Đoạn Đường Chiến Binh
BIỆT ĐỘI TÂY LỘC – HUẾ *
KQ Quang Du
Biệt đội Không quân Huế, không biết thành lập từ bao giờ, nhưng tôi vát ba lô, súng đạn và đồ dùng cá nhân theo máy bay trực thăng H.34 từ Không đòan 41 Đà nẵng và đặt chân đến đó nhận công tác vào cuối năm 1970, nơi này trong thời gian tôi cắp sách đến trường, đã từng mơ ước được vào đây để ngắm nhìn những chiếc Bà gìa cất lên, đáp xuống như những con diều mà tôi đã từng ra đồng thả mỗi chiều lộng gió.
Thượng sỹ Nguyễn duy Đăng là người chỉ huy trực tiếp, biệt đội chia hai toán trực và làm việc 24 giờ.
– Toán một có anh Ngô Cường, Nguyễn văn Từng, Lê văn Nguyên, Trần văn Huế
– Toán hai anh Nguyễn hữu Trân, Ngô Trình, Nguyễn đức Thái, Nguyễn viết Du
Sân bay Tây Lộc – Huếtám người con trai khỏe mạnh vật lộn hằng ngày với ba Bà già cú đế, đầu năm 1971 vì nhu cầu cần thiết của chiến trường Trị Thiên, hằng ngày anh em phi đạo chúng tôi phải tiếp nhận từ PĐ110 Đà nẵng đưa ra tăng cường thêm hai bà nữa, hai bà này có vẻ qúy phái hơn không chịu sương chịu gío ban đêm của xứ Thần kinh yêu dấu, nên chỉ phục vụ trong ngày xong thì chiều chiều lại ẻo lã bay về đơn vị gốc. Trong cơ thể của mấy bà khi còn ở phi trường mẹ Đà nẵng, một thành phố lớn thì đầy đủ tiện nghi nên có nhiều người cung cúc phục vụ ăn uống no nê, còn khi biệt phái ra Biệt đội, nơi mà nắng khô gío chướng thức ăn chỉ có hai món hằng ngày là cơm trắng (Động cơ chỉ số 43) với cá tươi (Vũ khí chỉ số 46) nhưng mấy bà cũng ăn ngon ngủ khỏe, thỉnh thỏang đôi ba ngày khi mấy bà cày nhiều qúa trong các phi vụ thì cũng trở chứng như bị viêm Tai (Radio hỏng) hay viêm Mũi (Thủy điều xì )… mấy bà này qủa thật là mặt hoa da phấn, chân yếu tay mềm, mà muốn có chuyên môn chữa trị thì phải vào Đà nẵng rước bác sỹ ra Huế để khám bệnh cho mấy bà mới được, ôi nhiêu khê lắm, trong lúc chiến trường đang cần mấy bà (Tám) này để truy tìm dấu vết của địch quân, do đó những lần sau mấy bà có ho hen, cảm mạo thì anh em phi đạo chúng tôi vuốt ve, dỗ ngọt rồi mạnh dạng tự hốt thuốc chữa trị cho mấy bà theo toa thầy thuốc ghi (Ph.công ghi Form). Chúng tôi làm việc với nhau rất ăn ý từ Phi hành đến Kỹ thuật phi đạo đều cùng thủy chung với mấy bà. Tuy là một đơn vị biệt phái, xa với mặt trời nhưng anh em chúng tôi luôn luôn thực hiện cho được “Nhiệm vụ, Lý tưởng, Danh dự, Trách nhiệm” – “ Không Quân – Không bỏ anh em – Không bỏ bạn bè”.
