Đoạn Đường Chiến Binh
Bức Tranh Tình Yêu - Thiên Lý
Hà vui sướng nhìn những bức chân dung của mình nhớ lại lời Helen nói, “ba cháu vẽ nhiều hình một cô gái lắm, suốt ngày cứ ngắm nghía những bức tranh đó.” cô gái ấy không phải là chị Trâm như Hà đã tưởng, mà lại là Hà
Hồi ấy, đã lâu lắm rồi khi chị Trâm dẫn anh về nhà giới thiệu với bố mẹ chị thì Hà chỉ biết anh là một Trung úy Phi Công. So với những anh bạn khác của chị Trâm thì Hà có cảm tình với anh nhiều hơn bởi cử chỉ thân thiện anh dành cho mọi người trong nhà. Không biết anh là người bồ thứ mấy của chị Trâm, vì ngoài anh ra chị còn có nhiều chàng bồ khác được phân ra làm hai loại: “bồ ruột” và “bồ hờ”. Chị Trâm đẹp lắm, chị biết rõ điều đó nên không ngại ngùng gì mà từ chối bao nhiêu cuộc săn đón của các chàng sĩ quan “tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt”, từ khắp các binh chủng Bộ Binh, Không Quân, Hải Quân, Nhảy Dù… Nếu chàng là sĩ quan cấp úy đổ lên, lại đẹp trai thì sẽ được chị mời về nhà chơi và xếp loại bồ “hờ”. Còn phải kể đến những anh chàng sinh viên Khoa Học hay Phú Thọ si tình mà chị cảm thấy chưa thích mắt, nhưng vẫn cứ ngọt ngào hò hẹn để cho các chàng nếm mùi “leo cây” mà ca rằng: “em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé”, cũng là “ hờ” xa..xa tít luôn. Về tiêu chuẩn “bồ ruột” của chị thì Hà không rõ lắm. Hình như chỉ có một anh sĩ quan Hải Quân là được phép lui tới thường xuyên thăm chị, và thỉnh thoảng còn chở chị đi chơi nữa, không biết anh chàng là ruột gì, ruột non hay già???
Chị Trâm với Hà là chị em con cô cậu. Bố chị (bác An) là anh trai của mẹ Hà. Ba Hà là sĩ quan Bộ Binh, đã mất trong trận đánh ở An Lộc mùa hè năm 72. Mẹ thì bị lao phổi đã đi theo ba một năm sau đó, bỏ Hà lại cho dì Tâm. Hà ở với dì được hai năm thì dì gửi Hà lên nhà bác An với lý do là Hà càng lớn ở với bác thì tốt hơn với dì. Số phận Hà trôi dạt vào nhà bác An từ ngày ấy, ngày Hà đúng sinh nhật mười lăm tuổi. Hà làm quen với các anh chị cũng khá dễ dàng, chị Trâm là con gái lớn đang theo học năm thứ hai đại học Văn Khoa, kế đến là anh Long đang học lớp 12, rồi đến chị Như học lớp 11, và Tuấn lớp 9 nhỏ hơn Hà một tuổi. Bác An trai, bố của chị Trâm rất hiền và dễ dãi, trái lại bác gái thì nghiêm khắc, khó khăn. Cả hai bác rất cưng chiều chị Trâm, chị học giỏi lại xinh đẹp. Chị Trâm có vóc dáng thanh cao, khuôn mặt trái xoan, làn da trắng mịn màng, đôi mắt to đen ẩn dưới hàng mi dài cong vút. Chị là điểm nhắm của biết bao nhiêu anh chàng si tình thời đó. Khi nào chị ở nhà thì y như rằng có khách đến thăm, Hà rất khó chịu phải túc trực bên ấm trà để pha nước, bưng trà ra mời khách đến mỏi cả tay. Nhưng, từ ngày có sự xuất hiện của anh, Hà thấy việc bưng trà là điều thú vị vì được anh hỏi chuyện học hành, lại được anh cho mấy gói xí muội cam thảo, hay me ngào đường để nhâm nhi, có khi anh còn mang đến những hộp bánh kem đủ loại, mà lần nào Hà cũng được thưởng thức trước nhờ công pha trà. Hà thích nụ cười của anh, thích nghe giọng nói ấm áp qua những câu chuyện vui với chị Trâm. Điều làm cho Hà hơi ngạc nhiên thì anh Khôi không đẹp trai lắm, anh chỉ có vóc dáng cao với khuôn mặt dễ mến. Không biết anh đã nằm trong tiêu chuẩn nào của chị Trâm mà được chị vời đến nhà.
Một ngày, anh mang đến tặng chị Trâm một bức tranh do anh vẽ. Trong hình, anh vẽ khuôn mặt chị đang hướng về bầu trời nơi có chiếc trực thăng bay trên cao. Những đường nét bằng bút chì tô bóng rất đẹp, rất sống động. Hà chắc là anh đã bỏ công rất nhiều ngày để hoàn thành nó. Nhưng buồn thay, khi anh ra về, chị Trâm đã xếp xó bức tranh vào ngăn tủ và trề môi bảo:
- Cái anh chàng Khôi này chẳng có thực tế chút nào, đi cua đào mà không biết tặng quà, tặng ví tay, dầu thơm hay cái gì đó cho người ta xài được chứ ai mà đi tặng tranh. Đúng là đồ “dở hơi”!
Sau lời nói đó của chị, Hà biết anh Khôi đã bị rớt đài tuyển chọn. Chờ cho chị quay đi, Hà lục lại ngăn tủ lấy bức tranh ra ngắm nghía, lăn nhẹ ngón tay trên những đường chì được đánh bóng từng nét quanh chiếc trực thăng mướt láng, tinh xảo rồi trầm trồ một mình. Hình vẽ đẹp quá đi chứ sao chị lại chê! Nhìn khuôn mặt chị Trâm trong tranh là biết ngay anh đã bỏ bao nhiêu tâm huyết vào tác phẩm. Bên dưới phía trái anh ký tắt ba chữ là VMK PĐ 245 thật lả lướt. Ngắm bức tranh một hồi, rồi nhìn trước ngó sau như kẻ ăn vụng. Hà cắp bức tranh vào người chạy nhanh lên gác cất dưới gối…
Sau đó không bao lâu thì tình hình đất nước thay đổi trong cảnh nhốn nháo điên cuồng của những ngày sắp tàn chinh chiến. Anh sĩ quan Hải Quân nhanh chân hơn anh Khôi nên đã rước chị Trâm, anh Long và Như theo anh trên chuyến tàu định mệnh rời xa đất nước. Anh Khôi đến tìm chị sau một ngày thì chị đã lênh đênh ra biển, trông anh thất vọng đến tội nghiệp, rồi anh thảy cho Hà mảnh giấy có ghi địa chỉ và nói:
- Đây là địa chỉ của anh, nếu Hà có tin tức gì của Trâm báo cho anh biết nhé!
Hà gật đầu, không kịp nói thêm được câu nào với anh thì anh đã tất tả chạy đi.
Tin ba chị em chị Trâm đã đến được đảo Guam làm cho hai bác rất yên lòng. Giữ đúng lời Khôi dặn ngày nào. Hà vội vã tìm đến địa chỉ nhà anh để báo tin chị Trâm. Nhà anh cũng không khó tìm là mấy, nó tọa lạc trong khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, có điều phải đi lên lầu cao rất mỏi chân. Hà bỗng thấy lòng mình hồi hộp lạ lùng, một cảm giác vừa vui lại vừa sờ sợ…Nhưng niềm vui chưa kịp nở hết thì sự thất vọng đã lấn át, khi Hà gặp cha anh với khuôn mặt lo lắng và giọng nói đầy chán chường:
- Khôi đi "học tập" mấy tháng nay rồi, hiện giờ cả nhà không ai biết nó ở đâu, cô có nhắn gì cũng vô ích thôi.
Hà đành quay về, lòng thấy buồn bâng quơ. Nghĩ đến hai chữ “học tập” kỳ quặc, Hà đặt cho mình những câu hỏi lẩm cẩm, “học tập” gì mà ghê thế, đến ngay cả cha anh còn không biết giờ này anh ở đâu thì làm sao mình có dịp gặp được anh? Có lẽ nào mình bị mất liên lạc với anh luôn không? Mà tại sao phải gặp anh ta làm chi? Biết anh có thực sự muốn nghe tin chị Trâm không để rồi anh sẽ buồn thêm. Đạp xe qua đám đông Hà tưởng như chỉ một mình đi trên sa mạc vắng hoe, nóng bỏng, cô liêu làm sao!
Một năm sau ngày Hà đậu vào trường trung học y tế, ngành y tá, nhân dịp tham gia công tác chích ngừa cho dân trong phường Nguyễn Thiện Thuật, Hà vô tình gặp lại cha anh và hỏi thăm tin tức về anh thì đã biết được địa chỉ hòm thơ của anh để liên lạc. Hà mừng rỡ, cầm địa chỉ về nhà định bụng sẽ viết cho anh ngay để báo tin về chị Trâm, chắc hẳn anh cũng mong tin chị lắm. Rồi bỗng nhiên Hà thấy mình sao vô duyên quá, chuyện của chị Trâm dính gì tới mình mà phải hăng hái đến thế? Song, cứ nhớ đến khuôn mặt dễ mến và giọng nói ấm áp của anh là tim Hà lại rộn ràng lên một niềm vui như thôi thúc quyết tâm viết thư thăm anh. Theo lời người bạn có thân nhân đi “học tập” chỉ dẫn, Hà mua những thức ăn khô kèm theo thư; nào đường tán, nào đậu phọng, mì khô, muối mè, mắm ruốc...
Lần đầu Hà mang quà đến gửi chung với gia đình Khôi, cha anh có vẻ cảm động lắm. Nhìn ông cụ run tay xếp những món đồ vào thùng với sự cẩn thận, chan chứa tình yêu thương, Hà muốn rơi nước mắt. Có ghé qua thăm chừng tin tức của Khôi, Hà mới thấy hoàn cảnh của anh thật là tội. Mẹ anh đã mất, chỉ còn lại người bố già sống với hai cô con dâu và hai người con gái, cùng một đàn cháu nội, ngoại nheo nhóc. Nghe nói trước năm 75, các chị đều ở trong cư xá quân đội. Sau ngày CS vào, các chị đã bị đuổi ra ngoài, nên giờ ngần ấy người phải ở chen chúc nhau trong một căn chung cư chật hẹp. Thảm thương thay cho cảnh nhà anh, những người đàn ông cột trụ của gia đình đều bị tù đày.Tội cho thân già yếu của bố anh phải gánh vác trách nhiệm lo quà thăm nuôi Khôi, anh là con trai út còn độc thân. Hà ngẫm nghĩ nếu chị Trâm biết được hoàn cảnh của Khôi như vầy, không biết chị có dám chấp nhận yêu anh không? Hà nhớ có lần chị Trâm nói với Hà:
- Chị thích tính cương trực, cứng rắn của anh chàng Khôi hơn là anh Tuấn Hải Quân. Có điều Khôi chẳng thực tế chút nào, người dở dở ương ương sao đâu đó.
Ngừng lại, suy nghĩ một chút rồi chị nói thêm:
- Mà mấy ông Không Quân cũng nhiều đào lắm cơ, chị có đứa bạn quen với một ông Không Quân Khu Trục cứ gửi lộn thơ cho nó hoài.
Hà ngạc nhiên hỏi lại:
- Gửi lộn thơ là sao hả chị?
- Là nhiều đào quá gửi cho bà nọ thì lộn sang bà kia chứ sao. Mai mốt Hà lớn lên có quen lính thì tránh KQ ra nhé. Lấy ông chồng có số đào hoa chỉ khổ thân mình thôi.
Chị Trâm là người sống thực tế, lại khôn ngoan trong tình cảm, chị cũng thường nói với Hà là con gái nên lấy người thương mình hơn là lấy người mình thương. Tiêu chuẩn về người thương chị phải khá giả để bảo đảm cho chị một cuộc sống sung sướng, nhàn hạ, điều mà chị đã quen từ tấm bé. Từ khi Hà vào gia đình bác An, Hà chưa hề thấy chị làm một công việc nhỏ nhặt nào trong nhà. Quét dọn, nấu nướng, giặt giũ đã có bác gái và Hà. Chị Trâm như một tiểu thơ đài các chỉ ăn với học. Không biết rồi đây nơi vùng đất xa xôi nào đó chị có thay đổi tính tình để thích ứng với cuộc sống mới không? Chị có một phút giây nào nghĩ đến anh Khôi? Một anh chàng cựu phi công nghèo đang bị cầm tù không biết tương lai ra sao?
Thời gian lặng lẽ trôi qua trong bao nhiêu sự khó khăn của nền kinh tế thời “bao cấp”. Gia đình Hà may mắn hơn vì bác An không phải đi “học tập”. Dưới thời VNCH, bác chỉ là công chức ở nhà máy đèn vẫn đi làm, bác gái thì buôn bán lặt vặt, lại có sự trợ giúp tiền, quà của chị Trâm từ bên Mỹ về. Vì thế, tiền học bổng của Hà hai bác không cần đến, Hà cũng không chi tiêu gì nhiều cho bản thân chỉ dành dụm để mua quà gửi cho Khôi. Lần gửi đồ nào Hà cũng nói với bố anh là của chị Trâm gửi.
Về đời sống của các anh chị bên Mỹ đã ngày một ổn định, chị Trâm báo tin sẽ làm đám cưới với anh Hải Quân. Nghe tin vui của chị, Hà cảm thấy buồn cho Khôi…
Ba năm sau khi Hà vừa ra trường trung học y tế thì giấy tờ bảo lãnh của chị Trâm gửi về. Do bác An nhận Hà là con trong gia đình nên Hà cũng có tên trong danh sách bảo lãnh. Nghe đến đi Mỹ, một cảm giác buồn buồn lẫn lo lắng khuấy động tâm hồn Hà. Hà lo sẽ không có dịp để gửi quà cho anh nữa, buồn vì không còn hy vọng gặp lại anh như Hà vẫn đang thầm mơ ước. Nghĩ thế, Hà lại tự trách mình thật vớ vẩn quá! Biết bao giờ anh mới được thả về, mà mong gặp anh để làm gì kia chứ? Tuy tự trách mình như thế, Hà biết, từ nơi sâu thẳm của trái tim mình vẫn thường rung lên một âm thanh nồng nàn cảm mến, dịu dàng, êm êm mỗi khi nghĩ đến anh. Nhưng Hà tự dối mình và lúc nào cũng mượn hình ảnh chị Trâm để khỏa lấp vào chỗ nhịp rung nhẹ nhàng ấy, để rồi lại buồn, lại trăn trở, lại ray rứt hằng đêm, lại tiếc sao mình không là chị Trâm để được nhận một tình cảm từ nơi anh, dẫu cho tình cảm đó có mơ hồ như sương khói.
Những thùng quà nhỏ kèm theo những lá thư với lời lẽ Hà bịa đặt ra của chị Trâm vẫn đều đặn gửi đi hàng tháng, cho đến ngày Hà theo hai bác và Tuấn đi phỏng vấn. Nỗi buồn càng dầy lên trong lòng, Hà như người bị sốt, đứng ngồi không yên. Linh tính cho Hà biết chắc Hà sẽ không bao giờ gặp được anh nữa. Loay hoay tự hỏi mình phải làm sao, hay là viết thư cho anh nói thật hết. Không, không thể nào, thư còn bị kiểm duyệt nữa, đâu có thể viết chuyện riêng tư được. Ôi, sao Hà khổ tâm quá, bao nhiều lần Hà tự hỏi có phải mình đã yêu không? Rồi tự trả lời bằng những ý nghĩ lập lờ. Không, ta không yêu, mà tình yêu là sao nhỉ, là một ẩn số không giải thích nổi. Có lẽ đây chỉ là một tình thương, một sự quý mến, một cảm phục, một...nhớ nhung… có hơi vô lý vì đã tiếp xúc hay chuyện trò nhiều lần với anh đâu và biết anh là người ra sao để nhớ, để thương chứ ...Đêm đêm trằn trọc với những suy nghĩ mông lung, làm Hà rối rắm thở vắn, thở dài, cảm thấy nhớ anh da diết lại lấy bức hình trực thăng ra ngắm nghía. Từng nét chì vẽ vô tri mà sao gợi nhớ nhiều đến thế. Hà nhớ những lần anh đến chơi lúc trước, khi Hà bưng nước trà ra mời anh thì lúc nào anh cũng xoa đầu Hà khen ngoan…
Từ ngày anh bị tù đày, cha anh chỉ có khả năng gửi đồ mà chưa có dịp nào đi thăm. Nhắc đến đi thăm, lòng Hà trỗi dậy một ý định muốn đi thăm anh. Tại sao không nhỉ, một lần thăm sẽ được nhìn thấy anh trước khi mình rời khỏi Việt Nam. Nghĩ thế, một ngày, sau giờ làm việc Hà hăng hái đạp xe đến hỏi cha anh về chuyện này. Ông cụ ngạc nhiên lẫn vui mừng không ngờ trước đề nghị của Hà. Ông mừng đó nhưng rồi lại lo lắng cho chuyến đi vì chỗ Khôi bị tù mãi ở trại Bù Gia Mập, một địa danh rừng rú hiểm trở, xe đò qua lại không có nhiều chuyến. Chỗ đó chỉ cách biên giới nước Miên vài chục cây số, nếu lỡ xe, lỡ đường bị lạc trong rừng không có lối ra thì thật nguy hiểm vô cùng. Ông nói với Hà điều đó, song Hà không chùng lòng vẫn một mực muốn đi thăm anh với ông. Hà còn trấn an ông đừng ngại gì về chuyện chi phí đi đường, Hà sẽ lo tất cả. Ông cụ cảm động lắm, với kinh nghiệm sống dưới mắt một người cha, ông hiểu được tấm lòng của Hà đối với con trai mình là một tình cảm đặc biệt tự lòng cô, chứ không phải là từ nơi chị Trâm như Hà hay nói.
Trước ngày dự định đi thăm Khôi, Hà phải nói dối với hai bác là mình “bị” cử đi công tác với đoàn y tế ở Phước Bình một ngày, hai bác tin ngay không hề thắc mắc gì. Sau đó Hà đi chợ mua nhiều thứ đồ khô cần thiết cho Khôi và để sẵn ở nhà anh để hai bác không nghi ngờ. Sáng hôm đó, Hà dậy từ 3 giờ sáng, đạp xe đến nhà Khôi phụ ông cụ xếp đồ vào những chiếc giỏ đệm, cột ràng cẩn thận rồi cùng ông đi tới bến xe miền đông mua vé xe từ Sàigon đi Phước Bình. Khi tới Phước Bình thì trời đổ mưa, đường từ Phước Bình vào trại phải băng qua một đoạn đường đất đỏ, chung quanh là rừng núi âm u. Cũng may hôm đó có nhiều người đi thăm nuôi thân nhân, nên mọi người gồng gánh giúp nhau từng chặng và những câu chuyện đời sống làm Hà quên đi bao gian nan mệt nhọc trên đường. Hà nắm chặt lấy tay bố Khôi, còn một tay kéo lê cái giỏ quà nặng trên đường, bố Khôi cũng thế, cả hai người nương nhau đi trên con đường trơn trợt. Cơn mưa rỉ rả làm trời u ám cùng với cái lạnh se thắt từ gió rừng thổi tới.
Đến trại, bố Khôi cùng đoàn người thăm nuôi trình giấy rồi ra ghế ngồi chờ một lát. Ông cụ ngồi xuống mà mắt cứ nhướng nhướng vào phía xa bên kia bờ rào, Hà biết ông cụ rất nóng lòng, Hà cũng nóng lòng không kém, còn thêm hồi hộp nữa. Hà nhìn những người đi thăm nuôi, có khoảng bảy người đàn bà cỡ ngoài ba mươi và ba người đàn ông trung niên, bố Khôi là người lớn tuổi hơn cả. Từng người tù đi ra, mọi người đứng lên nhốn nháo một chút. Hà đưa mắt chung quanh cố tìm ra Khôi mà không thấy, Hà nhìn sang bố Khôi trông đợi, hy vọng ông sẽ thấy anh trong đám người đàn ông lam lũ kia. Hà bắt đầu nghe những tiếng khóc nấc vang lên gần bên. Bố Khôi lẩm bẩm:
- Không biết Khôi đâu nhỉ, chưa thấy nó ra.
Ồng vừa dứt tiếng thì có tiếng gọi:
- Bố, bố, trời ơi, con mừng quá!
Bố Khôi và Hà cùng quay lại, Hà giật mình sững sờ nhìn người đàn ông trước mặt trong khi bố anh ngẩn ngơ nhìn anh vài giây rồi bật khóc:
- Trời ơi con đây sao. Tay ông sờ soạng khắp mặt mũi anh, tội con tôi, ốm quá thế này!
Hà lặng người nhìn anh, thật Khôi đây sao! Bảy năm rồi không gặp lại anh kể từ ngày "hòa bình" chỉ có bảy năm thôi mà cuộc sống tù đày đã biến anh tàn tạ đến nỗi này. Anh gầy ốm da xanh mét, tiều tụy trong bộ quần áo màu xám cũ nát.Nhìn anh, Hà biết chắc anh vừa trải qua một cơn bệnh sốt rét. Anh choàng cánh tay khẳng khiu đầy những vết sước qua vai ông cụ mừng rỡ...Hà cảm động trước cảnh gặp gỡ của hai cha con, và sự thương cảm lẫn vui mừng trong lòng Hà theo những giọt nước mắt tự nhiên lăn xuống. Quay đi, Hà ngập ngừng chậm nước mắt, chắc sự mừng rỡ quá đỗi khiến ông cụ quên sự có mặt của Hà vài phút, nghe hai cha con hàn huyên, Hà không thể hỏi anh được câu nào cho tới khi ông cụ gọi Hà:
- Này cô Hà lại đây. Con nhớ Hà chứ, ân nhân của nhà mình đấy!
