Quán Bên Đường
Biệt Đội Úynh Lộn - Võ Ý .
Cải chính tiền phi.
Bài Phi Đoàn 118 và tôi đăng trên ĐSKQ Bắc Cali số Xuân Tân Tỵ đã được dội lại. Chính Tướng Sang, Tư Lệnh SĐVIKQ, từ Cali goi điện qua St Louis trước là hỏi thăm sức khỏe, sau là báo cho thằng em biết Tướng đã đọc bài nầy và nói lời cám ơn đã nhắc đến Tướng. Cấp sau nầy sức khỏe của Tướng không được sung mãn do chứng thiếu dưỡng khí, nhưng tinh thần thì lại rất dư thừa tinh tường, nhất là khi đề cập đến những gì liên hệ đến...bay bổng. Qua điện đàm, Tướng đề cập hai điều.
Một là, Phi Đoàn 118 nhận Giải ba về Phi Diễn nhân Ngày Quân Lực 19/06/73, chứ không phải Giải nhì.
Giải nhất về tay hợp đoàn 6 chiếc AD6 do Trung Tá Đan Hoài Bửu ( hiện ở San José ), Phi Đòan Trưởng PĐ514 lead. Khi bay ngang Khán Đài, hợp đoàn nầy đã thả khói mầu vẽ hình cờ Tổ Quốc, vắt lơ lững trên vòm trời Thủ Đô, trông rất ngoạn mục. Giải nhất về tay hợp đoàn nầy quả thật xứng đáng. Giải nhì về tay hợp đoàn Trực thăng U1H, và giải ba mới về tay hợp đoàn O2 của PĐ118. ( Vì trí nhớ bị chứng lão suy soi mòn chứ không phải cố tình ăn gian không được...bỏ, mong quí vị thông cảm cho người viết, nhất là quý hảo hớn trong hợp đoàn Trực Thăng Giải nhì cuộc Phi Diễn!)
Điều thứ hai Tướng đề cập đến là, khi nói đến Phi Diễn mà nói như trong bài viết thì chỉ có người không ở trong nghề đọc qua và chấp nhận thoải mái, chứ người ở trong nghề thì...không hiểu!
Tôi thắc mắc điểm nầy thì Tướng không trả lời thẳng mà chỉ hé mở : Ít nhất anh phải nói có bao nhiêu hợp đoàn dự tranh phi diễn, chứ PĐ118 chiếm giải ba trong tổng số bốn đội thì có gì là vẽ vang đâu?
Đấy, qúi vị thấy cái tinh tường của một bậc Thầy về phi diễn chưa? Xin cám ơn lòng ưu ái sâu đậm của Tướng đối với Quân Chủng và Đơn Vị. Về gợi ý nầy, tôi thú thật không nhớ có bao nhiêu Hợp đoàn dự tranh. Tôi chỉ biết rằng, ngày đó trên vòm trời Thủ Đô có tất cả các loại phi cơ của Không Lực như Khu Truc AD6, Phản Lực A37, Phản Lực F5E, Trực Thăng UH1B, Trực Thăng Chinook, Vận Tải Caribou, Vận tải C47, Vận Tải C123, Vận Tải C130, và Quan Sát O2. Riêng ngành Quan Sát, có ba loại phi cơ, đó là L19, U17 Cessna và O2. Thượng cấp chỉ cho O2 phi diễn mà thôi. Có 2 Phi Đoàn được trang bị O2, đó là PĐ110 Đà Nẵng và PĐ118 Pleiku. PĐ110 gởi ba chiếc O2 về Biên Hòa làm dự phòng cho sáu chiếc O2 của PĐ118 là đội hình phi diễn chính thức. Các phi công O2 tham dự phi diễn là : KQ Nguyễn Quanh Anh, Đinh Đức Bản ( hiện ở Cali), Nguyễn Huỳnh Hoà (ở Florida), Lu Thái Hưng, Đặng Khởi Quang (ở Việt Nam), Lê Văn Luận (hy sinh Biển Đông), Đoàn Phan (Canada), Nguyễn văn Tiếu (hy sinh trong trại tù) và.. Võ Ý, hiện ở Missouri.
Năm đó, BTL KQ treo ba giải thưởng cho cuộc phi diễn. Việc chấm điểm do Ban Giám Khảo gồm những bậc thầy KQ phụ trách, dựa vào mấy yếu tố như sau :
- Chính xác giờ bay qua Khán Đài. ( giờ TOT).
- Chính xác cao độ.
- Chính xác đội hình (phải cân đối và đẹp như vẽ vậy!)
Như vậy, nếu tính bằng Loại phi cơ dự tranh thì có it nhất là 10 đội. Còn nếu tính theo Đơn vị dự tranh thì con số hợp đoàn phi diễn sẽ cao hơn. Về điểm nầy, kính xin Quý NT và Quý Bạn nào biết rõ thì bổ túc giùm.
Một lần nữa, chúng tôi xin cám ơn Tướng Sang đã ưu ái gọi thăm và xin reo tin vui đến sáu mươi bốn ngàn chiến hữu đệ huynh ( nhóm chữ của cố Tr/Tg TVM), đặc biệt các chiến hữu thuộc SĐVIKQ biết rằng, qua giọng nói nồng nàn tình tự quân chủng, sức khỏe của Tướng có thể đang trên đà phục hồi. Phải chăng đó là tín hiệu xanh, nhắc nhở các hợp đoàn Trấn Sơn (Pleiku) Bình Hải (Phù Cát) biết rằng, giờ nầy Tướng có thể sát cánh với bất cứ đội hình nào thuộc Sư Đoàn VIKQ?
Mừng thay! Mong thay! Và xin ngưng Phần Cải Chính Tiền Phi ở đây.
Vì lãnh thổ Quân Khu II quá rộng và phức tạp về chiến sự cũng như địa thế nên Thượng Cấp quyết định thành lập thêm một Sư Đoàn KQ nữa vào đầu xuân năm 1970. Đó là Sư Đoàn 6 KQ, bản doanh đặt tại Pleiku, trách nhiệm từ Tuy Hoà chạy ra Tam Quan giáp ranh Quảng Ngãi, bao bồm một phần cao nguyên như Phú Bổn, Pleiku, Kontum, Dakto, Buôn Mê Thuộc. Còn Sư Đoàn II KQ tại Nha Trang trách nhiệm từ Tuy Hoà về Phan Thiết, bao gồm một phần cao nguyên qua các tỉnh Tuyên Đức Đà Lạt, Quảng Đức và Lâm Đồng Bảo Lộc.
Qua phân vùng trách nhiệm và do yều cầu của các đơn vị diện địa, Phi Đoàn 118 phối trí Biệt đội thường trực tại các tiểu khu Bình Định Quy Nhơn, Tuy Hoà Chóp Chài, Phù Cát, Kon Tum, Ban Mê Thuột và Phú Bổn.
Cấp úy độc thân biệt phái mỗi kỳ hai tuần đã thấy ngất ngư con tàu đi, nói gì đến mấy đấng lỡ vướng bận thê nhi? Nhưng biết làm sao hơn, chuyện hành quân chứ có phải chuyện hành...lạc đâu mà thích thì chơi, không thích thì xù?
Độc thân đi biệt phái không thắc mắc, đôi khi có vợ con lù lù trong cư xá vẫn muốn xin đi.
Kiểu như đi để trốn thuế. Hay là kiếm thêm thuế để đóng?
Kiểu như đi cho thoát nợ. Hay là để mang thêm nợ?
Ôi không quân danh tiếng muôn đời về khoản thân lừa ưa nặng!
Đời sống Biệt Đội, tùy theo hoàn cảnh cá nhân, được ghi nhận mấy trạng thái hoặc sôi nỗi, hoặc buồn chán, hoặc thơ mộng.
Có người nhờ đi Biệt Đội mà tìm được bạn trăm năm. Như Bắc Đẩu Lê văn Tấn cưới vợ Qui Nhơn, rẽ thúy chia duyên vì biến cố 75. Ra tù đạp xích lô kiếm gạo hộc xì dầu xanh mướt như tàu lá, hiện sống êm đềm hạnh phúc bên người vợ trẻ và đàn con ngoan tại Cali.
Còn Bắc Đẩu Nguyễn văn Di cưới vợ Biệt Đội Buôn Mê Thuột. Sau 75, chú Di vượt thóat một mình, vợ con còn kẹt trong nanh vuốt Cộng sản. Trải qua bao năm tháng khắc khoải đợi chờ, hiện nay Chú Thím Di đang tận hưởng hạnh phúc đoàn viên tại xứ cao bồi Texas.
Cũng có người đã có gia đình, nhờ đi Biệt Đội mà có thêm bồ nhí. Về vụ nầy, chỉ nêu ra đây để...nhớ, chớ làm sao mà nêu danh tánh ra đây cho được? Người KQ nào chẳng tự hào về lòng chung thủy? Còn ba cái chuyện mèo mỡ chỉ là chuyện nhỏ, mấy bà vợ KQ còn không thèm đếm xỉa, thì tội gì phải khai báo chứ?
Điều kiện cần và đủ cho một Biệt Đội Quan Sát là bãi đáp, săng nhớt, nơi ăn chốn ở cho ít nhất ba người, bao gồm hai nhân viên phi hành và một cơ khí viên. Râu ria là phương tiện đưa đón phi hành đoàn, ( không có là không được đấy!)
Bãi đáp có thể bằng đất nện, bằng vĩ sắt, hoặc bằng bêtông. Dù bằng gì đi nữa, phải tương đối bằng phẳng để khi đáp không bị nhảy ngựa dễ gây tai nạn. Bãi đáp ( hay phi trường) đã được mấy ông con nhà chim trời tưởng tựng méo mó hay ví von đủ điều. Tỉ như bãi đáp con nhỏ Minh Khai nhẵn thín như xa lộ không đèn! Còn bãi đáp công nương Hồng Gấm thì lơ thơ tơ liểu buông mành đến thảm khốc v.v...
Qua kinh nghiệm bay đêm bay ngày đạt cả tỉ giờ, hầu hết KQ thích bãi đáp có lún phún tí cỏ gà, trông thì gợi cảm mà áp dụng khoa chiêm tinh bói toán mỗi khi đào hồng hỉ chiếu tận mạng thì rất chi là đại cát, vì dân Pleiku rất mê tín câu sấm giảng của Thần Núi Hàm Rồng, nguyên văn như sau : no hair no lucky, no water no happy!
Thì có gì huyền bí đâu, đó chỉ qua là sự khác biệt giữa phi cơ và phi công. Thử nghiên cứu mấy điều khác biệt căn bản như sau:
Một là, phi cơ thích đáp sân quen (cho ăn chắc). Ngược lại, phi công thích đáp sân lạ. Mackeno cái chuyện lạ, vì trước lạ sau quen, có gì mà sợ chứ? Về điểm nầy, cứ hỏi mấy vị lái phi công thì sẽ rõ!
Hai là, phi cơ thích đáp sân bêtông nhẵn thín ( cho khỏe re con tàu ). Còn phi công thì thích sân gập ghềnh có điểm xuyến tí cỏ gà ( để chứng tỏ sức lực của...người phi công!). Còn chuyện an toàn như thế nào đã thì có Trung Tâm Giám Định Y Khoa và các ông đốc tờ phi hành lo liệu!.
Ba là, trước khi cất cánh, phi cơ cần đổ đầy xăng, còn phi công lại xả cho hết xăng.
Bốn là, trước khi đáp, phi cơ giảm tốc độ bằng cách giảm vòng quay chong chóng, hay còn gọi là vòng RPM, ngược lại phi công thì tăng nhịp đập của tim, để tăng tốc độ khi đáp!.
Năm là, khi đáp xong, phi cơ xếp cánh cản, còn phi công thì ra cánh cản để phè... cánh nhạn!
Sáu là, khi đáp, phi cơ chạm bánh phi đạo phát ra âm thanh kít kít, còn âm thanh của phi công thì tùy từng phi đạo!,
Bảy là, phi cơ càng lên càng nhỏ, ngược lại, phi công càng lên càng lớn!