Sau những chiến công hằng ngày, anh em chúng tôi cùng vui buồn chia sẽ, kia là phần của anh, đây là phần của tôi, những thùng lương khô, đồ hộp từ đơn vị mẹ đem ra phụ cấp cho dân biệt phái, những lon chè trái cây ngọt lịm đã làm mát lòng anh em phi đạo trong những ngày nắng gắt khô cằn, còn trong những ngày trở trời ảm đạm, về mùa đông khi mà mây giăng khắp lối ở xứ Thần kinh thương nhớ này, mưa to gío lớn thì mấy bà phải đành xếp vó và được trùm mền trùm chiếu để cho mấy bà nghỉ ngơi dưỡng sức, những lúc này thì anh em chúng tôi hàn huyên tâm sự buồn vui đơn vị hoặc ai có dồi dào súng đạn thì bay B.52. (xập xám)
Tối đến khi màn đêm buông xuống, nơi này trong ca trực chung quanh chúng tôi toàn là bóng đen, với không gian huyền hoặc, tĩnh mịch không một ánh đèn, không một phòng thủ như ở phi trường mẹ. Nói đến đây, chúng tôi không bao giờ quên môt tai nạn khủng khiếp là vào một buổi sáng cuối Thu năm 1971, trong khi hai toán trực đang bàn giao ca, thì một tiếng ầm như long trời lở đất một bên cạnh kho chứa Rocket của phi đạo, một chiếc Cessena đã lao xuống bẹp dúm, anh em phi đạo chúng tôi qúa đổi bàng hòang, ôi! mơ hay là thật? – thật đây mà, KQ Đ/u Ngô Trọng Khải, Tr/u Trần văn Bơi anh Nguyễn văn Chẩn phòng hành chánh, cả ba người đã ra đi trong chuyến công tác từ Đà nẵng ra phát lương tháng cho anh em biệt đội đây mà, đau đớn qúa…
Mặc dù thời gian dài đã trôi qua, với bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống nhưng nơi đây đã ấp ủ trong tôi những vui buồn đầy kỷ niệm, nhớ đến các anh đã nằm xuống, chúng tôi xin thắp một nén nhang lòng để cầu nguyện gởi đến các anh được “Viễn Du Tiên Cảnh”. Mong các anh nhận cho tấm lòng thành mà tình đồng đội đã còn nhớ đến các anh, tuy các anh đã ra đi, nhưng hình ảnh của các anh vẫn còn sống mãi trong Quân chủng KQ, nhất là với các chiến hữu Phi đoàn, Phi đạo 110-120, mai đây các anh sẽ về, các anh nhớ bay về tham dự trong ngày Đại Hội Quan Sát 2 tại Westminster California Hoa kỳ ngày 31 tháng 8 năm 2008 tới đây và chúng tôi những chiến hữu của các anh và Ban tổ chức sẽ đón tiếp các anh một cách trân trọng.
Bàn ra tán vào (0)
BIỆT ĐỘI TÂY LỘC – HUẾ *
KQ Quang Du
Biệt đội Không quân Huế, không biết thành lập từ bao giờ, nhưng tôi vát ba lô, súng đạn và đồ dùng cá nhân theo máy bay trực thăng H.34 từ Không đòan 41 Đà nẵng và đặt chân đến đó nhận công tác vào cuối năm 1970, nơi này trong thời gian tôi cắp sách đến trường, đã từng mơ ước được vào đây để ngắm nhìn những chiếc Bà gìa cất lên, đáp xuống như những con diều mà tôi đã từng ra đồng thả mỗi chiều lộng gió.
Thượng sỹ Nguyễn duy Đăng là người chỉ huy trực tiếp, biệt đội chia hai toán trực và làm việc 24 giờ.
– Toán một có anh Ngô Cường, Nguyễn văn Từng, Lê văn Nguyên, Trần văn Huế
– Toán hai anh Nguyễn hữu Trân, Ngô Trình, Nguyễn đức Thái, Nguyễn viết Du