Hà đến gần ông cụ ngồi xuống đối diện anh. Ôi khuôn mặt dễ mến trước đây bây giờ hốc hác, xanh xao, buồn bã. Mỉm cười nhìn anh trong nước mắt, Hà hỏi:
- Dạ chào anh, anh khỏe không?
Ngước nhìn Hà anh ngạc nhiên:
- Hà em của Trâm đây mà, trời ơi, Hà khác quá, trông em xinh ra đấy! Cám ơn Hà đã đến thăm anh, thật là quý vô cùng.
Hà bẽn lẽn vuốt mái tóc ướt, lí nhí:
- Dạ không có chi, được đi thăm anh, em vui lắm.
Khôi cười cười nói:
- Anh nhớ mới hôm nào đến nhà chơi, Hà còn nhỏ xíu à lúc đó em cỡ mười mấy nhỉ?
Hà tiếp:
- Dạ ...mười lăm.
Khôi vừa nhìn ông cụ vừa nhìn Hà nói:
- Thời gian đi nhanh quá, nếu bố không nói thì con cũng không nhận ra con bé Hà này. Chắc bố với Hà đi đường vất vả lắm hả bố, con nghe nói đường vào đây rất khó đi.
Ông cụ chậm nước mắt:
- Khó bao nhiêu mà có điều kiện bố cũng ráng đi gặp mày rồi có chết cũng đành. Con sống trong này ra sao?
Khôi lắc đầu buồn bã nói:
- Bố không cần biết đâu đừng lo cho con nhiều, con đã từng vào sanh ra tử, cực khổ quen rồi, con chịu được hết chỉ có điều nhục thì con đang cố mà cũng chưa được.
Giọng ông cụ nhỏ xuống:
- Ấy chết, cậu phải nhớ rằng cậu đang ở trong tay họ đấy, đừng ngang bướng quá chỉ thiệt vào thân, dù sao mình cũng là kẻ thua rồi. Lo cẩn thận giữ gìn sức khỏe để còn về với bố...
Khôi thở dài...Hà hết nhìn anh rồi nhìn sang ông cụ, lắng nghe hai cha con trò chuyện mà lòng cũng buồn theo mỗi câu nói. Nhìn Khôi một lúc, Hà nhận ra Khôi có nhiều nét giống cha anh, từ vầng trán rộng đến đôi mắt mí lót, sống mũi cao, cặp môi dày. Hà cố giữ lại hình ảnh này trong trí để khi về nhà hy vọng sẽ được gặp lại anh trong giấc mơ. Một chàng sĩ quan Không Quân oai phong năm nào và bây giờ là một người tù tàn tạ, tiều tụy, xác xơ... Bất chợt Khôi đưa mắt nhìn về phía Hà chăm chú, rồi anh hỏi thăm Hà về chị Trâm. Trong ánh mắt anh, Hà như thấy bóng hình của chị Trâm thấp thoáng. Hà lúng túng trước câu hỏi của anh, cúi xuống vân vê vạt áo mình thầm nghĩ, có nên cho anh biết chị Trâm sắp lấy chồng không, nếu nói thì thái độ của anh sẽ ra sao nhỉ? Buồn, chắc chắn là anh sẽ buồn lắm, nhưng nếu không nói thì mình phải tiếp tục dối trá hoài sao? Ôi, bao nhiêu háo hức chờ đợi gặp anh để phút giây đối diện này Hà thấy run rẩy, hồi hộp cho sự kịch tính mà Hà đã gây ra.
- Kìa Hà nói cho anh biết đi Trâm ở tiểu bang nào? Anh mong có dịp viết một lá thư thật dài cho Trâm để cám ơn những tình cảm mà Trâm đã dành cho anh... Anh không hy vọng một ngày sẽ được gặp lại Trâm. Cám ơn cả tấm lòng tốt của cô em nhỏ Hà nữa.
Hà vẫn im lặng, vẫn mân mê chéo áo đã nhàu dưới những ngón tay mình, lòng thì nghe nhói nhói. Im lặng kéo dài vài giây khiến anh phải gọi Hà thêm lần nữa, Hà ngước lên, tránh cái nhìn của anh, ấp úng:
- Chị Trâm ở Virginia, chị...sắp ...lấy chồng rồi anh Khôi à.
- Trâm lấy chồng? Giọng anh ngạc nhiên- sao thư viết cho anh Trâm chẳng nói gì hết?
Hà im lặng, nhìn sự thất vọng và nỗi buồn lộ ra trên khuôn mặt anh, Hà thấy hối hận, thì ra anh cũng nói dối thôi, mới bảo không hy vọng gặp chị Trâm mà giờ nghe tin chị lấy chồng thì anh lại thất vọng. Hà nghe tiếng anh thở dài:
- Cũng phải thôi, Trâm không thể chờ anh được, Trâm còn trẻ đẹp lại ở một đất nước phồn hoa... Anh dừng câu nói rồi thở dài ôm trán.
Hà xót xa nói:
- Thôi anh đừng buồn nữa, ráng giữ sức khỏe để còn về với bác.
Bố Khôi tiếp:
- Phải đó, mỗi người một số phận, vợ chồng cũng là duyên nợ mà nên, cậu phải cố sống khỏe để còn về…
Khôi ngẩng lên nhìn bố và Hà:
- Con không buồn chỉ tiếc là con cả tin vào những tình cảm không có thật... Thư từ thì ngọt ngào thế mà lấy chồng cũng không nói, thà nói thẳng ra mà con không tiếc bằng phải qua trung gian em Hà.
Nghe anh nói Hà giật mình, chết rồi! sự hiểu lầm đã càng lún sâu chỉ tại Hà. Anh đã trách sai cho chị Trâm, anh có biết đâu chị chẳng bao giờ giữ hình anh trong tim chị. Khổ quá, chắc Hà phải đính chính cho chị thôi.
Hà bỗng thấy lo sợ, ngập ngừng một hồi, Hà run run nói:
- Anh Khôi à, em... xin ... nói...một sự thật để ...đính chính cho chị Trâm rằng...tất cả... những thư từ trước đến giờ của chị Trâm gửi cho anh… là do...chính em viết...Chị Trâm không hề biết gì hết....
Lần này thì Khôi càng ngạc nhiên hơn nữa, vầng trán anh nhăn lại, đôi mắt ánh lên một sự tức giận.
- Hả, Hà vừa nói gì?
Hà sợ hãi lẫn xấu hổ cúi mặt ấp úng:
- Lỗi …tại … em...
Giọng Khôi gằn mạnh lên:
- Tại sao Hà lại đem tình cảm ra mà đùa giỡn với anh như vậy chứ, tại sao, tại sao?
Hà giật mình càng thêm run sợ, chưa biết trả lời anh ra sao thì tiếng kẻng hết giờ thăm đã vang lên, tiếng bố anh nói:
- Thôi, tại sao thì mày phải tự biết lấy, mày không còn là thanh niên để không hiểu chuyện này.
Rồi ông buồn buồn dịu giọng tiếp:
- Thôi nhé, thăm con lần này không biết có dịp nào mà đi lần nữa không. Ráng giữ sức khỏe, đừng lo nghĩ gì hết.
Trao hai giỏ quà nặng cho anh, hai cha con lưu luyến nhau một lúc. Tiếng xếp đồ và thúc giục của vài cán bộ trại làm Hà luýnh quýnh nói vội từng câu đứt đoạn:
- Đây …là lần đầu tiên … mà chắc cũng là lần cuối cùng gặp anh, em mong …anh …không giận gì em trong chuyện này… vài tháng nữa là em rời Việt Nam rồi… Anh ráng giữ gìn sức khỏe nha…
Nhìn đôi mắt anh đã dịu lại, Hà xúc động ứa nước mắt, hình như anh cũng sắp khóc thì phải. Bóng vài người cán bộ CS vây quanh những người tù, Hà nhón chân nhìn theo anh, thoáng thấy anh đẩy nhẹ tay người cán bộ trại và ngoái cổ lại phía Hà. Rồi anh khuất sau đám người mang súng ống đó. Hình ảnh của anh đã theo Hà suốt con đường trở về nhà, và còn đeo đẳng mãi trong lòng Hà cho đến mấy chục năm sau.
Phải, mấy chục năm sau sống trên đất Mỹ, Hà vẫn thui thủi một mình, vẫn ấp ủ bóng hình anh qua bức vẽ chiếc trực thăng vô tri. Thời gian đầu Hà ở với vợ chồng chị Trâm, làm “baby sit” cho con chị tới mấy năm rồi chuyển qua “baby sit” cho con anh Long. Trong thời gian ở với chị Trâm, những người bạn của anh Tuấn hay lui tới và anh cũng có ý làm mai cho Hà vài người. Nhưng chắc số Hà không mắc nợ ai hết nên chưa thể kết đôi được. Khi các con anh chị đã lớn, Hà xin ra riêng để đi học một nghề chuyên môn tự nuôi thân mình. Hà đã cố gắng học lại ngành y tá, tuổi xuân qua nhanh cùng năm tháng làm việc và học hành, thấm thoát Hà đã lên hơn nửa hàng bốn của cuộc đời. Nỗi lo toan chiếm hết thời gian để nghĩ đến tình yêu vốn là một ẩn số mà Hà vẫn không tìm ra được câu giải đáp. Hà chuyển về Pagosa Springs, ở Colorado, sống an phận với công việc y tá ở một clinic nhỏ. Pagosa Springs nằm sát ngay biên giới tiểu bang New Mexico về phía bắc chỉ khoảng 35 dặm.
Một ngày nghỉ, Hà theo mấy người bạn đi chợ phiên của người Navajo ở Shiprock, bang New Mexico lân cận. Chợ phiên rất lớn, tề tựu hàng trăm gian hàng trưng bày các loại thảm, khăn, nón, áo, giày dép, những loại dụng cụ săn bắn xa xưa như giáo, mác, dao, rựa. Đặc biệt là nữ trang với nhiều loại đá Turquoise màu xanh tươi thắm cùng các thức ăn, đồ uống cổ truyền Navajo…Lướt qua những gian hàng quần áo sặc sỡ. Hà bỗng chú ý đến một quầy nhỏ trưng bày tranh vẽ nghệ thuật bằng đường chì đen bóng. Hà dừng lại để ngắm tranh, những bức tranh vẽ nhiều chiếc trực thăng ngang dọc, lên, xuống. Nét vẽ quen thuộc làm Hà giật mình, vội lật ra sau bức tranh tìm tên tác giả. Mắt Hà sáng lên, một cảm giác vui mừng lẫn ngạc nhiên khi thấy chữ ký VMK PĐ 245. Hà hồi hộp lẩm bẩm: Đúng là anh rồi! Nhìn quanh mong tìm ra anh, vừa lúc đó, một cô gái trẻ người Mỹ bước tới chào hỏi Hà vui vẻ mời mua tranh. Hà vội vã hỏi ngay:
- Where do you get these pictures?
Cô gái cười tươi tắn nói một hơi:
- Oh, from my dad, he drew them. He still has a lot of pictures at home. Do you like them?
- Yes, I do… I do like them, where is your dad now?
- He’s home, he was here with me yesterday, today he doesn’t feel good so he wants to stay home. We live in Farmington. Oh, what nationality are you?
- I am Vietnamese.
Cô gái đổi sang giọng Việt Nam mừng rỡ nói huyên thuyên làm Hà hết sức kinh ngạc:
- Ồ ba cháu cũng là người Việt Nam, bữa nào cô ghé chơi nha, ba cháu lonely lắm, ở Farmington không có người Việt Nam nhiều. Gặp cô là người Việt Nam ba cháu happy lắm. A, cô ở đâu vậy?
Hà cười khen:
- Wow, cháu nói tiếng Việt giỏi quá, cô ở Pagosa Springs. Rồi ngập ngừng một lúc Hà hỏi cô gái:
- Thế mẹ cháu đâu?
- Mẹ cháu chết lâu rồi, bây giờ ba cháu có một mình thôi.
Cuộc trò chuyện giữa Hà và cô gái trẻ có phần thú vị, cô cho Hà biết cô tên là Helen, đang phục vụ trong quân đội, sẵn được nghỉ phép mấy ngày nhân dịp đúng lúc chợ phiên mở, cô theo cha ra chợ bán tranh cho vui. Helen nói thêm rằng, cha cô vẽ rất nhiều hình một cô gái và suốt ngày cứ ngắm nghía những bức tranh đó. Cô nghĩ, chắc cha cô phải có một tình yêu sâu nặng với người trong hình nên bao nhiêu năm nay ông không muốn lập gia đình lần nữa. Nghe Helen nói Hà tưởng tượng ngay đến bức tranh chị Trâm, chắc chắn là anh vẽ hình chị Trâm rồi! Chị luôn là hình bóng đẹp trong tim anh. Hà còn nhớ như in đôi mắt thất vọng, buồn bã của anh mấy chục năm trước khi nghe tin chị Trâm lấy chồng, và cái nhìn tức giận trút vào Hà lúc anh nghe sự thật về những lá thư Hà viết… Tự ái và chút thất vọng xen giữa nỗi vui, Hà chần chừ không muốn cầm số phone và địa chỉ của Helen. Hà ngại ngùng với ý nghĩ gặp lại anh…chợt muốn khóc, Hà chẳng là gì trong cuộc đời của anh hết, còn anh mãi là cái bóng ảo Hà theo đuổi hoài… Tiếng Helen hỏi:
- A, mà cô tên gì?
Hà thẫn thờ trả lời:
- Cô tên là Nguyệt Hà.
- Nguyệt Hà, tên hay quá, cô có thể cho cháu số phone của cô không?
Hà gật đầu lục túi lấy ra cái business card đưa cho Helen, cô gái nghiêng đầu đọc qua tấm card rồi nói tự nhiên:
- Cô là y tá, tốt quá, nếu có gì cần giúp cháu sẽ gọi cô, ba cháu lớn tuổi rồi hay bịnh vặt lắm.
Thấy Hà như không chú ý lời cô nói, Helen lay cánh tay Hà giọng như năn nỉ:
- Cô, cô nhớ tới nhà cháu chơi nha, tuần tới há cô.
Nhìn lại bức tranh trực thăng trong tay mình, Hà ngập ngừng nói như mơ:
- Ừ,.. cô… sẽ đến!
Suốt cả tuần, lời hứa hẹn đó làm cho Hà suy nghĩ mãi, tâm hồn bị xáo trộn với nhiều cảm xúc, hết vui mừng, rồi lo ngại, chuyển sang hồi hộp y như lần đầu đi thăm anh, bây giờ lại thêm sự ngập ngừng. Nửa vui mừng thúc giục nên đi, nửa lo ngại thì lòng bảo thôi. Hà sợ nhìn thấy đôi mắt tức giận của anh ngày xưa. Đôi mắt hãy còn ấp ủ hình bóng chị Trâm một thời anh đã si mê...Hà thở dài bâng quơ nhìn ra mảnh vườn sau nhà, nắng sáng nay ùa đến sớm hơn, những cánh hoa hướng dương vươn cao đang cười tươi trong nắng,vài con ong bay la đà bên hàng Russian Sage tím tím, tiếng chim non ríu rít trên cây bàng xanh lá báo hiệu một ngày vui mới. Có tiếng chuông reo ngoài cửa, Hà đoán, chắc là bà hàng xóm tốt bụng đem sữa qua cho mình, Hà quay vào bếp lấy cái bình rỗng cầm theo ra cửa để trả lại cho bà. Cửa vừa mở, một sự ngạc nhiên đến tột cùng... xuất hiện trước cửa, một người đàn ông tóc bạc lốm đốm, nụ cười hiền, một tay xách những khung to, một tay cầm bó hồng đỏ thắm. Đôi mắt mí lót, khuôn mặt dễ mến này đã làm Hà sửng sốt trong sự mừng rỡ:
- Trời ơi, anh Khôi!
Anh cười vui:
- Chào Hà, hay thật đấy, không ngờ Hà vẫn nhận ra anh ngay. Vừa nói Khôi vừa đưa bó hồng vào tay Hà - đây tặng em.
Vẫn chưa hết ngạc nhiên, Hà cầm lấy bó hồng run giọng hỏi:
- Sao …anh biết nhà Hà vậy?
Anh cười hóm hỉnh:
- Helen giúp anh tìm ra chỗ Hà ở, dễ quá mà, thời đại khoa học có số phone lên trên on line là tìm được hết, thành phố này lại quá nhỏ bé, tìm một cô y tá người Việt đâu có gì là khó. Rồi anh nháy mắt- nào có cho anh vào nhà không, để anh còn nói hết nỗi vui mừng của mình nữa chứ.
Hà mở rộng cánh cửa cho anh bước vào, mắt vẫn nhìn anh đăm đăm ngớ ngẩn hỏi:
- Em có mơ không?
Khôi cười:
- Không, em không mơ, đây là thực.
Nói rồi, Khôi đặt những khung hình xuống đất, tiến đến gần Hà đưa tay quay hai vai Hà lại phía anh:
- Xem nào mấy chục năm mà cô em Hà vẫn không thay đổi gì nhiều lắm, Hà này, đúng là trái đất tròn nên vô tình mình được gặp nhau đây anh vui lắm. Bao nhiêu năm nay anh vẫn còn nợ Hà một lời cám ơn chân thành từ dạo anh đi tù. Anh luôn mong có ngày gặp được Hà để nói một câu cho nhẹ lòng.
Hà bối rối, cụp mắt nhìn xuống những cánh hồng, Khôi nâng mặt Hà lên tiếp:
- Hãy nhìn anh đây, anh đã được nghe bố anh nói rất nhiều về tấm lòng của Hà. Lúc đó anh mới cảm nhận ra mình quá may mắn được một người con gái như Hà chú ý tới trong cảnh tù tội. Trong khi có vài thằng bạn tù của anh bị người yêu bỏ rơi… Giọng anh bỗng trầm xuống- ngày bố anh hấp hối, bố vẫn ao ước cho anh gặp được Hà… Từ đó, lúc nào anh cũng nghĩ tới Hà…
Nói xong anh cúi xuống vừa mở những khung hình ra vừa tiếp:
- Hôm nay anh mang những bức tranh này đến cho Hà xem, anh hy vọng Hà cũng thích.
Hà nhẹ nhàng đặt bó hoa lên chiếc bàn gần đó, rồi kéo tay anh chỉ bức tranh treo trên tường:
- Anh còn nhớ bức tranh này không?
Khôi nhìn lên theo hướng tay chỉ, nheo mắt cười:
- Ồ, nhớ chớ, bức tranh này anh vẽ tặng Trâm lâu lắm rồi, Hà vẫn còn giữ đến bây giờ quý thật đó. Nhưng thôi, để Hà xem những tranh này đặc biệt hơn, chỉ dành cho Hà.
Anh mở ra ba bức hình khổ lớn là những bức hình vẽ chân dung Hà, những đường chì tinh xảo trông thật sống động, có một bức hình anh vẽ Hà như ngồi trong mưa, đôi mắt ươn ướt, Hà trầm trồ:
- Trời ơi, em đây sao, anh vẽ đẹp quá, đôi mắt có hồn ghê đi, nhìn ở ngoài em đâu có được như vậy!
- Sao không, ở ngoài em còn đẹp hơn nữa.
Xoa nhẹ ngón tay trên đường chì bóng mướt, Hà cười chống chế:
- Không có đâu, em luôn nghĩ mình là đứa xấu xí.
- Sao Hà lại nghĩ mình xấu, Hà có biết là em có một nét đẹp rất dễ thương không? Khôi xoay mặt Hà lại gần bên anh tiếp- dễ thương nhất là đôi mắt, nhìn đôi mắt Hà thì không ai có thể nói dối được.
Hà vui sướng nhìn những bức chân dung của mình nhớ lại lời Helen nói, “ba cháu vẽ nhiều hình một cô gái lắm, suốt ngày cứ ngắm nghía những bức tranh đó.” cô gái ấy không phải là chị Trâm như Hà đã tưởng, mà lại là Hà. Ôi, thật không ngờ, không ngờ, không ngờ… Anh chỉ cho Hà bức tranh có đôi mắt và mái tóc ướt; anh bảo đó là hình ảnh đầu tiên Hà đến thăm anh. Anh còn nhớ hôm ấy trời mưa, tóc Hà ướt, trông đẹp lắm. Hà hỏi:
- Sao gặp có mấy phút mà anh nhớ khuôn mặt em để vẽ lại hay vậy?
Nhìn Hà sâu lắng, anh chậm rãi nói:
- Anh vẽ bằng ký ức, bằng cả tấm lòng say mê khi nghĩ đến Hà .
Dừng một lát anh dịu giọng thì thầm- và bằng một tình yêu... muộn màng...
Hà chớp mắt cảm động, trời ơi, thật anh cũng yêu Hà sao? Mấy chục năm trôi qua bây giờ Hà mới hiểu tình yêu không còn là ẩn số nữa, lòng Hà vui như sống trong mơ, Hà hạnh phúc với ước mộng đã thành.Cầm bức tranh lên, Hà hỏi anh:
- Em sẽ tìm chỗ treo những bức tranh này lên nha anh?
Khôi gật đầu, rồi lặng lẽ đi đến lấy bức tranh vẽ hình chị Trâm bên chiếc trực thăng xuống. Hà ngạc nhiên hỏi:
- Sao anh lại gỡ bức tranh đó xuống làm chi?
Khôi thản nhiên nói:
- Đây không phải là bức tranh tình yêu.
