tại miền Nam không phải do sự
tập họp các đơn vị bán quân sự hay du kích mà do miền Bắc đưa vào. Mặc
dù chúng tôi tìm cách chế ngự lực lượng bán vũ trang, du kích tại địa
phương nhưng không thể tiêu diệt lực lượng này được hoàn toàn, nếu nguồn
cung cấp nhân lực từ ngoài Bắc vào Nam không bị chận đứng.
Nếu được như vậy mới có hy vọng chiến dịch bứng tận gốc các hang ổ du kích mới đạt được thành công.
Vương Hồng Anh
Nguồn:hung-viet.org
Bàn ra tán vào (0)
30 NGÀY TỬ CHIẾN TẠI BU PRANG *
Vương Hồng Anh
Trại Lực Lượng Đặc Biệt Bu Prang (tài liệu: 5th Special Force Group)
Bu
Prang, trận tấn công lớn nhất của Cộng quân tại chiến trường cao nguyên
vào ba tháng cuối năm 1969: Cuối tháng 10 năm 1969, Cộng Sản Bắc Việt
(CSBV) đã công khai việc đóng quân trên phần đất Cam Bốt khi tung lực
lượng từ bên kia biên giới tấn công vào nhiều tiền cứ biên phòng của
liên quân Việt-Mỹ ở phía Tây Quảng Đức, cụm tiền cứ bị Cộng quân tấn
công dữ dội nhất là Bu Prang, nằm chừng 65 cây số về phía Tây Nam thị xã
Ban Mê Thuột và khoảng 8 km cách biên giới Việt-Miên.Đây là trận tấn
công quy mô nhất của Cộng quân trên chiến trường cao nguyên vào ba tháng
cuối của năm 1969, mức độ khốc liệt của trận chiến đã thu hút dư luận
quốc tế về sự leo thang chiến tranh của Cộng Sản Bắc Việt. Dựa theo các
bản tin chiến sự do Khối Thông Tin Giao Tế Dân Sự thuộc Tổng Cục Chiến
Tranh Chính Trị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) phổ biến trong các
cuộc họp báo hàng ngày, diễn tiến về trận chiến ở Bu-Prang được ghi nhận
như sau.
Trước khi tung nhiều trung đoàn bao vây căn cứ Bu
Prang, ngày 1 tháng 11/1969, Cộng quân đã pháo kích liên tục với hàng
ngàn đạn pháo đủ loại vào các tiền cứ Annie, Susan và Kent trong vùng Bu
Prang. Đây là những tiền cứ hỏa lực do lực lượng Biệt Kích và Pháo Binh
Hoa Kỳ phòng ngự. Ngày 2 tháng 11/1969, để bảo toàn lực lượng, quân trú
phòng tại các tiền cứ nói trên triệt thoái để tăng cường lực lượng cho
các khu vực khác tại Quảng Đức.
Ngay sau khi lực lượng trú phòng
rút khỏi ba căn cứ nói trên, sáng ngày 3 tháng 11/1969, Cộng quân tung
ba trung đoàn bộ binh và một trung đoàn pháo binh bao vây và tấn công
căn cứ Bu Prang. Lực lượng trú phòng lúc bấy giờ có 500 Biệt Kích Quân
Biên Phòng (Dân Sự Chiến Đấu) và 50 quân nhân Mỹ thuộc Liên Đoàn 5 Lực
Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ trong vai trò cố vấn và trợ lực.
Sau hai
ngày tấn kích, Cộng quân gia tăng áp lực bao vây chặt căn cứ. Phi cơ
tiếp tế và tải thương đã không đáp xuống được vì Cộng quân pháo kích dữ
dội. Hai khẩu pháo 105 ly trong căn cứ đã bị phá hủy.
Từ ngày 7
đến 14 tháng 11/1969, Không quân Việt-Mỹ đã liên tục xuất trận oanh kích
vào đội hình Cộng quân khai triển quanh căn cứ.
Ngày 14 tháng
11, giao tranh dữ dội đã diễn ra khi một đơn vị bộ chiến Việt Nam Cộng
Hòa tạo nỗ lực tấn công để chọc thủng phòng tuyến của Cộng quân ngoài
căn cứ. Trận đánh cận chiến đã diễn ra rất ác liệt, trong đó có một lần
phi cơ đã ném bom lầm khi hai bên đang giao tranh. Đơn vị Việt Nam Cộng
Hòa có 20 quân nhân bị tử thương, 21 bị thương, phía Cộng quân có 95 bỏ
xác tại trận địa.
