Di Sản Hồ Chí Minh
CON SÃI Ở CHÙA PHẢI QUÉT LÁ ĐA...
Tính chất công năng này, trùng hợp thay, cũng ngụ ý “quy hoạch” và “cơ cấu” về mặt ngôn từ nhưng với một nghĩa lý khác hơn. Nghĩa lý ấy sẽ tìm hiểu sau bởi, để đầu đũa ngọn ngành
Đã có khá nhiều phản ứng nặng thiên kiến quanh việc Nguyễn Thanh Nghị được “ẵm” lên bệ phóng quyền lực và đã đến lúc chúng ta cần tỏ ra công bằng, thử đưa ra một biện giải khách quan và khoa học, khả dĩ nói lên tinh thần “công năng chủ nghĩa” trong chuyện o bế chính trị mệnh danh “quy họach” hay “cơ cấu” này. [1]
___________
Chú thích
[1] Nguyễn Thanh Nghị được cử làm phó Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang. Đây là một phần trong quyết định của Bộ Chính trị và Ban Bí thư: “luân chuyển cán bộ về địa phương” để “chuẩn bị một bước về nhân sự lãnh đạo cấp ủy địa phương, cơ quan, đơn vị ở Trung ương nhiệm kỳ tới”.
[2] Tác giả chính của ban Tuyên ngôn độc lập Mỹ là Thomas Jefferson nhưng người chính thức tuyên bố là George Washington, tại New York City ngày 9.7.1776.
[3] Bùi Tín, “Hồ Chí Minh và đứa con rơi Nguyễn Tất Trung”, RFA, 2007
[4] Stephen Kinzer. “Dictators’ Sons, From Egypt to Libya, Are Doomed”, The Daily Beast, 2011
[5] Trên thực tế thì các giáo vương chỉ giết anh em mình – đặc biệt là anh em cùng cha khác mẹ – để bảo vệ ngai vàng. “Tập tục” sơi dây lụa này chỉ bắt đầu khi Murad III (1546 –1595) lên ngôi vào năm 1574, về sau về sau biện pháp dây lụa này được thay thế bằng giải pháp giam cầm trong cấm cung.
[6] Matt Ford, “A Dictator’s Guide to Urban Design – Ukraine’s Independence Square, and the revolutionary dimensions of public spaces”, The Atlantic, 21-2-2014
[7]http://amc.edu.vn/tin-tuc-su-kien/tin-thoi-su-chuyen-nganh/669-hoi-nghi-tham-van-y-kien-du-luat-quan-ly-phat-trien-do-thi-hoi-nghi-tham-van-y-kien-du-luat-quan-ly-phat-trien-do-thi.html
[8] Gamal Mubarak học quản trị hành chánh, lấy bằng MBA và làm việc trong lĩnh vực ngân hàng trước khi tham chính.
© 2014 Thuận Văn contra
http://www.procontra.asia/?p=4103
đọc thêm:
Công khai danh sách cán bộ luân chuyển (BBC). – Thông báo 44 cán bộ Trung ương luân chuyển (RFA).
Thái tử Nguyễn Thanh Nghị
(từ blog Người lót gạch)
Thuận Văn
Đã có khá nhiều phản ứng nặng thiên kiến quanh việc Nguyễn Thanh Nghị được “ẵm” lên bệ phóng quyền lực và đã đến lúc chúng ta cần tỏ ra công bằng, thử đưa ra một biện giải khách quan và khoa học, khả dĩ nói lên tinh thần “công năng chủ nghĩa” trong chuyện o bế chính trị mệnh danh “quy họach” hay “cơ cấu” này. [1]
Tính
chất công năng này, trùng hợp thay, cũng ngụ ý “quy hoạch” và “cơ cấu”
về mặt ngôn từ nhưng với một nghĩa lý khác hơn. Nghĩa lý ấy sẽ tìm hiểu
sau bởi, để đầu đũa ngọn ngành, chúng ta cần bắt đầu từ nhân vật mà,
danh chính ngôn thuận, kẻ o hay người được bế ấy không thể không thề
thốt học hỏi thật lòng, học đến tận cuối cuộc đời. Đó là cố lãnh tụ Hồ
Chí Minh, người mà họ phải một điều hai điều “cha già dân tộc”.
Cố
lãnh tụ ấy, sinh thời, khá là sắt son trong việc học tập “cha già”…
nước Mỹ, cố Tổng thống George Washington. Khỏi phải đào sâu trong Hồ Chí
Minh tuyển tập dày cộm, chỉ liếc sơ qua đã thấy ông học vị tổng thống
đầu tiên nước Mỹ như thế nào rồi, từ việc hệ trọng quốc gia đến việc hệ
trọng đời người. Ông học trong Tuyên ngôn độc lập. [2] Rồi ông học việc
gia phả, tông đường. [2] Tiểu sử chính thống cho biết ông không vợ không
con nên không người kế thừa quyền lực. Mà theo những tiểu sử phi chính
thống loại “phản động” nhất thì, ít ra, ông cũng có một đứa con trai vô
thừa nhận. [3] Đằng nào cũng vậy, ông giống hệt Washington ở khoản không
người kế tục quyền hành.
Nếu
không học Washington thì, như là nhà chính trị đầy viễn kiến, có thể
nhìn trước thời đại theo một số lời ca tụng, rất có thể ông đã tiên
nghiệm được điều mà Stephen Kinzer đã viết vào năm 2011, giữa những diễn
biến nóng bóng của Mùa Xuân Ả Rập: các nhà độc tài không nên có con
trai. Trong bài “Dictators’ Sons, From Egypt to Libya, Are Doomed” (Con
cái những nhà độc tài, từ Ai Cập đến Libya, đều tận số), đăng trên trang
mạng The Daily Beast ngày 2 tháng Chín năm 2011, Kinzer khuyên các nhà
độc tài rằng họ không nên có con trai, nếu lỡ có ra thì hãy siết cổ trừ
hậu họa [4]. Kinzer viết, xin lược dịch:
“Con
cái của những bạo chúa thường góp phần gia tốc tiến trình sụp đổ của
cha mình. Chỉ cần hỏi Mubarak. Tổng thống Hosni Mubarak ở Ai Cập mất
sạch quyền lực trong ô nhục phần nào là do ông ta không lưu ý đến một
bài học ẩn khuất trong lịch sử, đó là các nhà độc tài không nên có con
trai. Nhưng phần lớn đám độc tài này lại có. Điều đó lại góp phần thúc
đẩy việc đánh mất quyền lực của họ hay sự sụp đổ đất nước của họ.
Người
Ai Cập có thể nén lòng cam chịu thêm một thời gian nữa nếu như ông
Mubarak già nua không huỵch toẹt tuyên bố rằng ông muốn trao quyền lại
cho con trai mình, Gamal Mubarak. Trong toàn bộ những hành vi kiêu ngạo
của ông Mubarak thì không có gì sỉ nhục người dân Ai Cập bằng cách cho
rằng trong 80 triệu dân chỉ có Gamal Mubarak mới xứng đáng làm nhà lãnh
đạo đất nước. Chỉ đơn giản vì ông ta muốn nên Gamal sẽ lên cầm quyền,
chả cần đến lá phiếu của người dân.
Chưa
đầy một tuần sau các vụ phản đối ở Ai Cập, Tổng thống Ali Abdullah
Saleh ở Yemen phải ra mặt thề thốt là, có ra đi, ông ta sẽ không đưa con
trai mình, Ahmed, lên làm tổng thống. Cùng lúc, Quốc vương Abdullah ở
Jordan, mới vừa kế vị cha mình, đã ra tay giải tán chính phủ trong nỗ
lực củng cố chế độ. Xem ra hiện tại triều đại Abdullah này có vẻ vững
chãi cũng giống như ở Saudi Arabia, thế nhưng càng ngày quan niệm cho
rằng con trai có quyền thừa kế quyền hành hầu như tuyệt đối của cha
mình, càng mất dần sự ủng hộ.
Một
số ít con cái các nhà độc tài vẫn tiếp tục giữ được quyền lực kế thừa
từ cha ông, như Bashar al-Assad ở Syria và Kim Jong Il ở Bắc Hàn. Nhưng
đa số chế độ khác thì thất bại thê thảm. Đặc biệt là Phi châu với rất
nhiều thí dụ. Con trai của Idi Amin, Daniel Arap Moi, và Jomo Kenyatta
không thể giữ quyền lực mà cha họ cố trao lại. Gần nước Mỹ hơn,
Jean-Claude ‘Baby Doc’ Duvalier, nhậm chức Tổng thống Haiti sau khi cha
qua đời nhưng không thể nào giữ được; các nỗ lực giành lại chính quyền
của ông ta trong thời gian qua đã bị ngăn cản rất nhiều vì trí nhớ người
dân không chỉ in hằn sự tham nhũng và tàn bạo dưới thời ông ta mà cả
của thời của cha ông ta nữa. […]
Các
nhà độc tài phải làm gì để thoát khỏi lời nguyền này? Có ba chọn lựa.
Một là ‘sợi dây lụa’ từng được các giáo vương của Ðế quốc Ottoman ưa
chuộng. Họ cho giết con trai của mình – siết cổ bằng sợi dây lụa để
tránh đổ máu vì máu hoàng tộc quá thiêng liêng – để trừ hậu hoạ. Trông
thì tàn bạo thật nhưng giới ủng hộ truyền thống này cho rằng số người
chết vì nó quá nhỏ so với số người thiệt mạng trong các cuộc chiến giành
ngôi ở Âu châu.
[…]
Giải pháp thứ hai là không có con. Ðó là con đường của George
Washington – một số sử gia cho rằng việc mắc bệnh đậu mùa lúc thiếu thời
khiến ông tuyệt tự – và điều này có thể có một ảnh hưởng lớn lao với
lịch sử Mỹ. Tư tưởng quân chủ vẫn rất mạnh trong thời Washington và ông
nhận được sự sùng bái của công chúng đến nỗi nếu có con trai, có thể sẽ
có nhiều áp lực để đưa người con lên làm tổng thống. Ðiều đó có thể đã
đưa nước Mỹ đi theo một hướng hoàn toàn khác.