Rồi anh nâng bức tranh vẽ chân dung Hà lên:
- Bức tranh này mới là những bức tranh tình yêu của anh dành cho Hà, phải nên treo.
Hà nhìn sững anh, dòng cảm xúc kéo nhanh lên mắt, Khôi tiến lại gần sát bên Hà, nhẹ nhàng đặt một nụ hôn lên đôi mắt đang ướt lệ ấy …Ngoài vườn sau, tiếng chim ríu rít rộn ràng hơn như đang hát mừng cho ngày vui hạnh ngộ của hai người.
Hồi ấy, đã lâu lắm rồi khi chị Trâm dẫn anh về nhà giới thiệu với bố mẹ chị thì Hà chỉ biết anh là một Trung úy Phi Công. So với những anh bạn khác của chị Trâm thì Hà có cảm tình với anh nhiều hơn bởi cử chỉ thân thiện anh dành cho mọi người trong nhà. Không biết anh là người bồ thứ mấy của chị Trâm, vì ngoài anh ra chị còn có nhiều chàng bồ khác được phân ra làm hai loại: “bồ ruột” và “bồ hờ”. Chị Trâm đẹp lắm, chị biết rõ điều đó nên không ngại ngùng gì mà từ chối bao nhiêu cuộc săn đón của các chàng sĩ quan “tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt”, từ khắp các binh chủng Bộ Binh, Không Quân, Hải Quân, Nhảy Dù… Nếu chàng là sĩ quan cấp úy đổ lên, lại đẹp trai thì sẽ được chị mời về nhà chơi và xếp loại bồ “hờ”. Còn phải kể đến những anh chàng sinh viên Khoa Học hay Phú Thọ si tình mà chị cảm thấy chưa thích mắt, nhưng vẫn cứ ngọt ngào hò hẹn để cho các chàng nếm mùi “leo cây” mà ca rằng: “em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé”, cũng là “ hờ” xa..xa tít luôn. Về tiêu chuẩn “bồ ruột” của chị thì Hà không rõ lắm. Hình như chỉ có một anh sĩ quan Hải Quân là được phép lui tới thường xuyên thăm chị, và thỉnh thoảng còn chở chị đi chơi nữa, không biết anh chàng là ruột gì, ruột non hay già???
Chị Trâm với Hà là chị em con cô cậu. Bố chị (bác An) là anh trai của mẹ Hà. Ba Hà là sĩ quan Bộ Binh, đã mất trong trận đánh ở An Lộc mùa hè năm 72. Mẹ thì bị lao phổi đã đi theo ba một năm sau đó, bỏ Hà lại cho dì Tâm. Hà ở với dì được hai năm thì dì gửi Hà lên nhà bác An với lý do là Hà càng lớn ở với bác thì tốt hơn với dì. Số phận Hà trôi dạt vào nhà bác An từ ngày ấy, ngày Hà đúng sinh nhật mười lăm tuổi. Hà làm quen với các anh chị cũng khá dễ dàng, chị Trâm là con gái lớn đang theo học năm thứ hai đại học Văn Khoa, kế đến là anh Long đang học lớp 12, rồi đến chị Như học lớp 11, và Tuấn lớp 9 nhỏ hơn Hà một tuổi. Bác An trai, bố của chị Trâm rất hiền và dễ dãi, trái lại bác gái thì nghiêm khắc, khó khăn. Cả hai bác rất cưng chiều chị Trâm, chị học giỏi lại xinh đẹp. Chị Trâm có vóc dáng thanh cao, khuôn mặt trái xoan, làn da trắng mịn màng, đôi mắt to đen ẩn dưới hàng mi dài cong vút. Chị là điểm nhắm của biết bao nhiêu anh chàng si tình thời đó. Khi nào chị ở nhà thì y như rằng có khách đến thăm, Hà rất khó chịu phải túc trực bên ấm trà để pha nước, bưng trà ra mời khách đến mỏi cả tay. Nhưng, từ ngày có sự xuất hiện của anh, Hà thấy việc bưng trà là điều thú vị vì được anh hỏi chuyện học hành, lại được anh cho mấy gói xí muội cam thảo, hay me ngào đường để nhâm nhi, có khi anh còn mang đến những hộp bánh kem đủ loại, mà lần nào Hà cũng được thưởng thức trước nhờ công pha trà. Hà thích nụ cười của anh, thích nghe giọng nói ấm áp qua những câu chuyện vui với chị Trâm. Điều làm cho Hà hơi ngạc nhiên thì anh Khôi không đẹp trai lắm, anh chỉ có vóc dáng cao với khuôn mặt dễ mến. Không biết anh đã nằm trong tiêu chuẩn nào của chị Trâm mà được chị vời đến nhà.
Một ngày, anh mang đến tặng chị Trâm một bức tranh do anh vẽ. Trong hình, anh vẽ khuôn mặt chị đang hướng về bầu trời nơi có chiếc trực thăng bay trên cao. Những đường nét bằng bút chì tô bóng rất đẹp, rất sống động. Hà chắc là anh đã bỏ công rất nhiều ngày để hoàn thành nó. Nhưng buồn thay, khi anh ra về, chị Trâm đã xếp xó bức tranh vào ngăn tủ và trề môi bảo:
- Cái anh chàng Khôi này chẳng có thực tế chút nào, đi cua đào mà không biết tặng quà, tặng ví tay, dầu thơm hay cái gì đó cho người ta xài được chứ ai mà đi tặng tranh. Đúng là đồ “dở hơi”!
Sau lời nói đó của chị, Hà biết anh Khôi đã bị rớt đài tuyển chọn. Chờ cho chị quay đi, Hà lục lại ngăn tủ lấy bức tranh ra ngắm nghía, lăn nhẹ ngón tay trên những đường chì được đánh bóng từng nét quanh chiếc trực thăng mướt láng, tinh xảo rồi trầm trồ một mình. Hình vẽ đẹp quá đi chứ sao chị lại chê! Nhìn khuôn mặt chị Trâm trong tranh là biết ngay anh đã bỏ bao nhiêu tâm huyết vào tác phẩm. Bên dưới phía trái anh ký tắt ba chữ là VMK PĐ 245 thật lả lướt. Ngắm bức tranh một hồi, rồi nhìn trước ngó sau như kẻ ăn vụng. Hà cắp bức tranh vào người chạy nhanh lên gác cất dưới gối…
Sau đó không bao lâu thì tình hình đất nước thay đổi trong cảnh nhốn nháo điên cuồng của những ngày sắp tàn chinh chiến. Anh sĩ quan Hải Quân nhanh chân hơn anh Khôi nên đã rước chị Trâm, anh Long và Như theo anh trên chuyến tàu định mệnh rời xa đất nước. Anh Khôi đến tìm chị sau một ngày thì chị đã lênh đênh ra biển, trông anh thất vọng đến tội nghiệp, rồi anh thảy cho Hà mảnh giấy có ghi địa chỉ và nói:
- Đây là địa chỉ của anh, nếu Hà có tin tức gì của Trâm báo cho anh biết nhé!
Hà gật đầu, không kịp nói thêm được câu nào với anh thì anh đã tất tả chạy đi.
*****
Tin ba chị em chị Trâm đã đến được đảo Guam làm cho hai bác rất yên lòng. Giữ đúng lời Khôi dặn ngày nào. Hà vội vã tìm đến địa chỉ nhà anh để báo tin chị Trâm. Nhà anh cũng không khó tìm là mấy, nó tọa lạc trong khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, có điều phải đi lên lầu cao rất mỏi chân. Hà bỗng thấy lòng mình hồi hộp lạ lùng, một cảm giác vừa vui lại vừa sờ sợ…Nhưng niềm vui chưa kịp nở hết thì sự thất vọng đã lấn át, khi Hà gặp cha anh với khuôn mặt lo lắng và giọng nói đầy chán chường:
- Khôi đi "học tập" mấy tháng nay rồi, hiện giờ cả nhà không ai biết nó ở đâu, cô có nhắn gì cũng vô ích thôi.
Hà đành quay về, lòng thấy buồn bâng quơ. Nghĩ đến hai chữ “học tập” kỳ quặc, Hà đặt cho mình những câu hỏi lẩm cẩm, “học tập” gì mà ghê thế, đến ngay cả cha anh còn không biết giờ này anh ở đâu thì làm sao mình có dịp gặp được anh? Có lẽ nào mình bị mất liên lạc với anh luôn không? Mà tại sao phải gặp anh ta làm chi? Biết anh có thực sự muốn nghe tin chị Trâm không để rồi anh sẽ buồn thêm. Đạp xe qua đám đông Hà tưởng như chỉ một mình đi trên sa mạc vắng hoe, nóng bỏng, cô liêu làm sao!
Một năm sau ngày Hà đậu vào trường trung học y tế, ngành y tá, nhân dịp tham gia công tác chích ngừa cho dân trong phường Nguyễn Thiện Thuật, Hà vô tình gặp lại cha anh và hỏi thăm tin tức về anh thì đã biết được địa chỉ hòm thơ của anh để liên lạc. Hà mừng rỡ, cầm địa chỉ về nhà định bụng sẽ viết cho anh ngay để báo tin về chị Trâm, chắc hẳn anh cũng mong tin chị lắm. Rồi bỗng nhiên Hà thấy mình sao vô duyên quá, chuyện của chị Trâm dính gì tới mình mà phải hăng hái đến thế? Song, cứ nhớ đến khuôn mặt dễ mến và giọng nói ấm áp của anh là tim Hà lại rộn ràng lên một niềm vui như thôi thúc quyết tâm viết thư thăm anh. Theo lời người bạn có thân nhân đi “học tập” chỉ dẫn, Hà mua những thức ăn khô kèm theo thư; nào đường tán, nào đậu phọng, mì khô, muối mè, mắm ruốc...
Lần đầu Hà mang quà đến gửi chung với gia đình Khôi, cha anh có vẻ cảm động lắm. Nhìn ông cụ run tay xếp những món đồ vào thùng với sự cẩn thận, chan chứa tình yêu thương, Hà muốn rơi nước mắt. Có ghé qua thăm chừng tin tức của Khôi, Hà mới thấy hoàn cảnh của anh thật là tội. Mẹ anh đã mất, chỉ còn lại người bố già sống với hai cô con dâu và hai người con gái, cùng một đàn cháu nội, ngoại nheo nhóc. Nghe nói trước năm 75, các chị đều ở trong cư xá quân đội. Sau ngày CS vào, các chị đã bị đuổi ra ngoài, nên giờ ngần ấy người phải ở chen chúc nhau trong một căn chung cư chật hẹp. Thảm thương thay cho cảnh nhà anh, những người đàn ông cột trụ của gia đình đều bị tù đày.Tội cho thân già yếu của bố anh phải gánh vác trách nhiệm lo quà thăm nuôi Khôi, anh là con trai út còn độc thân. Hà ngẫm nghĩ nếu chị Trâm biết được hoàn cảnh của Khôi như vầy, không biết chị có dám chấp nhận yêu anh không? Hà nhớ có lần chị Trâm nói với Hà:
- Chị thích tính cương trực, cứng rắn của anh chàng Khôi hơn là anh Tuấn Hải Quân. Có điều Khôi chẳng thực tế chút nào, người dở dở ương ương sao đâu đó.
Ngừng lại, suy nghĩ một chút rồi chị nói thêm:
- Mà mấy ông Không Quân cũng nhiều đào lắm cơ, chị có đứa bạn quen với một ông Không Quân Khu Trục cứ gửi lộn thơ cho nó hoài.
Hà ngạc nhiên hỏi lại:
- Gửi lộn thơ là sao hả chị?
- Là nhiều đào quá gửi cho bà nọ thì lộn sang bà kia chứ sao. Mai mốt Hà lớn lên có quen lính thì tránh KQ ra nhé. Lấy ông chồng có số đào hoa chỉ khổ thân mình thôi.
Chị Trâm là người sống thực tế, lại khôn ngoan trong tình cảm, chị cũng thường nói với Hà là con gái nên lấy người thương mình hơn là lấy người mình thương. Tiêu chuẩn về người thương chị phải khá giả để bảo đảm cho chị một cuộc sống sung sướng, nhàn hạ, điều mà chị đã quen từ tấm bé. Từ khi Hà vào gia đình bác An, Hà chưa hề thấy chị làm một công việc nhỏ nhặt nào trong nhà. Quét dọn, nấu nướng, giặt giũ đã có bác gái và Hà. Chị Trâm như một tiểu thơ đài các chỉ ăn với học. Không biết rồi đây nơi vùng đất xa xôi nào đó chị có thay đổi tính tình để thích ứng với cuộc sống mới không? Chị có một phút giây nào nghĩ đến anh Khôi? Một anh chàng cựu phi công nghèo đang bị cầm tù không biết tương lai ra sao?
Thời gian lặng lẽ trôi qua trong bao nhiêu sự khó khăn của nền kinh tế thời “bao cấp”. Gia đình Hà may mắn hơn vì bác An không phải đi “học tập”. Dưới thời VNCH, bác chỉ là công chức ở nhà máy đèn vẫn đi làm, bác gái thì buôn bán lặt vặt, lại có sự trợ giúp tiền, quà của chị Trâm từ bên Mỹ về. Vì thế, tiền học bổng của Hà hai bác không cần đến, Hà cũng không chi tiêu gì nhiều cho bản thân chỉ dành dụm để mua quà gửi cho Khôi. Lần gửi đồ nào Hà cũng nói với bố anh là của chị Trâm gửi.
Về đời sống của các anh chị bên Mỹ đã ngày một ổn định, chị Trâm báo tin sẽ làm đám cưới với anh Hải Quân. Nghe tin vui của chị, Hà cảm thấy buồn cho Khôi…
Ba năm sau khi Hà vừa ra trường trung học y tế thì giấy tờ bảo lãnh của chị Trâm gửi về. Do bác An nhận Hà là con trong gia đình nên Hà cũng có tên trong danh sách bảo lãnh. Nghe đến đi Mỹ, một cảm giác buồn buồn lẫn lo lắng khuấy động tâm hồn Hà. Hà lo sẽ không có dịp để gửi quà cho anh nữa, buồn vì không còn hy vọng gặp lại anh như Hà vẫn đang thầm mơ ước. Nghĩ thế, Hà lại tự trách mình thật vớ vẩn quá! Biết bao giờ anh mới được thả về, mà mong gặp anh để làm gì kia chứ? Tuy tự trách mình như thế, Hà biết, từ nơi sâu thẳm của trái tim mình vẫn thường rung lên một âm thanh nồng nàn cảm mến, dịu dàng, êm êm mỗi khi nghĩ đến anh. Nhưng Hà tự dối mình và lúc nào cũng mượn hình ảnh chị Trâm để khỏa lấp vào chỗ nhịp rung nhẹ nhàng ấy, để rồi lại buồn, lại trăn trở, lại ray rứt hằng đêm, lại tiếc sao mình không là chị Trâm để được nhận một tình cảm từ nơi anh, dẫu cho tình cảm đó có mơ hồ như sương khói.
Những thùng quà nhỏ kèm theo những lá thư với lời lẽ Hà bịa đặt ra của chị Trâm vẫn đều đặn gửi đi hàng tháng, cho đến ngày Hà theo hai bác và Tuấn đi phỏng vấn. Nỗi buồn càng dầy lên trong lòng, Hà như người bị sốt, đứng ngồi không yên. Linh tính cho Hà biết chắc Hà sẽ không bao giờ gặp được anh nữa. Loay hoay tự hỏi mình phải làm sao, hay là viết thư cho anh nói thật hết. Không, không thể nào, thư còn bị kiểm duyệt nữa, đâu có thể viết chuyện riêng tư được. Ôi, sao Hà khổ tâm quá, bao nhiều lần Hà tự hỏi có phải mình đã yêu không? Rồi tự trả lời bằng những ý nghĩ lập lờ. Không, ta không yêu, mà tình yêu là sao nhỉ, là một ẩn số không giải thích nổi. Có lẽ đây chỉ là một tình thương, một sự quý mến, một cảm phục, một...nhớ nhung… có hơi vô lý vì đã tiếp xúc hay chuyện trò nhiều lần với anh đâu và biết anh là người ra sao để nhớ, để thương chứ ...Đêm đêm trằn trọc với những suy nghĩ mông lung, làm Hà rối rắm thở vắn, thở dài, cảm thấy nhớ anh da diết lại lấy bức hình trực thăng ra ngắm nghía. Từng nét chì vẽ vô tri mà sao gợi nhớ nhiều đến thế. Hà nhớ những lần anh đến chơi lúc trước, khi Hà bưng nước trà ra mời anh thì lúc nào anh cũng xoa đầu Hà khen ngoan…
Từ ngày anh bị tù đày, cha anh chỉ có khả năng gửi đồ mà chưa có dịp nào đi thăm. Nhắc đến đi thăm, lòng Hà trỗi dậy một ý định muốn đi thăm anh. Tại sao không nhỉ, một lần thăm sẽ được nhìn thấy anh trước khi mình rời khỏi Việt Nam. Nghĩ thế, một ngày, sau giờ làm việc Hà hăng hái đạp xe đến hỏi cha anh về chuyện này. Ông cụ ngạc nhiên lẫn vui mừng không ngờ trước đề nghị của Hà. Ông mừng đó nhưng rồi lại lo lắng cho chuyến đi vì chỗ Khôi bị tù mãi ở trại Bù Gia Mập, một địa danh rừng rú hiểm trở, xe đò qua lại không có nhiều chuyến. Chỗ đó chỉ cách biên giới nước Miên vài chục cây số, nếu lỡ xe, lỡ đường bị lạc trong rừng không có lối ra thì thật nguy hiểm vô cùng. Ông nói với Hà điều đó, song Hà không chùng lòng vẫn một mực muốn đi thăm anh với ông. Hà còn trấn an ông đừng ngại gì về chuyện chi phí đi đường, Hà sẽ lo tất cả. Ông cụ cảm động lắm, với kinh nghiệm sống dưới mắt một người cha, ông hiểu được tấm lòng của Hà đối với con trai mình là một tình cảm đặc biệt tự lòng cô, chứ không phải là từ nơi chị Trâm như Hà hay nói.
Trước ngày dự định đi thăm Khôi, Hà phải nói dối với hai bác là mình “bị” cử đi công tác với đoàn y tế ở Phước Bình một ngày, hai bác tin ngay không hề thắc mắc gì. Sau đó Hà đi chợ mua nhiều thứ đồ khô cần thiết cho Khôi và để sẵn ở nhà anh để hai bác không nghi ngờ. Sáng hôm đó, Hà dậy từ 3 giờ sáng, đạp xe đến nhà Khôi phụ ông cụ xếp đồ vào những chiếc giỏ đệm, cột ràng cẩn thận rồi cùng ông đi tới bến xe miền đông mua vé xe từ Sàigon đi Phước Bình. Khi tới Phước Bình thì trời đổ mưa, đường từ Phước Bình vào trại phải băng qua một đoạn đường đất đỏ, chung quanh là rừng núi âm u. Cũng may hôm đó có nhiều người đi thăm nuôi thân nhân, nên mọi người gồng gánh giúp nhau từng chặng và những câu chuyện đời sống làm Hà quên đi bao gian nan mệt nhọc trên đường. Hà nắm chặt lấy tay bố Khôi, còn một tay kéo lê cái giỏ quà nặng trên đường, bố Khôi cũng thế, cả hai người nương nhau đi trên con đường trơn trợt. Cơn mưa rỉ rả làm trời u ám cùng với cái lạnh se thắt từ gió rừng thổi tới.
Đến trại, bố Khôi cùng đoàn người thăm nuôi trình giấy rồi ra ghế ngồi chờ một lát. Ông cụ ngồi xuống mà mắt cứ nhướng nhướng vào phía xa bên kia bờ rào, Hà biết ông cụ rất nóng lòng, Hà cũng nóng lòng không kém, còn thêm hồi hộp nữa. Hà nhìn những người đi thăm nuôi, có khoảng bảy người đàn bà cỡ ngoài ba mươi và ba người đàn ông trung niên, bố Khôi là người lớn tuổi hơn cả. Từng người tù đi ra, mọi người đứng lên nhốn nháo một chút. Hà đưa mắt chung quanh cố tìm ra Khôi mà không thấy, Hà nhìn sang bố Khôi trông đợi, hy vọng ông sẽ thấy anh trong đám người đàn ông lam lũ kia. Hà bắt đầu nghe những tiếng khóc nấc vang lên gần bên. Bố Khôi lẩm bẩm:
- Không biết Khôi đâu nhỉ, chưa thấy nó ra.
Ồng vừa dứt tiếng thì có tiếng gọi:
- Bố, bố, trời ơi, con mừng quá!
Bố Khôi và Hà cùng quay lại, Hà giật mình sững sờ nhìn người đàn ông trước mặt trong khi bố anh ngẩn ngơ nhìn anh vài giây rồi bật khóc:
- Trời ơi con đây sao. Tay ông sờ soạng khắp mặt mũi anh, tội con tôi, ốm quá thế này!
Hà lặng người nhìn anh, thật Khôi đây sao! Bảy năm rồi không gặp lại anh kể từ ngày "hòa bình" chỉ có bảy năm thôi mà cuộc sống tù đày đã biến anh tàn tạ đến nỗi này. Anh gầy ốm da xanh mét, tiều tụy trong bộ quần áo màu xám cũ nát.Nhìn anh, Hà biết chắc anh vừa trải qua một cơn bệnh sốt rét. Anh choàng cánh tay khẳng khiu đầy những vết sước qua vai ông cụ mừng rỡ...Hà cảm động trước cảnh gặp gỡ của hai cha con, và sự thương cảm lẫn vui mừng trong lòng Hà theo những giọt nước mắt tự nhiên lăn xuống. Quay đi, Hà ngập ngừng chậm nước mắt, chắc sự mừng rỡ quá đỗi khiến ông cụ quên sự có mặt của Hà vài phút, nghe hai cha con hàn huyên, Hà không thể hỏi anh được câu nào cho tới khi ông cụ gọi Hà:
- Này cô Hà lại đây. Con nhớ Hà chứ, ân nhân của nhà mình đấy!
