Nhân Vật
Bài Chưa Đọc Kỹ : Chuyện nhân quả liên quan tới lịch sử họ Ngô Đình
Ông nội của Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Dinh [có sách chép là Ngô Đình Niệm]. Ông Dinh quê gốc ở đâu không rõ, cuối thế kỷ XIX đời vua Tự Đức di cư tới làng Đợi [tức làng An Xá
Việc này, tôi nghe biết tới đâu ghi lại tới đó như một bài đức dục chứ không như chuyện chính sự.
Ông nội của Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Dinh [có sách chép
là Ngô Đình Niệm]. Ông Dinh quê gốc ở đâu không rõ, cuối thế kỷ XIX đời
vua Tự Đức di cư tới làng Đợi [tức làng An Xá] tổng Đại Phong, huyện
Phong Lộc [sau đổi thành huyện Lệ Thủy], tỉnh Quảng Bình, sống bằng nghề
làm mướn, vợ chết sớm, chỉ có một trai 6 tuổi. Trong một cơn bệnh, ông
qua đời, làng đưa thi hài an táng lại Bến Đẻ một vùng núi ngược dòng
Kiến Giang cách làng Đợi 3km. Vì là dân ngụ cư, không thân thuộc lại
nghèo, nên việc mai táng đơn sơ, dân đinh chèo thuyền đưa thi hài ông
đến Bến Đẻ thì trời đã về chiều, đang khiêng thi hài vào núi thì có
tiếng hổ, dân đinh đào vội một huyệt cạnh đường, đặt thi hài lấp đất qua
loa rồi chạy. Hôm sau, họ trở lại muốn sửa sang ngôi mộ, thì lạ thay,
nấm đất chiều hôm trước lấp qua loa, nay đã hóa thành một mả mối đùn to
như cái gò. Người đời hay tin, đều cho là mả thiên táng.
Về phương diện phong thủy, ngôi mộ kể trên đã vào vị trí trung điểm của núi sông Lệ Thủy:
- Phía Nam có núi An Mã dẫn về Bến Trấm, Bến Đẻ.
- phía Tây có núi Đầu Mâu hướng về biển Hạc Hải.
- phía Đông Bắc long mạch theo sông Kiến Giang lên Tróc Vực. Ngôi mộ được kết phát nhưng không có người viếng thăm.
Thủa xa xưa, năm 1530, nhà Mạc có 4 vị quan đầu triều thì 3 vị là người
tổng Đại Phong. Mạc Đăng Dung sai thầy địa lý xem thế đất Đại Phong thấy
hình dáng chim phượng hoàng, là đất phát đế vương, nếu không kịp yểm
thì có cơ lấn át cả triều đình. Mạc Đăng Dung cho đào một con mương cạn
dài từ Mũi Viết để “mổ diều” cho phụng chết. Đến thời nhà Lê, thầy địa
lý lại phán, phụng bị nhà Mạc mổ diều nhưng chưa chết, đình Đại Phong
dựng nơi đầu phụng nên làng này vẫn có khí đế vương. Đất ấy từ xưa đến
nay đã có nhiều quan to văn võ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp quê Lộc Thủy
nằm trong vùng cánh phượng.
Ngô Đình Dinh/Niệm sinh ra Ngô Đình Khả [1850-1925 có sách nói 1857 tôi
cho là chưa chính xác]. Khả được 6 tuổi thì bố mất, Linh mục Caspar [tên
Việt là cha Lộc] ở giáo xứ Mỹ Phước nhận nuôi, năm 1870 Michael Ngô
Đình Khả được gửi đi học tại Đại chủng viện dòng Thừa sai Paris ở đảo
Penang xứ Malaysia [thời đó còn có Phêrô Giuse Nguyễn Hữu Bài sang học.
Ông Bài sinh năm 1863 mồ côi cha từ lúc 10 tuổi, Linh mục Gioan Châu bảo
trợ vào Tiểu chủng viện An Ninh. Sau này, con gái của Bài là Nguyễn Thị
Giang, kết hôn với Ngô Đình Khôi con trai trưởng của Khả].
Michael Ngô Đình Khả trở về nước được phân dạy môn triết tại Đại chủng
viện Huế, thử thách để lên chức Linh mục, nhưng năm 1878, Ngô Đình Khả
rời chủng viện lấy vợ. Người vợ đầu là bà Madeleine Chĩu mất sớm có 1
con trai là Ngô Đình Khôi (1885-1945), sau làm quan triều Nguyễn đến
chức Tổng đốc Quảng Nam.