Sân bay Tây Lộc – Huếtám người con trai khỏe mạnh vật lộn hằng ngày với ba Bà già cú đế, đầu năm 1971 vì nhu cầu cần thiết của chiến trường Trị Thiên, hằng ngày anh em phi đạo chúng tôi phải tiếp nhận từ PĐ110 Đà nẵng đưa ra tăng cường thêm hai bà nữa, hai bà này có vẻ qúy phái hơn không chịu sương chịu gío ban đêm của xứ Thần kinh yêu dấu, nên chỉ phục vụ trong ngày xong thì chiều chiều lại ẻo lã bay về đơn vị gốc. Trong cơ thể của mấy bà khi còn ở phi trường mẹ Đà nẵng, một thành phố lớn thì đầy đủ tiện nghi nên có nhiều người cung cúc phục vụ ăn uống no nê, còn khi biệt phái ra Biệt đội, nơi mà nắng khô gío chướng thức ăn chỉ có hai món hằng ngày là cơm trắng (Động cơ chỉ số 43) với cá tươi (Vũ khí chỉ số 46) nhưng mấy bà cũng ăn ngon ngủ khỏe, thỉnh thỏang đôi ba ngày khi mấy bà cày nhiều qúa trong các phi vụ thì cũng trở chứng như bị viêm Tai (Radio hỏng) hay viêm Mũi (Thủy điều xì )… mấy bà này qủa thật là mặt hoa da phấn, chân yếu tay mềm, mà muốn có chuyên môn chữa trị thì phải vào Đà nẵng rước bác sỹ ra Huế để khám bệnh cho mấy bà mới được, ôi nhiêu khê lắm, trong lúc chiến trường đang cần mấy bà (Tám) này để truy tìm dấu vết của địch quân, do đó những lần sau mấy bà có ho hen, cảm mạo thì anh em phi đạo chúng tôi vuốt ve, dỗ ngọt rồi mạnh dạng tự hốt thuốc chữa trị cho mấy bà theo toa thầy thuốc ghi (Ph.công ghi Form). Chúng tôi làm việc với nhau rất ăn ý từ Phi hành đến Kỹ thuật phi đạo đều cùng thủy chung với mấy bà. Tuy là một đơn vị biệt phái, xa với mặt trời nhưng anh em chúng tôi luôn luôn thực hiện cho được “Nhiệm vụ, Lý tưởng, Danh dự, Trách nhiệm” – “ Không Quân – Không bỏ anh em – Không bỏ bạn bè”.
Sau những chiến công hằng ngày, anh em chúng tôi cùng vui buồn chia sẽ, kia là phần của anh, đây là phần của tôi, những thùng lương khô, đồ hộp từ đơn vị mẹ đem ra phụ cấp cho dân biệt phái, những lon chè trái cây ngọt lịm đã làm mát lòng anh em phi đạo trong những ngày nắng gắt khô cằn, còn trong những ngày trở trời ảm đạm, về mùa đông khi mà mây giăng khắp lối ở xứ Thần kinh thương nhớ này, mưa to gío lớn thì mấy bà phải đành xếp vó và được trùm mền trùm chiếu để cho mấy bà nghỉ ngơi dưỡng sức, những lúc này thì anh em chúng tôi hàn huyên tâm sự buồn vui đơn vị hoặc ai có dồi dào súng đạn thì bay B.52. (xập xám)
Tối đến khi màn đêm buông xuống, nơi này trong ca trực chung quanh chúng tôi toàn là bóng đen, với không gian huyền hoặc, tĩnh mịch không một ánh đèn, không một phòng thủ như ở phi trường mẹ. Nói đến đây, chúng tôi không bao giờ quên môt tai nạn khủng khiếp là vào một buổi sáng cuối Thu năm 1971, trong khi hai toán trực đang bàn giao ca, thì một tiếng ầm như long trời lở đất một bên cạnh kho chứa Rocket của phi đạo, một chiếc Cessena đã lao xuống bẹp dúm, anh em phi đạo chúng tôi qúa đổi bàng hòang, ôi! mơ hay là thật? – thật đây mà, KQ Đ/u Ngô Trọng Khải, Tr/u Trần văn Bơi anh Nguyễn văn Chẩn phòng hành chánh, cả ba người đã ra đi trong chuyến công tác từ Đà nẵng ra phát lương tháng cho anh em biệt đội đây mà, đau đớn qúa…
Mặc dù thời gian dài đã trôi qua, với bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống nhưng nơi đây đã ấp ủ trong tôi những vui buồn đầy kỷ niệm, nhớ đến các anh đã nằm xuống, chúng tôi xin thắp một nén nhang lòng để cầu nguyện gởi đến các anh được “Viễn Du Tiên Cảnh”. Mong các anh nhận cho tấm lòng thành mà tình đồng đội đã còn nhớ đến các anh, tuy các anh đã ra đi, nhưng hình ảnh của các anh vẫn còn sống mãi trong Quân chủng KQ, nhất là với các chiến hữu Phi đoàn, Phi đạo 110-120, mai đây các anh sẽ về, các anh nhớ bay về tham dự trong ngày Đại Hội Quan Sát 2 tại Westminster California Hoa kỳ ngày 31 tháng 8 năm 2008 tới đây và chúng tôi những chiến hữu của các anh và Ban tổ chức sẽ đón tiếp các anh một cách trân trọng.