Tám là, chín là, v.v...
Còn chuyện xăng dầu cho phi cơ cũng là điều đáng quan tâm. Xăng dầu cho phi cơ cánh quạt khác xăng dầu cho phi cơ trực thăng. Đã có trường hợp trực thăng đáp phi trường Cam Ly Đà Lạt được tiếp tế loại xăng dành cho máy bay cánh quạt. Cũng may là phi công vừa cất cánh đã phát hiện kịp thời nên vội bay về CamLy, mất cả tiếng để xả cho hết loại xăng 115/145, và sau đó thay thế loại JP4!
Xăng dầu vừa dành cho phi cơ bay tìm dấu vết địch quân từ trên trời, vừa dành cho chiếc xe hơi biệt phái cho KQ đi tìm giai nhân trên đường phố sau một ngày bay bổng. Ai cũng biết, tiểu chuẩn xăng dành cho xe biệt phái rất hạn chế, chỉ đủ đưa đón phi hành đoàn đi hành quân, chứ không đủ đưa PHĐ đi hành..lạc, nên quân ta đổ đại xăng máy bay để ép buộc chiếc xe lăn bánh đặng tìm thú tiêu khiển trong lúc xa quê! Cái mục nầy thì có thể châm chước, nhưng chôm chỉa hàng tấn xăng dầu đem bán ra ngoài dân lấy tiền đút túi thì...hết biết! Thời đó, BTL KQ có ra một Văn Thư ngăn cấm bảy điều trong Quân Chủng, nôm na là Thất Kỵ. Tôi còn nhớ vài điều như : cấm săn bắn, cấm bán xăng, cấm chở đồ lậu, cấm đáp sân lạ ( tức sân không có ghi trong phi lệnh )v.v.. Công bình mà nói, Thất Kỵ có ảnh hưởng chăng, phải kể đến ngành vận tải và trực thăng. Mấy ông Quan sát nếu có lạng quạng thì như hạt muối bỏ bể. Còn mấy ông Khu trục thì...bù trớt!
Thường thường mỗi kỳ biệt phái là hai tuần. Cũng có nhiều khi lâu hơn do nhu cầu công hoặc tư vụ. Dù ở bất kỳ biệt đội nào, một khi con tim đã biết rung động trước một bóng hình, thì...nhằm nhò gì cái chuyện biệt phái! Đời sống biệt đội thường đơn điệu, nhất là tại những hóc bà tó chó ăn đá gà ăn muối như Phú Bổn, Kontum...Sau một ngày bay bổng, mấy tay con nhà lành, hoặc có gia đình thì tìm thú vui qua sách vở, đánh cờ tướng hoặc xem TV. Mấy tay độc thân hoặc ham vui thì cựa quậy bằng cách nhậu nhẹt, kỳ bẽo ( kỳ là cờ, bẽo là bạc...bẽo, kỳ bẽo là cờ bạc đó bà con à!), nhảy nhót hoặc trai gái mèo mở. Đây là cái mục muôn thuở của kiếp người. Và cái mục tình ái nầy có khi đưa cuộc sống đến chỗ thơ mộng êm đềm, đôi khi sinh ra lắm điều tai hại.
Một trong những điều tai hại ở Biệt Đội là..uýnh lộn, làm sứt mẻ tình đồng đội, trở ngaị chuyện hành quân... Trong đời một người, mấy ai tự hào là không hề biết uýnh lộn?
Vào khoảng năm 1967, Phi Đoàn 114 Nha Trang không thể đặt biệt đội L19 tại căn cứ KQ Pleiku, lý do không an toàn cho Phi hành đoàn. Thời đó giữa Không Quân và Biệt Động Quân hục hặc với nhau, (có thể là vì..gái ), sinh ra uýnh lộn tơi bời trên đường phố Pleiku. Quân Đoàn không biết gì cả. Cũng may, một thời gian sau, vì thấy chuyện đánh giặc hệ trọng hơn chuyện đánh lộn, nên hai bên tự giải quyết êm thắm và biệt đội được phối trí trở lại. Thật hú hồn!
Biệt đội Ban Mê Thuột, thập niên 60, cũng có lần dàn quân đánh nhau với Tiểu Đoàn Pháo Binh đồn trú tại đây. Nguyên do không phải vì gái, mà vì chiếc xe Dodge 4X4 của Đơn vị nầy biệt phái cho Biệt Đội L19 quá bết, không chạy được. Không chạy được thì làm sao đưa phi hành đoàn đi bay? Làm sao đưa phi hành đoàn đi ăn? Làm sao đưa phi hành đoàn đi...xả xú bắp?
Nghĩ rằng, Pháo Binh chơi xấu mình, nhân danh trưởng Biệt đội, tôi vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn Pháo để trình bày hơn thiệt. Không ngờ gặp tay Tiểu Đoàn Phó quá lựu đạn, lên giọng mắng mỏ không biết bảo trì nên xe không chạy! ( mà cũng đúng chứ có oan uổng gì đâủ?) Thế rồi, hai bên choảng nhau bằng lời qua tiếng lại, sau cùng là thượng cẳng tay hạ cẳng chân. Tôi bị tay kiến càng Tiểu Đoàn Phó đánh cho bể cái kiếng Reyban tráng bạc, mốt thời thượng bây giờ. Thật là ức đến lùng bùng lỗ tai!. Phải phục hận mới được!
Ngày chiều hôm đó, sau phi vụ hành quân, chúng tôi khiêu khích Pháo Binh bằng cách bay sát trên nóc nhà Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn để thả công điện thách đấu. Sau đó lại giựt dàn lựu đạn khói đã được cột trên hai càng cách phi cơ để...thị uy nữa!
Đáp xuống là chúng tôi chạy ngay đến B15 cầu viện mấy bạn Lực Lượng Đặc Biệt. Mấy tay nầy bênh vực bạn bằng cách gắn súng đại liên trên xe V100, chạy tuần hành xung quanh Hội Quán Sĩ Quan, là cư xá vãng lai của Phi hành đoàn.
Ngoài LLĐB, chúng tôi còn có mấy bạn thần sầu qủy khốc ở Đại Đội Thám Báo thuộc SĐ23BB tiếp sức nữa! Mọi thành viên trong Biệt Đội yên lòng vì đã có viện binh. Tôi đề nghị các bạn KQ thay thường phục và phục sẵn trong Hội Quán. Riêng tôi vẫn mặc áo bay, súng mang bên ngực, đứng sẵn trước cỗng Hội Quán, chờ đối phương. Thời gian nặng nề như kiểu trong phim cao bồi Jango, rất chi là nghẹt thở. Tôi chống mắt nhìn cho rõ bảng hiệu của từng xe chạy xuôi ngược hay ngừng lại trước Hội Quán.
Bỗng, đây rồi, xe bảng hiệu Pháo Binh! Tay tôi chụp ngay khẩu P38 trong vị thế sẵn sàng.
Một quân nhân từ ghế phải xe jeep bước xuống, vừa khua hai tay vừa nói lớn :
- Xin anh em bình tĩnh! Tôi là Thiếu Tá Ph, Tiểu Đoàn Trưởng Pháo Binh đây! Chuyện gì còn có đó! Chuyện gì cũng giải quyết được! Xin anh em bình tỉnh! Tôi muốn nói chuyện với anh em!
Nhận thấy vị Thiếu tá có vẻ chân thành, hơn nửa, tài xế và vị Sĩ quan theo ông không tỏ dấu hiệu nguy hiểm, tôi bèn lên tiếng :
- Kính chào Thiếu tá, tôi Trung uý VoY, trưởng Biệt Đội KQ, xin được tiếp chuyện với Thiếu tá!
- Chào anh VoY, tôi vừa từ Pleiku về, nghe nói có chuyện rắc rối là phóng ngay tới đây. Cùng đi với tôi là Trung úy Trưởng P4 Tiểu đoàn, đã nhận lệnh thay thế chiếc xe biệt phái nội trong ngày mai. Chuyện dễ như trở bàn tay, sao lại tùm lum ra như vậy được? ( ông quả thật là đàn anh đáng kính! ). Thấy chiều hướng có vẻ sáng sủa, tôi phụ họa:
- Nếu giải quyết như Thiếu tá thì làm sao có chuyện tùm lum nầy được?
- Thôi, ta giải hoà! Nói đoạn ông chià tay ra bắt tay tôi thật chặt, rồi nhắc nhở kiểu ra lệnh :
- Trung úy Trưởng P4, mình mời Biệt Đội KQ kiếm cái gì giải khát chăng?
Lúc nói chuyện chỉ một mình tôi, khi Biệt Đội được mời đi nhậu nhẹt thì đầy đủ bảy mạng, gồm hai phi hành đoàn, hai cơ khí viên và một ALO ( Air Liason Officer ). Hai cơ khí viên là KQ Nguyễn Văn A và Lê Cát Lợi (còn ở Việt Nam), còn KQ Vàng là Alo thì phải. Dù đã được giải hoà, nhưng quân ta vẫn thủ xén trong người cho khỏi áy náy! Bên Pháo Binh kể cả tài xế có ba mạng.
Tưởng chỉ một chầu nhậu đơn sơ, không ngờ là một bửa tiệc linh đình. Tự nhiên được một bửa tiệc chùa, mấy tay KQ nhìn nhau tủm tỉm kiểu đắc chí.
Nhà hàng X đón tiếp đoàn khách hết sức ân cần. Mọi người cụng ly vui vẻ. Trong không khí chi binh huynh đệ, tôi quên bẳng cái kiếng Reyban tráng bạc bị đánh vỡ. Nhưng cảnh giác thì vẫn nhớ, không dzô một trăm phần trăm tận mạng đến say sỉn.
Được nữa buổi tiệc, tôi để ý một điều bất thường là, viên Trung úy P4 nói nhỏ điều gì với tài xế, tài xế rời bàn tiệc ra ngoài. Một lúc sau, viên P4 cứ thấp thỏm trông ngóng. Chính cử chỉ nầy làm tôi ái ngại. Tôi kín đáo thông báo điều ái ngại nầy cho KQ Cát Lợi, nhờ anh rĩ tai các bạn hãy cảnh giác. Còn KQ Văn A thì ra ngoài dò xét.
Chẳng bao lâu, anh tài xế PB và KQ Văn A cùng trở về bàn tiệc. A nháy tôi vào toilet. Chúng tôi đã xả bầu tâm sự đến nhẹ nhỏm tâm thần. Thật hú hồn!
Do không chuẩn bị đạn dược, nhưng lệnh của Thượng cấp là...mời KQ nhậu. Thì nhậu! Tưởng nhậu lai rai ba sợi, không ngờ Thượng cấp đang đói (vì mới công tác Pleiku về) nên gọi thức ăn lia chia. Sĩ Quan P4 kiểm lại hầu bao thì thấy thiếu thuốc...bồi, bèn ra lệnh tài xế về nhà năn nĩ bà Trung úy chi thêm địa.
Có vậy mà cũng bày đặt đa nghi!
Mà thử hỏi, trong hoàn cảnh như vậy, đa nghi cũng là điều tốt đấy chứ!
Chuyện đã xảy ra trên ba mươi lăm năm, nghĩ lại trông không giống con giáp nào. Đó là nông nỗi của tuổi trẻ, đó là niềm kiêu hãnh thái quá về màu cờ sắc áo Đơn Vị, hay đó là hầm bà làng xí cấu tạo thành?
Dù sao, cảnh uýnh lộn vừa kể vẫn có chút chính nghĩa: uýnh lộn vì công vụ (!). Chứ kiểu uýnh lộn vì tư vụ như sau thì quả mắc cở mỗi khi nhắc đến.