Năm 1889 Ngô Đình Khả tục huyền với bà Anna Phạm Thị Thân sinh được 7 con:
- Ngô Đình Thị Giao (?-1944), tục gọi là bà Thừa Tùng.
- Ngô Đình Diệm còn có bí danh Nguyễn Bá Chinh, sinh ngày 27/7/1897 tại
tại lệ Thủy. Sau này đổi ngày sinh thành 03/01/1901. Việc này là do ông
Diệm không phải con đẻ bà Thân, đổi như vậy để hợp thức hóa vai “em” của
Diệm bởi ông Thục là con vợ chính. [Xem các sách Chính Ðạo, VNNB, Tập
I-C: 1955-1963, 2000, tr. 110. Xem tiểu sử Thục trong CAOM (Aix), GGI,
CP 125; Chính Ðạo, Nhân vật chí, 1997:312; Idem., Cuộc thánh chiến chống
Cộng, 2004, I:464-65.]
- Ngô Đình Thục (1897-1984) sau thành Giám mục. Cha Thục sinh ngày
6/10/1897 tại Phước Quả, Thừa Thiên, sinh sau ông Diệm hơn hai tháng.
- Ngô Đình Thị Hiệp, tục gọi bà Ấm, lấy chồng là Nguyễn Văn Ấm, sinh ra cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận.
- Ngô Đình Thị Hoàng, tục gọi là bà Lễ.
- Ngô Đình Nhu (1910-1963) Cố vấn Tổng thống VNCH
- Ngô Đình Cẩn (1912-1964) Cố vấn Cao nguyên Trung phần VNCH
- Ngô Đình Luyện (1914-1990) Luật sư và Đại sứ VNCH tại Anh, Hà Lan, Bỉ.
Do có khả năng ngoại ngữ nên Khả được Linh mục chính xứ Phú Cam là Cha
Eugène Marie giới thiệu công việc thông dịch tiếng Latinh và tiếng Pháp,
rồi chuyển sang làm cho Nam triều. Năm 1885, Ngô Đình Khả giữ chức An
phủ sứ Quảng Bình lo việc bình định nghĩa quân của phong trào Cần Vương.
Tháng 6/1895 được Nguyễn Thân chọn làm phụ tá trong chiến dịch tiễu trừ
phong trào Cần Vương và quan Ngự sử Phan Đình Phùng. Khả làm Phó tướng
cho Nguyễn Thân đàn áp các sỹ phu văn thân yêu nước hưởng ứng chiếu Cần
Vương chống Pháp của vua Hàm Nghi. Ngày 28/12/1895 quan Ngự sử Phan Đình
Phùng từ trần, 12 ngày sau Khả cho đào mộ Phan Đình Phùng ở chân núi
Quạt, đốt xác, trộn thuốc súng bắn xuống sông. Trước đó, 1894 họ đã khai
quật mồ mả gia tộc họ Phùng ở làng Đông Thái và bắt giam hết thân quyến
Phan Đình Phùng nhưng không khuất phục được ông. Không những vậy, Ngô
Đình Khả còn chịu trách nhiệm chính trong việc biến khu vực Đài Trấn
Bình của triều Nguyễn thành nhà thờ công giáo [việc này trong một chủ đề
khác]. Với thành tích trên Nguyễn Thân được chính phủ Pháp tặng Huân
chương Bắc đẩu bội tinh hạng ba, sau bị điên mà chết. Ngô Đình Khả được
phong tước Thái thường Tự khanh (chính tam phẩm) và chức Thương biện
thuộc Viện Cơ mật.
Ngày 23/10/1896, trường Quốc học Huế, tên gốc là "Pháp tự Quốc học
Trường môn" thành lâp theo Chỉ dụ của vua Thành Thái. Đây là trường đầu
tiên ở Trung Kỳ dạy từ tiểu học đến bậc tú tài chuyên khoa. Ngày
18/11/1896 Toàn quyền Đông dương Paul Armand Rosseau ký quyết định thành
lập. Trước đó, ngày 21/8/1896, Viện Cơ Mật quyết định chọn Ngô Đình Khả
làm Chưởng giáo nhưng sau thì Khả làm Phó Giám đốc, đặc trách quản trị
hành chính. Với kiến thức được học tập tại nước ngoài Ngô Đình Khả đã có
công xây dựng trường Quốc học Huế trong những năm đầu tiên.
Năm 1898 vua Thành Thái phong Ngô Đình Khả làm Thượng thư Phụ đạo Đại thần.