Ngày 15 tháng 11, phi cơ chiến lược B-52 đã dội
180 tấn bom xuống vị trí đóng quân của các trung đoàn Bắc Việt trong
khu vực Bu Prang. Cũng trong ngày này, phi cơ quan sát phát giác một
đoàn chiến xa Cộng quân từ ở phần đất Cam Bốt vượt qua biên giới tiền về
hướng Bu Prang.
Ngày 16/11, 200 đạn trọng pháo của Cộng quân từ
phần đất Cam Bốt pháo vào căn cứ Bu Prang, ngay sau đó, phi cơ Việt-Mỹ
đã xuất trận oanh kích vào các vị trí đặt pháo của Cộng quân ở trên đất
Cam Bốt cách biên giới một cây số. Một tòa nhà lớn trong khu vực oanh
kích bị sập.
Ngày 17 tháng 11, hai tiểu đoàn bộ chiến Việt Nam
Cộng Hòa hành quân giải tỏa áp lực Cộng quân ở gần Bu Prang và Đức Lập.
Được sự yểm trợ mạnh mẽ của Pháo Binh và Không Quân Việt-Mỹ, lực lượng
Việt Nam Cộng Hòa đã hạ sát 243 Cộng quân, buộc Cộng quân phải rút về
hướng biên giới.
Từ chiều 18 đến sáng ngày 19/11, phi cơ chiến
thuật B-52 dội bom 10 lần với 900 tấn bom xuống các địa điểm đóng quân
quanh Bu Prang, Đức Lập, Bố Đức, tỉnh Quảng Đức.
Ngày 20 tháng
11, Cộng quân tiếp tục tấn kích vào Bu Prang, phi cơ chiến lược B-52 đã
xuất trận oanh tạc dữ dội vào khu vực quanh căn cứ này.
Từ ngày
21 đến ngày 30 tháng 11, Cộng quân vẫn áp lực nặng căn cứ, hệ thống
không vận tiếp tế cho căn cứ gặp khó khăn vì pháo kích. Trong hai ngày
31 tháng 11 và 1 tháng 12, Cộng quân pháo kích dữ dội vào căn cứ trong
nhiều giờ liền, nhưng vẫn không mở được cuộc tấn công bằng bộ binh. Pháo
đài B-52 và phi cơ chiến thuật đã cấp thời can thiệp, oanh kích ngăn
chận địch quân.
Từ đêm 2 tháng 12 đến sáng ngày 3 tháng 12 1969,
để giải tỏa căn cứ Bu Prang đã bị bao vây một tháng, B-52 đã dội bom 7
lần với hơn một ngàn tấn bom xuống khu vực quanh căn cứ. Trong 30 ngày
bị bao vây, lực lượng trú phòng tại căn cứ đã đẩy lùi nhiều cuộc tấn
công bằng bộ binh của Cộng quân, giữ vững tuyến phòng ngự.
Ngày 4
tháng 2 năm 1969, B-52 lại xuất trận "dọn sạch" các vị trí đóng quân
của Cộng quân quanh căn cứ. Áp lực Cộng quân đã giảm mạnh. Trực thăng
tải thương và tiếp tế cho quân trú phòng đã đáp xuống được căn cứ. Cũng
trong ngày 4 tháng 2/1969, Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hòa đã gửi kháng
thư cho Ủy Hội Quốc Tế phản đối Cam Bốt cho Cộng Sản Bắc Việt đồn trú
trên đất Miên và tấn công vào Quảng Đức từ 30 tháng 10/1969 (thời gian
này, quốc trưởng Cam Bốt là Sihanouk thân Cộng, ông đã bị tướng Lon Nol
lật đổ vào tháng 4/1970 khi đang công du).
ĐẠI TƯỚNG WESTMORELAND VÀ KẾ HOẠCH BIÊN PHÒNG
Khi
chính thức được bổ nhiệm giữ chức tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam
thay thế Đại Tướng Harkins vào tháng 6/1964, Đại Tướng William C.