Khi tôi trấn thủ Pleiku, bà xã vẫn lưu đồn trong cư xá Nguyễn Vĩnh Ninh cạnh bờ biển Nha Trang, hàng ngày bán bánh mì thịt nguội trước cổng Phi Long. Thỉnh thoảng tôi cũng bay về Nha Trang thăm vợ con đấy chứ! Bẳng một thời gian ít thấy tôi về (vì bận hành quân chứ bộ!), bà xả nghi ngờ. Mà nghi là phải! Tôi không phải là Thánh, bà xã cũng không phải là Thần, bà bèn bỏ cả bán buôn, bỏ cả đám khách hàng quen mặt, bà quá giang tàu bay lên Pleiku bất thần thanh tra Biệt Đội!
Một trong những nguyên tắc của KQ là bất ngờ, bà xã đã dùng gậy ông đập lưng ông. Bà nghĩ trong đầu là nhất định sẽ gặp con đĩ ngựa và sẽ cho nó một bài học về đạo làm người. Những điều bà nghĩ đã không xảy ra. Thay vì mừng có ông chồng..đàng hoàng, bà lại bực dọc vì không bắt được quả tang cái con đĩ ngựa (vu vơ) nào đó! Bà đã truyền nhiểm điều bực dọc đó qua tôi, nên mới có chuyện lãng xẹt như sau :
Để lấy điểm bà xã trong thời gian bà thanh tra Biệt Đội, tôi đưa bà đến những hàng quán nỗi tiếng ở Pleiku như Càphê Dinh Điền, Bún Bò Nhà Xác, phở Diệp Kính v.v..Một sáng chủ nhật đẹp trời, Hiệp V.C ( Vũ Công Hiệp, phi công khu trục, hiện ở San José) rủ vợ chồng tôi dùng bánh cuốn Quân Cảnh, một quán bánh cuốn chánh gốc Thanh Trì rất nỗi tiếng, tọa lạc trước đồn Quân Cảnh Pleiku. Trong suốt buổi ăn sáng, có một tay Sĩ quan Bộ Binh ở bàn đối diện cứ chiếu tướng bà xã một cách lạ lùng. Tôi bực dọc cái nhìn hỗn xược nầy. Đầu óc tôi bắt đầu nghiên cứu trận địa. Bàn đối phương có ba mạng. Chúng tôi cũng có ba, nhưng một là phụ nữ. Không rõ đối phương có ngón nghề gì không, riêng tôi có học căn bản về Quyền Anh thời học sinh ( do KQ võ sĩ Lý Trực Ninh hướng dẫn, hiện ơ Santa Ana). Lúc còn là Sinh viên Sĩ quan Võ bị Đà Lạt, quân trường cũng chỉ dạy tôi đôi thế võ tự vệ và đôi thế vật căn bản về Nhu Đạo. Còn một thế võ gia truyền chỉ được dùng khi thật nguy ngập, đó là võ..ý!
Được cái KQ Hiệp VC là bậc thầy về TakeWondo và VoVinam. Điều kỳ bí nầy do Hiệp tiết lộ nhân một tiệc vui, chứ bình thường người giỏi võ vẫn giữ đúng tinh thần Võ Sĩ Đạo.
Tin tưởng vào phân tích chủ quan trên, nhất là tin tưởng vào ngón nghề và tướng tá chững chạc bề thế của Vũ Công Hiệp, tôi xung trận, ngay sau khi hai bên rời quán :
- Chào Đại úy, đây là bà xã của tôi, cớ sao Đại úy nhìn một cách hỗn xược?
- Chứ Thiếu tá lấy quyền gì mà cấm tôi nhìn? Câu trả lời cứng cựa như một cái tát, đã làm tôi choáng váng. Tôi liền lùi ra, lấy hết sức bình sinh nhảy lên đá vào đối thủ cho hả cơn tức tối. Cái đá quá tồi, ( như thể hết xíu quách ), hay tại đối thủ có ngón nghề đã né tránh tài tình, làm tôi lở bộ ngã té đến bể bàn tọa. Bà xả tôi la hoảng :
- Sao anh làm gì kỳ vậy? Còn Hiệp VC thì lững thửng đến đở tôi dậy và an ủi :
- Thôi anh à, bỏ qua đi anh! Tôi lại càng uất ức. Sao lại bỏ qua cho được? Sao HiệpVC không ra tay bênh vực bạn? Hay là Hiệp VC mậu thầu cái TakWando, mậu dĩ cái VoVinam?
Một thời gian sau, tôi thấm thía cái ngang tàng bậy bạ của mình. Kiểu thùng rỗng kêu to. Và Hiệp VC quả là đệ tử chân truyền của Chính phái Việt Võ Đạo: tự tin, điềm đạm, ôn tồn, quắc thước, chỉ ra tay vì lẽ phải khi thấy cần thiết. Tôi thầm cám ơn Hiệp đã khai ngộ cho tôi về cung cách võ sĩ đạo của một phi công khu trục.
Trong KQ, chắc hẵn nhiều anh đồng đội biết rõ cái chết bi tráng của KQ Phạm văn Thặng, tức Thặng Fulro, tại chiến trường Tây Nguyên mùa hè đỏ lửa 72. Chiếc AD6 Skyrider của Thặng bị trúng đạn phòng không, hư hại bộ phận cánh cản và chân đáp, hai cánh vẫn còn mang bom đạn. Thay vì nhảy dù để thoát thân thì Thặng quyết định đáp khẩn cấp xuống bãi ruộng (forced landing) với hai ý muốn: tránh cảnh con tàu đâm vào nhà dân và bảo toàn một vũ khí lợi hại cho không lực.
Thặng đã hy sinh vì quyết định nhân bản và anh hùng nầy.
Người thứ hai của phi tuần ngày đó là Hiệp VC. Chính Hiệp VC cover Thặng ngay từ lúc đầu bị đạn cho đến lúc con tàu húc vào mô đất và phát hỏa. Hiệp đã khóc tức tưởi nghẹn ngào trên tân số Phi chiến Peacock và trên tần số Đài Kiểm soát Pleiku khi cánh chim lẽ bạn bay về..
Ngày hôm sau, trên Đài Phát Thanh Quân Đội, toàn quân toàn dân Miền Nam đã lắng nghe trong thương tiếc ngậm ngùi bài nói về cái chết bi hùng của một cánh chim Tự Do. Bài nói tràn trề xúc cảm đó đã do Vũ Công Hiệp bứt ruột viết thành.
Đã hơn ba mươi năm qua, tôi ôn tồn bình tĩnh nhắc lại chuyện Hiệp VC như một lời tạ ơn tình đồng đội nghĩa bạn bè.
Gần 9 năm trước đây, lúc mới sang Mỹ, tôi được Hội KQ Bắc Cali mời dự Không Gian Hội Ngộ, lại được anh chị Vũ Công Hiệp mời dùng cơm tại nhà. Tại bửa cơm đoàn viên nầy, qua vận động của gia chủ, đã thu góp ân tình của đồng đội gởi tặng cá nhân tôi một số hiện kim. Số hiện kim gần ba trăm đô đó đã được xung vào qủy ban đầu của Gia Đình Bắc Đẩu 118, để có điều kiện sinh hoạt bước đầu, và Gia Đình Bắc Dẩu vẫn còn sinh hoạt đến ngày nay.
Năm 98, tôi lưu lạc qua San José học hỏi cách điều hành một job mới. Nhưng chắc tài năng hạn hẹp, vả tuổi tác cũng xế chiều, nên đã được mời về vườn một cách êm đềm như nằm trên nệm mút! Những tháng ngày kế là chạy xin việc bở hơi tai, trong đó có cả cảnh ăn theo KQ Phúc Đĩa trong dịch vụ thầu đồ mộc hết sức tài tử nhưng cũng hết sức bấp bênh!
Như cảm nhận được sự khó khăn đó, Hiệp VC lại kín đáo dúi vào lòng tôi cả một tấm lòng đùm bọc yêu thương.
Như một lời tạ ơn? Có thể không là gì cả đối với cánh chim Hào Hiệp Vũ Công Hiệp. Nhưng nếu tôi không bày tỏ lòng biết ơn dù muộn màng, thì quả thật cái thằng tôi không là gì cả!
Nhân đây tôi cũng xin kể một chuyện đánh lộn với bạn đồng minh tại phi trường Nha Trang. Mùa hè năm 1967 thì phải, tôi nhận điện tín của thân mẩu nhắn về Đà Nẵng gấp. Trạm Hàng Không Quân Sự ta không có phi vụ đi Đà Nẵng hôm đó. Tôi qua Trạm Hàng Không Quân Sự Mỹ phía bên kia phi trường, ghi danh. Được một nhân viên VN, cô Hà (?) giúp đở, tôi nhận một vé lên tàu. Đến giờ khởi hành, mọi hành khách đều được gọi tên, trừ tôi. Tôi hỏi người kiểm soát vé, thì được trả lời là vé không hợp lệ! Tôi cho cô Hà biết điều nầy, cô sững sốt, hỏi lại tên hạ sĩ quan Mỹ phụ trách khâu nầy. Tên nầy trả lời với thái độ hách dịch, tôi sùng máu bèn rút khẩu P38 trong túi xách ra chỉa vào nó và hét lớn :
- Mầy không được hỗn với một phụ nữ VN!
Thằng Mỹ hốt hoảng bèn xuống nước trấn an và mở motorola gọi..Quân Cảnh Mỹ. Hai xe jeep MP và hai xe thiết vận xa chở đầy quân nhân Mỹ ập đến bên ngoài Trạm Hàng Không. Tôi không ngờ sự việc lại diễn biến rắc rối nên có phần bối rối. Nhưng đã lỡ cỡi lưng cọp rồi, thì cho tới luôn. Tôi nhảy lên một cái bục và hô lớn :
- Hởi các quân nhân QLVN Cộng Hoà, tôi có Sự Vụ Lệnh đi Đà Nẵng, có vé lên tàu, nhưng người HSQ Mỹ nầy tỏ dấu hiệu phân biệt và khinh thường một Sĩ Quan QLVN CH, đã vô cớ không cho lên tàu! Vì danh dự Quân Đội, xin qúy đồng đội hãy cùng nhau chống lại sự kỳ thị nầy!
Có mấy Sĩ Quan của Tiểu Đoàn Dù đang chờ không vận về Sài Gòn, tò mò hỏi tôi cho rõ cớ sự, bỗng nhận ra nhau là huynh đệ cùng Quân Trường ĐàLạt, họ đáp ứng lời kêu gọi bằng cách ra lệnh Tiểu Đoàn bao vây Trạm Hàng Không Mỹ. Tình hình đang cài thế răng lượt. Tôi chỉa P38 vào tên Mỹ. Hai MP Mỹ chỉa P38 vào lưng tôi. Hai quân nhân Dù chỉa M16 vào lưng hai MP Mỹ.
Trong giây phút nghẹt thở đó, các Sĩ quan hữu trách Việt Mỹ đã đến hiện trường đúng lúc. Phía Việt Nam có Thiếu Tá NV Thiệt, K14 Võ Bị Đà Lạt, là Trưởng Phòng An Ninh KQ Nha Trang, (hiện ở Minnesota), và Đại úy Thiệt (?), K18 Võ Bị Đà Lạt, Chỉ huy Liên đoàn Phòng thủ và Quân Cảnh KQ, (hiện ở Cali). Hai vị nầy cùng vị chỉ huy đơn vị Mỹ mời tôi vào một một Club để..làm việc và giải khát! Viên Sĩ quan Mỹ tỏ thái dộ rất là lịch sự khi y muốn tôi gởi súng tại cửa trước khi vào Club. Tôi không chấp nhận lời yêu cầu nầy, và trả lời :
- Tôi không thấy khát, dù sao cũng xin cám ơn ông!
Cuối cùng họ nhượng bộ quyết định của tôi. Trong câu chuyện, viên Trung tá Mỹ hứa sẽ can thiệp cho tôi đi Đà Nẵng chuyến bay kế.