Năm 1902, vua Thành Thái lại tiếp tục thăng hàm Hiệp tá Đại học sỹ. Từ đây, Ngô Đình Khả thôi chức vụ ở Quốc học Huế.
Năm 1905 Ngô Đình Khả làm nhiệm vụ Tổng quản Cấm thành, chuyên theo dõi
vua Thành Thái. Khả nuôi tham vọng biến Thành Thái thành một vua theo
Ki-tô giáo đầu tiên [Xem Vũ Ngự Chiêu “Các vua cuối nhà Nguyễn
1883-1945” 3 tập, Houston: Văn Hóa, 1999-2000).
Trong cuộc họp tại Tòa Khâm sứ Pháp vào lúc 4:15 chiều ngày 14/8/1906,
có mời các Thượng thư Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hộ, Bộ Hình, Bộ Công
của triều đình nhà Nguyễn, tài liệu của Pháp ghi: “... S.E. le Ministre
de l'Intérieur fait renseigner que M. NGO DINH KHA, Chef des Thi Ve
chargé de la haute direction du Palais devra être invité et fournir tous
renseignements concernant ces personnages qu'il connait mieux que tout
autre. APPROUVÉ.” Tạm dịch: “Ngài Thượng thư Bộ Lại mật báo là ông Ngô
Đình Khả, chỉ huy Thị Vệ, đảm trách tổng cai quản Hoàng cung, sẽ phải
được mời tham dự, để ông ấy cung cấp tất cả các tin tức tài liệu liên
quan đến các nhân vật kia, mà ông ta hiểu biết tận tường hơn bất cứ
người nào khác... (Lời mật-báo ấy) ĐÃ ĐƯỢC CHẤP THUẬN.”
Năm 1907, vua Thành Thái có hành vi chống Pháp nên Khâm sứ Ferdinand
Lévecque bày việc các Đại thần triều đình ký thỉnh nguyện thư yêu cầu
viện Cơ mật truất quyền và đày vua Thành Thái sang châu Phi vì nhà vua
bị “bệnh tâm thần”. Hầu hết các đại thần đều ký, Ngô Đình Khả không ký
nhưng trong lá thư ngày 15/8/1907, Khả vận động 154 học sinh gởi Khâm sứ
Levecque tỏ lộ rằng: “Yêu cầu Pháp ban cho họ một ông vua mà chỉ nguyên
sự hiện diện đủ trấn an tinh thần binh sĩ và các liệt thần của đế
quốc.” [Xem Vũ Ngự Chiêu, “Các vua cuối nhà Nguyễn 1883-1945” tập 2,
trang 585, việc phản đối “phế ngôi, đày vua”, không phải vì ông Khả lo
cho sơn hà xã tắc nước Nam, mà mưu đồ hợp tung giữa Nguyễn Hữu Bài và
Khả xem có được lòng Giáo hội và khả năng khuynh loát triều chính hay
không.]
Ngày 03/9/1907, Phêrô Giuse Nguyễn Hữu Bài, cùng Phủ Phụ Chính (trong đó
có Khả) chấp nhận giải pháp của CP Bảo hộ, một tháng sau 17/10/1907,
Vĩnh San, hoàng tử thứ hai mới 10 tuổi, lên ngôi. Thành thái phải rời
Huế đi Bà rịa, mở đầu cho cuộc đời lưu đày viễn xứ. Sau biến cố này, Ngô
Đình Khả lại bị người Pháp nghi ngờ đứng sau vua Thành Thái để ủng hộ
cho Kỳ Ngoại hầu Cường Để nên chính quyền Bảo hộ đã tạo cớ buộc Ngô Đình
Khả nghỉ hưu. [Xem “Lịch Sử Phật Giáo Huế” trang 357: “Mấy chữ sau đây
của ông Nguyễn Đình Hòe nói về ông Ngô Đình Khả, mà Louis Sogny trích
lại trong bài viết của ông ở BAVH (Bulletin des Amis du Vieux de Hue),
tưởng là quá đủ: “...un grand serviteur de la France...” Cho nên đối với
nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, nhất là dân Huế, thì ông Ngô Đình
Khả đã “tombé dans l’oubli depuis longtemps” như lời ông Nguyễn Đình Hòe
nói vào đầu thế kỷ 20 là điều hiển nhiên vậy.”]
Ngô Đình Khả sau được phục hàm và mất 1925 vì bệnh phổi. Bà Phạm Thị
Thân qua đời tại Sài Gòn ngày 02/01/1964 sau khi chứng kiến cái chết
thảm của hai con và một bị giam ở Chí Hòa.