Hà đến gần ông cụ ngồi xuống đối diện anh. Ôi khuôn mặt dễ mến trước đây bây giờ hốc hác, xanh xao, buồn bã. Mỉm cười nhìn anh trong nước mắt, Hà hỏi:
- Dạ chào anh, anh khỏe không?
Ngước nhìn Hà anh ngạc nhiên:
- Hà em của Trâm đây mà, trời ơi, Hà khác quá, trông em xinh ra đấy! Cám ơn Hà đã đến thăm anh, thật là quý vô cùng.
Hà bẽn lẽn vuốt mái tóc ướt, lí nhí:
- Dạ không có chi, được đi thăm anh, em vui lắm.
Khôi cười cười nói:
- Anh nhớ mới hôm nào đến nhà chơi, Hà còn nhỏ xíu à lúc đó em cỡ mười mấy nhỉ?
Hà tiếp:
- Dạ ...mười lăm.
Khôi vừa nhìn ông cụ vừa nhìn Hà nói:
- Thời gian đi nhanh quá, nếu bố không nói thì con cũng không nhận ra con bé Hà này. Chắc bố với Hà đi đường vất vả lắm hả bố, con nghe nói đường vào đây rất khó đi.
Ông cụ chậm nước mắt:
- Khó bao nhiêu mà có điều kiện bố cũng ráng đi gặp mày rồi có chết cũng đành. Con sống trong này ra sao?
Khôi lắc đầu buồn bã nói:
- Bố không cần biết đâu đừng lo cho con nhiều, con đã từng vào sanh ra tử, cực khổ quen rồi, con chịu được hết chỉ có điều nhục thì con đang cố mà cũng chưa được.
Giọng ông cụ nhỏ xuống:
- Ấy chết, cậu phải nhớ rằng cậu đang ở trong tay họ đấy, đừng ngang bướng quá chỉ thiệt vào thân, dù sao mình cũng là kẻ thua rồi. Lo cẩn thận giữ gìn sức khỏe để còn về với bố...
Khôi thở dài...Hà hết nhìn anh rồi nhìn sang ông cụ, lắng nghe hai cha con trò chuyện mà lòng cũng buồn theo mỗi câu nói. Nhìn Khôi một lúc, Hà nhận ra Khôi có nhiều nét giống cha anh, từ vầng trán rộng đến đôi mắt mí lót, sống mũi cao, cặp môi dày. Hà cố giữ lại hình ảnh này trong trí để khi về nhà hy vọng sẽ được gặp lại anh trong giấc mơ. Một chàng sĩ quan Không Quân oai phong năm nào và bây giờ là một người tù tàn tạ, tiều tụy, xác xơ... Bất chợt Khôi đưa mắt nhìn về phía Hà chăm chú, rồi anh hỏi thăm Hà về chị Trâm. Trong ánh mắt anh, Hà như thấy bóng hình của chị Trâm thấp thoáng. Hà lúng túng trước câu hỏi của anh, cúi xuống vân vê vạt áo mình thầm nghĩ, có nên cho anh biết chị Trâm sắp lấy chồng không, nếu nói thì thái độ của anh sẽ ra sao nhỉ? Buồn, chắc chắn là anh sẽ buồn lắm, nhưng nếu không nói thì mình phải tiếp tục dối trá hoài sao? Ôi, bao nhiêu háo hức chờ đợi gặp anh để phút giây đối diện này Hà thấy run rẩy, hồi hộp cho sự kịch tính mà Hà đã gây ra.
- Kìa Hà nói cho anh biết đi Trâm ở tiểu bang nào? Anh mong có dịp viết một lá thư thật dài cho Trâm để cám ơn những tình cảm mà Trâm đã dành cho anh... Anh không hy vọng một ngày sẽ được gặp lại Trâm. Cám ơn cả tấm lòng tốt của cô em nhỏ Hà nữa.
Hà vẫn im lặng, vẫn mân mê chéo áo đã nhàu dưới những ngón tay mình, lòng thì nghe nhói nhói. Im lặng kéo dài vài giây khiến anh phải gọi Hà thêm lần nữa, Hà ngước lên, tránh cái nhìn của anh, ấp úng:
- Chị Trâm ở Virginia, chị...sắp ...lấy chồng rồi anh Khôi à.
- Trâm lấy chồng? Giọng anh ngạc nhiên- sao thư viết cho anh Trâm chẳng nói gì hết?
Hà im lặng, nhìn sự thất vọng và nỗi buồn lộ ra trên khuôn mặt anh, Hà thấy hối hận, thì ra anh cũng nói dối thôi, mới bảo không hy vọng gặp chị Trâm mà giờ nghe tin chị lấy chồng thì anh lại thất vọng. Hà nghe tiếng anh thở dài:
- Cũng phải thôi, Trâm không thể chờ anh được, Trâm còn trẻ đẹp lại ở một đất nước phồn hoa... Anh dừng câu nói rồi thở dài ôm trán.
Hà xót xa nói:
- Thôi anh đừng buồn nữa, ráng giữ sức khỏe để còn về với bác.
Bố Khôi tiếp:
- Phải đó, mỗi người một số phận, vợ chồng cũng là duyên nợ mà nên, cậu phải cố sống khỏe để còn về…
Khôi ngẩng lên nhìn bố và Hà:
- Con không buồn chỉ tiếc là con cả tin vào những tình cảm không có thật... Thư từ thì ngọt ngào thế mà lấy chồng cũng không nói, thà nói thẳng ra mà con không tiếc bằng phải qua trung gian em Hà.
Nghe anh nói Hà giật mình, chết rồi! sự hiểu lầm đã càng lún sâu chỉ tại Hà. Anh đã trách sai cho chị Trâm, anh có biết đâu chị chẳng bao giờ giữ hình anh trong tim chị. Khổ quá, chắc Hà phải đính chính cho chị thôi.
Hà bỗng thấy lo sợ, ngập ngừng một hồi, Hà run run nói:
- Anh Khôi à, em... xin ... nói...một sự thật để ...đính chính cho chị Trâm rằng...tất cả... những thư từ trước đến giờ của chị Trâm gửi cho anh… là do...chính em viết...Chị Trâm không hề biết gì hết....
Lần này thì Khôi càng ngạc nhiên hơn nữa, vầng trán anh nhăn lại, đôi mắt ánh lên một sự tức giận.
- Hả, Hà vừa nói gì?
Hà sợ hãi lẫn xấu hổ cúi mặt ấp úng:
- Lỗi …tại … em...
Giọng Khôi gằn mạnh lên:
- Tại sao Hà lại đem tình cảm ra mà đùa giỡn với anh như vậy chứ, tại sao, tại sao?
Hà giật mình càng thêm run sợ, chưa biết trả lời anh ra sao thì tiếng kẻng hết giờ thăm đã vang lên, tiếng bố anh nói:
- Thôi, tại sao thì mày phải tự biết lấy, mày không còn là thanh niên để không hiểu chuyện này.
Rồi ông buồn buồn dịu giọng tiếp:
- Thôi nhé, thăm con lần này không biết có dịp nào mà đi lần nữa không. Ráng giữ sức khỏe, đừng lo nghĩ gì hết.
Trao hai giỏ quà nặng cho anh, hai cha con lưu luyến nhau một lúc. Tiếng xếp đồ và thúc giục của vài cán bộ trại làm Hà luýnh quýnh nói vội từng câu đứt đoạn:
- Đây …là lần đầu tiên … mà chắc cũng là lần cuối cùng gặp anh, em mong …anh …không giận gì em trong chuyện này… vài tháng nữa là em rời Việt Nam rồi… Anh ráng giữ gìn sức khỏe nha…
Nhìn đôi mắt anh đã dịu lại, Hà xúc động ứa nước mắt, hình như anh cũng sắp khóc thì phải. Bóng vài người cán bộ CS vây quanh những người tù, Hà nhón chân nhìn theo anh, thoáng thấy anh đẩy nhẹ tay người cán bộ trại và ngoái cổ lại phía Hà. Rồi anh khuất sau đám người mang súng ống đó. Hình ảnh của anh đã theo Hà suốt con đường trở về nhà, và còn đeo đẳng mãi trong lòng Hà cho đến mấy chục năm sau.
*****
Phải, mấy chục năm sau sống trên đất Mỹ, Hà vẫn thui thủi một mình, vẫn ấp ủ bóng hình anh qua bức vẽ chiếc trực thăng vô tri. Thời gian đầu Hà ở với vợ chồng chị Trâm, làm “baby sit” cho con chị tới mấy năm rồi chuyển qua “baby sit” cho con anh Long. Trong thời gian ở với chị Trâm, những người bạn của anh Tuấn hay lui tới và anh cũng có ý làm mai cho Hà vài người. Nhưng chắc số Hà không mắc nợ ai hết nên chưa thể kết đôi được. Khi các con anh chị đã lớn, Hà xin ra riêng để đi học một nghề chuyên môn tự nuôi thân mình. Hà đã cố gắng học lại ngành y tá, tuổi xuân qua nhanh cùng năm tháng làm việc và học hành, thấm thoát Hà đã lên hơn nửa hàng bốn của cuộc đời. Nỗi lo toan chiếm hết thời gian để nghĩ đến tình yêu vốn là một ẩn số mà Hà vẫn không tìm ra được câu giải đáp. Hà chuyển về Pagosa Springs, ở Colorado, sống an phận với công việc y tá ở một clinic nhỏ. Pagosa Springs nằm sát ngay biên giới tiểu bang New Mexico về phía bắc chỉ khoảng 35 dặm.
Một ngày nghỉ, Hà theo mấy người bạn đi chợ phiên của người Navajo ở Shiprock, bang New Mexico lân cận. Chợ phiên rất lớn, tề tựu hàng trăm gian hàng trưng bày các loại thảm, khăn, nón, áo, giày dép, những loại dụng cụ săn bắn xa xưa như giáo, mác, dao, rựa. Đặc biệt là nữ trang với nhiều loại đá Turquoise màu xanh tươi thắm cùng các thức ăn, đồ uống cổ truyền Navajo…Lướt qua những gian hàng quần áo sặc sỡ. Hà bỗng chú ý đến một quầy nhỏ trưng bày tranh vẽ nghệ thuật bằng đường chì đen bóng. Hà dừng lại để ngắm tranh, những bức tranh vẽ nhiều chiếc trực thăng ngang dọc, lên, xuống. Nét vẽ quen thuộc làm Hà giật mình, vội lật ra sau bức tranh tìm tên tác giả. Mắt Hà sáng lên, một cảm giác vui mừng lẫn ngạc nhiên khi thấy chữ ký VMK PĐ 245. Hà hồi hộp lẩm bẩm: Đúng là anh rồi! Nhìn quanh mong tìm ra anh, vừa lúc đó, một cô gái trẻ người Mỹ bước tới chào hỏi Hà vui vẻ mời mua tranh. Hà vội vã hỏi ngay:
- Where do you get these pictures?
Cô gái cười tươi tắn nói một hơi:
- Oh, from my dad, he drew them. He still has a lot of pictures at home. Do you like them?
- Yes, I do… I do like them, where is your dad now?
- He’s home, he was here with me yesterday, today he doesn’t feel good so he wants to stay home. We live in Farmington. Oh, what nationality are you?
- I am Vietnamese.
Cô gái đổi sang giọng Việt Nam mừng rỡ nói huyên thuyên làm Hà hết sức kinh ngạc:
- Ồ ba cháu cũng là người Việt Nam, bữa nào cô ghé chơi nha, ba cháu lonely lắm, ở Farmington không có người Việt Nam nhiều. Gặp cô là người Việt Nam ba cháu happy lắm. A, cô ở đâu vậy?
Hà cười khen:
- Wow, cháu nói tiếng Việt giỏi quá, cô ở Pagosa Springs. Rồi ngập ngừng một lúc Hà hỏi cô gái:
- Thế mẹ cháu đâu?
- Mẹ cháu chết lâu rồi, bây giờ ba cháu có một mình thôi.
Cuộc trò chuyện giữa Hà và cô gái trẻ có phần thú vị, cô cho Hà biết cô tên là Helen, đang phục vụ trong quân đội, sẵn được nghỉ phép mấy ngày nhân dịp đúng lúc chợ phiên mở, cô theo cha ra chợ bán tranh cho vui. Helen nói thêm rằng, cha cô vẽ rất nhiều hình một cô gái và suốt ngày cứ ngắm nghía những bức tranh đó. Cô nghĩ, chắc cha cô phải có một tình yêu sâu nặng với người trong hình nên bao nhiêu năm nay ông không muốn lập gia đình lần nữa. Nghe Helen nói Hà tưởng tượng ngay đến bức tranh chị Trâm, chắc chắn là anh vẽ hình chị Trâm rồi! Chị luôn là hình bóng đẹp trong tim anh. Hà còn nhớ như in đôi mắt thất vọng, buồn bã của anh mấy chục năm trước khi nghe tin chị Trâm lấy chồng, và cái nhìn tức giận trút vào Hà lúc anh nghe sự thật về những lá thư Hà viết… Tự ái và chút thất vọng xen giữa nỗi vui, Hà chần chừ không muốn cầm số phone và địa chỉ của Helen. Hà ngại ngùng với ý nghĩ gặp lại anh…chợt muốn khóc, Hà chẳng là gì trong cuộc đời của anh hết, còn anh mãi là cái bóng ảo Hà theo đuổi hoài… Tiếng Helen hỏi:
- A, mà cô tên gì?
Hà thẫn thờ trả lời:
- Cô tên là Nguyệt Hà.
- Nguyệt Hà, tên hay quá, cô có thể cho cháu số phone của cô không?
Hà gật đầu lục túi lấy ra cái business card đưa cho Helen, cô gái nghiêng đầu đọc qua tấm card rồi nói tự nhiên:
- Cô là y tá, tốt quá, nếu có gì cần giúp cháu sẽ gọi cô, ba cháu lớn tuổi rồi hay bịnh vặt lắm.
Thấy Hà như không chú ý lời cô nói, Helen lay cánh tay Hà giọng như năn nỉ:
- Cô, cô nhớ tới nhà cháu chơi nha, tuần tới há cô.
Nhìn lại bức tranh trực thăng trong tay mình, Hà ngập ngừng nói như mơ:
- Ừ,.. cô… sẽ đến!
****
Suốt cả tuần, lời hứa hẹn đó làm cho Hà suy nghĩ mãi, tâm hồn bị xáo trộn với nhiều cảm xúc, hết vui mừng, rồi lo ngại, chuyển sang hồi hộp y như lần đầu đi thăm anh, bây giờ lại thêm sự ngập ngừng. Nửa vui mừng thúc giục nên đi, nửa lo ngại thì lòng bảo thôi. Hà sợ nhìn thấy đôi mắt tức giận của anh ngày xưa. Đôi mắt hãy còn ấp ủ hình bóng chị Trâm một thời anh đã si mê...Hà thở dài bâng quơ nhìn ra mảnh vườn sau nhà, nắng sáng nay ùa đến sớm hơn, những cánh hoa hướng dương vươn cao đang cười tươi trong nắng,vài con ong bay la đà bên hàng Russian Sage tím tím, tiếng chim non ríu rít trên cây bàng xanh lá báo hiệu một ngày vui mới. Có tiếng chuông reo ngoài cửa, Hà đoán, chắc là bà hàng xóm tốt bụng đem sữa qua cho mình, Hà quay vào bếp lấy cái bình rỗng cầm theo ra cửa để trả lại cho bà. Cửa vừa mở, một sự ngạc nhiên đến tột cùng... xuất hiện trước cửa, một người đàn ông tóc bạc lốm đốm, nụ cười hiền, một tay xách những khung to, một tay cầm bó hồng đỏ thắm. Đôi mắt mí lót, khuôn mặt dễ mến này đã làm Hà sửng sốt trong sự mừng rỡ:
- Trời ơi, anh Khôi!
Anh cười vui:
- Chào Hà, hay thật đấy, không ngờ Hà vẫn nhận ra anh ngay. Vừa nói Khôi vừa đưa bó hồng vào tay Hà - đây tặng em.
Vẫn chưa hết ngạc nhiên, Hà cầm lấy bó hồng run giọng hỏi:
- Sao …anh biết nhà Hà vậy?
Anh cười hóm hỉnh:
- Helen giúp anh tìm ra chỗ Hà ở, dễ quá mà, thời đại khoa học có số phone lên trên on line là tìm được hết, thành phố này lại quá nhỏ bé, tìm một cô y tá người Việt đâu có gì là khó. Rồi anh nháy mắt- nào có cho anh vào nhà không, để anh còn nói hết nỗi vui mừng của mình nữa chứ.
Hà mở rộng cánh cửa cho anh bước vào, mắt vẫn nhìn anh đăm đăm ngớ ngẩn hỏi:
- Em có mơ không?
Khôi cười:
- Không, em không mơ, đây là thực.
Nói rồi, Khôi đặt những khung hình xuống đất, tiến đến gần Hà đưa tay quay hai vai Hà lại phía anh:
- Xem nào mấy chục năm mà cô em Hà vẫn không thay đổi gì nhiều lắm, Hà này, đúng là trái đất tròn nên vô tình mình được gặp nhau đây anh vui lắm. Bao nhiêu năm nay anh vẫn còn nợ Hà một lời cám ơn chân thành từ dạo anh đi tù. Anh luôn mong có ngày gặp được Hà để nói một câu cho nhẹ lòng.
Hà bối rối, cụp mắt nhìn xuống những cánh hồng, Khôi nâng mặt Hà lên tiếp:
- Hãy nhìn anh đây, anh đã được nghe bố anh nói rất nhiều về tấm lòng của Hà. Lúc đó anh mới cảm nhận ra mình quá may mắn được một người con gái như Hà chú ý tới trong cảnh tù tội. Trong khi có vài thằng bạn tù của anh bị người yêu bỏ rơi… Giọng anh bỗng trầm xuống- ngày bố anh hấp hối, bố vẫn ao ước cho anh gặp được Hà… Từ đó, lúc nào anh cũng nghĩ tới Hà…
Nói xong anh cúi xuống vừa mở những khung hình ra vừa tiếp:
- Hôm nay anh mang những bức tranh này đến cho Hà xem, anh hy vọng Hà cũng thích.
Hà nhẹ nhàng đặt bó hoa lên chiếc bàn gần đó, rồi kéo tay anh chỉ bức tranh treo trên tường:
- Anh còn nhớ bức tranh này không?
Khôi nhìn lên theo hướng tay chỉ, nheo mắt cười:
- Ồ, nhớ chớ, bức tranh này anh vẽ tặng Trâm lâu lắm rồi, Hà vẫn còn giữ đến bây giờ quý thật đó. Nhưng thôi, để Hà xem những tranh này đặc biệt hơn, chỉ dành cho Hà.
Anh mở ra ba bức hình khổ lớn là những bức hình vẽ chân dung Hà, những đường chì tinh xảo trông thật sống động, có một bức hình anh vẽ Hà như ngồi trong mưa, đôi mắt ươn ướt, Hà trầm trồ:
- Trời ơi, em đây sao, anh vẽ đẹp quá, đôi mắt có hồn ghê đi, nhìn ở ngoài em đâu có được như vậy!
- Sao không, ở ngoài em còn đẹp hơn nữa.
Xoa nhẹ ngón tay trên đường chì bóng mướt, Hà cười chống chế:
- Không có đâu, em luôn nghĩ mình là đứa xấu xí.
- Sao Hà lại nghĩ mình xấu, Hà có biết là em có một nét đẹp rất dễ thương không? Khôi xoay mặt Hà lại gần bên anh tiếp- dễ thương nhất là đôi mắt, nhìn đôi mắt Hà thì không ai có thể nói dối được.
Hà vui sướng nhìn những bức chân dung của mình nhớ lại lời Helen nói, “ba cháu vẽ nhiều hình một cô gái lắm, suốt ngày cứ ngắm nghía những bức tranh đó.” cô gái ấy không phải là chị Trâm như Hà đã tưởng, mà lại là Hà. Ôi, thật không ngờ, không ngờ, không ngờ… Anh chỉ cho Hà bức tranh có đôi mắt và mái tóc ướt; anh bảo đó là hình ảnh đầu tiên Hà đến thăm anh. Anh còn nhớ hôm ấy trời mưa, tóc Hà ướt, trông đẹp lắm. Hà hỏi:
- Sao gặp có mấy phút mà anh nhớ khuôn mặt em để vẽ lại hay vậy?
Nhìn Hà sâu lắng, anh chậm rãi nói:
- Anh vẽ bằng ký ức, bằng cả tấm lòng say mê khi nghĩ đến Hà .
Dừng một lát anh dịu giọng thì thầm- và bằng một tình yêu... muộn màng...
Hà chớp mắt cảm động, trời ơi, thật anh cũng yêu Hà sao? Mấy chục năm trôi qua bây giờ Hà mới hiểu tình yêu không còn là ẩn số nữa, lòng Hà vui như sống trong mơ, Hà hạnh phúc với ước mộng đã thành.Cầm bức tranh lên, Hà hỏi anh:
- Em sẽ tìm chỗ treo những bức tranh này lên nha anh?
Khôi gật đầu, rồi lặng lẽ đi đến lấy bức tranh vẽ hình chị Trâm bên chiếc trực thăng xuống. Hà ngạc nhiên hỏi:
- Sao anh lại gỡ bức tranh đó xuống làm chi?