Khi
thắc mắc là tại sao Thổ Nhĩ Kỳ trở thành quốc gia thịnh vượng nhất
trong thế giới Hồi giáo tại Trung Ðông, chúng ta không nên bỏ qua sự thể
là lãnh tụ khai quốc, ông Kemal Ataturk, cũng không có con. Cũng giống
như Washington, ông được cả nước ngưỡng mộ và có thể dễ dàng cho con
trai mình kế nghiệp. Thay vào đó, cũng như Washington, ông ta nhẹ nhàng
rút lui khỏi quyền lực để dân chủ rộ nở trên đất nước mình.
Còn
có giải pháp thứ ba: đẻ con gái thay vì con trai. Lịch sử cho thấy rằng
con gái của các nhà độc tài có khuynh hướng trở thành những nhà lãnh
đạo giỏi, nhiều khả năng. Trong số này, ta có thể kể bà Megawati
Sukaroputri ở Indonesia, bà Benazir Bhutto ở Pakistan, bà Sheikh Hasina ở
Bangladesh, và bà Indira Gandhi ở Ấn Ðộ. Có vẻ như họ thừa hưởng được
khả năng lãnh đạo và vận dụng quyền lực của cha mình, và dẫu không vượt
qua thói tham nhũng, họ có khuynh hướng cởi mở hơn, dễ dàng chấp nhận
thoả hiệp hơn và không bị lôi kéo vào những trò chơi đầy kích thích tố
như đua xe, ma túy và tra tấn.
Ðáng tiếc cho Mubarak là đã quá trễ để dùng đến ‘sợi dây lụa’ và ông ta cũng không có con gái”.
Tính
đến lúc đó, tháng Chín năm 2011, thì đã quá trễ cho Mulbarak nhưng nếu
tính đến bây giờ, tháng Ba năm 2014, có trễ chút nào đối với cha con nói
trên, và với bộ máy quyền lực của họ hay không?
Không
đoái hoài đến lời khuyên của Kinzer đã đành, nhưng khi mà phong trào
“Học tập Bác” đã ầm ĩ từ bao nhiêu năm nay, lẽ nào họ không mảy may biết
rằng người khai sinh ra chế độ mình đã thực sự ngộ được điều ấy, y như
là người khai sinh nước Mỹ? Như là những học trò “xuất sắc” của Bác, ắt
họ phải biết. Biết Bác mà không chịu học Bác thì, ắt hẳn, họ đã tìm ra
bài học khác hay hơn; thứ bài học như là bảo bối, một “anti-dote” có thể
xoá sạch “lời nguyền con trai”, bảo đảm rằng con trai của những nhà
chuyên chế cũng có thể nối ngôi và góp phần bảo vệ quyền lực của nhà
mình.
Trên
khía cạnh này chúng ta hãy có thể nhìn ra “công năng” của Nguyễn Thanh
Nghị qua lời khuyên mà Matt Ford đã đưa ra trong những ngày sôi động tại
Ukraine vào trung tuần tháng Hai. [5] Trong bài “A Dictator’s Guide to
Urban Design – Ukraine’s Independence Square and the revolutionary
dimensions of public spaces.” (“Hướng dẫn của những nhà độc tài về thiết
kế đô thị – Quảng trường Độc lập của Ukraine và những chiều hướng cách
mạng của những không gian công cộng”, đăng trên tờ The Alantic 21.2.
2014, tác giả này nhận định:
“Ukraine
có kích thước tương đương với tiểu bang Texas của Mỹ nhưng trong suốt
ba tháng qua phong trào phản kháng ngày càng lan rộng của nó, phần lớn,
dồn ứ vào không gian của 10 khối phố.
Tên
của phong trào, Euromaidan, là một từ mới hình thành từ tiền tốeuro,
thể hiện thái độ nhích lại gần hơn với EU và tách xa nước Nga của phe
đối lập, với từ maidan trong tiếng Ukraine (gốc từ tiếng Ba Tư và Ả
Rập), có nghĩa là quảng trường. Và thuật ngữ này không chỉ biểu lộ vị
trí của các cuộc biểu tình ở Quảng trường Độc lập của thành phố Kiev.
Ukraine thuộc về châu Âu về mặt địa lý nhưng những người biểu tình còn
coi Âu châu như một tư tưởng, hàm ý một ‘nền dân chủ thực sự, với một
lực lượng cảnh sát đáng tin và thực tâm tôn trọng nhân quyền’.
Cái
tên ấy nói lên một hiện tượng ngày càng phổ biến: quảng trường công
cộng đóng vai tâm chấn cho sự bày tỏ dân chủ và tinh thần phản kháng, và
việc thiếu một nơi như vậy – hoặc các hành động có chủ đích về một
không gian như vậy – là cách thức để những nhà chuyên chế dập tắt các
nhóm bất đồng chính kiến thông qua việc thiết kế đô thị.
Không
phải trung tâm của tất cả các cuộc cách mạng đều ngự tại quảng trường,
nhưng những cuộc cách mạng mới đây đã diễn ra như thế, kể cả các cựu
cộng hoà Xô viết. Cuộc Cách mạng Hoa hồng Gruzia lật đổ Tổng thống
Eduard Shevardnadze năm 2003 đã xuất phát từ Quảng trường Tự do ở
Tbilisi. Năm 2005 những người phản kháng Kyrgyzstan đã chiếm lấy Quảng
trường Ala-Too từ tay cảnh sát rồi mau chóng tiến vào dinh tổng thống
gần đó, lật đổ Tổng thống lâu năm Askar Akayev. Cuộc Cách mạng Cam của
Ukraine năm 2004 cũng diễn ra tại Quảng trường Độc lập, ngay tại nơi mà
người biểu tình hiện tại đang đụng độ một cách đẫm máu với lực lượng
chính phủ, gây áp lực đòi Tổng thống Viktor Yanukovych phải tổ chức bầu
cử sớm và trở lại với hiến pháp 2004.
Tính
biểu tượng của quảng trường đã nảy nở thêm tiềm năng mới trong Mùa Xuân
Ả Rập. Viết trong những ngày ngây ngất của cách mạng Ai Cập, một thời
gian ngắn sau sự sụp đổ của Hosni Mubarak năm 2011, một tiểu luận gia đã
hùng hồn giải thích việc Quảng trường Tahrir thể hiện sự đàn áp rộng
lớn hơn đối với xã hội dân sự Ai Cập như thế nào. Quảng trường này được
xây dựng lần đầu tiên vào thế kỷ 19, dựa trên một thiết kế kiểu ‘Paris
bên bờ sông Nile’ cho Cairo, sau đổi tên thành Quảng trường Tahrir (Giải
phóng) khi nó trở thành tiêu điểm cho các cuộc cách mạng Ai Cập vào năm
1919 và 1952:
‘Trên
thực tế, trong những tuần qua, Tahrir đã thực sự trở thành một quảng
trường. Trước kia nó chỉ là một vòng xoay giao thông rộng lớn và bận rộn
– và lại nữa – hạn chế của nó là hệ quả của việc thiết kế chính trị, từ
chính sách không chỉ ngăn ngừa mà còn cấm ngặt việc tụ tập đông người.
Theo luật khẩn cẩp – ban hành từ khi Mubarak nhậm chức vào năm 1981 và
vẫn chưa được xoá bỏ – thì việc tụ tập chỉ một vài người lớn tại nơi
công cộng cũng có thể dẫn đến việc bắt bớ. Như hết thảy những chính
quyền chuyên chế, chính quyền Mubarak hiểu được sức mạnh của một quảng
trường thực sự, nơi mà các công dân có thể gặp nhau, dạo chơi, tản bộ,
tụ họp, phản đối, trình diễn và chia sẻ ý tưởng, và hiểu rằng một midan
thực sự – quảng trường kiểu Ả Rập – chính là bản tuyên ngôn vật thể của
nền dân chủ.
Ở
Tahrir điều này ngụ ý việc dựng hàng rào và phân chia thành những bãi
cỏ và lối đi dễ quản lý. Hãy nêu ra một thí dụ nổi bật: cho đến thập
niên 60 thì phần lớn quảng trường nằm ở trước mặt Bảo tàng Ai Cập là một
bãi cỏ rộng với những lối đi đan chéo và một đài phun nước lớn. Tại đây
các gia đình và sinh viên có thể tụ tập cả ngày và, với những đôi tình
nhân, nó còn là điểm hẹn hò nổi tiếng giữa trái tim thành phố. Nhưng từ
thập nhiên 70 chính quyền đã dựng hàng rào quây kín mà không chịu giải
thích rõ số phận của điểm hẹn ưa thích này. Người Cairo suy đoán rằng
khu này bị quây lại để xây dựng tuyến xe điện ngầm Cairo Metro hay những
dự án hạ tầng cơ sở khác. Đâu đó trong thập niên trước một tấm bảng
xuất hiện, thông báo việc xây dựng một bãi đậu xe ngầm nhiều tầng bên
dưới. Trong những cuộc phản đối tại Quảng trường Tahrir Square, những
người biểu tình đã giỡ hàng rào ra rồi sử dụng làm tấm khiên bảo vệ,
ngăn cản các vụ tấn công của đám lưu manh ủng hộ Mubarak — và việc tháo
giỡ này cho thấy chẳng có một công trình xây dựng nào như hứa hẹn. Quả
là một di sản đô thị của Mubarak.’