Tôi được gọi lên chuyến bay kế như lời hứa. Chiếc C130 cất cánh Nha Trang, đáp Cam Ranh để nhận thêm hàng hóa rồi mới bay ra Đà Nẵng. Chưa bao giờ tôi thấy sợ cho bằng chuyến bay nầy. Tôi sợ bọn Mỹ trả thù bằng cách tống cổ xuống biển, vì thời gian trước đó không lâu, có tin đồn họ đã thủ tiêu một tay biệt kích nhị trùng, cũng bằng phương pháp trên.
Thời gian ở Trại tù Hoàng Liên Sơn, tôi có gặp vài Sĩ quan Dù và KQ có mặt tại phi trường Nha rang thuở đó. Họ cho biết là tên NCO Mỹ (hạ sĩ quan) đã bị đổi đi nơi khác, có thể bị tống về Mỹ.
Có hai điều làm tôi suy nghĩ. Một là tên Mỹ nầy lở yêu cô Hà nên y ghen tuông khi thấy cô nầy cấp giấy lên phi cơ cho tôi. Hai là sợ tụi Mỹ còn lưu giữ hồ sơ vụ nầy! Tôi mang nỗi lo nầy cho đến ngày ra tù, khi nộp đơn xin đi HO sợ sẽ bị bác, hoặc dã khi phỏng vấn sẽ bị Mỹ từ chối chăng, bởi vì vài tuần sau khi xảy ra sự việc, Bộ Tư Lệnh KQ cảnh cáo chứ không áp dụng kỹ luật. Đặc biệt, có cả phúc trình của phía Mỹ trong hồ sơ vụ nầy. Họ kết tội dùng vũ khí để ham dọa và dù tôi không chịu gởi súng tại cửa trước khi vào Club như yêu cầu, nhưng họ cũng biết số súng của tôi đấy!
Có sống ở Mỹ mới thấy việc rút súng hăm dọa gây hậu quả nghiêm trọng về mặt pháp lý như thế nào. Thật hú hồn!
Có một chuyện uýnh lộn bằng...võ miệng đã xảy ra vào thập niên 60 tại Câu Lạc Bộ (Aerogare Nha Trang), giữa tôi và không quân Vũ văn Hưng, đã gây tức cười cho các bạn có mặt tại đây. Hưng nguyên là Huấn Luyện Viên Phi Hành thuộc TTHLKQ. Anh cũng là võ sĩ Tak WonDo đai đen thứ thiệt, chứ chẳng phải chơi đâu. Giởn mặt là ốm đòn ngay!
Thời đó, mỗi KQ có chỉ số bay, đều được lảnh một ngân khoản phụ trội phi hành, quy vào bửa ăn trưa do CLB cung cấp. Ai có sẵn cơm nhà quà vợ thì đến Quản Lý CLB để nhận số tiền phụ trội nầy, nôm na là tiền vé ăn trưa.
Một buổi trưa chói chang nắng hè, KQ Hưng lên CLB, vỗ mạnh vào quày và nói :
- Ê!, lãnh vé ăn trưa!
Tôi và các bạn thuộc KĐ62CT đã dùng xong bửa, đang còn lặng lẽ nghỉ ngơi, bỗng nghe tiếng người ê a, chợt nẩy ý đồ chọc ghẹo. Tôi lên tiếng trước :
- Thưa ông Bạn, ở đây là Câu Bộ Lạc Phi Hành, chứ có phải xích lô xe kéo gì đâu mà ê với a? Mới nghe là chạm nọc liền, Vũ văn Hưng sững cồ :
- Tôi không có ý khinh miệt trong tiếng ê a, vậy chứ ông bạn muốn gì?
KQ Huỳnh Hải Hổ, Phi Đoàn Trưởng PĐ235 Pleiku sau nầy, thấy câu chuyện tự nhiên đâm hào hứng, bèn phụ họa châm chọc :
- Hưng à, anh có võ Tak WonDo, ông bạn tôi cũng có võ. Võ ông bạn tôi chỉ cần một ngón tay là cho bạn đo ván ngay thôi!
Hưng bị chọc quê mà không biết, càng tức lồng lộn. Anh vội chạy xuống cầu thang, vừa chỉ ra hướng bãi biển, vừ thách thức tôi:
- Nếu anh ngon thì ra ngoài biễn part corp chơi ngay bây giờ!
- Đã bảo võ...ý chỉ cần một ngón tay thôi mà vẫn cứ hung hăng! KQ Huỳnh Hải Hổ vừa phụ họa vừa duổi ngón tray trỏ thẳng ra, rồi lại co vào, ( ý nói chỉ cần ngón tay trỏ để bóp cò súng thôi!)
Thấy anh em bên Không Đoàn 62 Chiến Thuật cổ vủ trận võ mồm một cách...diểu cợt và cà chớn, KQ Hưng bị quê nên lui binh trong... khinh bỉ và ấm ức!
Thời gian tù đày, Vũ văn Hưng ẩm thực theo phương pháp Osawa, gạo lức muối mè. Khi ra tù, Hưng vẫn muối mè gạo lức. Có thể Hưng coi phương pháp nầy như một thế võ công để hóa giải thế võ...ý chăng? Mấy năm trước đây Hưng ở Virginia, nay đã về Texsa. Dù ở phương trời góc biển nào cũng mong sao Vũ văn Hưng vẫn giữ nguyên hào khí của một KQ, kỵ nhất là đừng phế bỏ võ công nghe Hưng!
Đó là trận đấu võ miệng với người nhà, kết quả 0- 0. Còn trận đấu võ miệng sau đây, kết quả nghiêng hẵn về phía phe ta.
Không quân Nguyễn thành Bích, thuộc khóa đầu thập niên 70, gia nhập Pleiku vào những ngày đầu thành lập Phi Đoàn 118. Người Hố Nai, gốc Bắc kờ đi tàu há mõm, nhỏ thó, gầy ( hẵn là vừa đủ tiêu chuẩn) và độc thân vui tính.
Chuyện xảy ra tại biệt đội Phú Bổn, cách tây nam Pleiku khoảng 120 dặm. Thị xã nầy nhỏ bé, heo hút. Ngoài số cán bộ Quân Cán Chính ăn lương nhà nước, còn người dân thì làm rẫy, chăn nuôi và bán hàng rong.
Trước đây PĐ114 Nha Trang phụ trách Biệt đội Tiểu khu Phú Bổn. Biệt đội nầy chuyển giao cho PĐ118 từ ngày Phi Đoàn nầy ra đời. Hầu như không mấy ai thích nằm ở cái Biệt Đội cheo leo nầy, ngoại trừ KQ Nguyễn Thành Bích. Hẵn là phải có cái gì hấp dẫn đối với chàng ta chứ?
Thì còn gì hấp dẫn cho bằng cái mục...gái?
Ở đâu cũng có hoa đồng cỏ nội, ở đâu cũng có tiếng gọi của con tim. Và kq Bích đã đê mê theo tiếng gọi của sơn nữ Cheo Reo ở cái hóc bà tó nầy ( Phú Bổn còn có tên gọi khác là Cheo Reo). Cứ theo quy luật dân gian, ở đâu có mật ắt phải có ruồi, và kq Bích đâu phải là con Ruồi độc nhất? Một buổi chiều đẹp trời, sau phi vụ, Bích lái xe thẳng đến nhà thăm người đẹp. Bình thường chỉ có hai mái đầu xanh thì không có gì rắc rối, đến khi xuất hiện cái đầu thứ ba thì rắc rối mới nảy ra. Trong trận thư hùng, kq Bích đành phải nhường điểm vì nhỏ con!
Phi đoàn được thông báo, hoa tiêu Biệt Đội Phú Bổn lâm trọng bịnh, cần người thay thế.
Sáng hôm sau, tôi chở một hoa tiêu đáp Phú Bổn, một đổi một. Tại đây, sau khi nghe rõ câu chuyện, tôi mất bình tĩnh, vừa giận vừa thương vừa tức. Giận là giận thằng em đã uýnh lộn vì lý do tầm bậy, thương là thương mặt mày thằng em không giống ai, tức là tức cái đứa đã cậy sức vóc nặng tay với thằng em của mình! Tôi đang nghĩ đến một đường lối hành động hợp lý nhất ( chữ trong bài học CHTM), khả dĩ giải quyết tận gốc vấn đề nầy.
Tôi gọi điện cho Trưởng Phòng An ninh Tiểu khu và được tiếp chuyện với Thiếu tá H. Thời may, trong vài câu xã giao ban đầu, chúng tôi nhận ra nhau là cùng xuất thân quân trường Đà Lạt, ông là Niên trưởng trên tôi một khóa. Khi tôi trình bày thẳng vấn đề an ninh cho phi hành đoàn không bảo đảm, thì buộc lòng chúng tôi phải rút Biệt đội về. Thiếu tá H vẫn chưa hiểu câu chuyện KQ Bích bị một Sĩ quan thuộc một Đơn vị Địa Phương quân hành hung, nhưng khi tang chứng trình diện và kể đầu đuôi câu chuyện thì Thiếu tá H nỗi cơn tam bành. Tôi cảm nhận được ưu thế của mình nên ngây thơ cụ :
- Thưa Niên trưởng, nhờ NT trình bày với Đại tá Tiểu Khu trưởng rằng, hôm nay tôi đến đây để rút Phi hành đoàn về Pleiku và sẽ có Phúc trình gởi lên Quân Đoàn, Bộ Tư Lệnh KQ và cũng sẽ kính thông báo cho Tiểu khu sau!
Thiếu tá H bối rối trước quyết định nầy. Có thể ông sợ Tiểu Khu trưởng khiển trách, nên sốt sắng đề nghị cách giải quyết :
- Toa bình tĩnh, bình tĩnh! Quyền hạn moa giải quyết được vụ nầy, không cần phải đưa lên Đại tá Tỉnh Trưởng? Nói xong, đích thân ông gọi điện mời vị Liên Đoàn Trưởng Địa Phương Quân đến Phòng An Ninh Tiểu Khu làm việc, nhớ đưa ông Thiếu uý hung hãn theo! Chỉ mười phút sau, hai vị khách có mặt tại Phòng An Ninh. Sau vài câu giới thiệu, Thiếu tá H đi thẳng vào vấn đề :
- Vì vấn đề an ninh, Tiểu khu xin đặt một Biệt đội L19 thường trực, bây giờ KQ họ nại cớ là phi công không được bảo vệ, họ đòi rút Biệt đội về, Thiếu tá nghĩ sao?
Đến phiên ông Thiếu tá Địa phương quân bối rối. Tôi lại cảm nhận thêm ưu thế tuyệt đối của mình, nên hướng về ông thiếu úy đô con, thấu cáy :
- Thiếu úy cậy to con ăn hiếp chú em của tôi, vậy tôi đề nghị, mình bỏ hết lon lá, chơi tay đôi, thiếu úy dám chơi không?
Thiếu tá H tưởng tôi làm thật, nhảy vào can quá xá cở. Trong bụng tôi khoái tỉ, nhưng ngoài mặt vẫn tỏ vẻ ấm ức là chưa phục hận được cho thằng em! Ông Thiếu tá Địa phương quân thì sợ chuyện đổ bể lên Tỉnh trưởng, nên muốn xin lỗi giải hoà. Ông nói :
- Tôi nhận hết lỗi nầy, và tôi sẽ có biện pháp kỷ luật với Thiếu úy X sau!
Tôi bồi thêm một yêu cầu :
- Con dại cái mang, chúng tôi rất cảm phục trách nhiệm của cấp chỉ huy như Thiếu tá, nhưng người gây ra vụ nầy cũng phải biết điều như Thiếu tá nữa mới phải chứ!
Cuối cùng thì hai ông sĩ quan trẻ bắt tay nhau với lời xin lỗi của Thiếu úy Địa phương quân. Giải quyết xong vụ nầy, vị Chỉ huy trưởng Địa phương quân mời tất cả ra chợ giải khát.
Chiều hôm đó tôi cất cánh về Pleiku hơi muộn.
Thiếu úy Nguyễn thành Bích xin ở lại Biệt đội Phú Bổn để tiếp tục dệt mộng lành...