Khôi thản nhiên nói:
- Đây không phải là bức tranh tình yêu.
Rồi anh nâng bức tranh vẽ chân dung Hà lên:
- Bức tranh này mới là những bức tranh tình yêu của anh dành cho Hà, phải nên treo.
Hà nhìn sững anh, dòng cảm xúc kéo nhanh lên mắt, Khôi tiến lại gần sát bên Hà, nhẹ nhàng đặt một nụ hôn lên đôi mắt đang ướt lệ ấy …Ngoài vườn sau, tiếng chim ríu rít rộn ràng hơn như đang hát mừng cho ngày vui hạnh ngộ của hai người.
Thiên Lý (26/3/14)
Biên Hùng chuyển
Biên Hùng chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Bức Tranh Tình Yêu - Thiên Lý
Hà vui sướng nhìn những bức chân dung của mình nhớ lại lời Helen nói, “ba cháu vẽ nhiều hình một cô gái lắm, suốt ngày cứ ngắm nghía những bức tranh đó.” cô gái ấy không phải là chị Trâm như Hà đã tưởng, mà lại là Hà
Hồi ấy, đã lâu lắm rồi khi chị Trâm dẫn anh về nhà
giới thiệu với bố mẹ chị thì Hà chỉ biết anh là một Trung úy Phi Công.
So với những anh bạn khác của chị Trâm thì Hà có cảm tình với anh nhiều
hơn bởi cử chỉ thân thiện anh dành cho mọi người trong nhà. Không biết
anh là người bồ thứ mấy của chị Trâm, vì ngoài anh ra chị còn có nhiều
chàng bồ khác được phân ra làm hai loại: “bồ ruột” và “bồ hờ”. Chị Trâm đẹp lắm, chị biết rõ điều đó nên không ngại ngùng gì mà từ chối bao nhiêu cuộc săn đón của các chàng sĩ quan “tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt”,
từ khắp các binh chủng Bộ Binh, Không Quân, Hải Quân, Nhảy Dù… Nếu
chàng là sĩ quan cấp úy đổ lên, lại đẹp trai thì sẽ được chị mời về nhà
chơi và xếp loại bồ “hờ”. Còn phải kể đến những anh chàng sinh
viên Khoa Học hay Phú Thọ si tình mà chị cảm thấy chưa thích mắt, nhưng
vẫn cứ ngọt ngào hò hẹn để cho các chàng nếm mùi “leo cây” mà ca rằng: “em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé”, cũng là “ hờ”
xa..xa tít luôn. Về tiêu chuẩn “bồ ruột” của chị thì Hà không rõ lắm.
Hình như chỉ có một anh sĩ quan Hải Quân là được phép lui tới thường
xuyên thăm chị, và thỉnh thoảng còn chở chị đi chơi nữa, không biết anh
chàng là ruột gì, ruột non hay già???
Chị Trâm với Hà là chị em con cô cậu. Bố chị (bác An) là anh trai của mẹ Hà. Ba Hà là sĩ quan Bộ Binh, đã mất trong trận đánh ở An Lộc mùa hè năm 72. Mẹ thì bị lao phổi đã đi theo ba một năm sau đó, bỏ Hà lại cho dì Tâm. Hà ở với dì được hai năm thì dì gửi Hà lên nhà bác An với lý do là Hà càng lớn ở với bác thì tốt hơn với dì. Số phận Hà trôi dạt vào nhà bác An từ ngày ấy, ngày Hà đúng sinh nhật mười lăm tuổi. Hà làm quen với các anh chị cũng khá dễ dàng, chị Trâm là con gái lớn đang theo học năm thứ hai đại học Văn Khoa, kế đến là anh Long đang học lớp 12, rồi đến chị Như học lớp 11, và Tuấn lớp 9 nhỏ hơn Hà một tuổi. Bác An trai, bố của chị Trâm rất hiền và dễ dãi, trái lại bác gái thì nghiêm khắc, khó khăn. Cả hai bác rất cưng chiều chị Trâm, chị học giỏi lại xinh đẹp. Chị Trâm có vóc dáng thanh cao, khuôn mặt trái xoan, làn da trắng mịn màng, đôi mắt to đen ẩn dưới hàng mi dài cong vút. Chị là điểm nhắm của biết bao nhiêu anh chàng si tình thời đó. Khi nào chị ở nhà thì y như rằng có khách đến thăm, Hà rất khó chịu phải túc trực bên ấm trà để pha nước, bưng trà ra mời khách đến mỏi cả tay. Nhưng, từ ngày có sự xuất hiện của anh, Hà thấy việc bưng trà là điều thú vị vì được anh hỏi chuyện học hành, lại được anh cho mấy gói xí muội cam thảo, hay me ngào đường để nhâm nhi, có khi anh còn mang đến những hộp bánh kem đủ loại, mà lần nào Hà cũng được thưởng thức trước nhờ công pha trà. Hà thích nụ cười của anh, thích nghe giọng nói ấm áp qua những câu chuyện vui với chị Trâm. Điều làm cho Hà hơi ngạc nhiên thì anh Khôi không đẹp trai lắm, anh chỉ có vóc dáng cao với khuôn mặt dễ mến. Không biết anh đã nằm trong tiêu chuẩn nào của chị Trâm mà được chị vời đến nhà.
Một ngày, anh mang đến tặng chị Trâm một bức tranh do anh vẽ. Trong hình, anh vẽ khuôn mặt chị đang hướng về bầu trời nơi có chiếc trực thăng bay trên cao. Những đường nét bằng bút chì tô bóng rất đẹp, rất sống động. Hà chắc là anh đã bỏ công rất nhiều ngày để hoàn thành nó. Nhưng buồn thay, khi anh ra về, chị Trâm đã xếp xó bức tranh vào ngăn tủ và trề môi bảo:
- Cái anh chàng Khôi này chẳng có thực tế chút nào, đi cua đào mà không biết tặng quà, tặng ví tay, dầu thơm hay cái gì đó cho người ta xài được chứ ai mà đi tặng tranh. Đúng là đồ “dở hơi”!
Sau lời nói đó của chị, Hà biết anh Khôi đã bị rớt đài tuyển chọn. Chờ cho chị quay đi, Hà lục lại ngăn tủ lấy bức tranh ra ngắm nghía, lăn nhẹ ngón tay trên những đường chì được đánh bóng từng nét quanh chiếc trực thăng mướt láng, tinh xảo rồi trầm trồ một mình. Hình vẽ đẹp quá đi chứ sao chị lại chê! Nhìn khuôn mặt chị Trâm trong tranh là biết ngay anh đã bỏ bao nhiêu tâm huyết vào tác phẩm. Bên dưới phía trái anh ký tắt ba chữ là VMK PĐ 245 thật lả lướt. Ngắm bức tranh một hồi, rồi nhìn trước ngó sau như kẻ ăn vụng. Hà cắp bức tranh vào người chạy nhanh lên gác cất dưới gối…
Sau đó không bao lâu thì tình hình đất nước thay đổi trong cảnh nhốn nháo điên cuồng của những ngày sắp tàn chinh chiến. Anh sĩ quan Hải Quân nhanh chân hơn anh Khôi nên đã rước chị Trâm, anh Long và Như theo anh trên chuyến tàu định mệnh rời xa đất nước. Anh Khôi đến tìm chị sau một ngày thì chị đã lênh đênh ra biển, trông anh thất vọng đến tội nghiệp, rồi anh thảy cho Hà mảnh giấy có ghi địa chỉ và nói:
- Đây là địa chỉ của anh, nếu Hà có tin tức gì của Trâm báo cho anh biết nhé!
Hà gật đầu, không kịp nói thêm được câu nào với anh thì anh đã tất tả chạy đi.
Tin ba chị em chị Trâm đã đến được đảo Guam làm cho hai bác rất yên lòng. Giữ đúng lời Khôi dặn ngày nào. Hà vội vã tìm đến địa chỉ nhà anh để báo tin chị Trâm. Nhà anh cũng không khó tìm là mấy, nó tọa lạc trong khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, có điều phải đi lên lầu cao rất mỏi chân. Hà bỗng thấy lòng mình hồi hộp lạ lùng, một cảm giác vừa vui lại vừa sờ sợ…Nhưng niềm vui chưa kịp nở hết thì sự thất vọng đã lấn át, khi Hà gặp cha anh với khuôn mặt lo lắng và giọng nói đầy chán chường:
- Khôi đi "học tập" mấy tháng nay rồi, hiện giờ cả nhà không ai biết nó ở đâu, cô có nhắn gì cũng vô ích thôi.
Hà đành quay về, lòng thấy buồn bâng quơ. Nghĩ đến hai chữ “học tập” kỳ quặc, Hà đặt cho mình những câu hỏi lẩm cẩm, “học tập” gì mà ghê thế, đến ngay cả cha anh còn không biết giờ này anh ở đâu thì làm sao mình có dịp gặp được anh? Có lẽ nào mình bị mất liên lạc với anh luôn không? Mà tại sao phải gặp anh ta làm chi? Biết anh có thực sự muốn nghe tin chị Trâm không để rồi anh sẽ buồn thêm. Đạp xe qua đám đông Hà tưởng như chỉ một mình đi trên sa mạc vắng hoe, nóng bỏng, cô liêu làm sao!
Một năm sau ngày Hà đậu vào trường trung học y tế, ngành y tá, nhân dịp tham gia công tác chích ngừa cho dân trong phường Nguyễn Thiện Thuật, Hà vô tình gặp lại cha anh và hỏi thăm tin tức về anh thì đã biết được địa chỉ hòm thơ của anh để liên lạc. Hà mừng rỡ, cầm địa chỉ về nhà định bụng sẽ viết cho anh ngay để báo tin về chị Trâm, chắc hẳn anh cũng mong tin chị lắm. Rồi bỗng nhiên Hà thấy mình sao vô duyên quá, chuyện của chị Trâm dính gì tới mình mà phải hăng hái đến thế? Song, cứ nhớ đến khuôn mặt dễ mến và giọng nói ấm áp của anh là tim Hà lại rộn ràng lên một niềm vui như thôi thúc quyết tâm viết thư thăm anh. Theo lời người bạn có thân nhân đi “học tập” chỉ dẫn, Hà mua những thức ăn khô kèm theo thư; nào đường tán, nào đậu phọng, mì khô, muối mè, mắm ruốc...
Lần đầu Hà mang quà đến gửi chung với gia đình Khôi, cha anh có vẻ cảm động lắm. Nhìn ông cụ run tay xếp những món đồ vào thùng với sự cẩn thận, chan chứa tình yêu thương, Hà muốn rơi nước mắt. Có ghé qua thăm chừng tin tức của Khôi, Hà mới thấy hoàn cảnh của anh thật là tội. Mẹ anh đã mất, chỉ còn lại người bố già sống với hai cô con dâu và hai người con gái, cùng một đàn cháu nội, ngoại nheo nhóc. Nghe nói trước năm 75, các chị đều ở trong cư xá quân đội. Sau ngày CS vào, các chị đã bị đuổi ra ngoài, nên giờ ngần ấy người phải ở chen chúc nhau trong một căn chung cư chật hẹp. Thảm thương thay cho cảnh nhà anh, những người đàn ông cột trụ của gia đình đều bị tù đày.Tội cho thân già yếu của bố anh phải gánh vác trách nhiệm lo quà thăm nuôi Khôi, anh là con trai út còn độc thân. Hà ngẫm nghĩ nếu chị Trâm biết được hoàn cảnh của Khôi như vầy, không biết chị có dám chấp nhận yêu anh không? Hà nhớ có lần chị Trâm nói với Hà:
- Chị thích tính cương trực, cứng rắn của anh chàng Khôi hơn là anh Tuấn Hải Quân. Có điều Khôi chẳng thực tế chút nào, người dở dở ương ương sao đâu đó.
Ngừng lại, suy nghĩ một chút rồi chị nói thêm:
- Mà mấy ông Không Quân cũng nhiều đào lắm cơ, chị có đứa bạn quen với một ông Không Quân Khu Trục cứ gửi lộn thơ cho nó hoài.
Hà ngạc nhiên hỏi lại:
- Gửi lộn thơ là sao hả chị?
- Là nhiều đào quá gửi cho bà nọ thì lộn sang bà kia chứ sao. Mai mốt Hà lớn lên có quen lính thì tránh KQ ra nhé. Lấy ông chồng có số đào hoa chỉ khổ thân mình thôi.
Chị Trâm là người sống thực tế, lại khôn ngoan trong tình cảm, chị cũng thường nói với Hà là con gái nên lấy người thương mình hơn là lấy người mình thương. Tiêu chuẩn về người thương chị phải khá giả để bảo đảm cho chị một cuộc sống sung sướng, nhàn hạ, điều mà chị đã quen từ tấm bé. Từ khi Hà vào gia đình bác An, Hà chưa hề thấy chị làm một công việc nhỏ nhặt nào trong nhà. Quét dọn, nấu nướng, giặt giũ đã có bác gái và Hà. Chị Trâm như một tiểu thơ đài các chỉ ăn với học. Không biết rồi đây nơi vùng đất xa xôi nào đó chị có thay đổi tính tình để thích ứng với cuộc sống mới không? Chị có một phút giây nào nghĩ đến anh Khôi? Một anh chàng cựu phi công nghèo đang bị cầm tù không biết tương lai ra sao?
Thời gian lặng lẽ trôi qua trong bao nhiêu sự khó khăn của nền kinh tế thời “bao cấp”. Gia đình Hà may mắn hơn vì bác An không phải đi “học tập”. Dưới thời VNCH, bác chỉ là công chức ở nhà máy đèn vẫn đi làm, bác gái thì buôn bán lặt vặt, lại có sự trợ giúp tiền, quà của chị Trâm từ bên Mỹ về. Vì thế, tiền học bổng của Hà hai bác không cần đến, Hà cũng không chi tiêu gì nhiều cho bản thân chỉ dành dụm để mua quà gửi cho Khôi. Lần gửi đồ nào Hà cũng nói với bố anh là của chị Trâm gửi.
Về đời sống của các anh chị bên Mỹ đã ngày một ổn định, chị Trâm báo tin sẽ làm đám cưới với anh Hải Quân. Nghe tin vui của chị, Hà cảm thấy buồn cho Khôi…
Ba năm sau khi Hà vừa ra trường trung học y tế thì giấy tờ bảo lãnh của chị Trâm gửi về. Do bác An nhận Hà là con trong gia đình nên Hà cũng có tên trong danh sách bảo lãnh. Nghe đến đi Mỹ, một cảm giác buồn buồn lẫn lo lắng khuấy động tâm hồn Hà. Hà lo sẽ không có dịp để gửi quà cho anh nữa, buồn vì không còn hy vọng gặp lại anh như Hà vẫn đang thầm mơ ước. Nghĩ thế, Hà lại tự trách mình thật vớ vẩn quá! Biết bao giờ anh mới được thả về, mà mong gặp anh để làm gì kia chứ? Tuy tự trách mình như thế, Hà biết, từ nơi sâu thẳm của trái tim mình vẫn thường rung lên một âm thanh nồng nàn cảm mến, dịu dàng, êm êm mỗi khi nghĩ đến anh. Nhưng Hà tự dối mình và lúc nào cũng mượn hình ảnh chị Trâm để khỏa lấp vào chỗ nhịp rung nhẹ nhàng ấy, để rồi lại buồn, lại trăn trở, lại ray rứt hằng đêm, lại tiếc sao mình không là chị Trâm để được nhận một tình cảm từ nơi anh, dẫu cho tình cảm đó có mơ hồ như sương khói.
Những thùng quà nhỏ kèm theo những lá thư với lời lẽ Hà bịa đặt ra của chị Trâm vẫn đều đặn gửi đi hàng tháng, cho đến ngày Hà theo hai bác và Tuấn đi phỏng vấn. Nỗi buồn càng dầy lên trong lòng, Hà như người bị sốt, đứng ngồi không yên. Linh tính cho Hà biết chắc Hà sẽ không bao giờ gặp được anh nữa. Loay hoay tự hỏi mình phải làm sao, hay là viết thư cho anh nói thật hết. Không, không thể nào, thư còn bị kiểm duyệt nữa, đâu có thể viết chuyện riêng tư được. Ôi, sao Hà khổ tâm quá, bao nhiều lần Hà tự hỏi có phải mình đã yêu không? Rồi tự trả lời bằng những ý nghĩ lập lờ. Không, ta không yêu, mà tình yêu là sao nhỉ, là một ẩn số không giải thích nổi. Có lẽ đây chỉ là một tình thương, một sự quý mến, một cảm phục, một...nhớ nhung… có hơi vô lý vì đã tiếp xúc hay chuyện trò nhiều lần với anh đâu và biết anh là người ra sao để nhớ, để thương chứ ...Đêm đêm trằn trọc với những suy nghĩ mông lung, làm Hà rối rắm thở vắn, thở dài, cảm thấy nhớ anh da diết lại lấy bức hình trực thăng ra ngắm nghía. Từng nét chì vẽ vô tri mà sao gợi nhớ nhiều đến thế. Hà nhớ những lần anh đến chơi lúc trước, khi Hà bưng nước trà ra mời anh thì lúc nào anh cũng xoa đầu Hà khen ngoan…
Từ ngày anh bị tù đày, cha anh chỉ có khả năng gửi đồ mà chưa có dịp nào đi thăm. Nhắc đến đi thăm, lòng Hà trỗi dậy một ý định muốn đi thăm anh. Tại sao không nhỉ, một lần thăm sẽ được nhìn thấy anh trước khi mình rời khỏi Việt Nam. Nghĩ thế, một ngày, sau giờ làm việc Hà hăng hái đạp xe đến hỏi cha anh về chuyện này. Ông cụ ngạc nhiên lẫn vui mừng không ngờ trước đề nghị của Hà. Ông mừng đó nhưng rồi lại lo lắng cho chuyến đi vì chỗ Khôi bị tù mãi ở trại Bù Gia Mập, một địa danh rừng rú hiểm trở, xe đò qua lại không có nhiều chuyến. Chỗ đó chỉ cách biên giới nước Miên vài chục cây số, nếu lỡ xe, lỡ đường bị lạc trong rừng không có lối ra thì thật nguy hiểm vô cùng. Ông nói với Hà điều đó, song Hà không chùng lòng vẫn một mực muốn đi thăm anh với ông. Hà còn trấn an ông đừng ngại gì về chuyện chi phí đi đường, Hà sẽ lo tất cả. Ông cụ cảm động lắm, với kinh nghiệm sống dưới mắt một người cha, ông hiểu được tấm lòng của Hà đối với con trai mình là một tình cảm đặc biệt tự lòng cô, chứ không phải là từ nơi chị Trâm như Hà hay nói.
Trước ngày dự định đi thăm Khôi, Hà phải nói dối với hai bác là mình “bị” cử đi công tác với đoàn y tế ở Phước Bình một ngày, hai bác tin ngay không hề thắc mắc gì. Sau đó Hà đi chợ mua nhiều thứ đồ khô cần thiết cho Khôi và để sẵn ở nhà anh để hai bác không nghi ngờ. Sáng hôm đó, Hà dậy từ 3 giờ sáng, đạp xe đến nhà Khôi phụ ông cụ xếp đồ vào những chiếc giỏ đệm, cột ràng cẩn thận rồi cùng ông đi tới bến xe miền đông mua vé xe từ Sàigon đi Phước Bình. Khi tới Phước Bình thì trời đổ mưa, đường từ Phước Bình vào trại phải băng qua một đoạn đường đất đỏ, chung quanh là rừng núi âm u. Cũng may hôm đó có nhiều người đi thăm nuôi thân nhân, nên mọi người gồng gánh giúp nhau từng chặng và những câu chuyện đời sống làm Hà quên đi bao gian nan mệt nhọc trên đường. Hà nắm chặt lấy tay bố Khôi, còn một tay kéo lê cái giỏ quà nặng trên đường, bố Khôi cũng thế, cả hai người nương nhau đi trên con đường trơn trợt. Cơn mưa rỉ rả làm trời u ám cùng với cái lạnh se thắt từ gió rừng thổi tới.
Đến trại, bố Khôi cùng đoàn người thăm nuôi trình giấy rồi ra ghế ngồi chờ một lát. Ông cụ ngồi xuống mà mắt cứ nhướng nhướng vào phía xa bên kia bờ rào, Hà biết ông cụ rất nóng lòng, Hà cũng nóng lòng không kém, còn thêm hồi hộp nữa. Hà nhìn những người đi thăm nuôi, có khoảng bảy người đàn bà cỡ ngoài ba mươi và ba người đàn ông trung niên, bố Khôi là người lớn tuổi hơn cả. Từng người tù đi ra, mọi người đứng lên nhốn nháo một chút. Hà đưa mắt chung quanh cố tìm ra Khôi mà không thấy, Hà nhìn sang bố Khôi trông đợi, hy vọng ông sẽ thấy anh trong đám người đàn ông lam lũ kia. Hà bắt đầu nghe những tiếng khóc nấc vang lên gần bên. Bố Khôi lẩm bẩm:
- Không biết Khôi đâu nhỉ, chưa thấy nó ra.
Ồng vừa dứt tiếng thì có tiếng gọi:
- Bố, bố, trời ơi, con mừng quá!
Bố Khôi và Hà cùng quay lại, Hà giật mình sững sờ nhìn người đàn ông trước mặt trong khi bố anh ngẩn ngơ nhìn anh vài giây rồi bật khóc:
- Trời ơi con đây sao. Tay ông sờ soạng khắp mặt mũi anh, tội con tôi, ốm quá thế này!