Westmoreland đã đặc biệt quan tâm đến việc phòng ngự ngăn chận Cộng quân
dọc theo biên giới. Chính ông đã trình với Ngũ Giác Đài tăng cường lực
lượng Hoa Kỳ tại Cao Nguyên để phối hợp với các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa
tổ chức hệ thống phòng thủ dọc biên giới. Đại Tướng Westmoreland đã
nhiều lần đến Quảng Đức để thị sát tình hình và chỉ thị cho Bộ Chỉ Huy
Lực Lượng Hoa Kỳ tại Vùng 2 yểm trợ Quân Đoàn 2 (thời kỳ này, tư lệnh
quân đoàn là Thiếu Tướng Lữ Lan) để tăng cường lực lượng phòng thủ các
tiền cứ và căn cứ hỏa lực tại Quảng Đức.
Tháng 6/1968, trước khi
rời Việt Nam về Hoa Kỳ để đảm nhiệm chức vụ Tham Mưu Trưởng Lục Quân, vị
đại tướng này đã lên tiếng báo động về sự leo thang của Cộng Sản Bắc
Việt và lưu ý các giới chức quân sự Việt-Mỹ là Cộng Sản Bắc Việt sẽ vận
dụng đường mòn Trường Sơn để tiến hành các cuộc xâm nhập quy mô vào Tây
nguyên và miền Đông Nam phần.
Trong bản điều trần ngày 8 tháng
10/1969 và được Hạ Viện Hoa Kỳ công bố ngày 1 tháng 12/1969, tướng
Westmoreland đã nhấn mệnh những điểm như sau: Lực lượng Hoa Kỳ còn phải ở
lại giúp Việt Nam Cộng Hòa nhiều năm nữa, vẫn có thể chiến thắng nếu
muốn; đã có thể chiến thắng nếu tiếp tục oanh tạc cho đến nay.
Trong
cuốn hồi ký được phổ biến vào tháng 3/1989, cựu Đại Tướng Wetmoreland
đã đề cập mối quan tâm lớn của ông về kế hoạch phòng thủ biên giới Việt
Nam Cộng Hòa. Nhân bài viết về trận chiến Bu Prang, chúng tôi xin giới
thiệu đến bạn đọc một số nhận định của vị cựu tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ
tại Việt Nam.
Nhiều người nêu ý kiến nên chận ngang con đường xâm
nhập của miền Bắc vào dọc theo vùng biên giới thì mới tận diệt được gốc
các hang ổ Việt Cộng. Với địa thế Việt Nam, tuy là một nước có diện
tích không lớn nhưng lại có một đường biên giới dài đến gần 1,500 cây số
(khoảng 900 dậm).
Trong Thế Chiến Thứ Nhất (1914-1918), gần 6
triệu quân Đồng Minh trấn giữ phòng tuyến chỉ hơn phân nữa (455 dặm) của
mặt trận Miền Tây; trong Thế Chiến Thứ Hai (1939-1945), phòng tuyến
miền Tây dài 570 dặm mà phải huy động 4 triệu rưỡi quân Đồng Minh trấn
giữ. Trong chiến tranh Triều Tiên (1951-1953), xấp xỉ một triệu quân dọc
theo phòng tuyến chỉ dài 123 dặm tại lằn ranh cắt ngang bán đảo Triều
Tiên. Muốn bảo vệ vùng biên giới Việt Nam một cách hữu hiệu thì cần phải
nhiều triệu quân, chưa kể đến một số lực lượng khác chuyên truy lùng để
tiêu diệt địch. Như vậy thì tổng quân số cần thiết rất lớn.
Trong
lúc đó, vào đầu năm 1969 là thời gian quân đội Việt Nam Cộng Hòa có
quân số đông nhất gồm cả bán quân sự chỉ trên dưới một triệu. Lực lượng
Hoa Kỳ 543,000 và quân Đồng Minh (Đại Hàn, Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan) là
62,400 quân, tổng cộng gần hai triệu.
Để đáp ứng nhu cầu ngăn
chận luồng tiếp tế và xâm nhập miền Bắc, tôi (Đại Tướng Westmoreland)
vẫn dựa vào khả năng điều động quân. Làm như vậy mà vẫn không thấm vào
đâu. Với 45 ngàn quân thuộc Lực Lượng Đặc Biệt đóng dọc theo biên giới
với những căn cứ trong rừng vừa để canh phòng, vừa để tuần thám, vừa để
phát giác các vụ xâm nhập lớn. Trực thăng vận sẽ đưa lực lượng đến tiểu
trừ.