Bề
mặt của Cairo đã biến Quảng trường Tahrir trở thành một địa điểm lý
tưởng để tung ra một cuộc cách mạng. Toạ lạc tại trung tâm thành phố lớn
nhất của Ai Cập, Tahrir nằm sát quốc hội, tổng hành dinh đảng chính trị
của Mubarak, dinh tổng thống, nhiều toà đại sứ nước ngoài, và các khách
sạn đầy phóng viên quốc tế để có thể truyền phát hình ảnh của các cuộc
biểu tình đến với khán giả khắp thế giới. Sau khi Mubarak bị hạ bệ, các
quảng trường rộng rãi ở các thủ đô Ả Rập khác cũng đã trở thành các đấu
trường cách mạng tương tự. […]
Trong
nhiều đường hướng thì người Pháp đã đi đầu trong việc áp dụng việc
thiết kế đô thị với mục tiêu chính trị. Vào những năm đầu thế kỷ 19 thì
về căn bản Paris vẫn còn là một thành phố thời Trung cổ, ngộp thở với sự
chật chội và thiếu thốn hạ tầng. Tiến trình cải tạo đô thị của Baron
Haussmann dưới triều Napoleon Đệ Tam vào các thập niên 1850 và 1860 đã
mang lại cho Kinh thành Ánh Sáng một hệ thống cống rãnh hiện đại, các
công viên ngoại ô xinh đẹp và một hệ thống trạm xe lửa. Ông ta cũng chộp
lấy cơ hội này để triệt phá các khu ổ chuột ô hợp, tống khứ những cư
dân cùng khổ về vùng ngoại ô và thay thế những ngả hẻm chật hẹp bằng
những đại lộ thoáng đãng. Trong trường hợp xảy ra nổi dậy, như đã diễn
ra trong những năm 1789, 1830, và 1848, nhà cầm quyền Pháp hy vọng rằng
những con đường rộng hơn sẽ vừa làm khó những nhà cách mạng Paris trong
nỗ lực thiết lập hàng rào chướng ngại, vừa tạo thuận lợi để các đội hình
binh lính Pháp tiến vào đàn áp.
Kiểu
tính toán đó vẫn tiếp tục cho đến tận hôm nay. Năm 2005, nhóm quân
phiệt cầm quyền Miến Điện dời trụ sở chính quyền từ Yangon, một thành
phố rực rỡ sắc màu của 5 triệu người, tới Naypyidaw nằm sâu trong nội
địa với mục đích an ninh. Biệt lập với các khu dân cư khác, dân số
Naypyidaw – chủ yếu là các giới chức chính quyền và quân sự – chỉ dành
thời gian tối thiểu ở thành phố hoang vắng kỳ lạ này. Các giới chức Miến
tuyên bố gần một triệu người sống ở đây, dù con số thực sự có thể thấp
hơn thế, rất nhiều.
Hai
năm sau đó, năm 2007, khi cuộc Cách mạng màu Vàng Nghệ nổ ra thì các
cuộc biểu tình lớn làm rung chuyển các thành phố Miến Điện khác không
bao giờ diễn ra ở Naypyidaw, và những tên quân phiệt vẫn tiếp tục nắm
quyền lực sau một cuộc đàn áp nhanh chóng nhưng tàn bạo. Thậm chí cả khi
dân số thành phố đã đủ lớn cho các cuộc biểu tình thì chúng sẽ diễn ra ở
đâu? Những đại lộ rộng rãi phân ranh giới các khu dân cư dành riêng cho
quan chức, không có quảng trường công cộng hoặc một nơi chống để làm
trung tâm tụ tập cho những người dân cứng cổ hay hiền lành. Thậm chí
dinh tổng thống còn được bao quanh bằng một hào sâu và một ký giả đã mô
tả thành phố này như là một ‘nền độc tài trên phương diện bản đồ học’.
Trong
khi đó thì Tổng thống Nursultan Nazarbayev của Kazakhstan lại dời ghế
ngồi quyền lực của mình về Astana, sâu trong thảo nguyên Kazakh, thành
phố tràn ngập những đường nét kiến trúc vị lai khiến khách viếng thăm
hoa cả mắt. Tổng thống Nga Vladimir Putin thì tìm cảm hứng trong quá
khứ: từ năm 2008 ông ta đã khôi phục truyền thống duyệt binh hoành tráng
của thời Xô viết ở Hồng trường của Moskva nhằm biểu dương sức mạnh. Vẫn
chưa rõ ý ư? Chính quyền Arab Saudi sử dụng Quảng trường Deera ở Riyadh
để tiến hành các các vụ chặt đầu, công khai và chính thức.
Những
nơi khác thì tinh vi hơn. Ở Bình Nhưỡng, thủ đô hà khắc của nhà nước
toàn trị cuối cùng trên thế giới, sự tuân phục răm rắp đã lộ ra theo
từng khối bê tông kềnh càng thô vụng. Chỉ những công dân trung thành
nhất của Bắc Hàn mới được phép cư ngụ trong những chung cư giống hệt
nhau của thành phố, đặc điểm chung của phong cách thiết kế đô thị
Stalinist. Thành phố lớn nhất của Bắc Hàn định hình với ‘những tượng đài
lớn của một thứ thẩm mỹ đầy khả nghi rải khắp thành phố, nối với nhau
bằng những đại lộ kiểu Haussman rộng một cách vô nghĩa lý và những quảng
trường khổng lồ nhưng trống rỗng, không một bóng người. Không gian công
cộng chỉ tồn tại để tôn sùng nhà nước và cá nhân những lãnh tụ họ Kim.
Nếu
sự trương phì quá mức của không gian công cộng có thể là điều xấu thì
Quảng trường Thiên An Môn của Trung Quốc là vi phạm tệ hại nhất. Như một
nghịch lý, quảng trường lớn thứ tư trên thế giới này có thể xem như là
‘sự đối lập với không gian công cộng’ như Tim Waterman và Ed Wall đã
viết trong cuốn sách của họ về kiến trúc cảnh quan. ‘Quy mô toàn trị’
của Thiên An Môn đã khiến ‘các cá nhân trở nên nhỏ bé và buộc họ cảm
thấy phục tùng quyền lực nhà nước. Đó là không gian phù hợp nhất cho
việc duyệt binh với súng đạn chứ không phải để công chúng thưc sự tham
gia vào đời sống thường nhật của đô thị.’ Cuộc đàn áp bằng xe tăng đối
với các nhà dân chủ tại quảng trường này vào năm 1989 là một lời nhắc
nhở rõ ràng rằng những cuộc biểu tình quy mô lớn có thể thất bại như thế
nào.
Không
phải nhà độc tài nào cũng thành thạo việc thiết kế đô thị. Việc tái
thiết kế đại quy mô thủ đô Bucharest của lãnh tụ độc tài Nicolae
Ceauşescu ở Rumani trong những năm 1980 đã xoá sạch một phần năm diện
tích thành phố lịch sử này để dựng nên một mớ hổ lốn những cấu kiện bê
tông, bao gồm cái trụ sở quốc hội lớn nhất thế giới chiếm ngự cả đường
chân trời của Bucharest. Không một yếu tố nào trong đó ngăn cản được đám
đông vĩ đại phản kháng ông ta sau bài phát biểu tại Quảng trường Cách
mạng vào tháng 12 năm 1989. Vài ngày sau đó, Ceauşescu bị tóm cổ, bị kết
án, và bị xử bắn. […]”
“Quy
hoạch” hay “cơ cấu” để con cái tiếp tục làm vua có thể khiến cho công
chúng nổi giận và vấn đề, như Ford đã nêu, không phải là đầu hàng mà là
“quy họach” và “cơ cấu” lại không gian đô thị như thế nào để có thể dập
tắt cơn giận ấy, tránh khỏi vết xe đổ của Mubarak và Ceauşescu?
Có
lẽ, những nhân vật chịu trách nhiệm cao nhất cho tuổi thọ của chế độ
toàn trị tại Hà Nội đã tính đến điều này khi ẵm cậu trưởng nam của ngài
Thủ tướng đặt vào những cái ghế ngồi quyền lực. Có thể lắm. Tính được cả
việc khiêu vũ để ngăn cản một nhúm người hoài cổ, muốn đặt vòng hoa
trong ngày kỷ niệm chiến tranh thì, với chuyện hệ trọng như mạng số của
chế độ mình, có gì mà họ không thể tính tới? Mà cũng không cần phải tính
nhiều lắm, chỉ cần liếc sơ qua cái toát yếu lý lịch, có thể thấy rằng
cậu quý tử ấy hội đủ điều kiện để giúp cha cậu, hay chế độ của cha con
cậu, không giẫm lên vêt xe đổ nói trên.
Thì
cậu ta tốt nghiệp kiến trúc tại Việt Nam. Thì, cậu ta tốt nghiệp tiến
sĩ civil engineering tại Mỹ. Ngành đó, ngày xưa, một nửa nước Việt Nam
gọi là “công chánh”, và như một chuyên viên công chánh, cậu ta cũng là
đồng nghiệp bề trên của những ông những trùm khủng bố cỡ lớn như Osama
bin Laden hay Yasser Arafat, vốn là hai kỹ sư công chánh. Đến chết thì
bin Laden vẫn còn là một tên khủng bố còn Arafat thì, trước khi gác chất
nổ lúc gần cuối cuộc đời, từng là mối ám ảnh khủng bố của thế giới
trong thập niên 70 và 80. Như là những chuyên viên công chánh, họ có
hiểu biết chuyên môn cần thiết để xác định đâu là nơi phải đặt bom và
phải đặt bom như thế nào thì mới đạt tới hiệu suất khủng bố cao nhất.
Tiến
sĩ công chánh Nguyễn Thanh Nghị được bế vào những bệ phóng quyền lực,
có lẽ, cũng được bế với chủ tâm “hiệu suất khủng bố cao nhất” ấy.
Không
phải ngẫu nhiên mà “Mùa Xuân Ả Rập” lại… “diễn biến” thành “Mùa Xuân
Nguyễn Thanh Nghị” tại cái nơi mà nhà cầm quyền đang ngay ngáy “chống
diễn biến”. Không khí cách mạng ở bên kia càng hực nóng bao nhiêu, đường
hoạn lộ của Nguyễn Thanh Nghị ở bên này càng thênh thang bấy nhiêu. Hãy
nhớ lại những ngày ê chề của cậu ta trong cuộc đua vào Thành ủy TPHCM
trong Đại hội 9 của Đảng bộ này vào thượng tuần tháng Mười năm 2010.
Đường đường là trưởng nam của một ủy viên Bộ Chính trị vai vế, cậu ta bị
lọai khỏi cuộc chơi một cách nhục nhã khi chỉ nhận được có 17 phiếu
trong tổng số 400 phiếu bầu. Đó là chặng đua đầu, là cửa ải bắt buộc
trước cuộc chạy đua vào Trung ương theo nguyên tắc “dân chủ tập trung”
và, với cậu, tình thế xem ra đã hết đường.