Hà lặng người nhìn anh, thật Khôi đây sao! Bảy năm rồi không gặp lại anh kể từ ngày "hòa bình" chỉ có bảy năm thôi mà cuộc sống tù đày đã biến anh tàn tạ đến nỗi này. Anh gầy ốm da xanh mét, tiều tụy trong bộ quần áo màu xám cũ nát.Nhìn anh, Hà biết chắc anh vừa trải qua một cơn bệnh sốt rét. Anh choàng cánh tay khẳng khiu đầy những vết sước qua vai ông cụ mừng rỡ...Hà cảm động trước cảnh gặp gỡ của hai cha con, và sự thương cảm lẫn vui mừng trong lòng Hà theo những giọt nước mắt tự nhiên lăn xuống. Quay đi, Hà ngập ngừng chậm nước mắt, chắc sự mừng rỡ quá đỗi khiến ông cụ quên sự có mặt của Hà vài phút, nghe hai cha con hàn huyên, Hà không thể hỏi anh được câu nào cho tới khi ông cụ gọi Hà:
- Này cô Hà lại đây. Con nhớ Hà chứ, ân nhân của nhà mình đấy!
Hà đến gần ông cụ ngồi xuống đối diện anh. Ôi khuôn mặt dễ mến trước đây bây giờ hốc hác, xanh xao, buồn bã. Mỉm cười nhìn anh trong nước mắt, Hà hỏi:
- Dạ chào anh, anh khỏe không?
Ngước nhìn Hà anh ngạc nhiên:
- Hà em của Trâm đây mà, trời ơi, Hà khác quá, trông em xinh ra đấy! Cám ơn Hà đã đến thăm anh, thật là quý vô cùng.
Hà bẽn lẽn vuốt mái tóc ướt, lí nhí:
- Dạ không có chi, được đi thăm anh, em vui lắm.
Khôi cười cười nói:
- Anh nhớ mới hôm nào đến nhà chơi, Hà còn nhỏ xíu à lúc đó em cỡ mười mấy nhỉ?
Hà tiếp:
- Dạ ...mười lăm.
Khôi vừa nhìn ông cụ vừa nhìn Hà nói:
- Thời gian đi nhanh quá, nếu bố không nói thì con cũng không nhận ra con bé Hà này. Chắc bố với Hà đi đường vất vả lắm hả bố, con nghe nói đường vào đây rất khó đi.
Ông cụ chậm nước mắt:
- Khó bao nhiêu mà có điều kiện bố cũng ráng đi gặp mày rồi có chết cũng đành. Con sống trong này ra sao?
Khôi lắc đầu buồn bã nói:
- Bố không cần biết đâu đừng lo cho con nhiều, con đã từng vào sanh ra tử, cực khổ quen rồi, con chịu được hết chỉ có điều nhục thì con đang cố mà cũng chưa được.
Giọng ông cụ nhỏ xuống:
- Ấy chết, cậu phải nhớ rằng cậu đang ở trong tay họ đấy, đừng ngang bướng quá chỉ thiệt vào thân, dù sao mình cũng là kẻ thua rồi. Lo cẩn thận giữ gìn sức khỏe để còn về với bố...
Khôi thở dài...Hà hết nhìn anh rồi nhìn sang ông cụ, lắng nghe hai cha con trò chuyện mà lòng cũng buồn theo mỗi câu nói. Nhìn Khôi một lúc, Hà nhận ra Khôi có nhiều nét giống cha anh, từ vầng trán rộng đến đôi mắt mí lót, sống mũi cao, cặp môi dày. Hà cố giữ lại hình ảnh này trong trí để khi về nhà hy vọng sẽ được gặp lại anh trong giấc mơ. Một chàng sĩ quan Không Quân oai phong năm nào và bây giờ là một người tù tàn tạ, tiều tụy, xác xơ... Bất chợt Khôi đưa mắt nhìn về phía Hà chăm chú, rồi anh hỏi thăm Hà về chị Trâm. Trong ánh mắt anh, Hà như thấy bóng hình của chị Trâm thấp thoáng. Hà lúng túng trước câu hỏi của anh, cúi xuống vân vê vạt áo mình thầm nghĩ, có nên cho anh biết chị Trâm sắp lấy chồng không, nếu nói thì thái độ của anh sẽ ra sao nhỉ? Buồn, chắc chắn là anh sẽ buồn lắm, nhưng nếu không nói thì mình phải tiếp tục dối trá hoài sao? Ôi, bao nhiêu háo hức chờ đợi gặp anh để phút giây đối diện này Hà thấy run rẩy, hồi hộp cho sự kịch tính mà Hà đã gây ra.
- Kìa Hà nói cho anh biết đi Trâm ở tiểu bang nào? Anh mong có dịp viết một lá thư thật dài cho Trâm để cám ơn những tình cảm mà Trâm đã dành cho anh... Anh không hy vọng một ngày sẽ được gặp lại Trâm. Cám ơn cả tấm lòng tốt của cô em nhỏ Hà nữa.
Hà vẫn im lặng, vẫn mân mê chéo áo đã nhàu dưới những ngón tay mình, lòng thì nghe nhói nhói. Im lặng kéo dài vài giây khiến anh phải gọi Hà thêm lần nữa, Hà ngước lên, tránh cái nhìn của anh, ấp úng:
- Chị Trâm ở Virginia, chị...sắp ...lấy chồng rồi anh Khôi à.
- Trâm lấy chồng? Giọng anh ngạc nhiên- sao thư viết cho anh Trâm chẳng nói gì hết?
Hà im lặng, nhìn sự thất vọng và nỗi buồn lộ ra trên khuôn mặt anh, Hà thấy hối hận, thì ra anh cũng nói dối thôi, mới bảo không hy vọng gặp chị Trâm mà giờ nghe tin chị lấy chồng thì anh lại thất vọng. Hà nghe tiếng anh thở dài:
- Cũng phải thôi, Trâm không thể chờ anh được, Trâm còn trẻ đẹp lại ở một đất nước phồn hoa... Anh dừng câu nói rồi thở dài ôm trán.
Hà xót xa nói:
- Thôi anh đừng buồn nữa, ráng giữ sức khỏe để còn về với bác.
Bố Khôi tiếp:
- Phải đó, mỗi người một số phận, vợ chồng cũng là duyên nợ mà nên, cậu phải cố sống khỏe để còn về…
Khôi ngẩng lên nhìn bố và Hà:
- Con không buồn chỉ tiếc là con cả tin vào những tình cảm không có thật... Thư từ thì ngọt ngào thế mà lấy chồng cũng không nói, thà nói thẳng ra mà con không tiếc bằng phải qua trung gian em Hà.
Nghe anh nói Hà giật mình, chết rồi! sự hiểu lầm đã càng lún sâu chỉ tại Hà. Anh đã trách sai cho chị Trâm, anh có biết đâu chị chẳng bao giờ giữ hình anh trong tim chị. Khổ quá, chắc Hà phải đính chính cho chị thôi.
Hà bỗng thấy lo sợ, ngập ngừng một hồi, Hà run run nói:
- Anh Khôi à, em... xin ... nói...một sự thật để ...đính chính cho chị Trâm rằng...tất cả... những thư từ trước đến giờ của chị Trâm gửi cho anh… là do...chính em viết...Chị Trâm không hề biết gì hết....
Lần này thì Khôi càng ngạc nhiên hơn nữa, vầng trán anh nhăn lại, đôi mắt ánh lên một sự tức giận.
- Hả, Hà vừa nói gì?
Hà sợ hãi lẫn xấu hổ cúi mặt ấp úng:
- Lỗi …tại … em...
Giọng Khôi gằn mạnh lên:
- Tại sao Hà lại đem tình cảm ra mà đùa giỡn với anh như vậy chứ, tại sao, tại sao?
Hà giật mình càng thêm run sợ, chưa biết trả lời anh ra sao thì tiếng kẻng hết giờ thăm đã vang lên, tiếng bố anh nói:
- Thôi, tại sao thì mày phải tự biết lấy, mày không còn là thanh niên để không hiểu chuyện này.
Rồi ông buồn buồn dịu giọng tiếp:
- Thôi nhé, thăm con lần này không biết có dịp nào mà đi lần nữa không. Ráng giữ sức khỏe, đừng lo nghĩ gì hết.
Trao hai giỏ quà nặng cho anh, hai cha con lưu luyến nhau một lúc. Tiếng xếp đồ và thúc giục của vài cán bộ trại làm Hà luýnh quýnh nói vội từng câu đứt đoạn:
- Đây …là lần đầu tiên … mà chắc cũng là lần cuối cùng gặp anh, em mong …anh …không giận gì em trong chuyện này… vài tháng nữa là em rời Việt Nam rồi… Anh ráng giữ gìn sức khỏe nha…
Nhìn đôi mắt anh đã dịu lại, Hà xúc động ứa nước mắt, hình như anh cũng sắp khóc thì phải. Bóng vài người cán bộ CS vây quanh những người tù, Hà nhón chân nhìn theo anh, thoáng thấy anh đẩy nhẹ tay người cán bộ trại và ngoái cổ lại phía Hà. Rồi anh khuất sau đám người mang súng ống đó. Hình ảnh của anh đã theo Hà suốt con đường trở về nhà, và còn đeo đẳng mãi trong lòng Hà cho đến mấy chục năm sau.
Phải, mấy chục năm sau sống trên đất Mỹ, Hà vẫn thui thủi một mình, vẫn ấp ủ bóng hình anh qua bức vẽ chiếc trực thăng vô tri. Thời gian đầu Hà ở với vợ chồng chị Trâm, làm “baby sit” cho con chị tới mấy năm rồi chuyển qua “baby sit” cho con anh Long. Trong thời gian ở với chị Trâm, những người bạn của anh Tuấn hay lui tới và anh cũng có ý làm mai cho Hà vài người. Nhưng chắc số Hà không mắc nợ ai hết nên chưa thể kết đôi được. Khi các con anh chị đã lớn, Hà xin ra riêng để đi học một nghề chuyên môn tự nuôi thân mình. Hà đã cố gắng học lại ngành y tá, tuổi xuân qua nhanh cùng năm tháng làm việc và học hành, thấm thoát Hà đã lên hơn nửa hàng bốn của cuộc đời. Nỗi lo toan chiếm hết thời gian để nghĩ đến tình yêu vốn là một ẩn số mà Hà vẫn không tìm ra được câu giải đáp. Hà chuyển về Pagosa Springs, ở Colorado, sống an phận với công việc y tá ở một clinic nhỏ. Pagosa Springs nằm sát ngay biên giới tiểu bang New Mexico về phía bắc chỉ khoảng 35 dặm.
Một ngày nghỉ, Hà theo mấy người bạn đi chợ phiên của người Navajo ở Shiprock, bang New Mexico lân cận. Chợ phiên rất lớn, tề tựu hàng trăm gian hàng trưng bày các loại thảm, khăn, nón, áo, giày dép, những loại dụng cụ săn bắn xa xưa như giáo, mác, dao, rựa. Đặc biệt là nữ trang với nhiều loại đá Turquoise màu xanh tươi thắm cùng các thức ăn, đồ uống cổ truyền Navajo…Lướt qua những gian hàng quần áo sặc sỡ. Hà bỗng chú ý đến một quầy nhỏ trưng bày tranh vẽ nghệ thuật bằng đường chì đen bóng. Hà dừng lại để ngắm tranh, những bức tranh vẽ nhiều chiếc trực thăng ngang dọc, lên, xuống. Nét vẽ quen thuộc làm Hà giật mình, vội lật ra sau bức tranh tìm tên tác giả. Mắt Hà sáng lên, một cảm giác vui mừng lẫn ngạc nhiên khi thấy chữ ký VMK PĐ 245. Hà hồi hộp lẩm bẩm: Đúng là anh rồi! Nhìn quanh mong tìm ra anh, vừa lúc đó, một cô gái trẻ người Mỹ bước tới chào hỏi Hà vui vẻ mời mua tranh. Hà vội vã hỏi ngay:
- Where do you get these pictures?
Cô gái cười tươi tắn nói một hơi:
- Oh, from my dad, he drew them. He still has a lot of pictures at home. Do you like them?
- Yes, I do… I do like them, where is your dad now?
- He’s home, he was here with me yesterday, today he doesn’t feel good so he wants to stay home. We live in Farmington. Oh, what nationality are you?
- I am Vietnamese.
Cô gái đổi sang giọng Việt Nam mừng rỡ nói huyên thuyên làm Hà hết sức kinh ngạc:
- Ồ ba cháu cũng là người Việt Nam, bữa nào cô ghé chơi nha, ba cháu lonely lắm, ở Farmington không có người Việt Nam nhiều. Gặp cô là người Việt Nam ba cháu happy lắm. A, cô ở đâu vậy?
Hà cười khen:
- Wow, cháu nói tiếng Việt giỏi quá, cô ở Pagosa Springs. Rồi ngập ngừng một lúc Hà hỏi cô gái:
- Thế mẹ cháu đâu?
- Mẹ cháu chết lâu rồi, bây giờ ba cháu có một mình thôi.
Cuộc trò chuyện giữa Hà và cô gái trẻ có phần thú vị, cô cho Hà biết cô tên là Helen, đang phục vụ trong quân đội, sẵn được nghỉ phép mấy ngày nhân dịp đúng lúc chợ phiên mở, cô theo cha ra chợ bán tranh cho vui. Helen nói thêm rằng, cha cô vẽ rất nhiều hình một cô gái và suốt ngày cứ ngắm nghía những bức tranh đó. Cô nghĩ, chắc cha cô phải có một tình yêu sâu nặng với người trong hình nên bao nhiêu năm nay ông không muốn lập gia đình lần nữa. Nghe Helen nói Hà tưởng tượng ngay đến bức tranh chị Trâm, chắc chắn là anh vẽ hình chị Trâm rồi! Chị luôn là hình bóng đẹp trong tim anh. Hà còn nhớ như in đôi mắt thất vọng, buồn bã của anh mấy chục năm trước khi nghe tin chị Trâm lấy chồng, và cái nhìn tức giận trút vào Hà lúc anh nghe sự thật về những lá thư Hà viết… Tự ái và chút thất vọng xen giữa nỗi vui, Hà chần chừ không muốn cầm số phone và địa chỉ của Helen. Hà ngại ngùng với ý nghĩ gặp lại anh…chợt muốn khóc, Hà chẳng là gì trong cuộc đời của anh hết, còn anh mãi là cái bóng ảo Hà theo đuổi hoài… Tiếng Helen hỏi:
- A, mà cô tên gì?
Hà thẫn thờ trả lời:
- Cô tên là Nguyệt Hà.
- Nguyệt Hà, tên hay quá, cô có thể cho cháu số phone của cô không?
Hà gật đầu lục túi lấy ra cái business card đưa cho Helen, cô gái nghiêng đầu đọc qua tấm card rồi nói tự nhiên:
- Cô là y tá, tốt quá, nếu có gì cần giúp cháu sẽ gọi cô, ba cháu lớn tuổi rồi hay bịnh vặt lắm.
Thấy Hà như không chú ý lời cô nói, Helen lay cánh tay Hà giọng như năn nỉ:
- Cô, cô nhớ tới nhà cháu chơi nha, tuần tới há cô.
Nhìn lại bức tranh trực thăng trong tay mình, Hà ngập ngừng nói như mơ:
- Ừ,.. cô… sẽ đến!
Suốt cả tuần, lời hứa hẹn đó làm cho Hà suy nghĩ mãi, tâm hồn bị xáo trộn với nhiều cảm xúc, hết vui mừng, rồi lo ngại, chuyển sang hồi hộp y như lần đầu đi thăm anh, bây giờ lại thêm sự ngập ngừng. Nửa vui mừng thúc giục nên đi, nửa lo ngại thì lòng bảo thôi. Hà sợ nhìn thấy đôi mắt tức giận của anh ngày xưa. Đôi mắt hãy còn ấp ủ hình bóng chị Trâm một thời anh đã si mê...Hà thở dài bâng quơ nhìn ra mảnh vườn sau nhà, nắng sáng nay ùa đến sớm hơn, những cánh hoa hướng dương vươn cao đang cười tươi trong nắng,vài con ong bay la đà bên hàng Russian Sage tím tím, tiếng chim non ríu rít trên cây bàng xanh lá báo hiệu một ngày vui mới. Có tiếng chuông reo ngoài cửa, Hà đoán, chắc là bà hàng xóm tốt bụng đem sữa qua cho mình, Hà quay vào bếp lấy cái bình rỗng cầm theo ra cửa để trả lại cho bà. Cửa vừa mở, một sự ngạc nhiên đến tột cùng... xuất hiện trước cửa, một người đàn ông tóc bạc lốm đốm, nụ cười hiền, một tay xách những khung to, một tay cầm bó hồng đỏ thắm. Đôi mắt mí lót, khuôn mặt dễ mến này đã làm Hà sửng sốt trong sự mừng rỡ:
- Trời ơi, anh Khôi!
Anh cười vui:
- Chào Hà, hay thật đấy, không ngờ Hà vẫn nhận ra anh ngay. Vừa nói Khôi vừa đưa bó hồng vào tay Hà - đây tặng em.
Vẫn chưa hết ngạc nhiên, Hà cầm lấy bó hồng run giọng hỏi:
- Sao …anh biết nhà Hà vậy?
Anh cười hóm hỉnh:
- Helen giúp anh tìm ra chỗ Hà ở, dễ quá mà, thời đại khoa học có số phone lên trên on line là tìm được hết, thành phố này lại quá nhỏ bé, tìm một cô y tá người Việt đâu có gì là khó. Rồi anh nháy mắt- nào có cho anh vào nhà không, để anh còn nói hết nỗi vui mừng của mình nữa chứ.
Hà mở rộng cánh cửa cho anh bước vào, mắt vẫn nhìn anh đăm đăm ngớ ngẩn hỏi:
- Em có mơ không?
Khôi cười:
- Không, em không mơ, đây là thực.
Nói rồi, Khôi đặt những khung hình xuống đất, tiến đến gần Hà đưa tay quay hai vai Hà lại phía anh:
- Xem nào mấy chục năm mà cô em Hà vẫn không thay đổi gì nhiều lắm, Hà này, đúng là trái đất tròn nên vô tình mình được gặp nhau đây anh vui lắm. Bao nhiêu năm nay anh vẫn còn nợ Hà một lời cám ơn chân thành từ dạo anh đi tù. Anh luôn mong có ngày gặp được Hà để nói một câu cho nhẹ lòng.
Hà bối rối, cụp mắt nhìn xuống những cánh hồng, Khôi nâng mặt Hà lên tiếp:
- Hãy nhìn anh đây, anh đã được nghe bố anh nói rất nhiều về tấm lòng của Hà. Lúc đó anh mới cảm nhận ra mình quá may mắn được một người con gái như Hà chú ý tới trong cảnh tù tội. Trong khi có vài thằng bạn tù của anh bị người yêu bỏ rơi… Giọng anh bỗng trầm xuống- ngày bố anh hấp hối, bố vẫn ao ước cho anh gặp được Hà… Từ đó, lúc nào anh cũng nghĩ tới Hà…
Nói xong anh cúi xuống vừa mở những khung hình ra vừa tiếp:
- Hôm nay anh mang những bức tranh này đến cho Hà xem, anh hy vọng Hà cũng thích.
Hà nhẹ nhàng đặt bó hoa lên chiếc bàn gần đó, rồi kéo tay anh chỉ bức tranh treo trên tường:
- Anh còn nhớ bức tranh này không?
Khôi nhìn lên theo hướng tay chỉ, nheo mắt cười:
- Ồ, nhớ chớ, bức tranh này anh vẽ tặng Trâm lâu lắm rồi, Hà vẫn còn giữ đến bây giờ quý thật đó. Nhưng thôi, để Hà xem những tranh này đặc biệt hơn, chỉ dành cho Hà.
Anh mở ra ba bức hình khổ lớn là những bức hình vẽ chân dung Hà, những đường chì tinh xảo trông thật sống động, có một bức hình anh vẽ Hà như ngồi trong mưa, đôi mắt ươn ướt, Hà trầm trồ:
- Trời ơi, em đây sao, anh vẽ đẹp quá, đôi mắt có hồn ghê đi, nhìn ở ngoài em đâu có được như vậy!
- Sao không, ở ngoài em còn đẹp hơn nữa.
Xoa nhẹ ngón tay trên đường chì bóng mướt, Hà cười chống chế:
- Không có đâu, em luôn nghĩ mình là đứa xấu xí.
- Sao Hà lại nghĩ mình xấu, Hà có biết là em có một nét đẹp rất dễ thương không? Khôi xoay mặt Hà lại gần bên anh tiếp- dễ thương nhất là đôi mắt, nhìn đôi mắt Hà thì không ai có thể nói dối được.
Hà vui sướng nhìn những bức chân dung của mình nhớ lại lời Helen nói, “ba cháu vẽ nhiều hình một cô gái lắm, suốt ngày cứ ngắm nghía những bức tranh đó.” cô gái ấy không phải là chị Trâm như Hà đã tưởng, mà lại là Hà. Ôi, thật không ngờ, không ngờ, không ngờ… Anh chỉ cho Hà bức tranh có đôi mắt và mái tóc ướt; anh bảo đó là hình ảnh đầu tiên Hà đến thăm anh. Anh còn nhớ hôm ấy trời mưa, tóc Hà ướt, trông đẹp lắm. Hà hỏi:
- Sao gặp có mấy phút mà anh nhớ khuôn mặt em để vẽ lại hay vậy?
Nhìn Hà sâu lắng, anh chậm rãi nói:
- Anh vẽ bằng ký ức, bằng cả tấm lòng say mê khi nghĩ đến Hà .