Nhờ các căn cứ biên phòng này mà Lực Lượng Đặc biệt đã phá
được nhiều cuộc xâm nhập đáng kể và được thu thập được nhiều tin tức
quan trọng liên quan đến các cuộc chuyển quân của địch, tương tự như
những chuyến thám sát do cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam cùng thực hiện bên trong
lãnh thổ miền Nam.
Khi các cuộc tuần thám này xác định được vị
trí địch, tôi (Đại Tướng Westmoreland) phản ứng bằng cách hoặc gửi quân
đến để tiêu diệt hoặc cho pháo binh bắn hay phi cơ oanh tạc, kể cả các
cuộc ném bom của phi cơ B-52. Rất tiếc vì Hoa Thịnh Đốn cấm không cho
đụng đến vùng biên giới Lào và Cao Miên nên từ lâu không có cuộc hành
quân sang đó (đến năm 1970, mới có các cuộc hành quân ngoại biên).
Hy
vọng mãi một lực lượng đa quốc gia trải dọc vùng phía Nam khu Quân sự
từ bờ biển lên khu cán chảo tiếp giáp với Lào mà không thực hiện nổi,
nhưng tôi (Đại Tướng Westmoreland) vẫn cố nuôi hy vọng đó.
Tôi
(Đại Tướng Westmoreland) bàn với phó đại sứ Alexis Johnson dùng lực
lượng này trong dự án phát triển vùng. Trước hết sẽ mở rộng khai thông
Quốc Lộ 9 từ Đông Hà xuyên qua khu cán chảo và chạy đến biên giới
Lào-Thái. Lúc đó sẽ có nhiều đơn vị trú đóng để bảo vệ và chận đứng mọi
cuộc xâm nhập từ Bắc vào. Vậy mà cuối năm 1964, các viên chức tại Hoa
Thịnh Đốn có để ý đến lực lượng đa quốc gia nhưng không hề đả động gì
đến đề nghị làm con đường này. Ý kiến của tôi là phải nới rộng sang Lào
để cắt đứt và chận ngang con đường xâm nhập là đường mòn Hồ Chí Minh nên
trong hai năm 1966 và 1967, ban tham mưu của tôi soạn thảo chi tiết cho
một cuộc hành quân như vậy.
Khi ông Henry Cabot Lodge trở lại
Việt Nam vào mùa hè 1965 để thay ông Taylor làm đại sứ, ông rất hăng hái
muốn xúc tiến ngay và hối thúc người kế nhiệm ông --Ellsworth Bunker--
cũng nên thấy kế hoạch này. Tôi biết chắc rằng muốn chận con đường này
thì cần ít nhất một quân đoàn nên đã dự trù rất tỉ mỉ để làm sao điều
động lực lượng từ các vùng an ninh đến để chuẩn bị cho cuộc tấn công
này.
Cuối cùng, vào năm 1968 chúng tôi đã đủ sức mạnh và bên địch
cũng tăng cường một bước mới thì tổng thống Johnson, bị áp lực của
những nhà phê bình chiến tranh bao vây chặt khiến ông không muốn có thêm
hành động mới để khỏi bị cho là mở rộng chiến lược như ông đã hứa với
công chúng rằng ông sẽ không theo có vấn đề leo thang chiến tranh.
Theo
tôi biết ai cũng nhắm đến chủ trương của Hoa Kỳ chỉ giới hạn cuộc chiến
trong phạm vi lãnh thổ miền Nam chứ không một ai chịu nói đến sự thể
rằng miền Bắc mới tiến hành "cuộc chiến đại đơn vị." Nghĩa là không còn
đánh du kích nữa mà chỉ toàn các trận đánh lớn. Địch quân cũng xem
thường chiến lược đóng căn cứ của chúng tôi vì không làm cho họ bị thiệt
hại đáng kể, và rõ ràng sẽ không chịu thương thuyết nếu không bị đáng
cho quỵ xuống.
Các đại đơn vị địch tại miền Nam không phải do sự
tập họp các đơn vị bán quân sự hay du kích mà do miền Bắc đưa vào. Mặc
dù chúng tôi tìm cách chế ngự lực lượng bán vũ trang, du kích tại địa
phương nhưng không thể tiêu diệt lực lượng này được hoàn toàn, nếu nguồn
cung cấp nhân lực từ ngoài Bắc vào Nam không bị chận đứng.
Nếu được như vậy mới có hy vọng chiến dịch bứng tận gốc các hang ổ du kích mới đạt được thành công.
Vương Hồng Anh
Nguồn:hung-viet.org