Võ Ý
Biên Hùng chuyển
Biệt Đội Úynh Lộn - Võ Ý .
Cải chính tiền phi.
Bài Phi Đoàn 118 và tôi đăng trên ĐSKQ Bắc Cali số Xuân Tân Tỵ đã được dội lại. Chính Tướng Sang, Tư Lệnh SĐVIKQ, từ Cali goi điện qua St Louis trước là hỏi thăm sức khỏe, sau là báo cho thằng em biết Tướng đã đọc bài nầy và nói lời cám ơn đã nhắc đến Tướng. Cấp sau nầy sức khỏe của Tướng không được sung mãn do chứng thiếu dưỡng khí, nhưng tinh thần thì lại rất dư thừa tinh tường, nhất là khi đề cập đến những gì liên hệ đến...bay bổng. Qua điện đàm, Tướng đề cập hai điều.
Một là, Phi Đoàn 118 nhận Giải ba về Phi Diễn nhân Ngày Quân Lực 19/06/73, chứ không phải Giải nhì.
Giải nhất về tay hợp đoàn 6 chiếc AD6 do Trung Tá Đan Hoài Bửu ( hiện ở San José ), Phi Đòan Trưởng PĐ514 lead. Khi bay ngang Khán Đài, hợp đoàn nầy đã thả khói mầu vẽ hình cờ Tổ Quốc, vắt lơ lững trên vòm trời Thủ Đô, trông rất ngoạn mục. Giải nhất về tay hợp đoàn nầy quả thật xứng đáng. Giải nhì về tay hợp đoàn Trực thăng U1H, và giải ba mới về tay hợp đoàn O2 của PĐ118. ( Vì trí nhớ bị chứng lão suy soi mòn chứ không phải cố tình ăn gian không được...bỏ, mong quí vị thông cảm cho người viết, nhất là quý hảo hớn trong hợp đoàn Trực Thăng Giải nhì cuộc Phi Diễn!)
Điều thứ hai Tướng đề cập đến là, khi nói đến Phi Diễn mà nói như trong bài viết thì chỉ có người không ở trong nghề đọc qua và chấp nhận thoải mái, chứ người ở trong nghề thì...không hiểu!
Tôi thắc mắc điểm nầy thì Tướng không trả lời thẳng mà chỉ hé mở : Ít nhất anh phải nói có bao nhiêu hợp đoàn dự tranh phi diễn, chứ PĐ118 chiếm giải ba trong tổng số bốn đội thì có gì là vẽ vang đâu?
Đấy, qúi vị thấy cái tinh tường của một bậc Thầy về phi diễn chưa? Xin cám ơn lòng ưu ái sâu đậm của Tướng đối với Quân Chủng và Đơn Vị. Về gợi ý nầy, tôi thú thật không nhớ có bao nhiêu Hợp đoàn dự tranh. Tôi chỉ biết rằng, ngày đó trên vòm trời Thủ Đô có tất cả các loại phi cơ của Không Lực như Khu Truc AD6, Phản Lực A37, Phản Lực F5E, Trực Thăng UH1B, Trực Thăng Chinook, Vận Tải Caribou, Vận tải C47, Vận Tải C123, Vận Tải C130, và Quan Sát O2. Riêng ngành Quan Sát, có ba loại phi cơ, đó là L19, U17 Cessna và O2. Thượng cấp chỉ cho O2 phi diễn mà thôi. Có 2 Phi Đoàn được trang bị O2, đó là PĐ110 Đà Nẵng và PĐ118 Pleiku. PĐ110 gởi ba chiếc O2 về Biên Hòa làm dự phòng cho sáu chiếc O2 của PĐ118 là đội hình phi diễn chính thức. Các phi công O2 tham dự phi diễn là : KQ Nguyễn Quanh Anh, Đinh Đức Bản ( hiện ở Cali), Nguyễn Huỳnh Hoà (ở Florida), Lu Thái Hưng, Đặng Khởi Quang (ở Việt Nam), Lê Văn Luận (hy sinh Biển Đông), Đoàn Phan (Canada), Nguyễn văn Tiếu (hy sinh trong trại tù) và.. Võ Ý, hiện ở Missouri.
Năm đó, BTL KQ treo ba giải thưởng cho cuộc phi diễn. Việc chấm điểm do Ban Giám Khảo gồm những bậc thầy KQ phụ trách, dựa vào mấy yếu tố như sau :
- Chính xác giờ bay qua Khán Đài. ( giờ TOT).
- Chính xác cao độ.
- Chính xác đội hình (phải cân đối và đẹp như vẽ vậy!)
Như vậy, nếu tính bằng Loại phi cơ dự tranh thì có it nhất là 10 đội. Còn nếu tính theo Đơn vị dự tranh thì con số hợp đoàn phi diễn sẽ cao hơn. Về điểm nầy, kính xin Quý NT và Quý Bạn nào biết rõ thì bổ túc giùm.
Một lần nữa, chúng tôi xin cám ơn Tướng Sang đã ưu ái gọi thăm và xin reo tin vui đến sáu mươi bốn ngàn chiến hữu đệ huynh ( nhóm chữ của cố Tr/Tg TVM), đặc biệt các chiến hữu thuộc SĐVIKQ biết rằng, qua giọng nói nồng nàn tình tự quân chủng, sức khỏe của Tướng có thể đang trên đà phục hồi. Phải chăng đó là tín hiệu xanh, nhắc nhở các hợp đoàn Trấn Sơn (Pleiku) Bình Hải (Phù Cát) biết rằng, giờ nầy Tướng có thể sát cánh với bất cứ đội hình nào thuộc Sư Đoàn VIKQ?
Mừng thay! Mong thay! Và xin ngưng Phần Cải Chính Tiền Phi ở đây.
Vì lãnh thổ Quân Khu II quá rộng và phức tạp về chiến sự cũng như địa thế nên Thượng Cấp quyết định thành lập thêm một Sư Đoàn KQ nữa vào đầu xuân năm 1970. Đó là Sư Đoàn 6 KQ, bản doanh đặt tại Pleiku, trách nhiệm từ Tuy Hoà chạy ra Tam Quan giáp ranh Quảng Ngãi, bao bồm một phần cao nguyên như Phú Bổn, Pleiku, Kontum, Dakto, Buôn Mê Thuộc. Còn Sư Đoàn II KQ tại Nha Trang trách nhiệm từ Tuy Hoà về Phan Thiết, bao gồm một phần cao nguyên qua các tỉnh Tuyên Đức Đà Lạt, Quảng Đức và Lâm Đồng Bảo Lộc.
Qua phân vùng trách nhiệm và do yều cầu của các đơn vị diện địa, Phi Đoàn 118 phối trí Biệt đội thường trực tại các tiểu khu Bình Định Quy Nhơn, Tuy Hoà Chóp Chài, Phù Cát, Kon Tum, Ban Mê Thuột và Phú Bổn.
Cấp úy độc thân biệt phái mỗi kỳ hai tuần đã thấy ngất ngư con tàu đi, nói gì đến mấy đấng lỡ vướng bận thê nhi? Nhưng biết làm sao hơn, chuyện hành quân chứ có phải chuyện hành...lạc đâu mà thích thì chơi, không thích thì xù?
Độc thân đi biệt phái không thắc mắc, đôi khi có vợ con lù lù trong cư xá vẫn muốn xin đi.
Kiểu như đi để trốn thuế. Hay là kiếm thêm thuế để đóng?
Kiểu như đi cho thoát nợ. Hay là để mang thêm nợ?
Ôi không quân danh tiếng muôn đời về khoản thân lừa ưa nặng!
Đời sống Biệt Đội, tùy theo hoàn cảnh cá nhân, được ghi nhận mấy trạng thái hoặc sôi nỗi, hoặc buồn chán, hoặc thơ mộng.
Có người nhờ đi Biệt Đội mà tìm được bạn trăm năm. Như Bắc Đẩu Lê văn Tấn cưới vợ Qui Nhơn, rẽ thúy chia duyên vì biến cố 75. Ra tù đạp xích lô kiếm gạo hộc xì dầu xanh mướt như tàu lá, hiện sống êm đềm hạnh phúc bên người vợ trẻ và đàn con ngoan tại Cali.
Còn Bắc Đẩu Nguyễn văn Di cưới vợ Biệt Đội Buôn Mê Thuột. Sau 75, chú Di vượt thóat một mình, vợ con còn kẹt trong nanh vuốt Cộng sản. Trải qua bao năm tháng khắc khoải đợi chờ, hiện nay Chú Thím Di đang tận hưởng hạnh phúc đoàn viên tại xứ cao bồi Texas.
Cũng có người đã có gia đình, nhờ đi Biệt Đội mà có thêm bồ nhí. Về vụ nầy, chỉ nêu ra đây để...nhớ, chớ làm sao mà nêu danh tánh ra đây cho được? Người KQ nào chẳng tự hào về lòng chung thủy? Còn ba cái chuyện mèo mỡ chỉ là chuyện nhỏ, mấy bà vợ KQ còn không thèm đếm xỉa, thì tội gì phải khai báo chứ?
Điều kiện cần và đủ cho một Biệt Đội Quan Sát là bãi đáp, săng nhớt, nơi ăn chốn ở cho ít nhất ba người, bao gồm hai nhân viên phi hành và một cơ khí viên. Râu ria là phương tiện đưa đón phi hành đoàn, ( không có là không được đấy!)
Bãi đáp có thể bằng đất nện, bằng vĩ sắt, hoặc bằng bêtông. Dù bằng gì đi nữa, phải tương đối bằng phẳng để khi đáp không bị nhảy ngựa dễ gây tai nạn. Bãi đáp ( hay phi trường) đã được mấy ông con nhà chim trời tưởng tựng méo mó hay ví von đủ điều. Tỉ như bãi đáp con nhỏ Minh Khai nhẵn thín như xa lộ không đèn! Còn bãi đáp công nương Hồng Gấm thì lơ thơ tơ liểu buông mành đến thảm khốc v.v...
Qua kinh nghiệm bay đêm bay ngày đạt cả tỉ giờ, hầu hết KQ thích bãi đáp có lún phún tí cỏ gà, trông thì gợi cảm mà áp dụng khoa chiêm tinh bói toán mỗi khi đào hồng hỉ chiếu tận mạng thì rất chi là đại cát, vì dân Pleiku rất mê tín câu sấm giảng của Thần Núi Hàm Rồng, nguyên văn như sau : no hair no lucky, no water no happy!
Thì có gì huyền bí đâu, đó chỉ qua là sự khác biệt giữa phi cơ và phi công. Thử nghiên cứu mấy điều khác biệt căn bản như sau:
Một là, phi cơ thích đáp sân quen (cho ăn chắc). Ngược lại, phi công thích đáp sân lạ. Mackeno cái chuyện lạ, vì trước lạ sau quen, có gì mà sợ chứ? Về điểm nầy, cứ hỏi mấy vị lái phi công thì sẽ rõ!
Hai là, phi cơ thích đáp sân bêtông nhẵn thín ( cho khỏe re con tàu ). Còn phi công thì thích sân gập ghềnh có điểm xuyến tí cỏ gà ( để chứng tỏ sức lực của...người phi công!). Còn chuyện an toàn như thế nào đã thì có Trung Tâm Giám Định Y Khoa và các ông đốc tờ phi hành lo liệu!.
Ba là, trước khi cất cánh, phi cơ cần đổ đầy xăng, còn phi công lại xả cho hết xăng.
Bốn là, trước khi đáp, phi cơ giảm tốc độ bằng cách giảm vòng quay chong chóng, hay còn gọi là vòng RPM, ngược lại phi công thì tăng nhịp đập của tim, để tăng tốc độ khi đáp!.
Năm là, khi đáp xong, phi cơ xếp cánh cản, còn phi công thì ra cánh cản để phè... cánh nhạn!
Sáu là, khi đáp, phi cơ chạm bánh phi đạo phát ra âm thanh kít kít, còn âm thanh của phi công thì tùy từng phi đạo!,
Bảy là, phi cơ càng lên càng nhỏ, ngược lại, phi công càng lên càng lớn!