NĂM THÁNG QUA ĐI
Động mả kỳ thứ nhất là năm 1939. Nhà tư sản lúa gạo người Đồng Hới, tên
là Paul Ngọc, đã mua vùng đất Ba Canh, dưới chân An Mã để canh tác. Ba
Canh không phải vùng màu mỡ thuận lợi để sản xuất lúa gạo nên Paul Ngọc
đã cho đào mương dẫn thủy làm chấn động mạch khí. Mặc dầu việc thủy lợi
dở dang nhưng liền đó Ngô Đình Diệm bị Bảo Đại cách chức Thượng thư Bộ
Lại thu hồi tất cả phẩm trật huy chương vì trái mệnh triều đình chống
đối Hoàng đế. Cùng với sự thất sủng của ông Diệm, ông Ngô Đình Khôi đang
làm Tổng đốc Quảng Nam bị viên Phó Toàn quyền Nouailletas gây khó.
Động mả kỳ thứ hai là năm 1944. Paul Ngọc mời được một kỹ sư canh nông
Nhật và tiếp tục công trình dang dở. Liền đó, ông Ngô Đình Khôi, Tổng
đốc Quảng Nam cùng con trai Ngô Đình Huân bị thủ tiêu năm 1945. Khi đó
việc thủy lợi của Paul Ngọc lại dang dở lần nữa do Đồng minh đánh Nhật,
mọi việc đều đình đốn, các kênh dẫn thủy nhờ thời gian yên ắng đã được
đất bồi lại, long mạch được hàn gắn phần nào. Ông Võ Nguyên Giáp [đồng
hương với họ Ngô] Bộ trưởng Nội vụ và Vũ Đình Hòe Bộ trưởng Giáo dục CP
Lâm Thời, ký sắc lệnh số 21 ngày 08/9/1945 bổ nhiệm ông Ngô Đình Nhu làm
giám đốc Nha lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc. Ông Nhu từ chối.
Năm 1951, ông Diệm sang Mỹ, ở New Jesey vận động cho những mục tiêu
chính trị riêng.
Động mả kỳ thứ ba là năm 1961. HTX Đại Phong xây dựng lá cờ đầu nông
nghiệp, khai hoang Bến Tiến, đào kênh đẫn thủy, đào hầm hào ở chân đồi
An Mã. Việc hành quyết ông Diệm, ông Nhu thì ai cũng rõ. Ngô Đình Cẩn
đang ở Huế, nghe tin anh bị đảo chính tá túc vào nhà thờ dòng Chúa Cứu
Thế ngày 02/11/1963 nhưng không thoát, tới ngày 16/4/1964 bị xử bắn. Ông
Ngô Đình Luyện thoát vì đang ở London. Ông Ngô Đình Thục phải lưu vong,
sau đó ông đã vi phạm việc tấn phong Giám mục bất hợp thức, được giải
vạ năm 1984 trước khi mất vài tháng. Các phần mộ gia đình họ Ngô ở Sài
Gòn cũng không được yên, phải di dời tới nơi mới như hiện nay.
Tích sử còn dài, nhưng tới đây đủ dãy bày nhân quả.
(FB Lena Morgoun)
Bàn ra tán vào (3)
son ngo
tác giả viết quá thối! Nội cái chuyện ông Thục sanh sau ông Diệm là loạn xà ngầu rồi. Xem cái hình gia đình ông Ngô đình Khả với ba con trai bên trái của ông: Ngô đình Khôi cao nhất, kế đến là ngô đình thục, và đứa nhỏ nhất (4 tuổi) là ngô đình diệm.
Thế mà tác giả lại bịa chuyện là Ngô đình diệm không phải con bà vợ chính thức. Bố khỉ!!! xạo vừa vừa thôi nghen cha nội.
Còn cái chuyện cái mộ ông nội ông Diệm do "trời" tạo ra cũng ba xạo luôn!!!!!
đúng là Hải ngoại phiếm đàm đăng bài nhảm nhí!!!!