Nói
theo các nhà tướng số thì cái mà cậu ta cần lúc này là một “quý nhân
giúp đỡ” và ai cũng dễ dàng chụp mũ rằng “quý nhân” ấy phải là người cha
quyền lực của cậu mà không chịu để ý đến “Mùa Xuân Ả Rập”. Giữa cuộc
đấu đá quyết liệt chốn thâm cung ấy ông cha vai vế cũng chẳng xoay xở
được gì nhiều nếu không có cuộc Cách mạng Hoa Lài. Sự không may của cha
con những gia đình nhà độc tài Ả Rập lại là cái may của cha con cậu: cha
cậu khó mà ẵm cậu vào ngai vàng nếu cách mạng không bùng phát tại vùng
đất xa cách ấy.
Chỉ
vài tuần sau thất bại ê chề “17 phiếu” ấy thì cách mạng nổ ra. Ngày 18
tháng Mười Hai năm 2010, cuộc nổi dậy tại Tunisia bùng nổ thành cuộc
cách mạng và từ đây làn sóng dân chủ lan tràn sang các nước làng giềng,
Algeria, Jordan, Ai Cập và Yemen. Chỉ trong vòng mấy tháng đã có mấy
chính phủ bị lật hay ít ra hay rung rinh, xuống nước; đã có hàng lọat
lãnh tụ từng được xem là bất khả xâm phạm phải lưu vong, bị tước hết
quyền hành hay kết liễu sinh mạng một cách thê thảm. Sự dồn dập của
không khí cách mạng khiến các chế độ độc tài khác lo sợ và báo động. Bắc
Kinh lo sợ và báo động. Hà Nội, cũng lo sợ, báo động và, từng bước từng
bước, họ nghĩ lại, họ ẵm cậu ta lên những nấc thang quyền lực cao hơn.
Đầu
tiên, tháng Giêng năm 2011, chỉ vài tuần sau khi cách mạng nổ ra tại
Tusina, Đại hội toàn Đảng ở Hà Nội đã ẵm Nguyễn Thanh Nghị bế thẳng vào
Trung ương như một ủy viên dự khuyết, bất chấp nguyên tắc “dân chủ tập
trung”. Không khí cách mạng từ những quảng trường Ả Rập càng nóng lên,
cậu ta càng được chú ý, càng được “cơ cấu” và “quy hoạch” cao hơn, đúng
với… công năng “quy hoạch” và “cơ cấu” của một chuyên gia công chánh.
Tháng Mười Một năm 2011, từ một chân Ủy viên Trung ương “đậu vớt”, hoàn
toàn không có kinh nghiệm công quyền, cậu ta được bế vào nội các như một
Thứ trưởng chuyên trách việc “chỉnh trang đô thị”. [7]
Điều
làm họ nghĩ lại, ắt hẳn, phải là mẫu số chung giữa những “không gian
cách mạng” tại các xứ sở như Ai Cập và “công năng” của một chuyên gia có
khả năng khủng bố bằng… bê tông.
Thật
vậy. Khi bin Laden hay Arafat dùng chất nổ phá tung những khối bê tông,
họ đã đánh vào tâm lý của đối thủ, buộc đối thủ phải triền miên sống
trong cảnh nhấp nhỏm, bất an. Nhưng khi những nhà cầm quyền Miến Điện,
Bắc Hàn, Kazakhstan, Trung Quốc v.v. cho đổ những mẻ bê tông trong các
dự án “cơ cấu” hay “quy họach” thủ đô, họ cũng tiến hành cái công việc
khủng bố ấy không hơn không kém. Như những nhà cầm quyền nhấp nhổm bất
an, họ tìm mọi cách để áp chế sức công phá từ trái tim con người, để đè
nén những không gian ở đó con nguời có thể tập hợp lại với nhau, có thể
truyền cảm hứng và nuôi dưỡng khát vọng cho nhau. Những đám đông như thế
cần sống cho nhau và cho đất nước của mình, nhưng cái mà thể chế bạo
quyền đòi hỏi là đám đông kia phải sống cho họ, vì họ, vì riêng cái thể
chế của họ.
Chắc
hẳn bộ máy cai trị đang nhấp nhổm bất an tại Hà Nội đã ý thức được rằng
họ không thể mãi mãi bảo vệ “nhà nước pháp quyền” của mình bằng cách
đơn thuần trông cậy những trò du kích đá cá lăn dưa. Họ không thể mãi
mãi trông cậy vào những bô cứt hay lọ mắm tôm thối ném vào đám đông hay
những cái “condom đã qua sử dụng” ném vào khách sạn. Họ không thể vĩnh
viễn trông cậy vào đám đông nhếch nhác, “tùng tam tụ ngũ” mấy ông già
hom hem mệnh danh “cựu binh” hay “thương binh”, mồm sặc sụa mùi rượu,
lưỡi dẻo quánh những tiếng chửi thề. Và họ cũng không thể vĩnh viễn dựa
vào đám “vũ viên” trâng tráo, vừa nhón gót trên những trang sử thương
đau nhất, vừa láo ngoáy mông trước mặt một trong những vị vua công lao
nhất.
Quá
khứ Maoist và kiểu cách mạng “nông thôn bao vây thành thị” đã lùi xa.
Mạch sống mới đang bùng nổ tại thành thị với sự trưởng thành của giai
tầng trung lưu và khát vọng cháy bỏng về một xã hội dân sự. Mà, với
Facebook, với các hình thức cà phê dân chủ, ở quán cóc vỉa hè hay quán
ảo Internet, không gian đô thị Việt Nam đang nhân lên đa chiều, rộng
hơn mà đậm đặc hơn, sâu hơn mà cao hơn, tiềm tàng sức bật cho một cuộc
cách mạng đô thị. Và đó là điều đã khiến những nhà toàn trị tại Hà Nội
nhấp nhổm bất an và họ, nói theo ngôn ngữ của chính họ, nhận ra nhu cầu
phải “nâng” cái chiến thuật cũ nát của mình lên “một tầm cao mới”. Từ
tính chất phi quy ước và tủn mủn xưa cũ, họ phải hướng tới một tầm cỡ
“quy ước “ hơn. Họ phải “quy hoạch” và “cơ cấu” lại đô thị để tạo ra
những kiến trúc đô thị mang tính “phản cách mạng” hay “phản giải phóng”,
không giẫm lại vết xe ở Bucharest hay tại Cairo, có thể bảo đảm rằng
Mubarak vẫn có thể tiếp tục cầm quyền cho dù nhân dân Ai Cập đùng đùng
nổi giận trước việc “quy họach” hay “cơ cấu” Gamal Mubarak làm người kế
vị.
Từ
đầu chúng ta đã nhắc đến “công năng chủ nghĩa”. Và chúng ta đang nhắc
đến “kiến trúc đô thị” nên, do đó, không thể không nhắc đến Le
Corbusier, một trong những nhà kiến trúc vĩ đại nhất của thế kỷ 20, cha
đẻ của trường phái Functionalism với phát biểu nổi tiếng “Nhà là một cái
máy để ở”. Nếu nhà là một thứ máy để ở thì đô thị, với các nhà toàn
trị, và có thể thấy qua những gì đã trình bày ở trên, sẽ là một thứ
“máy” để đàn áp và khủng bố. Nếu “cỗ máy đàn áp – khủng bố” của chế độ
toàn trị đã chằng chịt với những bộ máy đoàn thể, tuyên truyền, công an,
mật vụ nhà tù hay cái condom và bô cứt v.v. thì nay sẽ có thêm những
mẻ bê tông, với ông thứ trưởng bê tông đang được ẵm vào một bệ phóng
chính trị khác để từ đó còn lên cao hơn nữa.
Đó chính là tính chất “công năng chủ nghĩa” trong việc ẵm bế chính trị bất kể nguyên lý dân chủ tập trung.
Trong
bài viết trên Kinzer đã tiếc thay cho Mubarak là “đã quá trễ để dùng
đến ‘sợi dây lụa’ và ông ta cũng không có con gái”. Nhưng trai hay gái,
đó là số phận, là trời cho chứ không phải là chọn lựa và, hôm nay là thế
kỷ 21, không một người dân nước nào thể chấp nhận một lãnh tụ siết cổ
con mình. Có tiếc, Mubarak chỉ nên tiếc là đã không cho con trai học
nghề khủng bố bằng bê tông như cậu trưởng nam của ông Thủ tướng nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
[7]
Nhưng
tiếc cái học của con chỉ là chuyện nhỏ và đáng ra thì Mubarak phải tiếc
cho cái học của mình. Tiếc đã không khiêm tốn. Tiếc chỉ nhắm mắt tin
tưởng vào ưu thế chính trị phù du trước mắt mà không chịu nhìn trước
nhìn sau, không chịu nhìn cùng khắp thế giới và nhìn sâu trong lịch sử
để học, để mang lại những cái hậu hay hơn, riêng cho mình và chung cho
đất nước, cho nhân dân của mình.
Cái
đó, chúng ta gọi là “vô hậu”. Mà, trong lối chửi nhau của người Việt,
đặc biệt là với người Huế vốn khét tiếng chửi có tích tuồng và bài bản
thì “vô hậu” là tiếng chửi cay nghiệt nhất, độc ác nhất.
Và đau đớn nhất….
19.3.2014
___________
Chú thích
[1] Nguyễn Thanh Nghị được cử làm phó Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang. Đây là một phần trong quyết định của Bộ Chính trị và Ban Bí thư: “luân chuyển cán bộ về địa phương” để “chuẩn bị một bước về nhân sự lãnh đạo cấp ủy địa phương, cơ quan, đơn vị ở Trung ương nhiệm kỳ tới”.
[2] Tác giả chính của ban Tuyên ngôn độc lập Mỹ là Thomas Jefferson nhưng người chính thức tuyên bố là George Washington, tại New York City ngày 9.7.1776.
[3] Bùi Tín, “Hồ Chí Minh và đứa con rơi Nguyễn Tất Trung”, RFA, 2007
[4] Stephen Kinzer. “Dictators’ Sons, From Egypt to Libya, Are Doomed”, The Daily Beast, 2011
[5] Trên thực tế thì các giáo vương chỉ giết anh em mình – đặc biệt là anh em cùng cha khác mẹ – để bảo vệ ngai vàng. “Tập tục” sơi dây lụa này chỉ bắt đầu khi Murad III (1546 –1595) lên ngôi vào năm 1574, về sau về sau biện pháp dây lụa này được thay thế bằng giải pháp giam cầm trong cấm cung.