Tám là, chín là, v.v...
Còn chuyện xăng dầu cho phi cơ cũng là điều đáng quan tâm. Xăng dầu cho phi cơ cánh quạt khác xăng dầu cho phi cơ trực thăng. Đã có trường hợp trực thăng đáp phi trường Cam Ly Đà Lạt được tiếp tế loại xăng dành cho máy bay cánh quạt. Cũng may là phi công vừa cất cánh đã phát hiện kịp thời nên vội bay về CamLy, mất cả tiếng để xả cho hết loại xăng 115/145, và sau đó thay thế loại JP4!
Xăng dầu vừa dành cho phi cơ bay tìm dấu vết địch quân từ trên trời, vừa dành cho chiếc xe hơi biệt phái cho KQ đi tìm giai nhân trên đường phố sau một ngày bay bổng. Ai cũng biết, tiểu chuẩn xăng dành cho xe biệt phái rất hạn chế, chỉ đủ đưa đón phi hành đoàn đi hành quân, chứ không đủ đưa PHĐ đi hành..lạc, nên quân ta đổ đại xăng máy bay để ép buộc chiếc xe lăn bánh đặng tìm thú tiêu khiển trong lúc xa quê! Cái mục nầy thì có thể châm chước, nhưng chôm chỉa hàng tấn xăng dầu đem bán ra ngoài dân lấy tiền đút túi thì...hết biết! Thời đó, BTL KQ có ra một Văn Thư ngăn cấm bảy điều trong Quân Chủng, nôm na là Thất Kỵ. Tôi còn nhớ vài điều như : cấm săn bắn, cấm bán xăng, cấm chở đồ lậu, cấm đáp sân lạ ( tức sân không có ghi trong phi lệnh )v.v.. Công bình mà nói, Thất Kỵ có ảnh hưởng chăng, phải kể đến ngành vận tải và trực thăng. Mấy ông Quan sát nếu có lạng quạng thì như hạt muối bỏ bể. Còn mấy ông Khu trục thì...bù trớt!
Thường thường mỗi kỳ biệt phái là hai tuần. Cũng có nhiều khi lâu hơn do nhu cầu công hoặc tư vụ. Dù ở bất kỳ biệt đội nào, một khi con tim đã biết rung động trước một bóng hình, thì...nhằm nhò gì cái chuyện biệt phái! Đời sống biệt đội thường đơn điệu, nhất là tại những hóc bà tó chó ăn đá gà ăn muối như Phú Bổn, Kontum...Sau một ngày bay bổng, mấy tay con nhà lành, hoặc có gia đình thì tìm thú vui qua sách vở, đánh cờ tướng hoặc xem TV. Mấy tay độc thân hoặc ham vui thì cựa quậy bằng cách nhậu nhẹt, kỳ bẽo ( kỳ là cờ, bẽo là bạc...bẽo, kỳ bẽo là cờ bạc đó bà con à!), nhảy nhót hoặc trai gái mèo mở. Đây là cái mục muôn thuở của kiếp người. Và cái mục tình ái nầy có khi đưa cuộc sống đến chỗ thơ mộng êm đềm, đôi khi sinh ra lắm điều tai hại.
Một trong những điều tai hại ở Biệt Đội là..uýnh lộn, làm sứt mẻ tình đồng đội, trở ngaị chuyện hành quân... Trong đời một người, mấy ai tự hào là không hề biết uýnh lộn?
Vào khoảng năm 1967, Phi Đoàn 114 Nha Trang không thể đặt biệt đội L19 tại căn cứ KQ Pleiku, lý do không an toàn cho Phi hành đoàn. Thời đó giữa Không Quân và Biệt Động Quân hục hặc với nhau, (có thể là vì..gái ), sinh ra uýnh lộn tơi bời trên đường phố Pleiku. Quân Đoàn không biết gì cả. Cũng may, một thời gian sau, vì thấy chuyện đánh giặc hệ trọng hơn chuyện đánh lộn, nên hai bên tự giải quyết êm thắm và biệt đội được phối trí trở lại. Thật hú hồn!
Biệt đội Ban Mê Thuột, thập niên 60, cũng có lần dàn quân đánh nhau với Tiểu Đoàn Pháo Binh đồn trú tại đây. Nguyên do không phải vì gái, mà vì chiếc xe Dodge 4X4 của Đơn vị nầy biệt phái cho Biệt Đội L19 quá bết, không chạy được. Không chạy được thì làm sao đưa phi hành đoàn đi bay? Làm sao đưa phi hành đoàn đi ăn? Làm sao đưa phi hành đoàn đi...xả xú bắp?
Nghĩ rằng, Pháo Binh chơi xấu mình, nhân danh trưởng Biệt đội, tôi vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn Pháo để trình bày hơn thiệt. Không ngờ gặp tay Tiểu Đoàn Phó quá lựu đạn, lên giọng mắng mỏ không biết bảo trì nên xe không chạy! ( mà cũng đúng chứ có oan uổng gì đâủ?) Thế rồi, hai bên choảng nhau bằng lời qua tiếng lại, sau cùng là thượng cẳng tay hạ cẳng chân. Tôi bị tay kiến càng Tiểu Đoàn Phó đánh cho bể cái kiếng Reyban tráng bạc, mốt thời thượng bây giờ. Thật là ức đến lùng bùng lỗ tai!. Phải phục hận mới được!
Ngày chiều hôm đó, sau phi vụ hành quân, chúng tôi khiêu khích Pháo Binh bằng cách bay sát trên nóc nhà Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn để thả công điện thách đấu. Sau đó lại giựt dàn lựu đạn khói đã được cột trên hai càng cách phi cơ để...thị uy nữa!
Đáp xuống là chúng tôi chạy ngay đến B15 cầu viện mấy bạn Lực Lượng Đặc Biệt. Mấy tay nầy bênh vực bạn bằng cách gắn súng đại liên trên xe V100, chạy tuần hành xung quanh Hội Quán Sĩ Quan, là cư xá vãng lai của Phi hành đoàn.
Ngoài LLĐB, chúng tôi còn có mấy bạn thần sầu qủy khốc ở Đại Đội Thám Báo thuộc SĐ23BB tiếp sức nữa! Mọi thành viên trong Biệt Đội yên lòng vì đã có viện binh. Tôi đề nghị các bạn KQ thay thường phục và phục sẵn trong Hội Quán. Riêng tôi vẫn mặc áo bay, súng mang bên ngực, đứng sẵn trước cỗng Hội Quán, chờ đối phương. Thời gian nặng nề như kiểu trong phim cao bồi Jango, rất chi là nghẹt thở. Tôi chống mắt nhìn cho rõ bảng hiệu của từng xe chạy xuôi ngược hay ngừng lại trước Hội Quán.
Bỗng, đây rồi, xe bảng hiệu Pháo Binh! Tay tôi chụp ngay khẩu P38 trong vị thế sẵn sàng.
Một quân nhân từ ghế phải xe jeep bước xuống, vừa khua hai tay vừa nói lớn :
- Xin anh em bình tĩnh! Tôi là Thiếu Tá Ph, Tiểu Đoàn Trưởng Pháo Binh đây! Chuyện gì còn có đó! Chuyện gì cũng giải quyết được! Xin anh em bình tỉnh! Tôi muốn nói chuyện với anh em!
Nhận thấy vị Thiếu tá có vẻ chân thành, hơn nửa, tài xế và vị Sĩ quan theo ông không tỏ dấu hiệu nguy hiểm, tôi bèn lên tiếng :
- Kính chào Thiếu tá, tôi Trung uý VoY, trưởng Biệt Đội KQ, xin được tiếp chuyện với Thiếu tá!
- Chào anh VoY, tôi vừa từ Pleiku về, nghe nói có chuyện rắc rối là phóng ngay tới đây. Cùng đi với tôi là Trung úy Trưởng P4 Tiểu đoàn, đã nhận lệnh thay thế chiếc xe biệt phái nội trong ngày mai. Chuyện dễ như trở bàn tay, sao lại tùm lum ra như vậy được? ( ông quả thật là đàn anh đáng kính! ). Thấy chiều hướng có vẻ sáng sủa, tôi phụ họa:
- Nếu giải quyết như Thiếu tá thì làm sao có chuyện tùm lum nầy được?
- Thôi, ta giải hoà! Nói đoạn ông chià tay ra bắt tay tôi thật chặt, rồi nhắc nhở kiểu ra lệnh :
- Trung úy Trưởng P4, mình mời Biệt Đội KQ kiếm cái gì giải khát chăng?
Lúc nói chuyện chỉ một mình tôi, khi Biệt Đội được mời đi nhậu nhẹt thì đầy đủ bảy mạng, gồm hai phi hành đoàn, hai cơ khí viên và một ALO ( Air Liason Officer ). Hai cơ khí viên là KQ Nguyễn Văn A và Lê Cát Lợi (còn ở Việt Nam), còn KQ Vàng là Alo thì phải. Dù đã được giải hoà, nhưng quân ta vẫn thủ xén trong người cho khỏi áy náy! Bên Pháo Binh kể cả tài xế có ba mạng.
Tưởng chỉ một chầu nhậu đơn sơ, không ngờ là một bửa tiệc linh đình. Tự nhiên được một bửa tiệc chùa, mấy tay KQ nhìn nhau tủm tỉm kiểu đắc chí.
Nhà hàng X đón tiếp đoàn khách hết sức ân cần. Mọi người cụng ly vui vẻ. Trong không khí chi binh huynh đệ, tôi quên bẳng cái kiếng Reyban tráng bạc bị đánh vỡ. Nhưng cảnh giác thì vẫn nhớ, không dzô một trăm phần trăm tận mạng đến say sỉn.
Được nữa buổi tiệc, tôi để ý một điều bất thường là, viên Trung úy P4 nói nhỏ điều gì với tài xế, tài xế rời bàn tiệc ra ngoài. Một lúc sau, viên P4 cứ thấp thỏm trông ngóng. Chính cử chỉ nầy làm tôi ái ngại. Tôi kín đáo thông báo điều ái ngại nầy cho KQ Cát Lợi, nhờ anh rĩ tai các bạn hãy cảnh giác. Còn KQ Văn A thì ra ngoài dò xét.
Chẳng bao lâu, anh tài xế PB và KQ Văn A cùng trở về bàn tiệc. A nháy tôi vào toilet. Chúng tôi đã xả bầu tâm sự đến nhẹ nhỏm tâm thần. Thật hú hồn!
Do không chuẩn bị đạn dược, nhưng lệnh của Thượng cấp là...mời KQ nhậu. Thì nhậu! Tưởng nhậu lai rai ba sợi, không ngờ Thượng cấp đang đói (vì mới công tác Pleiku về) nên gọi thức ăn lia chia. Sĩ Quan P4 kiểm lại hầu bao thì thấy thiếu thuốc...bồi, bèn ra lệnh tài xế về nhà năn nĩ bà Trung úy chi thêm địa.
Có vậy mà cũng bày đặt đa nghi!
Mà thử hỏi, trong hoàn cảnh như vậy, đa nghi cũng là điều tốt đấy chứ!
Chuyện đã xảy ra trên ba mươi lăm năm, nghĩ lại trông không giống con giáp nào. Đó là nông nỗi của tuổi trẻ, đó là niềm kiêu hãnh thái quá về màu cờ sắc áo Đơn Vị, hay đó là hầm bà làng xí cấu tạo thành?
Dù sao, cảnh uýnh lộn vừa kể vẫn có chút chính nghĩa: uýnh lộn vì công vụ (!). Chứ kiểu uýnh lộn vì tư vụ như sau thì quả mắc cở mỗi khi nhắc đến.