Dừng một lát anh dịu giọng thì thầm- và bằng một tình yêu... muộn màng...
Hà chớp mắt cảm động, trời ơi, thật anh cũng yêu Hà sao? Mấy chục năm trôi qua bây giờ Hà mới hiểu tình yêu không còn là ẩn số nữa, lòng Hà vui như sống trong mơ, Hà hạnh phúc với ước mộng đã thành.Cầm bức tranh lên, Hà hỏi anh:
- Em sẽ tìm chỗ treo những bức tranh này lên nha anh?
Khôi gật đầu, rồi lặng lẽ đi đến lấy bức tranh vẽ hình chị Trâm bên chiếc trực thăng xuống. Hà ngạc nhiên hỏi:
- Sao anh lại gỡ bức tranh đó xuống làm chi?
Khôi thản nhiên nói:
- Đây không phải là bức tranh tình yêu.
Rồi anh nâng bức tranh vẽ chân dung Hà lên:
- Bức tranh này mới là những bức tranh tình yêu của anh dành cho Hà, phải nên treo.
Hà nhìn sững anh, dòng cảm xúc kéo nhanh lên mắt, Khôi tiến lại gần sát bên Hà, nhẹ nhàng đặt một nụ hôn lên đôi mắt đang ướt lệ ấy …Ngoài vườn sau, tiếng chim ríu rít rộn ràng hơn như đang hát mừng cho ngày vui hạnh ngộ của hai người.
Chị Trâm với Hà là chị em con cô cậu. Bố chị (bác An) là anh trai của mẹ Hà. Ba Hà là sĩ quan Bộ Binh, đã mất trong trận đánh ở An Lộc mùa hè năm 72. Mẹ thì bị lao phổi đã đi theo ba một năm sau đó, bỏ Hà lại cho dì Tâm. Hà ở với dì được hai năm thì dì gửi Hà lên nhà bác An với lý do là Hà càng lớn ở với bác thì tốt hơn với dì. Số phận Hà trôi dạt vào nhà bác An từ ngày ấy, ngày Hà đúng sinh nhật mười lăm tuổi. Hà làm quen với các anh chị cũng khá dễ dàng, chị Trâm là con gái lớn đang theo học năm thứ hai đại học Văn Khoa, kế đến là anh Long đang học lớp 12, rồi đến chị Như học lớp 11, và Tuấn lớp 9 nhỏ hơn Hà một tuổi. Bác An trai, bố của chị Trâm rất hiền và dễ dãi, trái lại bác gái thì nghiêm khắc, khó khăn. Cả hai bác rất cưng chiều chị Trâm, chị học giỏi lại xinh đẹp. Chị Trâm có vóc dáng thanh cao, khuôn mặt trái xoan, làn da trắng mịn màng, đôi mắt to đen ẩn dưới hàng mi dài cong vút. Chị là điểm nhắm của biết bao nhiêu anh chàng si tình thời đó. Khi nào chị ở nhà thì y như rằng có khách đến thăm, Hà rất khó chịu phải túc trực bên ấm trà để pha nước, bưng trà ra mời khách đến mỏi cả tay. Nhưng, từ ngày có sự xuất hiện của anh, Hà thấy việc bưng trà là điều thú vị vì được anh hỏi chuyện học hành, lại được anh cho mấy gói xí muội cam thảo, hay me ngào đường để nhâm nhi, có khi anh còn mang đến những hộp bánh kem đủ loại, mà lần nào Hà cũng được thưởng thức trước nhờ công pha trà. Hà thích nụ cười của anh, thích nghe giọng nói ấm áp qua những câu chuyện vui với chị Trâm. Điều làm cho Hà hơi ngạc nhiên thì anh Khôi không đẹp trai lắm, anh chỉ có vóc dáng cao với khuôn mặt dễ mến. Không biết anh đã nằm trong tiêu chuẩn nào của chị Trâm mà được chị vời đến nhà.
Một ngày, anh mang đến tặng chị Trâm một bức tranh do anh vẽ. Trong hình, anh vẽ khuôn mặt chị đang hướng về bầu trời nơi có chiếc trực thăng bay trên cao. Những đường nét bằng bút chì tô bóng rất đẹp, rất sống động. Hà chắc là anh đã bỏ công rất nhiều ngày để hoàn thành nó. Nhưng buồn thay, khi anh ra về, chị Trâm đã xếp xó bức tranh vào ngăn tủ và trề môi bảo:
- Cái anh chàng Khôi này chẳng có thực tế chút nào, đi cua đào mà không biết tặng quà, tặng ví tay, dầu thơm hay cái gì đó cho người ta xài được chứ ai mà đi tặng tranh. Đúng là đồ “dở hơi”!
Sau lời nói đó của chị, Hà biết anh Khôi đã bị rớt đài tuyển chọn. Chờ cho chị quay đi, Hà lục lại ngăn tủ lấy bức tranh ra ngắm nghía, lăn nhẹ ngón tay trên những đường chì được đánh bóng từng nét quanh chiếc trực thăng mướt láng, tinh xảo rồi trầm trồ một mình. Hình vẽ đẹp quá đi chứ sao chị lại chê! Nhìn khuôn mặt chị Trâm trong tranh là biết ngay anh đã bỏ bao nhiêu tâm huyết vào tác phẩm. Bên dưới phía trái anh ký tắt ba chữ là VMK PĐ 245 thật lả lướt. Ngắm bức tranh một hồi, rồi nhìn trước ngó sau như kẻ ăn vụng. Hà cắp bức tranh vào người chạy nhanh lên gác cất dưới gối…
Sau đó không bao lâu thì tình hình đất nước thay đổi trong cảnh nhốn nháo điên cuồng của những ngày sắp tàn chinh chiến. Anh sĩ quan Hải Quân nhanh chân hơn anh Khôi nên đã rước chị Trâm, anh Long và Như theo anh trên chuyến tàu định mệnh rời xa đất nước. Anh Khôi đến tìm chị sau một ngày thì chị đã lênh đênh ra biển, trông anh thất vọng đến tội nghiệp, rồi anh thảy cho Hà mảnh giấy có ghi địa chỉ và nói:
- Đây là địa chỉ của anh, nếu Hà có tin tức gì của Trâm báo cho anh biết nhé!
Hà gật đầu, không kịp nói thêm được câu nào với anh thì anh đã tất tả chạy đi.
*****
Tin ba chị em chị Trâm đã đến được đảo Guam làm cho hai bác rất yên lòng. Giữ đúng lời Khôi dặn ngày nào. Hà vội vã tìm đến địa chỉ nhà anh để báo tin chị Trâm. Nhà anh cũng không khó tìm là mấy, nó tọa lạc trong khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, có điều phải đi lên lầu cao rất mỏi chân. Hà bỗng thấy lòng mình hồi hộp lạ lùng, một cảm giác vừa vui lại vừa sờ sợ…Nhưng niềm vui chưa kịp nở hết thì sự thất vọng đã lấn át, khi Hà gặp cha anh với khuôn mặt lo lắng và giọng nói đầy chán chường:
- Khôi đi "học tập" mấy tháng nay rồi, hiện giờ cả nhà không ai biết nó ở đâu, cô có nhắn gì cũng vô ích thôi.
Hà đành quay về, lòng thấy buồn bâng quơ. Nghĩ đến hai chữ “học tập” kỳ quặc, Hà đặt cho mình những câu hỏi lẩm cẩm, “học tập” gì mà ghê thế, đến ngay cả cha anh còn không biết giờ này anh ở đâu thì làm sao mình có dịp gặp được anh? Có lẽ nào mình bị mất liên lạc với anh luôn không? Mà tại sao phải gặp anh ta làm chi? Biết anh có thực sự muốn nghe tin chị Trâm không để rồi anh sẽ buồn thêm. Đạp xe qua đám đông Hà tưởng như chỉ một mình đi trên sa mạc vắng hoe, nóng bỏng, cô liêu làm sao!
Một năm sau ngày Hà đậu vào trường trung học y tế, ngành y tá, nhân dịp tham gia công tác chích ngừa cho dân trong phường Nguyễn Thiện Thuật, Hà vô tình gặp lại cha anh và hỏi thăm tin tức về anh thì đã biết được địa chỉ hòm thơ của anh để liên lạc. Hà mừng rỡ, cầm địa chỉ về nhà định bụng sẽ viết cho anh ngay để báo tin về chị Trâm, chắc hẳn anh cũng mong tin chị lắm. Rồi bỗng nhiên Hà thấy mình sao vô duyên quá, chuyện của chị Trâm dính gì tới mình mà phải hăng hái đến thế? Song, cứ nhớ đến khuôn mặt dễ mến và giọng nói ấm áp của anh là tim Hà lại rộn ràng lên một niềm vui như thôi thúc quyết tâm viết thư thăm anh. Theo lời người bạn có thân nhân đi “học tập” chỉ dẫn, Hà mua những thức ăn khô kèm theo thư; nào đường tán, nào đậu phọng, mì khô, muối mè, mắm ruốc...
Lần đầu Hà mang quà đến gửi chung với gia đình Khôi, cha anh có vẻ cảm động lắm. Nhìn ông cụ run tay xếp những món đồ vào thùng với sự cẩn thận, chan chứa tình yêu thương, Hà muốn rơi nước mắt. Có ghé qua thăm chừng tin tức của Khôi, Hà mới thấy hoàn cảnh của anh thật là tội. Mẹ anh đã mất, chỉ còn lại người bố già sống với hai cô con dâu và hai người con gái, cùng một đàn cháu nội, ngoại nheo nhóc. Nghe nói trước năm 75, các chị đều ở trong cư xá quân đội. Sau ngày CS vào, các chị đã bị đuổi ra ngoài, nên giờ ngần ấy người phải ở chen chúc nhau trong một căn chung cư chật hẹp. Thảm thương thay cho cảnh nhà anh, những người đàn ông cột trụ của gia đình đều bị tù đày.Tội cho thân già yếu của bố anh phải gánh vác trách nhiệm lo quà thăm nuôi Khôi, anh là con trai út còn độc thân. Hà ngẫm nghĩ nếu chị Trâm biết được hoàn cảnh của Khôi như vầy, không biết chị có dám chấp nhận yêu anh không? Hà nhớ có lần chị Trâm nói với Hà:
- Chị thích tính cương trực, cứng rắn của anh chàng Khôi hơn là anh Tuấn Hải Quân. Có điều Khôi chẳng thực tế chút nào, người dở dở ương ương sao đâu đó.
Ngừng lại, suy nghĩ một chút rồi chị nói thêm:
- Mà mấy ông Không Quân cũng nhiều đào lắm cơ, chị có đứa bạn quen với một ông Không Quân Khu Trục cứ gửi lộn thơ cho nó hoài.
Hà ngạc nhiên hỏi lại:
- Gửi lộn thơ là sao hả chị?
- Là nhiều đào quá gửi cho bà nọ thì lộn sang bà kia chứ sao. Mai mốt Hà lớn lên có quen lính thì tránh KQ ra nhé. Lấy ông chồng có số đào hoa chỉ khổ thân mình thôi.
Chị Trâm là người sống thực tế, lại khôn ngoan trong tình cảm, chị cũng thường nói với Hà là con gái nên lấy người thương mình hơn là lấy người mình thương. Tiêu chuẩn về người thương chị phải khá giả để bảo đảm cho chị một cuộc sống sung sướng, nhàn hạ, điều mà chị đã quen từ tấm bé. Từ khi Hà vào gia đình bác An, Hà chưa hề thấy chị làm một công việc nhỏ nhặt nào trong nhà. Quét dọn, nấu nướng, giặt giũ đã có bác gái và Hà. Chị Trâm như một tiểu thơ đài các chỉ ăn với học. Không biết rồi đây nơi vùng đất xa xôi nào đó chị có thay đổi tính tình để thích ứng với cuộc sống mới không? Chị có một phút giây nào nghĩ đến anh Khôi? Một anh chàng cựu phi công nghèo đang bị cầm tù không biết tương lai ra sao?
Thời gian lặng lẽ trôi qua trong bao nhiêu sự khó khăn của nền kinh tế thời “bao cấp”. Gia đình Hà may mắn hơn vì bác An không phải đi “học tập”. Dưới thời VNCH, bác chỉ là công chức ở nhà máy đèn vẫn đi làm, bác gái thì buôn bán lặt vặt, lại có sự trợ giúp tiền, quà của chị Trâm từ bên Mỹ về. Vì thế, tiền học bổng của Hà hai bác không cần đến, Hà cũng không chi tiêu gì nhiều cho bản thân chỉ dành dụm để mua quà gửi cho Khôi. Lần gửi đồ nào Hà cũng nói với bố anh là của chị Trâm gửi.
Về đời sống của các anh chị bên Mỹ đã ngày một ổn định, chị Trâm báo tin sẽ làm đám cưới với anh Hải Quân. Nghe tin vui của chị, Hà cảm thấy buồn cho Khôi…
Ba năm sau khi Hà vừa ra trường trung học y tế thì giấy tờ bảo lãnh của chị Trâm gửi về. Do bác An nhận Hà là con trong gia đình nên Hà cũng có tên trong danh sách bảo lãnh. Nghe đến đi Mỹ, một cảm giác buồn buồn lẫn lo lắng khuấy động tâm hồn Hà. Hà lo sẽ không có dịp để gửi quà cho anh nữa, buồn vì không còn hy vọng gặp lại anh như Hà vẫn đang thầm mơ ước. Nghĩ thế, Hà lại tự trách mình thật vớ vẩn quá! Biết bao giờ anh mới được thả về, mà mong gặp anh để làm gì kia chứ? Tuy tự trách mình như thế, Hà biết, từ nơi sâu thẳm của trái tim mình vẫn thường rung lên một âm thanh nồng nàn cảm mến, dịu dàng, êm êm mỗi khi nghĩ đến anh. Nhưng Hà tự dối mình và lúc nào cũng mượn hình ảnh chị Trâm để khỏa lấp vào chỗ nhịp rung nhẹ nhàng ấy, để rồi lại buồn, lại trăn trở, lại ray rứt hằng đêm, lại tiếc sao mình không là chị Trâm để được nhận một tình cảm từ nơi anh, dẫu cho tình cảm đó có mơ hồ như sương khói.
Những thùng quà nhỏ kèm theo những lá thư với lời lẽ Hà bịa đặt ra của chị Trâm vẫn đều đặn gửi đi hàng tháng, cho đến ngày Hà theo hai bác và Tuấn đi phỏng vấn. Nỗi buồn càng dầy lên trong lòng, Hà như người bị sốt, đứng ngồi không yên. Linh tính cho Hà biết chắc Hà sẽ không bao giờ gặp được anh nữa. Loay hoay tự hỏi mình phải làm sao, hay là viết thư cho anh nói thật hết. Không, không thể nào, thư còn bị kiểm duyệt nữa, đâu có thể viết chuyện riêng tư được. Ôi, sao Hà khổ tâm quá, bao nhiều lần Hà tự hỏi có phải mình đã yêu không? Rồi tự trả lời bằng những ý nghĩ lập lờ. Không, ta không yêu, mà tình yêu là sao nhỉ, là một ẩn số không giải thích nổi. Có lẽ đây chỉ là một tình thương, một sự quý mến, một cảm phục, một...nhớ nhung… có hơi vô lý vì đã tiếp xúc hay chuyện trò nhiều lần với anh đâu và biết anh là người ra sao để nhớ, để thương chứ ...Đêm đêm trằn trọc với những suy nghĩ mông lung, làm Hà rối rắm thở vắn, thở dài, cảm thấy nhớ anh da diết lại lấy bức hình trực thăng ra ngắm nghía. Từng nét chì vẽ vô tri mà sao gợi nhớ nhiều đến thế. Hà nhớ những lần anh đến chơi lúc trước, khi Hà bưng nước trà ra mời anh thì lúc nào anh cũng xoa đầu Hà khen ngoan…
Từ ngày anh bị tù đày, cha anh chỉ có khả năng gửi đồ mà chưa có dịp nào đi thăm. Nhắc đến đi thăm, lòng Hà trỗi dậy một ý định muốn đi thăm anh. Tại sao không nhỉ, một lần thăm sẽ được nhìn thấy anh trước khi mình rời khỏi Việt Nam. Nghĩ thế, một ngày, sau giờ làm việc Hà hăng hái đạp xe đến hỏi cha anh về chuyện này. Ông cụ ngạc nhiên lẫn vui mừng không ngờ trước đề nghị của Hà. Ông mừng đó nhưng rồi lại lo lắng cho chuyến đi vì chỗ Khôi bị tù mãi ở trại Bù Gia Mập, một địa danh rừng rú hiểm trở, xe đò qua lại không có nhiều chuyến. Chỗ đó chỉ cách biên giới nước Miên vài chục cây số, nếu lỡ xe, lỡ đường bị lạc trong rừng không có lối ra thì thật nguy hiểm vô cùng. Ông nói với Hà điều đó, song Hà không chùng lòng vẫn một mực muốn đi thăm anh với ông. Hà còn trấn an ông đừng ngại gì về chuyện chi phí đi đường, Hà sẽ lo tất cả. Ông cụ cảm động lắm, với kinh nghiệm sống dưới mắt một người cha, ông hiểu được tấm lòng của Hà đối với con trai mình là một tình cảm đặc biệt tự lòng cô, chứ không phải là từ nơi chị Trâm như Hà hay nói.
Trước ngày dự định đi thăm Khôi, Hà phải nói dối với hai bác là mình “bị” cử đi công tác với đoàn y tế ở Phước Bình một ngày, hai bác tin ngay không hề thắc mắc gì. Sau đó Hà đi chợ mua nhiều thứ đồ khô cần thiết cho Khôi và để sẵn ở nhà anh để hai bác không nghi ngờ. Sáng hôm đó, Hà dậy từ 3 giờ sáng, đạp xe đến nhà Khôi phụ ông cụ xếp đồ vào những chiếc giỏ đệm, cột ràng cẩn thận rồi cùng ông đi tới bến xe miền đông mua vé xe từ Sàigon đi Phước Bình. Khi tới Phước Bình thì trời đổ mưa, đường từ Phước Bình vào trại phải băng qua một đoạn đường đất đỏ, chung quanh là rừng núi âm u. Cũng may hôm đó có nhiều người đi thăm nuôi thân nhân, nên mọi người gồng gánh giúp nhau từng chặng và những câu chuyện đời sống làm Hà quên đi bao gian nan mệt nhọc trên đường. Hà nắm chặt lấy tay bố Khôi, còn một tay kéo lê cái giỏ quà nặng trên đường, bố Khôi cũng thế, cả hai người nương nhau đi trên con đường trơn trợt. Cơn mưa rỉ rả làm trời u ám cùng với cái lạnh se thắt từ gió rừng thổi tới.
Đến trại, bố Khôi cùng đoàn người thăm nuôi trình giấy rồi ra ghế ngồi chờ một lát. Ông cụ ngồi xuống mà mắt cứ nhướng nhướng vào phía xa bên kia bờ rào, Hà biết ông cụ rất nóng lòng, Hà cũng nóng lòng không kém, còn thêm hồi hộp nữa. Hà nhìn những người đi thăm nuôi, có khoảng bảy người đàn bà cỡ ngoài ba mươi và ba người đàn ông trung niên, bố Khôi là người lớn tuổi hơn cả. Từng người tù đi ra, mọi người đứng lên nhốn nháo một chút. Hà đưa mắt chung quanh cố tìm ra Khôi mà không thấy, Hà nhìn sang bố Khôi trông đợi, hy vọng ông sẽ thấy anh trong đám người đàn ông lam lũ kia. Hà bắt đầu nghe những tiếng khóc nấc vang lên gần bên. Bố Khôi lẩm bẩm:
- Không biết Khôi đâu nhỉ, chưa thấy nó ra.
Ồng vừa dứt tiếng thì có tiếng gọi:
- Bố, bố, trời ơi, con mừng quá!
Bố Khôi và Hà cùng quay lại, Hà giật mình sững sờ nhìn người đàn ông trước mặt trong khi bố anh ngẩn ngơ nhìn anh vài giây rồi bật khóc:
- Trời ơi con đây sao. Tay ông sờ soạng khắp mặt mũi anh, tội con tôi, ốm quá thế này!
Hà lặng người nhìn anh, thật Khôi đây sao! Bảy năm rồi không gặp lại anh kể từ ngày "hòa bình" chỉ có bảy năm thôi mà cuộc sống tù đày đã biến anh tàn tạ đến nỗi này. Anh gầy ốm da xanh mét, tiều tụy trong bộ quần áo màu xám cũ nát.Nhìn anh, Hà biết chắc anh vừa trải qua một cơn bệnh sốt rét. Anh choàng cánh tay khẳng khiu đầy những vết sước qua vai ông cụ mừng rỡ...Hà cảm động trước cảnh gặp gỡ của hai cha con, và sự thương cảm lẫn vui mừng trong lòng Hà theo những giọt nước mắt tự nhiên lăn xuống. Quay đi, Hà ngập ngừng chậm nước mắt, chắc sự mừng rỡ quá đỗi khiến ông cụ quên sự có mặt của Hà vài phút, nghe hai cha con hàn huyên, Hà không thể hỏi anh được câu nào cho tới khi ông cụ gọi Hà:
- Này cô Hà lại đây. Con nhớ Hà chứ, ân nhân của nhà mình đấy!
Hà đến gần ông cụ ngồi xuống đối diện anh. Ôi khuôn mặt dễ mến trước đây bây giờ hốc hác, xanh xao, buồn bã. Mỉm cười nhìn anh trong nước mắt, Hà hỏi:
- Dạ chào anh, anh khỏe không?