----------------------------------------------------------------------------------
michael hoang
Yêu cầu HNPD nên duyệt lại bài trước khi cho đăng tải,tự do ngôn luận không có nghĩa là muốn viết gì thì viết,những bài như thế này sẽ làm giảm giá trị của trang báo,nếu là rác rưởi nên vứt bỏ không nên vì thiếu bài mà đưa những bài viết nhục mạ một nhân vật được cả thế giới công nhận,tôi tự hỏi phải chăng HNPD bắt đầu thần phục thằng già chó và băng đảng của nó
----------------------------------------------------------------------------------
Thượng Võ
Tác giả bài này hình như cũng là tác giả bài "Tổng Thống Thiệu ÔM theo 16 tấn vàng ra nước ngoài " mà sau này đã được đính chính là hoàn toàn vu khống , do đó chứng tỏ tác giả đích thị là người của cộng sản Việt Nam và chính bản thân sẽ nhận quả báo trong tương lai .
----------------------------------------------------------------------------------
Các tin đã đăng
- Huỳnh Ngọc Chênh - Hôm nay đón Nguyễn Thúy Hạnh về nhà, kịch tính như phim
- "Sư Minh Tuệ" - by Đỗ Duy Ngọc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Thế lực nào đã đầu độc tướng vi-xi Nguyễn Chí Vịnh?" - Lê Văn Đoành / Trần Văn Giang (ghi lại)
- NHỮNG NỮ LƯU LỪNG DANH Ở MỸ & THẾ GIỚI - TRẦN VĂN NGÀ
- Putin tiến thoái lưỡng nan vì đã tính sai nước cờ _ Hoài Việt
Bài Chưa Đọc Kỹ : Chuyện nhân quả liên quan tới lịch sử họ Ngô Đình
Ông nội của Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Dinh [có sách chép là Ngô Đình Niệm]. Ông Dinh quê gốc ở đâu không rõ, cuối thế kỷ XIX đời vua Tự Đức di cư tới làng Đợi [tức làng An Xá
Việc này, tôi nghe biết tới đâu ghi lại tới đó như một bài đức dục chứ không như chuyện chính sự.
Ông nội của Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Dinh [có sách chép
là Ngô Đình Niệm]. Ông Dinh quê gốc ở đâu không rõ, cuối thế kỷ XIX đời
vua Tự Đức di cư tới làng Đợi [tức làng An Xá] tổng Đại Phong, huyện
Phong Lộc [sau đổi thành huyện Lệ Thủy], tỉnh Quảng Bình, sống bằng nghề
làm mướn, vợ chết sớm, chỉ có một trai 6 tuổi. Trong một cơn bệnh, ông
qua đời, làng đưa thi hài an táng lại Bến Đẻ một vùng núi ngược dòng
Kiến Giang cách làng Đợi 3km. Vì là dân ngụ cư, không thân thuộc lại
nghèo, nên việc mai táng đơn sơ, dân đinh chèo thuyền đưa thi hài ông
đến Bến Đẻ thì trời đã về chiều, đang khiêng thi hài vào núi thì có
tiếng hổ, dân đinh đào vội một huyệt cạnh đường, đặt thi hài lấp đất qua
loa rồi chạy. Hôm sau, họ trở lại muốn sửa sang ngôi mộ, thì lạ thay,
nấm đất chiều hôm trước lấp qua loa, nay đã hóa thành một mả mối đùn to
như cái gò. Người đời hay tin, đều cho là mả thiên táng.
Về phương diện phong thủy, ngôi mộ kể trên đã vào vị trí trung điểm của núi sông Lệ Thủy:
- Phía Nam có núi An Mã dẫn về Bến Trấm, Bến Đẻ.
- phía Tây có núi Đầu Mâu hướng về biển Hạc Hải.
- phía Đông Bắc long mạch theo sông Kiến Giang lên Tróc Vực. Ngôi mộ được kết phát nhưng không có người viếng thăm.
Thủa xa xưa, năm 1530, nhà Mạc có 4 vị quan đầu triều thì 3 vị là người
tổng Đại Phong. Mạc Đăng Dung sai thầy địa lý xem thế đất Đại Phong thấy
hình dáng chim phượng hoàng, là đất phát đế vương, nếu không kịp yểm
thì có cơ lấn át cả triều đình. Mạc Đăng Dung cho đào một con mương cạn
dài từ Mũi Viết để “mổ diều” cho phụng chết. Đến thời nhà Lê, thầy địa
lý lại phán, phụng bị nhà Mạc mổ diều nhưng chưa chết, đình Đại Phong
dựng nơi đầu phụng nên làng này vẫn có khí đế vương. Đất ấy từ xưa đến
nay đã có nhiều quan to văn võ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp quê Lộc Thủy
nằm trong vùng cánh phượng.