Khi tôi trấn thủ Pleiku, bà xã vẫn lưu đồn trong cư xá Nguyễn Vĩnh Ninh cạnh bờ biển Nha Trang, hàng ngày bán bánh mì thịt nguội trước cổng Phi Long. Thỉnh thoảng tôi cũng bay về Nha Trang thăm vợ con đấy chứ! Bẳng một thời gian ít thấy tôi về (vì bận hành quân chứ bộ!), bà xả nghi ngờ. Mà nghi là phải! Tôi không phải là Thánh, bà xã cũng không phải là Thần, bà bèn bỏ cả bán buôn, bỏ cả đám khách hàng quen mặt, bà quá giang tàu bay lên Pleiku bất thần thanh tra Biệt Đội!
Một trong những nguyên tắc của KQ là bất ngờ, bà xã đã dùng gậy ông đập lưng ông. Bà nghĩ trong đầu là nhất định sẽ gặp con đĩ ngựa và sẽ cho nó một bài học về đạo làm người. Những điều bà nghĩ đã không xảy ra. Thay vì mừng có ông chồng..đàng hoàng, bà lại bực dọc vì không bắt được quả tang cái con đĩ ngựa (vu vơ) nào đó! Bà đã truyền nhiểm điều bực dọc đó qua tôi, nên mới có chuyện lãng xẹt như sau :
Để lấy điểm bà xã trong thời gian bà thanh tra Biệt Đội, tôi đưa bà đến những hàng quán nỗi tiếng ở Pleiku như Càphê Dinh Điền, Bún Bò Nhà Xác, phở Diệp Kính v.v..Một sáng chủ nhật đẹp trời, Hiệp V.C ( Vũ Công Hiệp, phi công khu trục, hiện ở San José) rủ vợ chồng tôi dùng bánh cuốn Quân Cảnh, một quán bánh cuốn chánh gốc Thanh Trì rất nỗi tiếng, tọa lạc trước đồn Quân Cảnh Pleiku. Trong suốt buổi ăn sáng, có một tay Sĩ quan Bộ Binh ở bàn đối diện cứ chiếu tướng bà xã một cách lạ lùng. Tôi bực dọc cái nhìn hỗn xược nầy. Đầu óc tôi bắt đầu nghiên cứu trận địa. Bàn đối phương có ba mạng. Chúng tôi cũng có ba, nhưng một là phụ nữ. Không rõ đối phương có ngón nghề gì không, riêng tôi có học căn bản về Quyền Anh thời học sinh ( do KQ võ sĩ Lý Trực Ninh hướng dẫn, hiện ơ Santa Ana). Lúc còn là Sinh viên Sĩ quan Võ bị Đà Lạt, quân trường cũng chỉ dạy tôi đôi thế võ tự vệ và đôi thế vật căn bản về Nhu Đạo. Còn một thế võ gia truyền chỉ được dùng khi thật nguy ngập, đó là võ..ý!
Được cái KQ Hiệp VC là bậc thầy về TakeWondo và VoVinam. Điều kỳ bí nầy do Hiệp tiết lộ nhân một tiệc vui, chứ bình thường người giỏi võ vẫn giữ đúng tinh thần Võ Sĩ Đạo.
Tin tưởng vào phân tích chủ quan trên, nhất là tin tưởng vào ngón nghề và tướng tá chững chạc bề thế của Vũ Công Hiệp, tôi xung trận, ngay sau khi hai bên rời quán :
- Chào Đại úy, đây là bà xã của tôi, cớ sao Đại úy nhìn một cách hỗn xược?
- Chứ Thiếu tá lấy quyền gì mà cấm tôi nhìn? Câu trả lời cứng cựa như một cái tát, đã làm tôi choáng váng. Tôi liền lùi ra, lấy hết sức bình sinh nhảy lên đá vào đối thủ cho hả cơn tức tối. Cái đá quá tồi, ( như thể hết xíu quách ), hay tại đối thủ có ngón nghề đã né tránh tài tình, làm tôi lở bộ ngã té đến bể bàn tọa. Bà xả tôi la hoảng :
- Sao anh làm gì kỳ vậy? Còn Hiệp VC thì lững thửng đến đở tôi dậy và an ủi :
- Thôi anh à, bỏ qua đi anh! Tôi lại càng uất ức. Sao lại bỏ qua cho được? Sao HiệpVC không ra tay bênh vực bạn? Hay là Hiệp VC mậu thầu cái TakWando, mậu dĩ cái VoVinam?
Một thời gian sau, tôi thấm thía cái ngang tàng bậy bạ của mình. Kiểu thùng rỗng kêu to. Và Hiệp VC quả là đệ tử chân truyền của Chính phái Việt Võ Đạo: tự tin, điềm đạm, ôn tồn, quắc thước, chỉ ra tay vì lẽ phải khi thấy cần thiết. Tôi thầm cám ơn Hiệp đã khai ngộ cho tôi về cung cách võ sĩ đạo của một phi công khu trục.
Trong KQ, chắc hẵn nhiều anh đồng đội biết rõ cái chết bi tráng của KQ Phạm văn Thặng, tức Thặng Fulro, tại chiến trường Tây Nguyên mùa hè đỏ lửa 72. Chiếc AD6 Skyrider của Thặng bị trúng đạn phòng không, hư hại bộ phận cánh cản và chân đáp, hai cánh vẫn còn mang bom đạn. Thay vì nhảy dù để thoát thân thì Thặng quyết định đáp khẩn cấp xuống bãi ruộng (forced landing) với hai ý muốn: tránh cảnh con tàu đâm vào nhà dân và bảo toàn một vũ khí lợi hại cho không lực.
Thặng đã hy sinh vì quyết định nhân bản và anh hùng nầy.
Người thứ hai của phi tuần ngày đó là Hiệp VC. Chính Hiệp VC cover Thặng ngay từ lúc đầu bị đạn cho đến lúc con tàu húc vào mô đất và phát hỏa. Hiệp đã khóc tức tưởi nghẹn ngào trên tân số Phi chiến Peacock và trên tần số Đài Kiểm soát Pleiku khi cánh chim lẽ bạn bay về..
Ngày hôm sau, trên Đài Phát Thanh Quân Đội, toàn quân toàn dân Miền Nam đã lắng nghe trong thương tiếc ngậm ngùi bài nói về cái chết bi hùng của một cánh chim Tự Do. Bài nói tràn trề xúc cảm đó đã do Vũ Công Hiệp bứt ruột viết thành.
Đã hơn ba mươi năm qua, tôi ôn tồn bình tĩnh nhắc lại chuyện Hiệp VC như một lời tạ ơn tình đồng đội nghĩa bạn bè.
Gần 9 năm trước đây, lúc mới sang Mỹ, tôi được Hội KQ Bắc Cali mời dự Không Gian Hội Ngộ, lại được anh chị Vũ Công Hiệp mời dùng cơm tại nhà. Tại bửa cơm đoàn viên nầy, qua vận động của gia chủ, đã thu góp ân tình của đồng đội gởi tặng cá nhân tôi một số hiện kim. Số hiện kim gần ba trăm đô đó đã được xung vào qủy ban đầu của Gia Đình Bắc Đẩu 118, để có điều kiện sinh hoạt bước đầu, và Gia Đình Bắc Dẩu vẫn còn sinh hoạt đến ngày nay.
Năm 98, tôi lưu lạc qua San José học hỏi cách điều hành một job mới. Nhưng chắc tài năng hạn hẹp, vả tuổi tác cũng xế chiều, nên đã được mời về vườn một cách êm đềm như nằm trên nệm mút! Những tháng ngày kế là chạy xin việc bở hơi tai, trong đó có cả cảnh ăn theo KQ Phúc Đĩa trong dịch vụ thầu đồ mộc hết sức tài tử nhưng cũng hết sức bấp bênh!
Như cảm nhận được sự khó khăn đó, Hiệp VC lại kín đáo dúi vào lòng tôi cả một tấm lòng đùm bọc yêu thương.
Như một lời tạ ơn? Có thể không là gì cả đối với cánh chim Hào Hiệp Vũ Công Hiệp. Nhưng nếu tôi không bày tỏ lòng biết ơn dù muộn màng, thì quả thật cái thằng tôi không là gì cả!
Nhân đây tôi cũng xin kể một chuyện đánh lộn với bạn đồng minh tại phi trường Nha Trang. Mùa hè năm 1967 thì phải, tôi nhận điện tín của thân mẩu nhắn về Đà Nẵng gấp. Trạm Hàng Không Quân Sự ta không có phi vụ đi Đà Nẵng hôm đó. Tôi qua Trạm Hàng Không Quân Sự Mỹ phía bên kia phi trường, ghi danh. Được một nhân viên VN, cô Hà (?) giúp đở, tôi nhận một vé lên tàu. Đến giờ khởi hành, mọi hành khách đều được gọi tên, trừ tôi. Tôi hỏi người kiểm soát vé, thì được trả lời là vé không hợp lệ! Tôi cho cô Hà biết điều nầy, cô sững sốt, hỏi lại tên hạ sĩ quan Mỹ phụ trách khâu nầy. Tên nầy trả lời với thái độ hách dịch, tôi sùng máu bèn rút khẩu P38 trong túi xách ra chỉa vào nó và hét lớn :
- Mầy không được hỗn với một phụ nữ VN!
Thằng Mỹ hốt hoảng bèn xuống nước trấn an và mở motorola gọi..Quân Cảnh Mỹ. Hai xe jeep MP và hai xe thiết vận xa chở đầy quân nhân Mỹ ập đến bên ngoài Trạm Hàng Không. Tôi không ngờ sự việc lại diễn biến rắc rối nên có phần bối rối. Nhưng đã lỡ cỡi lưng cọp rồi, thì cho tới luôn. Tôi nhảy lên một cái bục và hô lớn :
- Hởi các quân nhân QLVN Cộng Hoà, tôi có Sự Vụ Lệnh đi Đà Nẵng, có vé lên tàu, nhưng người HSQ Mỹ nầy tỏ dấu hiệu phân biệt và khinh thường một Sĩ Quan QLVN CH, đã vô cớ không cho lên tàu! Vì danh dự Quân Đội, xin qúy đồng đội hãy cùng nhau chống lại sự kỳ thị nầy!
Có mấy Sĩ Quan của Tiểu Đoàn Dù đang chờ không vận về Sài Gòn, tò mò hỏi tôi cho rõ cớ sự, bỗng nhận ra nhau là huynh đệ cùng Quân Trường ĐàLạt, họ đáp ứng lời kêu gọi bằng cách ra lệnh Tiểu Đoàn bao vây Trạm Hàng Không Mỹ. Tình hình đang cài thế răng lượt. Tôi chỉa P38 vào tên Mỹ. Hai MP Mỹ chỉa P38 vào lưng tôi. Hai quân nhân Dù chỉa M16 vào lưng hai MP Mỹ.
Trong giây phút nghẹt thở đó, các Sĩ quan hữu trách Việt Mỹ đã đến hiện trường đúng lúc. Phía Việt Nam có Thiếu Tá NV Thiệt, K14 Võ Bị Đà Lạt, là Trưởng Phòng An Ninh KQ Nha Trang, (hiện ở Minnesota), và Đại úy Thiệt (?), K18 Võ Bị Đà Lạt, Chỉ huy Liên đoàn Phòng thủ và Quân Cảnh KQ, (hiện ở Cali). Hai vị nầy cùng vị chỉ huy đơn vị Mỹ mời tôi vào một một Club để..làm việc và giải khát! Viên Sĩ quan Mỹ tỏ thái dộ rất là lịch sự khi y muốn tôi gởi súng tại cửa trước khi vào Club. Tôi không chấp nhận lời yêu cầu nầy, và trả lời :
- Tôi không thấy khát, dù sao cũng xin cám ơn ông!
Cuối cùng họ nhượng bộ quyết định của tôi. Trong câu chuyện, viên Trung tá Mỹ hứa sẽ can thiệp cho tôi đi Đà Nẵng chuyến bay kế.