[6] Matt Ford, “A Dictator’s Guide to Urban Design – Ukraine’s Independence Square, and the revolutionary dimensions of public spaces”, The Atlantic, 21-2-2014
[7]http://amc.edu.vn/tin-tuc-su-kien/tin-thoi-su-chuyen-nganh/669-hoi-nghi-tham-van-y-kien-du-luat-quan-ly-phat-trien-do-thi-hoi-nghi-tham-van-y-kien-du-luat-quan-ly-phat-trien-do-thi.html
[8] Gamal Mubarak học quản trị hành chánh, lấy bằng MBA và làm việc trong lĩnh vực ngân hàng trước khi tham chính.
© 2014 Thuận Văn contra
http://www.procontra.asia/?p=4103
đọc thêm:
Công khai danh sách cán bộ luân chuyển (BBC). – Thông báo 44 cán bộ Trung ương luân chuyển (RFA).
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Hiệu ứng nói phét!" - by Văn Quang / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Phiếm luận, chuyện Nhà Nước ta!!! _ Di Tĩnh Đắc ( Nguyễn Bá Chổi chuyển )
- Đánh trống, đánh chiêng học lại lịch sử Sài Gòn - by FB Nguyễn Gia Việt & Trần Văn Giang (ghi lại)
- Việt Cộng: Kế hoạch gửi tiền Quỹ vắc-xin COVID-19 để lấy lãi gây ra tranh cãi
- Ân xá Quốc tế gửi bằng chứng, đòi Việt Cộng điều tra về tin tặc tấn công giới bất đồng
CON SÃI Ở CHÙA PHẢI QUÉT LÁ ĐA...
Tính chất công năng này, trùng hợp thay, cũng ngụ ý “quy hoạch” và “cơ cấu” về mặt ngôn từ nhưng với một nghĩa lý khác hơn. Nghĩa lý ấy sẽ tìm hiểu sau bởi, để đầu đũa ngọn ngành
Thái tử Nguyễn Thanh Nghị
(từ blog Người lót gạch)
Thuận Văn
Đã có khá nhiều phản ứng nặng thiên kiến quanh việc Nguyễn Thanh Nghị được “ẵm” lên bệ phóng quyền lực và đã đến lúc chúng ta cần tỏ ra công bằng, thử đưa ra một biện giải khách quan và khoa học, khả dĩ nói lên tinh thần “công năng chủ nghĩa” trong chuyện o bế chính trị mệnh danh “quy họach” hay “cơ cấu” này. [1]
Tính
chất công năng này, trùng hợp thay, cũng ngụ ý “quy hoạch” và “cơ cấu”
về mặt ngôn từ nhưng với một nghĩa lý khác hơn. Nghĩa lý ấy sẽ tìm hiểu
sau bởi, để đầu đũa ngọn ngành, chúng ta cần bắt đầu từ nhân vật mà,
danh chính ngôn thuận, kẻ o hay người được bế ấy không thể không thề
thốt học hỏi thật lòng, học đến tận cuối cuộc đời. Đó là cố lãnh tụ Hồ
Chí Minh, người mà họ phải một điều hai điều “cha già dân tộc”.
Cố
lãnh tụ ấy, sinh thời, khá là sắt son trong việc học tập “cha già”…
nước Mỹ, cố Tổng thống George Washington. Khỏi phải đào sâu trong Hồ Chí
Minh tuyển tập dày cộm, chỉ liếc sơ qua đã thấy ông học vị tổng thống
đầu tiên nước Mỹ như thế nào rồi, từ việc hệ trọng quốc gia đến việc hệ
trọng đời người. Ông học trong Tuyên ngôn độc lập. [2] Rồi ông học việc
gia phả, tông đường. [2] Tiểu sử chính thống cho biết ông không vợ không
con nên không người kế thừa quyền lực. Mà theo những tiểu sử phi chính
thống loại “phản động” nhất thì, ít ra, ông cũng có một đứa con trai vô
thừa nhận. [3] Đằng nào cũng vậy, ông giống hệt Washington ở khoản không
người kế tục quyền hành.
Nếu
không học Washington thì, như là nhà chính trị đầy viễn kiến, có thể
nhìn trước thời đại theo một số lời ca tụng, rất có thể ông đã tiên
nghiệm được điều mà Stephen Kinzer đã viết vào năm 2011, giữa những diễn
biến nóng bóng của Mùa Xuân Ả Rập: các nhà độc tài không nên có con
trai. Trong bài “Dictators’ Sons, From Egypt to Libya, Are Doomed” (Con
cái những nhà độc tài, từ Ai Cập đến Libya, đều tận số), đăng trên trang
mạng The Daily Beast ngày 2 tháng Chín năm 2011, Kinzer khuyên các nhà
độc tài rằng họ không nên có con trai, nếu lỡ có ra thì hãy siết cổ trừ
hậu họa [4]. Kinzer viết, xin lược dịch:
“Con
cái của những bạo chúa thường góp phần gia tốc tiến trình sụp đổ của
cha mình. Chỉ cần hỏi Mubarak. Tổng thống Hosni Mubarak ở Ai Cập mất
sạch quyền lực trong ô nhục phần nào là do ông ta không lưu ý đến một
bài học ẩn khuất trong lịch sử, đó là các nhà độc tài không nên có con
trai. Nhưng phần lớn đám độc tài này lại có. Điều đó lại góp phần thúc
đẩy việc đánh mất quyền lực của họ hay sự sụp đổ đất nước của họ.
Người
Ai Cập có thể nén lòng cam chịu thêm một thời gian nữa nếu như ông
Mubarak già nua không huỵch toẹt tuyên bố rằng ông muốn trao quyền lại
cho con trai mình, Gamal Mubarak. Trong toàn bộ những hành vi kiêu ngạo
của ông Mubarak thì không có gì sỉ nhục người dân Ai Cập bằng cách cho
rằng trong 80 triệu dân chỉ có Gamal Mubarak mới xứng đáng làm nhà lãnh
đạo đất nước. Chỉ đơn giản vì ông ta muốn nên Gamal sẽ lên cầm quyền,
chả cần đến lá phiếu của người dân.
Chưa
đầy một tuần sau các vụ phản đối ở Ai Cập, Tổng thống Ali Abdullah
Saleh ở Yemen phải ra mặt thề thốt là, có ra đi, ông ta sẽ không đưa con
trai mình, Ahmed, lên làm tổng thống. Cùng lúc, Quốc vương Abdullah ở
Jordan, mới vừa kế vị cha mình, đã ra tay giải tán chính phủ trong nỗ
lực củng cố chế độ. Xem ra hiện tại triều đại Abdullah này có vẻ vững
chãi cũng giống như ở Saudi Arabia, thế nhưng càng ngày quan niệm cho
rằng con trai có quyền thừa kế quyền hành hầu như tuyệt đối của cha
mình, càng mất dần sự ủng hộ.
Một
số ít con cái các nhà độc tài vẫn tiếp tục giữ được quyền lực kế thừa
từ cha ông, như Bashar al-Assad ở Syria và Kim Jong Il ở Bắc Hàn. Nhưng
đa số chế độ khác thì thất bại thê thảm. Đặc biệt là Phi châu với rất
nhiều thí dụ. Con trai của Idi Amin, Daniel Arap Moi, và Jomo Kenyatta
không thể giữ quyền lực mà cha họ cố trao lại. Gần nước Mỹ hơn,
Jean-Claude ‘Baby Doc’ Duvalier, nhậm chức Tổng thống Haiti sau khi cha
qua đời nhưng không thể nào giữ được; các nỗ lực giành lại chính quyền
của ông ta trong thời gian qua đã bị ngăn cản rất nhiều vì trí nhớ người
dân không chỉ in hằn sự tham nhũng và tàn bạo dưới thời ông ta mà cả
của thời của cha ông ta nữa. […]
Các
nhà độc tài phải làm gì để thoát khỏi lời nguyền này? Có ba chọn lựa.
Một là ‘sợi dây lụa’ từng được các giáo vương của Ðế quốc Ottoman ưa
chuộng. Họ cho giết con trai của mình – siết cổ bằng sợi dây lụa để
tránh đổ máu vì máu hoàng tộc quá thiêng liêng – để trừ hậu hoạ. Trông
thì tàn bạo thật nhưng giới ủng hộ truyền thống này cho rằng số người
chết vì nó quá nhỏ so với số người thiệt mạng trong các cuộc chiến giành
ngôi ở Âu châu.
[…]
Giải pháp thứ hai là không có con. Ðó là con đường của George
Washington – một số sử gia cho rằng việc mắc bệnh đậu mùa lúc thiếu thời
khiến ông tuyệt tự – và điều này có thể có một ảnh hưởng lớn lao với
lịch sử Mỹ. Tư tưởng quân chủ vẫn rất mạnh trong thời Washington và ông
nhận được sự sùng bái của công chúng đến nỗi nếu có con trai, có thể sẽ
có nhiều áp lực để đưa người con lên làm tổng thống. Ðiều đó có thể đã
đưa nước Mỹ đi theo một hướng hoàn toàn khác.
Khi
thắc mắc là tại sao Thổ Nhĩ Kỳ trở thành quốc gia thịnh vượng nhất
trong thế giới Hồi giáo tại Trung Ðông, chúng ta không nên bỏ qua sự thể
là lãnh tụ khai quốc, ông Kemal Ataturk, cũng không có con. Cũng giống
như Washington, ông được cả nước ngưỡng mộ và có thể dễ dàng cho con
trai mình kế nghiệp. Thay vào đó, cũng như Washington, ông ta nhẹ nhàng
rút lui khỏi quyền lực để dân chủ rộ nở trên đất nước mình.
Còn
có giải pháp thứ ba: đẻ con gái thay vì con trai. Lịch sử cho thấy rằng
con gái của các nhà độc tài có khuynh hướng trở thành những nhà lãnh
đạo giỏi, nhiều khả năng. Trong số này, ta có thể kể bà Megawati
Sukaroputri ở Indonesia, bà Benazir Bhutto ở Pakistan, bà Sheikh Hasina ở
Bangladesh, và bà Indira Gandhi ở Ấn Ðộ. Có vẻ như họ thừa hưởng được
khả năng lãnh đạo và vận dụng quyền lực của cha mình, và dẫu không vượt
qua thói tham nhũng, họ có khuynh hướng cởi mở hơn, dễ dàng chấp nhận
thoả hiệp hơn và không bị lôi kéo vào những trò chơi đầy kích thích tố
như đua xe, ma túy và tra tấn.