Ngô Đình Dinh/Niệm sinh ra Ngô Đình Khả [1850-1925 có sách nói 1857 tôi
cho là chưa chính xác]. Khả được 6 tuổi thì bố mất, Linh mục Caspar [tên
Việt là cha Lộc] ở giáo xứ Mỹ Phước nhận nuôi, năm 1870 Michael Ngô
Đình Khả được gửi đi học tại Đại chủng viện dòng Thừa sai Paris ở đảo
Penang xứ Malaysia [thời đó còn có Phêrô Giuse Nguyễn Hữu Bài sang học.
Ông Bài sinh năm 1863 mồ côi cha từ lúc 10 tuổi, Linh mục Gioan Châu bảo
trợ vào Tiểu chủng viện An Ninh. Sau này, con gái của Bài là Nguyễn Thị
Giang, kết hôn với Ngô Đình Khôi con trai trưởng của Khả].
Michael Ngô Đình Khả trở về nước được phân dạy môn triết tại Đại chủng
viện Huế, thử thách để lên chức Linh mục, nhưng năm 1878, Ngô Đình Khả
rời chủng viện lấy vợ. Người vợ đầu là bà Madeleine Chĩu mất sớm có 1
con trai là Ngô Đình Khôi (1885-1945), sau làm quan triều Nguyễn đến
chức Tổng đốc Quảng Nam.
Năm 1889 Ngô Đình Khả tục huyền với bà Anna Phạm Thị Thân sinh được 7 con:
- Ngô Đình Thị Giao (?-1944), tục gọi là bà Thừa Tùng.
- Ngô Đình Diệm còn có bí danh Nguyễn Bá Chinh, sinh ngày 27/7/1897 tại
tại lệ Thủy. Sau này đổi ngày sinh thành 03/01/1901. Việc này là do ông
Diệm không phải con đẻ bà Thân, đổi như vậy để hợp thức hóa vai “em” của
Diệm bởi ông Thục là con vợ chính. [Xem các sách Chính Ðạo, VNNB, Tập
I-C: 1955-1963, 2000, tr. 110. Xem tiểu sử Thục trong CAOM (Aix), GGI,
CP 125; Chính Ðạo, Nhân vật chí, 1997:312; Idem., Cuộc thánh chiến chống
Cộng, 2004, I:464-65.]
- Ngô Đình Thục (1897-1984) sau thành Giám mục. Cha Thục sinh ngày
6/10/1897 tại Phước Quả, Thừa Thiên, sinh sau ông Diệm hơn hai tháng.
- Ngô Đình Thị Hiệp, tục gọi bà Ấm, lấy chồng là Nguyễn Văn Ấm, sinh ra cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận.
- Ngô Đình Thị Hoàng, tục gọi là bà Lễ.
- Ngô Đình Nhu (1910-1963) Cố vấn Tổng thống VNCH
- Ngô Đình Cẩn (1912-1964) Cố vấn Cao nguyên Trung phần VNCH
- Ngô Đình Luyện (1914-1990) Luật sư và Đại sứ VNCH tại Anh, Hà Lan, Bỉ.
Do có khả năng ngoại ngữ nên Khả được Linh mục chính xứ Phú Cam là Cha
Eugène Marie giới thiệu công việc thông dịch tiếng Latinh và tiếng Pháp,
rồi chuyển sang làm cho Nam triều. Năm 1885, Ngô Đình Khả giữ chức An
phủ sứ Quảng Bình lo việc bình định nghĩa quân của phong trào Cần Vương.
Tháng 6/1895 được Nguyễn Thân chọn làm phụ tá trong chiến dịch tiễu trừ
phong trào Cần Vương và quan Ngự sử Phan Đình Phùng. Khả làm Phó tướng
cho Nguyễn Thân đàn áp các sỹ phu văn thân yêu nước hưởng ứng chiếu Cần
Vương chống Pháp của vua Hàm Nghi. Ngày 28/12/1895 quan Ngự sử Phan Đình
Phùng từ trần, 12 ngày sau Khả cho đào mộ Phan Đình Phùng ở chân núi
Quạt, đốt xác, trộn thuốc súng bắn xuống sông. Trước đó, 1894 họ đã khai
quật mồ mả gia tộc họ Phùng ở làng Đông Thái và bắt giam hết thân quyến
Phan Đình Phùng nhưng không khuất phục được ông. Không những vậy, Ngô
Đình Khả còn chịu trách nhiệm chính trong việc biến khu vực Đài Trấn
Bình của triều Nguyễn thành nhà thờ công giáo [việc này trong một chủ đề
khác]. Với thành tích trên Nguyễn Thân được chính phủ Pháp tặng Huân
chương Bắc đẩu bội tinh hạng ba, sau bị điên mà chết. Ngô Đình Khả được
phong tước Thái thường Tự khanh (chính tam phẩm) và chức Thương biện
thuộc Viện Cơ mật.