Ngước nhìn Hà anh ngạc nhiên:
- Hà em của Trâm đây mà, trời ơi, Hà khác quá, trông em xinh ra đấy! Cám ơn Hà đã đến thăm anh, thật là quý vô cùng.
Hà bẽn lẽn vuốt mái tóc ướt, lí nhí:
- Dạ không có chi, được đi thăm anh, em vui lắm.
Khôi cười cười nói:
- Anh nhớ mới hôm nào đến nhà chơi, Hà còn nhỏ xíu à lúc đó em cỡ mười mấy nhỉ?
Hà tiếp:
- Dạ ...mười lăm.
Khôi vừa nhìn ông cụ vừa nhìn Hà nói:
- Thời gian đi nhanh quá, nếu bố không nói thì con cũng không nhận ra con bé Hà này. Chắc bố với Hà đi đường vất vả lắm hả bố, con nghe nói đường vào đây rất khó đi.
Ông cụ chậm nước mắt:
- Khó bao nhiêu mà có điều kiện bố cũng ráng đi gặp mày rồi có chết cũng đành. Con sống trong này ra sao?
Khôi lắc đầu buồn bã nói:
- Bố không cần biết đâu đừng lo cho con nhiều, con đã từng vào sanh ra tử, cực khổ quen rồi, con chịu được hết chỉ có điều nhục thì con đang cố mà cũng chưa được.
Giọng ông cụ nhỏ xuống:
- Ấy chết, cậu phải nhớ rằng cậu đang ở trong tay họ đấy, đừng ngang bướng quá chỉ thiệt vào thân, dù sao mình cũng là kẻ thua rồi. Lo cẩn thận giữ gìn sức khỏe để còn về với bố...
Khôi thở dài...Hà hết nhìn anh rồi nhìn sang ông cụ, lắng nghe hai cha con trò chuyện mà lòng cũng buồn theo mỗi câu nói. Nhìn Khôi một lúc, Hà nhận ra Khôi có nhiều nét giống cha anh, từ vầng trán rộng đến đôi mắt mí lót, sống mũi cao, cặp môi dày. Hà cố giữ lại hình ảnh này trong trí để khi về nhà hy vọng sẽ được gặp lại anh trong giấc mơ. Một chàng sĩ quan Không Quân oai phong năm nào và bây giờ là một người tù tàn tạ, tiều tụy, xác xơ... Bất chợt Khôi đưa mắt nhìn về phía Hà chăm chú, rồi anh hỏi thăm Hà về chị Trâm. Trong ánh mắt anh, Hà như thấy bóng hình của chị Trâm thấp thoáng. Hà lúng túng trước câu hỏi của anh, cúi xuống vân vê vạt áo mình thầm nghĩ, có nên cho anh biết chị Trâm sắp lấy chồng không, nếu nói thì thái độ của anh sẽ ra sao nhỉ? Buồn, chắc chắn là anh sẽ buồn lắm, nhưng nếu không nói thì mình phải tiếp tục dối trá hoài sao? Ôi, bao nhiêu háo hức chờ đợi gặp anh để phút giây đối diện này Hà thấy run rẩy, hồi hộp cho sự kịch tính mà Hà đã gây ra.
- Kìa Hà nói cho anh biết đi Trâm ở tiểu bang nào? Anh mong có dịp viết một lá thư thật dài cho Trâm để cám ơn những tình cảm mà Trâm đã dành cho anh... Anh không hy vọng một ngày sẽ được gặp lại Trâm. Cám ơn cả tấm lòng tốt của cô em nhỏ Hà nữa.
Hà vẫn im lặng, vẫn mân mê chéo áo đã nhàu dưới những ngón tay mình, lòng thì nghe nhói nhói. Im lặng kéo dài vài giây khiến anh phải gọi Hà thêm lần nữa, Hà ngước lên, tránh cái nhìn của anh, ấp úng:
- Chị Trâm ở Virginia, chị...sắp ...lấy chồng rồi anh Khôi à.
- Trâm lấy chồng? Giọng anh ngạc nhiên- sao thư viết cho anh Trâm chẳng nói gì hết?
Hà im lặng, nhìn sự thất vọng và nỗi buồn lộ ra trên khuôn mặt anh, Hà thấy hối hận, thì ra anh cũng nói dối thôi, mới bảo không hy vọng gặp chị Trâm mà giờ nghe tin chị lấy chồng thì anh lại thất vọng. Hà nghe tiếng anh thở dài:
- Cũng phải thôi, Trâm không thể chờ anh được, Trâm còn trẻ đẹp lại ở một đất nước phồn hoa... Anh dừng câu nói rồi thở dài ôm trán.
Hà xót xa nói:
- Thôi anh đừng buồn nữa, ráng giữ sức khỏe để còn về với bác.
Bố Khôi tiếp:
- Phải đó, mỗi người một số phận, vợ chồng cũng là duyên nợ mà nên, cậu phải cố sống khỏe để còn về…
Khôi ngẩng lên nhìn bố và Hà:
- Con không buồn chỉ tiếc là con cả tin vào những tình cảm không có thật... Thư từ thì ngọt ngào thế mà lấy chồng cũng không nói, thà nói thẳng ra mà con không tiếc bằng phải qua trung gian em Hà.
Nghe anh nói Hà giật mình, chết rồi! sự hiểu lầm đã càng lún sâu chỉ tại Hà. Anh đã trách sai cho chị Trâm, anh có biết đâu chị chẳng bao giờ giữ hình anh trong tim chị. Khổ quá, chắc Hà phải đính chính cho chị thôi.
Hà bỗng thấy lo sợ, ngập ngừng một hồi, Hà run run nói:
- Anh Khôi à, em... xin ... nói...một sự thật để ...đính chính cho chị Trâm rằng...tất cả... những thư từ trước đến giờ của chị Trâm gửi cho anh… là do...chính em viết...Chị Trâm không hề biết gì hết....
Lần này thì Khôi càng ngạc nhiên hơn nữa, vầng trán anh nhăn lại, đôi mắt ánh lên một sự tức giận.
- Hả, Hà vừa nói gì?
Hà sợ hãi lẫn xấu hổ cúi mặt ấp úng:
- Lỗi …tại … em...
Giọng Khôi gằn mạnh lên:
- Tại sao Hà lại đem tình cảm ra mà đùa giỡn với anh như vậy chứ, tại sao, tại sao?
Hà giật mình càng thêm run sợ, chưa biết trả lời anh ra sao thì tiếng kẻng hết giờ thăm đã vang lên, tiếng bố anh nói:
- Thôi, tại sao thì mày phải tự biết lấy, mày không còn là thanh niên để không hiểu chuyện này.
Rồi ông buồn buồn dịu giọng tiếp:
- Thôi nhé, thăm con lần này không biết có dịp nào mà đi lần nữa không. Ráng giữ sức khỏe, đừng lo nghĩ gì hết.
Trao hai giỏ quà nặng cho anh, hai cha con lưu luyến nhau một lúc. Tiếng xếp đồ và thúc giục của vài cán bộ trại làm Hà luýnh quýnh nói vội từng câu đứt đoạn:
- Đây …là lần đầu tiên … mà chắc cũng là lần cuối cùng gặp anh, em mong …anh …không giận gì em trong chuyện này… vài tháng nữa là em rời Việt Nam rồi… Anh ráng giữ gìn sức khỏe nha…
Nhìn đôi mắt anh đã dịu lại, Hà xúc động ứa nước mắt, hình như anh cũng sắp khóc thì phải. Bóng vài người cán bộ CS vây quanh những người tù, Hà nhón chân nhìn theo anh, thoáng thấy anh đẩy nhẹ tay người cán bộ trại và ngoái cổ lại phía Hà. Rồi anh khuất sau đám người mang súng ống đó. Hình ảnh của anh đã theo Hà suốt con đường trở về nhà, và còn đeo đẳng mãi trong lòng Hà cho đến mấy chục năm sau.
*****
Phải, mấy chục năm sau sống trên đất Mỹ, Hà vẫn thui thủi một mình, vẫn ấp ủ bóng hình anh qua bức vẽ chiếc trực thăng vô tri. Thời gian đầu Hà ở với vợ chồng chị Trâm, làm “baby sit” cho con chị tới mấy năm rồi chuyển qua “baby sit” cho con anh Long. Trong thời gian ở với chị Trâm, những người bạn của anh Tuấn hay lui tới và anh cũng có ý làm mai cho Hà vài người. Nhưng chắc số Hà không mắc nợ ai hết nên chưa thể kết đôi được. Khi các con anh chị đã lớn, Hà xin ra riêng để đi học một nghề chuyên môn tự nuôi thân mình. Hà đã cố gắng học lại ngành y tá, tuổi xuân qua nhanh cùng năm tháng làm việc và học hành, thấm thoát Hà đã lên hơn nửa hàng bốn của cuộc đời. Nỗi lo toan chiếm hết thời gian để nghĩ đến tình yêu vốn là một ẩn số mà Hà vẫn không tìm ra được câu giải đáp. Hà chuyển về Pagosa Springs, ở Colorado, sống an phận với công việc y tá ở một clinic nhỏ. Pagosa Springs nằm sát ngay biên giới tiểu bang New Mexico về phía bắc chỉ khoảng 35 dặm.
Một ngày nghỉ, Hà theo mấy người bạn đi chợ phiên của người Navajo ở Shiprock, bang New Mexico lân cận. Chợ phiên rất lớn, tề tựu hàng trăm gian hàng trưng bày các loại thảm, khăn, nón, áo, giày dép, những loại dụng cụ săn bắn xa xưa như giáo, mác, dao, rựa. Đặc biệt là nữ trang với nhiều loại đá Turquoise màu xanh tươi thắm cùng các thức ăn, đồ uống cổ truyền Navajo…Lướt qua những gian hàng quần áo sặc sỡ. Hà bỗng chú ý đến một quầy nhỏ trưng bày tranh vẽ nghệ thuật bằng đường chì đen bóng. Hà dừng lại để ngắm tranh, những bức tranh vẽ nhiều chiếc trực thăng ngang dọc, lên, xuống. Nét vẽ quen thuộc làm Hà giật mình, vội lật ra sau bức tranh tìm tên tác giả. Mắt Hà sáng lên, một cảm giác vui mừng lẫn ngạc nhiên khi thấy chữ ký VMK PĐ 245. Hà hồi hộp lẩm bẩm: Đúng là anh rồi! Nhìn quanh mong tìm ra anh, vừa lúc đó, một cô gái trẻ người Mỹ bước tới chào hỏi Hà vui vẻ mời mua tranh. Hà vội vã hỏi ngay:
- Where do you get these pictures?
Cô gái cười tươi tắn nói một hơi:
- Oh, from my dad, he drew them. He still has a lot of pictures at home. Do you like them?
- Yes, I do… I do like them, where is your dad now?
- He’s home, he was here with me yesterday, today he doesn’t feel good so he wants to stay home. We live in Farmington. Oh, what nationality are you?
- I am Vietnamese.
Cô gái đổi sang giọng Việt Nam mừng rỡ nói huyên thuyên làm Hà hết sức kinh ngạc:
- Ồ ba cháu cũng là người Việt Nam, bữa nào cô ghé chơi nha, ba cháu lonely lắm, ở Farmington không có người Việt Nam nhiều. Gặp cô là người Việt Nam ba cháu happy lắm. A, cô ở đâu vậy?
Hà cười khen:
- Wow, cháu nói tiếng Việt giỏi quá, cô ở Pagosa Springs. Rồi ngập ngừng một lúc Hà hỏi cô gái:
- Thế mẹ cháu đâu?
- Mẹ cháu chết lâu rồi, bây giờ ba cháu có một mình thôi.
Cuộc trò chuyện giữa Hà và cô gái trẻ có phần thú vị, cô cho Hà biết cô tên là Helen, đang phục vụ trong quân đội, sẵn được nghỉ phép mấy ngày nhân dịp đúng lúc chợ phiên mở, cô theo cha ra chợ bán tranh cho vui. Helen nói thêm rằng, cha cô vẽ rất nhiều hình một cô gái và suốt ngày cứ ngắm nghía những bức tranh đó. Cô nghĩ, chắc cha cô phải có một tình yêu sâu nặng với người trong hình nên bao nhiêu năm nay ông không muốn lập gia đình lần nữa. Nghe Helen nói Hà tưởng tượng ngay đến bức tranh chị Trâm, chắc chắn là anh vẽ hình chị Trâm rồi! Chị luôn là hình bóng đẹp trong tim anh. Hà còn nhớ như in đôi mắt thất vọng, buồn bã của anh mấy chục năm trước khi nghe tin chị Trâm lấy chồng, và cái nhìn tức giận trút vào Hà lúc anh nghe sự thật về những lá thư Hà viết… Tự ái và chút thất vọng xen giữa nỗi vui, Hà chần chừ không muốn cầm số phone và địa chỉ của Helen. Hà ngại ngùng với ý nghĩ gặp lại anh…chợt muốn khóc, Hà chẳng là gì trong cuộc đời của anh hết, còn anh mãi là cái bóng ảo Hà theo đuổi hoài… Tiếng Helen hỏi:
- A, mà cô tên gì?
Hà thẫn thờ trả lời:
- Cô tên là Nguyệt Hà.
- Nguyệt Hà, tên hay quá, cô có thể cho cháu số phone của cô không?
Hà gật đầu lục túi lấy ra cái business card đưa cho Helen, cô gái nghiêng đầu đọc qua tấm card rồi nói tự nhiên:
- Cô là y tá, tốt quá, nếu có gì cần giúp cháu sẽ gọi cô, ba cháu lớn tuổi rồi hay bịnh vặt lắm.
Thấy Hà như không chú ý lời cô nói, Helen lay cánh tay Hà giọng như năn nỉ:
- Cô, cô nhớ tới nhà cháu chơi nha, tuần tới há cô.
Nhìn lại bức tranh trực thăng trong tay mình, Hà ngập ngừng nói như mơ:
- Ừ,.. cô… sẽ đến!
****
Suốt cả tuần, lời hứa hẹn đó làm cho Hà suy nghĩ mãi, tâm hồn bị xáo trộn với nhiều cảm xúc, hết vui mừng, rồi lo ngại, chuyển sang hồi hộp y như lần đầu đi thăm anh, bây giờ lại thêm sự ngập ngừng. Nửa vui mừng thúc giục nên đi, nửa lo ngại thì lòng bảo thôi. Hà sợ nhìn thấy đôi mắt tức giận của anh ngày xưa. Đôi mắt hãy còn ấp ủ hình bóng chị Trâm một thời anh đã si mê...Hà thở dài bâng quơ nhìn ra mảnh vườn sau nhà, nắng sáng nay ùa đến sớm hơn, những cánh hoa hướng dương vươn cao đang cười tươi trong nắng,vài con ong bay la đà bên hàng Russian Sage tím tím, tiếng chim non ríu rít trên cây bàng xanh lá báo hiệu một ngày vui mới. Có tiếng chuông reo ngoài cửa, Hà đoán, chắc là bà hàng xóm tốt bụng đem sữa qua cho mình, Hà quay vào bếp lấy cái bình rỗng cầm theo ra cửa để trả lại cho bà. Cửa vừa mở, một sự ngạc nhiên đến tột cùng... xuất hiện trước cửa, một người đàn ông tóc bạc lốm đốm, nụ cười hiền, một tay xách những khung to, một tay cầm bó hồng đỏ thắm. Đôi mắt mí lót, khuôn mặt dễ mến này đã làm Hà sửng sốt trong sự mừng rỡ:
- Trời ơi, anh Khôi!
Anh cười vui:
- Chào Hà, hay thật đấy, không ngờ Hà vẫn nhận ra anh ngay. Vừa nói Khôi vừa đưa bó hồng vào tay Hà - đây tặng em.
Vẫn chưa hết ngạc nhiên, Hà cầm lấy bó hồng run giọng hỏi:
- Sao …anh biết nhà Hà vậy?
Anh cười hóm hỉnh:
- Helen giúp anh tìm ra chỗ Hà ở, dễ quá mà, thời đại khoa học có số phone lên trên on line là tìm được hết, thành phố này lại quá nhỏ bé, tìm một cô y tá người Việt đâu có gì là khó. Rồi anh nháy mắt- nào có cho anh vào nhà không, để anh còn nói hết nỗi vui mừng của mình nữa chứ.
Hà mở rộng cánh cửa cho anh bước vào, mắt vẫn nhìn anh đăm đăm ngớ ngẩn hỏi:
- Em có mơ không?
Khôi cười:
- Không, em không mơ, đây là thực.
Nói rồi, Khôi đặt những khung hình xuống đất, tiến đến gần Hà đưa tay quay hai vai Hà lại phía anh:
- Xem nào mấy chục năm mà cô em Hà vẫn không thay đổi gì nhiều lắm, Hà này, đúng là trái đất tròn nên vô tình mình được gặp nhau đây anh vui lắm. Bao nhiêu năm nay anh vẫn còn nợ Hà một lời cám ơn chân thành từ dạo anh đi tù. Anh luôn mong có ngày gặp được Hà để nói một câu cho nhẹ lòng.
Hà bối rối, cụp mắt nhìn xuống những cánh hồng, Khôi nâng mặt Hà lên tiếp:
- Hãy nhìn anh đây, anh đã được nghe bố anh nói rất nhiều về tấm lòng của Hà. Lúc đó anh mới cảm nhận ra mình quá may mắn được một người con gái như Hà chú ý tới trong cảnh tù tội. Trong khi có vài thằng bạn tù của anh bị người yêu bỏ rơi… Giọng anh bỗng trầm xuống- ngày bố anh hấp hối, bố vẫn ao ước cho anh gặp được Hà… Từ đó, lúc nào anh cũng nghĩ tới Hà…
Nói xong anh cúi xuống vừa mở những khung hình ra vừa tiếp:
- Hôm nay anh mang những bức tranh này đến cho Hà xem, anh hy vọng Hà cũng thích.
Hà nhẹ nhàng đặt bó hoa lên chiếc bàn gần đó, rồi kéo tay anh chỉ bức tranh treo trên tường:
- Anh còn nhớ bức tranh này không?
Khôi nhìn lên theo hướng tay chỉ, nheo mắt cười:
- Ồ, nhớ chớ, bức tranh này anh vẽ tặng Trâm lâu lắm rồi, Hà vẫn còn giữ đến bây giờ quý thật đó. Nhưng thôi, để Hà xem những tranh này đặc biệt hơn, chỉ dành cho Hà.
Anh mở ra ba bức hình khổ lớn là những bức hình vẽ chân dung Hà, những đường chì tinh xảo trông thật sống động, có một bức hình anh vẽ Hà như ngồi trong mưa, đôi mắt ươn ướt, Hà trầm trồ:
- Trời ơi, em đây sao, anh vẽ đẹp quá, đôi mắt có hồn ghê đi, nhìn ở ngoài em đâu có được như vậy!
- Sao không, ở ngoài em còn đẹp hơn nữa.
Xoa nhẹ ngón tay trên đường chì bóng mướt, Hà cười chống chế:
- Không có đâu, em luôn nghĩ mình là đứa xấu xí.
- Sao Hà lại nghĩ mình xấu, Hà có biết là em có một nét đẹp rất dễ thương không? Khôi xoay mặt Hà lại gần bên anh tiếp- dễ thương nhất là đôi mắt, nhìn đôi mắt Hà thì không ai có thể nói dối được.
Hà vui sướng nhìn những bức chân dung của mình nhớ lại lời Helen nói, “ba cháu vẽ nhiều hình một cô gái lắm, suốt ngày cứ ngắm nghía những bức tranh đó.” cô gái ấy không phải là chị Trâm như Hà đã tưởng, mà lại là Hà. Ôi, thật không ngờ, không ngờ, không ngờ… Anh chỉ cho Hà bức tranh có đôi mắt và mái tóc ướt; anh bảo đó là hình ảnh đầu tiên Hà đến thăm anh. Anh còn nhớ hôm ấy trời mưa, tóc Hà ướt, trông đẹp lắm. Hà hỏi:
- Sao gặp có mấy phút mà anh nhớ khuôn mặt em để vẽ lại hay vậy?
Nhìn Hà sâu lắng, anh chậm rãi nói:
- Anh vẽ bằng ký ức, bằng cả tấm lòng say mê khi nghĩ đến Hà .
Dừng một lát anh dịu giọng thì thầm- và bằng một tình yêu... muộn màng...
Hà chớp mắt cảm động, trời ơi, thật anh cũng yêu Hà sao? Mấy chục năm trôi qua bây giờ Hà mới hiểu tình yêu không còn là ẩn số nữa, lòng Hà vui như sống trong mơ, Hà hạnh phúc với ước mộng đã thành.Cầm bức tranh lên, Hà hỏi anh:
- Em sẽ tìm chỗ treo những bức tranh này lên nha anh?
Khôi gật đầu, rồi lặng lẽ đi đến lấy bức tranh vẽ hình chị Trâm bên chiếc trực thăng xuống. Hà ngạc nhiên hỏi:
- Sao anh lại gỡ bức tranh đó xuống làm chi?
Khôi thản nhiên nói:
- Đây không phải là bức tranh tình yêu.
Rồi anh nâng bức tranh vẽ chân dung Hà lên:
- Bức tranh này mới là những bức tranh tình yêu của anh dành cho Hà, phải nên treo.
Hà nhìn sững anh, dòng cảm xúc kéo nhanh lên mắt, Khôi tiến lại gần sát bên Hà, nhẹ nhàng đặt một nụ hôn lên đôi mắt đang ướt lệ ấy …Ngoài vườn sau, tiếng chim ríu rít rộn ràng hơn như đang hát mừng cho ngày vui hạnh ngộ của hai người.
Thiên Lý (26/3/14)
Biên Hùng chuyển
Biên Hùng chuyển