Ðáng tiếc cho Mubarak là đã quá trễ để dùng đến ‘sợi dây lụa’ và ông ta cũng không có con gái”.
Tính
đến lúc đó, tháng Chín năm 2011, thì đã quá trễ cho Mulbarak nhưng nếu
tính đến bây giờ, tháng Ba năm 2014, có trễ chút nào đối với cha con nói
trên, và với bộ máy quyền lực của họ hay không?
Không
đoái hoài đến lời khuyên của Kinzer đã đành, nhưng khi mà phong trào
“Học tập Bác” đã ầm ĩ từ bao nhiêu năm nay, lẽ nào họ không mảy may biết
rằng người khai sinh ra chế độ mình đã thực sự ngộ được điều ấy, y như
là người khai sinh nước Mỹ? Như là những học trò “xuất sắc” của Bác, ắt
họ phải biết. Biết Bác mà không chịu học Bác thì, ắt hẳn, họ đã tìm ra
bài học khác hay hơn; thứ bài học như là bảo bối, một “anti-dote” có thể
xoá sạch “lời nguyền con trai”, bảo đảm rằng con trai của những nhà
chuyên chế cũng có thể nối ngôi và góp phần bảo vệ quyền lực của nhà
mình.
Trên
khía cạnh này chúng ta hãy có thể nhìn ra “công năng” của Nguyễn Thanh
Nghị qua lời khuyên mà Matt Ford đã đưa ra trong những ngày sôi động tại
Ukraine vào trung tuần tháng Hai. [5] Trong bài “A Dictator’s Guide to
Urban Design – Ukraine’s Independence Square and the revolutionary
dimensions of public spaces.” (“Hướng dẫn của những nhà độc tài về thiết
kế đô thị – Quảng trường Độc lập của Ukraine và những chiều hướng cách
mạng của những không gian công cộng”, đăng trên tờ The Alantic 21.2.
2014, tác giả này nhận định:
“Ukraine
có kích thước tương đương với tiểu bang Texas của Mỹ nhưng trong suốt
ba tháng qua phong trào phản kháng ngày càng lan rộng của nó, phần lớn,
dồn ứ vào không gian của 10 khối phố.
Tên
của phong trào, Euromaidan, là một từ mới hình thành từ tiền tốeuro,
thể hiện thái độ nhích lại gần hơn với EU và tách xa nước Nga của phe
đối lập, với từ maidan trong tiếng Ukraine (gốc từ tiếng Ba Tư và Ả
Rập), có nghĩa là quảng trường. Và thuật ngữ này không chỉ biểu lộ vị
trí của các cuộc biểu tình ở Quảng trường Độc lập của thành phố Kiev.
Ukraine thuộc về châu Âu về mặt địa lý nhưng những người biểu tình còn
coi Âu châu như một tư tưởng, hàm ý một ‘nền dân chủ thực sự, với một
lực lượng cảnh sát đáng tin và thực tâm tôn trọng nhân quyền’.
Cái
tên ấy nói lên một hiện tượng ngày càng phổ biến: quảng trường công
cộng đóng vai tâm chấn cho sự bày tỏ dân chủ và tinh thần phản kháng, và
việc thiếu một nơi như vậy – hoặc các hành động có chủ đích về một
không gian như vậy – là cách thức để những nhà chuyên chế dập tắt các
nhóm bất đồng chính kiến thông qua việc thiết kế đô thị.
Không
phải trung tâm của tất cả các cuộc cách mạng đều ngự tại quảng trường,
nhưng những cuộc cách mạng mới đây đã diễn ra như thế, kể cả các cựu
cộng hoà Xô viết. Cuộc Cách mạng Hoa hồng Gruzia lật đổ Tổng thống
Eduard Shevardnadze năm 2003 đã xuất phát từ Quảng trường Tự do ở
Tbilisi. Năm 2005 những người phản kháng Kyrgyzstan đã chiếm lấy Quảng
trường Ala-Too từ tay cảnh sát rồi mau chóng tiến vào dinh tổng thống
gần đó, lật đổ Tổng thống lâu năm Askar Akayev. Cuộc Cách mạng Cam của
Ukraine năm 2004 cũng diễn ra tại Quảng trường Độc lập, ngay tại nơi mà
người biểu tình hiện tại đang đụng độ một cách đẫm máu với lực lượng
chính phủ, gây áp lực đòi Tổng thống Viktor Yanukovych phải tổ chức bầu
cử sớm và trở lại với hiến pháp 2004.
Tính
biểu tượng của quảng trường đã nảy nở thêm tiềm năng mới trong Mùa Xuân
Ả Rập. Viết trong những ngày ngây ngất của cách mạng Ai Cập, một thời
gian ngắn sau sự sụp đổ của Hosni Mubarak năm 2011, một tiểu luận gia đã
hùng hồn giải thích việc Quảng trường Tahrir thể hiện sự đàn áp rộng
lớn hơn đối với xã hội dân sự Ai Cập như thế nào. Quảng trường này được
xây dựng lần đầu tiên vào thế kỷ 19, dựa trên một thiết kế kiểu ‘Paris
bên bờ sông Nile’ cho Cairo, sau đổi tên thành Quảng trường Tahrir (Giải
phóng) khi nó trở thành tiêu điểm cho các cuộc cách mạng Ai Cập vào năm
1919 và 1952:
‘Trên
thực tế, trong những tuần qua, Tahrir đã thực sự trở thành một quảng
trường. Trước kia nó chỉ là một vòng xoay giao thông rộng lớn và bận rộn
– và lại nữa – hạn chế của nó là hệ quả của việc thiết kế chính trị, từ
chính sách không chỉ ngăn ngừa mà còn cấm ngặt việc tụ tập đông người.
Theo luật khẩn cẩp – ban hành từ khi Mubarak nhậm chức vào năm 1981 và
vẫn chưa được xoá bỏ – thì việc tụ tập chỉ một vài người lớn tại nơi
công cộng cũng có thể dẫn đến việc bắt bớ. Như hết thảy những chính
quyền chuyên chế, chính quyền Mubarak hiểu được sức mạnh của một quảng
trường thực sự, nơi mà các công dân có thể gặp nhau, dạo chơi, tản bộ,
tụ họp, phản đối, trình diễn và chia sẻ ý tưởng, và hiểu rằng một midan
thực sự – quảng trường kiểu Ả Rập – chính là bản tuyên ngôn vật thể của
nền dân chủ.
Ở
Tahrir điều này ngụ ý việc dựng hàng rào và phân chia thành những bãi
cỏ và lối đi dễ quản lý. Hãy nêu ra một thí dụ nổi bật: cho đến thập
niên 60 thì phần lớn quảng trường nằm ở trước mặt Bảo tàng Ai Cập là một
bãi cỏ rộng với những lối đi đan chéo và một đài phun nước lớn. Tại đây
các gia đình và sinh viên có thể tụ tập cả ngày và, với những đôi tình
nhân, nó còn là điểm hẹn hò nổi tiếng giữa trái tim thành phố. Nhưng từ
thập nhiên 70 chính quyền đã dựng hàng rào quây kín mà không chịu giải
thích rõ số phận của điểm hẹn ưa thích này. Người Cairo suy đoán rằng
khu này bị quây lại để xây dựng tuyến xe điện ngầm Cairo Metro hay những
dự án hạ tầng cơ sở khác. Đâu đó trong thập niên trước một tấm bảng
xuất hiện, thông báo việc xây dựng một bãi đậu xe ngầm nhiều tầng bên
dưới. Trong những cuộc phản đối tại Quảng trường Tahrir Square, những
người biểu tình đã giỡ hàng rào ra rồi sử dụng làm tấm khiên bảo vệ,
ngăn cản các vụ tấn công của đám lưu manh ủng hộ Mubarak — và việc tháo
giỡ này cho thấy chẳng có một công trình xây dựng nào như hứa hẹn. Quả
là một di sản đô thị của Mubarak.’
Bề
mặt của Cairo đã biến Quảng trường Tahrir trở thành một địa điểm lý
tưởng để tung ra một cuộc cách mạng. Toạ lạc tại trung tâm thành phố lớn
nhất của Ai Cập, Tahrir nằm sát quốc hội, tổng hành dinh đảng chính trị
của Mubarak, dinh tổng thống, nhiều toà đại sứ nước ngoài, và các khách
sạn đầy phóng viên quốc tế để có thể truyền phát hình ảnh của các cuộc
biểu tình đến với khán giả khắp thế giới. Sau khi Mubarak bị hạ bệ, các
quảng trường rộng rãi ở các thủ đô Ả Rập khác cũng đã trở thành các đấu
trường cách mạng tương tự. […]
Trong
nhiều đường hướng thì người Pháp đã đi đầu trong việc áp dụng việc
thiết kế đô thị với mục tiêu chính trị. Vào những năm đầu thế kỷ 19 thì
về căn bản Paris vẫn còn là một thành phố thời Trung cổ, ngộp thở với sự
chật chội và thiếu thốn hạ tầng. Tiến trình cải tạo đô thị của Baron
Haussmann dưới triều Napoleon Đệ Tam vào các thập niên 1850 và 1860 đã
mang lại cho Kinh thành Ánh Sáng một hệ thống cống rãnh hiện đại, các
công viên ngoại ô xinh đẹp và một hệ thống trạm xe lửa. Ông ta cũng chộp
lấy cơ hội này để triệt phá các khu ổ chuột ô hợp, tống khứ những cư
dân cùng khổ về vùng ngoại ô và thay thế những ngả hẻm chật hẹp bằng
những đại lộ thoáng đãng. Trong trường hợp xảy ra nổi dậy, như đã diễn
ra trong những năm 1789, 1830, và 1848, nhà cầm quyền Pháp hy vọng rằng
những con đường rộng hơn sẽ vừa làm khó những nhà cách mạng Paris trong
nỗ lực thiết lập hàng rào chướng ngại, vừa tạo thuận lợi để các đội hình
binh lính Pháp tiến vào đàn áp.