Ngày 23/10/1896, trường Quốc học Huế, tên gốc là "Pháp tự Quốc học
Trường môn" thành lâp theo Chỉ dụ của vua Thành Thái. Đây là trường đầu
tiên ở Trung Kỳ dạy từ tiểu học đến bậc tú tài chuyên khoa. Ngày
18/11/1896 Toàn quyền Đông dương Paul Armand Rosseau ký quyết định thành
lập. Trước đó, ngày 21/8/1896, Viện Cơ Mật quyết định chọn Ngô Đình Khả
làm Chưởng giáo nhưng sau thì Khả làm Phó Giám đốc, đặc trách quản trị
hành chính. Với kiến thức được học tập tại nước ngoài Ngô Đình Khả đã có
công xây dựng trường Quốc học Huế trong những năm đầu tiên.
Năm 1898 vua Thành Thái phong Ngô Đình Khả làm Thượng thư Phụ đạo Đại thần.
Năm 1902, vua Thành Thái lại tiếp tục thăng hàm Hiệp tá Đại học sỹ. Từ đây, Ngô Đình Khả thôi chức vụ ở Quốc học Huế.
Năm 1905 Ngô Đình Khả làm nhiệm vụ Tổng quản Cấm thành, chuyên theo dõi
vua Thành Thái. Khả nuôi tham vọng biến Thành Thái thành một vua theo
Ki-tô giáo đầu tiên [Xem Vũ Ngự Chiêu “Các vua cuối nhà Nguyễn
1883-1945” 3 tập, Houston: Văn Hóa, 1999-2000).
Trong cuộc họp tại Tòa Khâm sứ Pháp vào lúc 4:15 chiều ngày 14/8/1906,
có mời các Thượng thư Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Binh, Bộ Hộ, Bộ Hình, Bộ Công
của triều đình nhà Nguyễn, tài liệu của Pháp ghi: “... S.E. le Ministre
de l'Intérieur fait renseigner que M. NGO DINH KHA, Chef des Thi Ve
chargé de la haute direction du Palais devra être invité et fournir tous
renseignements concernant ces personnages qu'il connait mieux que tout
autre. APPROUVÉ.” Tạm dịch: “Ngài Thượng thư Bộ Lại mật báo là ông Ngô
Đình Khả, chỉ huy Thị Vệ, đảm trách tổng cai quản Hoàng cung, sẽ phải
được mời tham dự, để ông ấy cung cấp tất cả các tin tức tài liệu liên
quan đến các nhân vật kia, mà ông ta hiểu biết tận tường hơn bất cứ
người nào khác... (Lời mật-báo ấy) ĐÃ ĐƯỢC CHẤP THUẬN.”
Năm 1907, vua Thành Thái có hành vi chống Pháp nên Khâm sứ Ferdinand
Lévecque bày việc các Đại thần triều đình ký thỉnh nguyện thư yêu cầu
viện Cơ mật truất quyền và đày vua Thành Thái sang châu Phi vì nhà vua
bị “bệnh tâm thần”. Hầu hết các đại thần đều ký, Ngô Đình Khả không ký
nhưng trong lá thư ngày 15/8/1907, Khả vận động 154 học sinh gởi Khâm sứ
Levecque tỏ lộ rằng: “Yêu cầu Pháp ban cho họ một ông vua mà chỉ nguyên
sự hiện diện đủ trấn an tinh thần binh sĩ và các liệt thần của đế
quốc.” [Xem Vũ Ngự Chiêu, “Các vua cuối nhà Nguyễn 1883-1945” tập 2,
trang 585, việc phản đối “phế ngôi, đày vua”, không phải vì ông Khả lo
cho sơn hà xã tắc nước Nam, mà mưu đồ hợp tung giữa Nguyễn Hữu Bài và
Khả xem có được lòng Giáo hội và khả năng khuynh loát triều chính hay
không.]