Tôi được gọi lên chuyến bay kế như lời hứa. Chiếc C130 cất cánh Nha Trang, đáp Cam Ranh để nhận thêm hàng hóa rồi mới bay ra Đà Nẵng. Chưa bao giờ tôi thấy sợ cho bằng chuyến bay nầy. Tôi sợ bọn Mỹ trả thù bằng cách tống cổ xuống biển, vì thời gian trước đó không lâu, có tin đồn họ đã thủ tiêu một tay biệt kích nhị trùng, cũng bằng phương pháp trên.
Thời gian ở Trại tù Hoàng Liên Sơn, tôi có gặp vài Sĩ quan Dù và KQ có mặt tại phi trường Nha rang thuở đó. Họ cho biết là tên NCO Mỹ (hạ sĩ quan) đã bị đổi đi nơi khác, có thể bị tống về Mỹ.
Có hai điều làm tôi suy nghĩ. Một là tên Mỹ nầy lở yêu cô Hà nên y ghen tuông khi thấy cô nầy cấp giấy lên phi cơ cho tôi. Hai là sợ tụi Mỹ còn lưu giữ hồ sơ vụ nầy! Tôi mang nỗi lo nầy cho đến ngày ra tù, khi nộp đơn xin đi HO sợ sẽ bị bác, hoặc dã khi phỏng vấn sẽ bị Mỹ từ chối chăng, bởi vì vài tuần sau khi xảy ra sự việc, Bộ Tư Lệnh KQ cảnh cáo chứ không áp dụng kỹ luật. Đặc biệt, có cả phúc trình của phía Mỹ trong hồ sơ vụ nầy. Họ kết tội dùng vũ khí để ham dọa và dù tôi không chịu gởi súng tại cửa trước khi vào Club như yêu cầu, nhưng họ cũng biết số súng của tôi đấy!
Có sống ở Mỹ mới thấy việc rút súng hăm dọa gây hậu quả nghiêm trọng về mặt pháp lý như thế nào. Thật hú hồn!
Có một chuyện uýnh lộn bằng...võ miệng đã xảy ra vào thập niên 60 tại Câu Lạc Bộ (Aerogare Nha Trang), giữa tôi và không quân Vũ văn Hưng, đã gây tức cười cho các bạn có mặt tại đây. Hưng nguyên là Huấn Luyện Viên Phi Hành thuộc TTHLKQ. Anh cũng là võ sĩ Tak WonDo đai đen thứ thiệt, chứ chẳng phải chơi đâu. Giởn mặt là ốm đòn ngay!
Thời đó, mỗi KQ có chỉ số bay, đều được lảnh một ngân khoản phụ trội phi hành, quy vào bửa ăn trưa do CLB cung cấp. Ai có sẵn cơm nhà quà vợ thì đến Quản Lý CLB để nhận số tiền phụ trội nầy, nôm na là tiền vé ăn trưa.
Một buổi trưa chói chang nắng hè, KQ Hưng lên CLB, vỗ mạnh vào quày và nói :
- Ê!, lãnh vé ăn trưa!
Tôi và các bạn thuộc KĐ62CT đã dùng xong bửa, đang còn lặng lẽ nghỉ ngơi, bỗng nghe tiếng người ê a, chợt nẩy ý đồ chọc ghẹo. Tôi lên tiếng trước :
- Thưa ông Bạn, ở đây là Câu Bộ Lạc Phi Hành, chứ có phải xích lô xe kéo gì đâu mà ê với a? Mới nghe là chạm nọc liền, Vũ văn Hưng sững cồ :
- Tôi không có ý khinh miệt trong tiếng ê a, vậy chứ ông bạn muốn gì?
KQ Huỳnh Hải Hổ, Phi Đoàn Trưởng PĐ235 Pleiku sau nầy, thấy câu chuyện tự nhiên đâm hào hứng, bèn phụ họa châm chọc :
- Hưng à, anh có võ Tak WonDo, ông bạn tôi cũng có võ. Võ ông bạn tôi chỉ cần một ngón tay là cho bạn đo ván ngay thôi!
Hưng bị chọc quê mà không biết, càng tức lồng lộn. Anh vội chạy xuống cầu thang, vừa chỉ ra hướng bãi biển, vừ thách thức tôi:
- Nếu anh ngon thì ra ngoài biễn part corp chơi ngay bây giờ!
- Đã bảo võ...ý chỉ cần một ngón tay thôi mà vẫn cứ hung hăng! KQ Huỳnh Hải Hổ vừa phụ họa vừa duổi ngón tray trỏ thẳng ra, rồi lại co vào, ( ý nói chỉ cần ngón tay trỏ để bóp cò súng thôi!)
Thấy anh em bên Không Đoàn 62 Chiến Thuật cổ vủ trận võ mồm một cách...diểu cợt và cà chớn, KQ Hưng bị quê nên lui binh trong... khinh bỉ và ấm ức!
Thời gian tù đày, Vũ văn Hưng ẩm thực theo phương pháp Osawa, gạo lức muối mè. Khi ra tù, Hưng vẫn muối mè gạo lức. Có thể Hưng coi phương pháp nầy như một thế võ công để hóa giải thế võ...ý chăng? Mấy năm trước đây Hưng ở Virginia, nay đã về Texsa. Dù ở phương trời góc biển nào cũng mong sao Vũ văn Hưng vẫn giữ nguyên hào khí của một KQ, kỵ nhất là đừng phế bỏ võ công nghe Hưng!
Đó là trận đấu võ miệng với người nhà, kết quả 0- 0. Còn trận đấu võ miệng sau đây, kết quả nghiêng hẵn về phía phe ta.
Không quân Nguyễn thành Bích, thuộc khóa đầu thập niên 70, gia nhập Pleiku vào những ngày đầu thành lập Phi Đoàn 118. Người Hố Nai, gốc Bắc kờ đi tàu há mõm, nhỏ thó, gầy ( hẵn là vừa đủ tiêu chuẩn) và độc thân vui tính.
Chuyện xảy ra tại biệt đội Phú Bổn, cách tây nam Pleiku khoảng 120 dặm. Thị xã nầy nhỏ bé, heo hút. Ngoài số cán bộ Quân Cán Chính ăn lương nhà nước, còn người dân thì làm rẫy, chăn nuôi và bán hàng rong.
Trước đây PĐ114 Nha Trang phụ trách Biệt đội Tiểu khu Phú Bổn. Biệt đội nầy chuyển giao cho PĐ118 từ ngày Phi Đoàn nầy ra đời. Hầu như không mấy ai thích nằm ở cái Biệt Đội cheo leo nầy, ngoại trừ KQ Nguyễn Thành Bích. Hẵn là phải có cái gì hấp dẫn đối với chàng ta chứ?
Thì còn gì hấp dẫn cho bằng cái mục...gái?
Ở đâu cũng có hoa đồng cỏ nội, ở đâu cũng có tiếng gọi của con tim. Và kq Bích đã đê mê theo tiếng gọi của sơn nữ Cheo Reo ở cái hóc bà tó nầy ( Phú Bổn còn có tên gọi khác là Cheo Reo). Cứ theo quy luật dân gian, ở đâu có mật ắt phải có ruồi, và kq Bích đâu phải là con Ruồi độc nhất? Một buổi chiều đẹp trời, sau phi vụ, Bích lái xe thẳng đến nhà thăm người đẹp. Bình thường chỉ có hai mái đầu xanh thì không có gì rắc rối, đến khi xuất hiện cái đầu thứ ba thì rắc rối mới nảy ra. Trong trận thư hùng, kq Bích đành phải nhường điểm vì nhỏ con!
Phi đoàn được thông báo, hoa tiêu Biệt Đội Phú Bổn lâm trọng bịnh, cần người thay thế.
Sáng hôm sau, tôi chở một hoa tiêu đáp Phú Bổn, một đổi một. Tại đây, sau khi nghe rõ câu chuyện, tôi mất bình tĩnh, vừa giận vừa thương vừa tức. Giận là giận thằng em đã uýnh lộn vì lý do tầm bậy, thương là thương mặt mày thằng em không giống ai, tức là tức cái đứa đã cậy sức vóc nặng tay với thằng em của mình! Tôi đang nghĩ đến một đường lối hành động hợp lý nhất ( chữ trong bài học CHTM), khả dĩ giải quyết tận gốc vấn đề nầy.
Tôi gọi điện cho Trưởng Phòng An ninh Tiểu khu và được tiếp chuyện với Thiếu tá H. Thời may, trong vài câu xã giao ban đầu, chúng tôi nhận ra nhau là cùng xuất thân quân trường Đà Lạt, ông là Niên trưởng trên tôi một khóa. Khi tôi trình bày thẳng vấn đề an ninh cho phi hành đoàn không bảo đảm, thì buộc lòng chúng tôi phải rút Biệt đội về. Thiếu tá H vẫn chưa hiểu câu chuyện KQ Bích bị một Sĩ quan thuộc một Đơn vị Địa Phương quân hành hung, nhưng khi tang chứng trình diện và kể đầu đuôi câu chuyện thì Thiếu tá H nỗi cơn tam bành. Tôi cảm nhận được ưu thế của mình nên ngây thơ cụ :
- Thưa Niên trưởng, nhờ NT trình bày với Đại tá Tiểu Khu trưởng rằng, hôm nay tôi đến đây để rút Phi hành đoàn về Pleiku và sẽ có Phúc trình gởi lên Quân Đoàn, Bộ Tư Lệnh KQ và cũng sẽ kính thông báo cho Tiểu khu sau!
Thiếu tá H bối rối trước quyết định nầy. Có thể ông sợ Tiểu Khu trưởng khiển trách, nên sốt sắng đề nghị cách giải quyết :
- Toa bình tĩnh, bình tĩnh! Quyền hạn moa giải quyết được vụ nầy, không cần phải đưa lên Đại tá Tỉnh Trưởng? Nói xong, đích thân ông gọi điện mời vị Liên Đoàn Trưởng Địa Phương Quân đến Phòng An Ninh Tiểu Khu làm việc, nhớ đưa ông Thiếu uý hung hãn theo! Chỉ mười phút sau, hai vị khách có mặt tại Phòng An Ninh. Sau vài câu giới thiệu, Thiếu tá H đi thẳng vào vấn đề :
- Vì vấn đề an ninh, Tiểu khu xin đặt một Biệt đội L19 thường trực, bây giờ KQ họ nại cớ là phi công không được bảo vệ, họ đòi rút Biệt đội về, Thiếu tá nghĩ sao?
Đến phiên ông Thiếu tá Địa phương quân bối rối. Tôi lại cảm nhận thêm ưu thế tuyệt đối của mình, nên hướng về ông thiếu úy đô con, thấu cáy :
- Thiếu úy cậy to con ăn hiếp chú em của tôi, vậy tôi đề nghị, mình bỏ hết lon lá, chơi tay đôi, thiếu úy dám chơi không?
Thiếu tá H tưởng tôi làm thật, nhảy vào can quá xá cở. Trong bụng tôi khoái tỉ, nhưng ngoài mặt vẫn tỏ vẻ ấm ức là chưa phục hận được cho thằng em! Ông Thiếu tá Địa phương quân thì sợ chuyện đổ bể lên Tỉnh trưởng, nên muốn xin lỗi giải hoà. Ông nói :
- Tôi nhận hết lỗi nầy, và tôi sẽ có biện pháp kỷ luật với Thiếu úy X sau!
Tôi bồi thêm một yêu cầu :
- Con dại cái mang, chúng tôi rất cảm phục trách nhiệm của cấp chỉ huy như Thiếu tá, nhưng người gây ra vụ nầy cũng phải biết điều như Thiếu tá nữa mới phải chứ!
Cuối cùng thì hai ông sĩ quan trẻ bắt tay nhau với lời xin lỗi của Thiếu úy Địa phương quân. Giải quyết xong vụ nầy, vị Chỉ huy trưởng Địa phương quân mời tất cả ra chợ giải khát.
Chiều hôm đó tôi cất cánh về Pleiku hơi muộn.
Thiếu úy Nguyễn thành Bích xin ở lại Biệt đội Phú Bổn để tiếp tục dệt mộng lành...
Võ Ý
Biên Hùng chuyển