Kiểu
tính toán đó vẫn tiếp tục cho đến tận hôm nay. Năm 2005, nhóm quân
phiệt cầm quyền Miến Điện dời trụ sở chính quyền từ Yangon, một thành
phố rực rỡ sắc màu của 5 triệu người, tới Naypyidaw nằm sâu trong nội
địa với mục đích an ninh. Biệt lập với các khu dân cư khác, dân số
Naypyidaw – chủ yếu là các giới chức chính quyền và quân sự – chỉ dành
thời gian tối thiểu ở thành phố hoang vắng kỳ lạ này. Các giới chức Miến
tuyên bố gần một triệu người sống ở đây, dù con số thực sự có thể thấp
hơn thế, rất nhiều.
Hai
năm sau đó, năm 2007, khi cuộc Cách mạng màu Vàng Nghệ nổ ra thì các
cuộc biểu tình lớn làm rung chuyển các thành phố Miến Điện khác không
bao giờ diễn ra ở Naypyidaw, và những tên quân phiệt vẫn tiếp tục nắm
quyền lực sau một cuộc đàn áp nhanh chóng nhưng tàn bạo. Thậm chí cả khi
dân số thành phố đã đủ lớn cho các cuộc biểu tình thì chúng sẽ diễn ra ở
đâu? Những đại lộ rộng rãi phân ranh giới các khu dân cư dành riêng cho
quan chức, không có quảng trường công cộng hoặc một nơi chống để làm
trung tâm tụ tập cho những người dân cứng cổ hay hiền lành. Thậm chí
dinh tổng thống còn được bao quanh bằng một hào sâu và một ký giả đã mô
tả thành phố này như là một ‘nền độc tài trên phương diện bản đồ học’.
Trong
khi đó thì Tổng thống Nursultan Nazarbayev của Kazakhstan lại dời ghế
ngồi quyền lực của mình về Astana, sâu trong thảo nguyên Kazakh, thành
phố tràn ngập những đường nét kiến trúc vị lai khiến khách viếng thăm
hoa cả mắt. Tổng thống Nga Vladimir Putin thì tìm cảm hứng trong quá
khứ: từ năm 2008 ông ta đã khôi phục truyền thống duyệt binh hoành tráng
của thời Xô viết ở Hồng trường của Moskva nhằm biểu dương sức mạnh. Vẫn
chưa rõ ý ư? Chính quyền Arab Saudi sử dụng Quảng trường Deera ở Riyadh
để tiến hành các các vụ chặt đầu, công khai và chính thức.
Những
nơi khác thì tinh vi hơn. Ở Bình Nhưỡng, thủ đô hà khắc của nhà nước
toàn trị cuối cùng trên thế giới, sự tuân phục răm rắp đã lộ ra theo
từng khối bê tông kềnh càng thô vụng. Chỉ những công dân trung thành
nhất của Bắc Hàn mới được phép cư ngụ trong những chung cư giống hệt
nhau của thành phố, đặc điểm chung của phong cách thiết kế đô thị
Stalinist. Thành phố lớn nhất của Bắc Hàn định hình với ‘những tượng đài
lớn của một thứ thẩm mỹ đầy khả nghi rải khắp thành phố, nối với nhau
bằng những đại lộ kiểu Haussman rộng một cách vô nghĩa lý và những quảng
trường khổng lồ nhưng trống rỗng, không một bóng người. Không gian công
cộng chỉ tồn tại để tôn sùng nhà nước và cá nhân những lãnh tụ họ Kim.
Nếu
sự trương phì quá mức của không gian công cộng có thể là điều xấu thì
Quảng trường Thiên An Môn của Trung Quốc là vi phạm tệ hại nhất. Như một
nghịch lý, quảng trường lớn thứ tư trên thế giới này có thể xem như là
‘sự đối lập với không gian công cộng’ như Tim Waterman và Ed Wall đã
viết trong cuốn sách của họ về kiến trúc cảnh quan. ‘Quy mô toàn trị’
của Thiên An Môn đã khiến ‘các cá nhân trở nên nhỏ bé và buộc họ cảm
thấy phục tùng quyền lực nhà nước. Đó là không gian phù hợp nhất cho
việc duyệt binh với súng đạn chứ không phải để công chúng thưc sự tham
gia vào đời sống thường nhật của đô thị.’ Cuộc đàn áp bằng xe tăng đối
với các nhà dân chủ tại quảng trường này vào năm 1989 là một lời nhắc
nhở rõ ràng rằng những cuộc biểu tình quy mô lớn có thể thất bại như thế
nào.
Không
phải nhà độc tài nào cũng thành thạo việc thiết kế đô thị. Việc tái
thiết kế đại quy mô thủ đô Bucharest của lãnh tụ độc tài Nicolae
Ceauşescu ở Rumani trong những năm 1980 đã xoá sạch một phần năm diện
tích thành phố lịch sử này để dựng nên một mớ hổ lốn những cấu kiện bê
tông, bao gồm cái trụ sở quốc hội lớn nhất thế giới chiếm ngự cả đường
chân trời của Bucharest. Không một yếu tố nào trong đó ngăn cản được đám
đông vĩ đại phản kháng ông ta sau bài phát biểu tại Quảng trường Cách
mạng vào tháng 12 năm 1989. Vài ngày sau đó, Ceauşescu bị tóm cổ, bị kết
án, và bị xử bắn. […]”
“Quy
hoạch” hay “cơ cấu” để con cái tiếp tục làm vua có thể khiến cho công
chúng nổi giận và vấn đề, như Ford đã nêu, không phải là đầu hàng mà là
“quy họach” và “cơ cấu” lại không gian đô thị như thế nào để có thể dập
tắt cơn giận ấy, tránh khỏi vết xe đổ của Mubarak và Ceauşescu?
Có
lẽ, những nhân vật chịu trách nhiệm cao nhất cho tuổi thọ của chế độ
toàn trị tại Hà Nội đã tính đến điều này khi ẵm cậu trưởng nam của ngài
Thủ tướng đặt vào những cái ghế ngồi quyền lực. Có thể lắm. Tính được cả
việc khiêu vũ để ngăn cản một nhúm người hoài cổ, muốn đặt vòng hoa
trong ngày kỷ niệm chiến tranh thì, với chuyện hệ trọng như mạng số của
chế độ mình, có gì mà họ không thể tính tới? Mà cũng không cần phải tính
nhiều lắm, chỉ cần liếc sơ qua cái toát yếu lý lịch, có thể thấy rằng
cậu quý tử ấy hội đủ điều kiện để giúp cha cậu, hay chế độ của cha con
cậu, không giẫm lên vêt xe đổ nói trên.
Thì
cậu ta tốt nghiệp kiến trúc tại Việt Nam. Thì, cậu ta tốt nghiệp tiến
sĩ civil engineering tại Mỹ. Ngành đó, ngày xưa, một nửa nước Việt Nam
gọi là “công chánh”, và như một chuyên viên công chánh, cậu ta cũng là
đồng nghiệp bề trên của những ông những trùm khủng bố cỡ lớn như Osama
bin Laden hay Yasser Arafat, vốn là hai kỹ sư công chánh. Đến chết thì
bin Laden vẫn còn là một tên khủng bố còn Arafat thì, trước khi gác chất
nổ lúc gần cuối cuộc đời, từng là mối ám ảnh khủng bố của thế giới
trong thập niên 70 và 80. Như là những chuyên viên công chánh, họ có
hiểu biết chuyên môn cần thiết để xác định đâu là nơi phải đặt bom và
phải đặt bom như thế nào thì mới đạt tới hiệu suất khủng bố cao nhất.
Tiến
sĩ công chánh Nguyễn Thanh Nghị được bế vào những bệ phóng quyền lực,
có lẽ, cũng được bế với chủ tâm “hiệu suất khủng bố cao nhất” ấy.
Không
phải ngẫu nhiên mà “Mùa Xuân Ả Rập” lại… “diễn biến” thành “Mùa Xuân
Nguyễn Thanh Nghị” tại cái nơi mà nhà cầm quyền đang ngay ngáy “chống
diễn biến”. Không khí cách mạng ở bên kia càng hực nóng bao nhiêu, đường
hoạn lộ của Nguyễn Thanh Nghị ở bên này càng thênh thang bấy nhiêu. Hãy
nhớ lại những ngày ê chề của cậu ta trong cuộc đua vào Thành ủy TPHCM
trong Đại hội 9 của Đảng bộ này vào thượng tuần tháng Mười năm 2010.
Đường đường là trưởng nam của một ủy viên Bộ Chính trị vai vế, cậu ta bị
lọai khỏi cuộc chơi một cách nhục nhã khi chỉ nhận được có 17 phiếu
trong tổng số 400 phiếu bầu. Đó là chặng đua đầu, là cửa ải bắt buộc
trước cuộc chạy đua vào Trung ương theo nguyên tắc “dân chủ tập trung”
và, với cậu, tình thế xem ra đã hết đường.
Nói
theo các nhà tướng số thì cái mà cậu ta cần lúc này là một “quý nhân
giúp đỡ” và ai cũng dễ dàng chụp mũ rằng “quý nhân” ấy phải là người cha
quyền lực của cậu mà không chịu để ý đến “Mùa Xuân Ả Rập”. Giữa cuộc
đấu đá quyết liệt chốn thâm cung ấy ông cha vai vế cũng chẳng xoay xở
được gì nhiều nếu không có cuộc Cách mạng Hoa Lài. Sự không may của cha
con những gia đình nhà độc tài Ả Rập lại là cái may của cha con cậu: cha
cậu khó mà ẵm cậu vào ngai vàng nếu cách mạng không bùng phát tại vùng
đất xa cách ấy.