Ngày 03/9/1907, Phêrô Giuse Nguyễn Hữu Bài, cùng Phủ Phụ Chính (trong đó
có Khả) chấp nhận giải pháp của CP Bảo hộ, một tháng sau 17/10/1907,
Vĩnh San, hoàng tử thứ hai mới 10 tuổi, lên ngôi. Thành thái phải rời
Huế đi Bà rịa, mở đầu cho cuộc đời lưu đày viễn xứ. Sau biến cố này, Ngô
Đình Khả lại bị người Pháp nghi ngờ đứng sau vua Thành Thái để ủng hộ
cho Kỳ Ngoại hầu Cường Để nên chính quyền Bảo hộ đã tạo cớ buộc Ngô Đình
Khả nghỉ hưu. [Xem “Lịch Sử Phật Giáo Huế” trang 357: “Mấy chữ sau đây
của ông Nguyễn Đình Hòe nói về ông Ngô Đình Khả, mà Louis Sogny trích
lại trong bài viết của ông ở BAVH (Bulletin des Amis du Vieux de Hue),
tưởng là quá đủ: “...un grand serviteur de la France...” Cho nên đối với
nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, nhất là dân Huế, thì ông Ngô Đình
Khả đã “tombé dans l’oubli depuis longtemps” như lời ông Nguyễn Đình Hòe
nói vào đầu thế kỷ 20 là điều hiển nhiên vậy.”]
Ngô Đình Khả sau được phục hàm và mất 1925 vì bệnh phổi. Bà Phạm Thị
Thân qua đời tại Sài Gòn ngày 02/01/1964 sau khi chứng kiến cái chết
thảm của hai con và một bị giam ở Chí Hòa.
NĂM THÁNG QUA ĐI
Động mả kỳ thứ nhất là năm 1939. Nhà tư sản lúa gạo người Đồng Hới, tên
là Paul Ngọc, đã mua vùng đất Ba Canh, dưới chân An Mã để canh tác. Ba
Canh không phải vùng màu mỡ thuận lợi để sản xuất lúa gạo nên Paul Ngọc
đã cho đào mương dẫn thủy làm chấn động mạch khí. Mặc dầu việc thủy lợi
dở dang nhưng liền đó Ngô Đình Diệm bị Bảo Đại cách chức Thượng thư Bộ
Lại thu hồi tất cả phẩm trật huy chương vì trái mệnh triều đình chống
đối Hoàng đế. Cùng với sự thất sủng của ông Diệm, ông Ngô Đình Khôi đang
làm Tổng đốc Quảng Nam bị viên Phó Toàn quyền Nouailletas gây khó.
Động mả kỳ thứ hai là năm 1944. Paul Ngọc mời được một kỹ sư canh nông
Nhật và tiếp tục công trình dang dở. Liền đó, ông Ngô Đình Khôi, Tổng
đốc Quảng Nam cùng con trai Ngô Đình Huân bị thủ tiêu năm 1945. Khi đó
việc thủy lợi của Paul Ngọc lại dang dở lần nữa do Đồng minh đánh Nhật,
mọi việc đều đình đốn, các kênh dẫn thủy nhờ thời gian yên ắng đã được
đất bồi lại, long mạch được hàn gắn phần nào. Ông Võ Nguyên Giáp [đồng
hương với họ Ngô] Bộ trưởng Nội vụ và Vũ Đình Hòe Bộ trưởng Giáo dục CP
Lâm Thời, ký sắc lệnh số 21 ngày 08/9/1945 bổ nhiệm ông Ngô Đình Nhu làm
giám đốc Nha lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc. Ông Nhu từ chối.
Năm 1951, ông Diệm sang Mỹ, ở New Jesey vận động cho những mục tiêu
chính trị riêng.
Động mả kỳ thứ ba là năm 1961. HTX Đại Phong xây dựng lá cờ đầu nông
nghiệp, khai hoang Bến Tiến, đào kênh đẫn thủy, đào hầm hào ở chân đồi
An Mã. Việc hành quyết ông Diệm, ông Nhu thì ai cũng rõ. Ngô Đình Cẩn
đang ở Huế, nghe tin anh bị đảo chính tá túc vào nhà thờ dòng Chúa Cứu
Thế ngày 02/11/1963 nhưng không thoát, tới ngày 16/4/1964 bị xử bắn. Ông
Ngô Đình Luyện thoát vì đang ở London. Ông Ngô Đình Thục phải lưu vong,
sau đó ông đã vi phạm việc tấn phong Giám mục bất hợp thức, được giải
vạ năm 1984 trước khi mất vài tháng. Các phần mộ gia đình họ Ngô ở Sài
Gòn cũng không được yên, phải di dời tới nơi mới như hiện nay.
Tích sử còn dài, nhưng tới đây đủ dãy bày nhân quả.
(FB Lena Morgoun)