Chỉ
vài tuần sau thất bại ê chề “17 phiếu” ấy thì cách mạng nổ ra. Ngày 18
tháng Mười Hai năm 2010, cuộc nổi dậy tại Tunisia bùng nổ thành cuộc
cách mạng và từ đây làn sóng dân chủ lan tràn sang các nước làng giềng,
Algeria, Jordan, Ai Cập và Yemen. Chỉ trong vòng mấy tháng đã có mấy
chính phủ bị lật hay ít ra hay rung rinh, xuống nước; đã có hàng lọat
lãnh tụ từng được xem là bất khả xâm phạm phải lưu vong, bị tước hết
quyền hành hay kết liễu sinh mạng một cách thê thảm. Sự dồn dập của
không khí cách mạng khiến các chế độ độc tài khác lo sợ và báo động. Bắc
Kinh lo sợ và báo động. Hà Nội, cũng lo sợ, báo động và, từng bước từng
bước, họ nghĩ lại, họ ẵm cậu ta lên những nấc thang quyền lực cao hơn.
Đầu
tiên, tháng Giêng năm 2011, chỉ vài tuần sau khi cách mạng nổ ra tại
Tusina, Đại hội toàn Đảng ở Hà Nội đã ẵm Nguyễn Thanh Nghị bế thẳng vào
Trung ương như một ủy viên dự khuyết, bất chấp nguyên tắc “dân chủ tập
trung”. Không khí cách mạng từ những quảng trường Ả Rập càng nóng lên,
cậu ta càng được chú ý, càng được “cơ cấu” và “quy hoạch” cao hơn, đúng
với… công năng “quy hoạch” và “cơ cấu” của một chuyên gia công chánh.
Tháng Mười Một năm 2011, từ một chân Ủy viên Trung ương “đậu vớt”, hoàn
toàn không có kinh nghiệm công quyền, cậu ta được bế vào nội các như một
Thứ trưởng chuyên trách việc “chỉnh trang đô thị”. [7]
Điều
làm họ nghĩ lại, ắt hẳn, phải là mẫu số chung giữa những “không gian
cách mạng” tại các xứ sở như Ai Cập và “công năng” của một chuyên gia có
khả năng khủng bố bằng… bê tông.
Thật
vậy. Khi bin Laden hay Arafat dùng chất nổ phá tung những khối bê tông,
họ đã đánh vào tâm lý của đối thủ, buộc đối thủ phải triền miên sống
trong cảnh nhấp nhỏm, bất an. Nhưng khi những nhà cầm quyền Miến Điện,
Bắc Hàn, Kazakhstan, Trung Quốc v.v. cho đổ những mẻ bê tông trong các
dự án “cơ cấu” hay “quy họach” thủ đô, họ cũng tiến hành cái công việc
khủng bố ấy không hơn không kém. Như những nhà cầm quyền nhấp nhổm bất
an, họ tìm mọi cách để áp chế sức công phá từ trái tim con người, để đè
nén những không gian ở đó con nguời có thể tập hợp lại với nhau, có thể
truyền cảm hứng và nuôi dưỡng khát vọng cho nhau. Những đám đông như thế
cần sống cho nhau và cho đất nước của mình, nhưng cái mà thể chế bạo
quyền đòi hỏi là đám đông kia phải sống cho họ, vì họ, vì riêng cái thể
chế của họ.
Chắc
hẳn bộ máy cai trị đang nhấp nhổm bất an tại Hà Nội đã ý thức được rằng
họ không thể mãi mãi bảo vệ “nhà nước pháp quyền” của mình bằng cách
đơn thuần trông cậy những trò du kích đá cá lăn dưa. Họ không thể mãi
mãi trông cậy vào những bô cứt hay lọ mắm tôm thối ném vào đám đông hay
những cái “condom đã qua sử dụng” ném vào khách sạn. Họ không thể vĩnh
viễn trông cậy vào đám đông nhếch nhác, “tùng tam tụ ngũ” mấy ông già
hom hem mệnh danh “cựu binh” hay “thương binh”, mồm sặc sụa mùi rượu,
lưỡi dẻo quánh những tiếng chửi thề. Và họ cũng không thể vĩnh viễn dựa
vào đám “vũ viên” trâng tráo, vừa nhón gót trên những trang sử thương
đau nhất, vừa láo ngoáy mông trước mặt một trong những vị vua công lao
nhất.
Quá
khứ Maoist và kiểu cách mạng “nông thôn bao vây thành thị” đã lùi xa.
Mạch sống mới đang bùng nổ tại thành thị với sự trưởng thành của giai
tầng trung lưu và khát vọng cháy bỏng về một xã hội dân sự. Mà, với
Facebook, với các hình thức cà phê dân chủ, ở quán cóc vỉa hè hay quán
ảo Internet, không gian đô thị Việt Nam đang nhân lên đa chiều, rộng
hơn mà đậm đặc hơn, sâu hơn mà cao hơn, tiềm tàng sức bật cho một cuộc
cách mạng đô thị. Và đó là điều đã khiến những nhà toàn trị tại Hà Nội
nhấp nhổm bất an và họ, nói theo ngôn ngữ của chính họ, nhận ra nhu cầu
phải “nâng” cái chiến thuật cũ nát của mình lên “một tầm cao mới”. Từ
tính chất phi quy ước và tủn mủn xưa cũ, họ phải hướng tới một tầm cỡ
“quy ước “ hơn. Họ phải “quy hoạch” và “cơ cấu” lại đô thị để tạo ra
những kiến trúc đô thị mang tính “phản cách mạng” hay “phản giải phóng”,
không giẫm lại vết xe ở Bucharest hay tại Cairo, có thể bảo đảm rằng
Mubarak vẫn có thể tiếp tục cầm quyền cho dù nhân dân Ai Cập đùng đùng
nổi giận trước việc “quy họach” hay “cơ cấu” Gamal Mubarak làm người kế
vị.
Từ
đầu chúng ta đã nhắc đến “công năng chủ nghĩa”. Và chúng ta đang nhắc
đến “kiến trúc đô thị” nên, do đó, không thể không nhắc đến Le
Corbusier, một trong những nhà kiến trúc vĩ đại nhất của thế kỷ 20, cha
đẻ của trường phái Functionalism với phát biểu nổi tiếng “Nhà là một cái
máy để ở”. Nếu nhà là một thứ máy để ở thì đô thị, với các nhà toàn
trị, và có thể thấy qua những gì đã trình bày ở trên, sẽ là một thứ
“máy” để đàn áp và khủng bố. Nếu “cỗ máy đàn áp – khủng bố” của chế độ
toàn trị đã chằng chịt với những bộ máy đoàn thể, tuyên truyền, công an,
mật vụ nhà tù hay cái condom và bô cứt v.v. thì nay sẽ có thêm những
mẻ bê tông, với ông thứ trưởng bê tông đang được ẵm vào một bệ phóng
chính trị khác để từ đó còn lên cao hơn nữa.
Đó chính là tính chất “công năng chủ nghĩa” trong việc ẵm bế chính trị bất kể nguyên lý dân chủ tập trung.
Trong
bài viết trên Kinzer đã tiếc thay cho Mubarak là “đã quá trễ để dùng
đến ‘sợi dây lụa’ và ông ta cũng không có con gái”. Nhưng trai hay gái,
đó là số phận, là trời cho chứ không phải là chọn lựa và, hôm nay là thế
kỷ 21, không một người dân nước nào thể chấp nhận một lãnh tụ siết cổ
con mình. Có tiếc, Mubarak chỉ nên tiếc là đã không cho con trai học
nghề khủng bố bằng bê tông như cậu trưởng nam của ông Thủ tướng nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
[7]
Nhưng
tiếc cái học của con chỉ là chuyện nhỏ và đáng ra thì Mubarak phải tiếc
cho cái học của mình. Tiếc đã không khiêm tốn. Tiếc chỉ nhắm mắt tin
tưởng vào ưu thế chính trị phù du trước mắt mà không chịu nhìn trước
nhìn sau, không chịu nhìn cùng khắp thế giới và nhìn sâu trong lịch sử
để học, để mang lại những cái hậu hay hơn, riêng cho mình và chung cho
đất nước, cho nhân dân của mình.
Cái
đó, chúng ta gọi là “vô hậu”. Mà, trong lối chửi nhau của người Việt,
đặc biệt là với người Huế vốn khét tiếng chửi có tích tuồng và bài bản
thì “vô hậu” là tiếng chửi cay nghiệt nhất, độc ác nhất.
Và đau đớn nhất….
19.3.2014
___________
Chú thích
[1] Nguyễn Thanh Nghị được cử làm phó Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang. Đây là một phần trong quyết định của Bộ Chính trị và Ban Bí thư: “luân chuyển cán bộ về địa phương” để “chuẩn bị một bước về nhân sự lãnh đạo cấp ủy địa phương, cơ quan, đơn vị ở Trung ương nhiệm kỳ tới”.
[2] Tác giả chính của ban Tuyên ngôn độc lập Mỹ là Thomas Jefferson nhưng người chính thức tuyên bố là George Washington, tại New York City ngày 9.7.1776.
[3] Bùi Tín, “Hồ Chí Minh và đứa con rơi Nguyễn Tất Trung”, RFA, 2007
[4] Stephen Kinzer. “Dictators’ Sons, From Egypt to Libya, Are Doomed”, The Daily Beast, 2011
[5] Trên thực tế thì các giáo vương chỉ giết anh em mình – đặc biệt là anh em cùng cha khác mẹ – để bảo vệ ngai vàng. “Tập tục” sơi dây lụa này chỉ bắt đầu khi Murad III (1546 –1595) lên ngôi vào năm 1574, về sau về sau biện pháp dây lụa này được thay thế bằng giải pháp giam cầm trong cấm cung.
[6] Matt Ford, “A Dictator’s Guide to Urban Design – Ukraine’s Independence Square, and the revolutionary dimensions of public spaces”, The Atlantic, 21-2-2014
[7]http://amc.edu.vn/tin-tuc-su-kien/tin-thoi-su-chuyen-nganh/669-hoi-nghi-tham-van-y-kien-du-luat-quan-ly-phat-trien-do-thi-hoi-nghi-tham-van-y-kien-du-luat-quan-ly-phat-trien-do-thi.html
[8] Gamal Mubarak học quản trị hành chánh, lấy bằng MBA và làm việc trong lĩnh vực ngân hàng trước khi tham chính.
© 2014 Thuận Văn contra
http://www.procontra.asia/?p=4103
đọc thêm:
Công khai danh sách cán bộ luân chuyển (BBC). – Thông báo 44 cán bộ Trung ương luân chuyển (RFA).